Sunday, 20 September 2015

TỰ TÌNH CỦA NGƯỜI THU THUẾ

Cuộc đời luôn có những sự bất ngờ lạ thường lý thú và ngọt ngào. Ví như chuyện tình của tui với Thầy Giê-su vậy. Một hôm, lúc tui đang ngồi tại bàn làm việc thì Ổng đi ngang, nhìn thấy tui, cất tiếng gọi: “Anh hãy theo tôi” (Mt 9,9).
Thế là, tui đứng dậy và đi theo Ổng như bị thôi miên vậy. Mấy ông đồng nghiệp chửi tui quá chừng. Họ nói rằng tui bị khùng hay sao ấy. Đã tốn bao nhiêu công sức để được ngồi vào cái bàn thu thuế ấy và đã chịu biết bao nhiêu nỗi nhục nhã, mắng nhiếc của những người đồng hương để gắn bó với cái nghề ấy. Vậy mà, trong một phút chốc lại bỏ hết như vậy vì một người lang thang vô định.

 Thú thật, họ nói cũng đúng chứ. Hồi tui mới vô nghề, ngồi bàn thu thuế, những người đồng hương không ai thèm nhìn mặt tui luôn. Hằng ngày, ngồi ở bàn thu thuế thu tiền của chính đồng hương của mình, tui đều gánh chịu những lời chê bai, nguyền rủa, chửi bới của tất cả mọi người.

Có người còn khinh tui ra mặt, họ nhổ nước bọt trước mặt tui mỗi khi đến nộp thuế. Tui biết họ kinh tởm tui ghê lắm. Họ xem tui như là một con chó săn, suốt ngày sủa gâu gâu để làm lợi cho ngoại bang. Họ xem tôi như một tên giặc bán nước, nối giáo cho giặc. Họ khinh bị giới thu thuế tụi tui vì nhiều người trong giới tụi tụi còn thu dư thêm tiền thuế đã ấn định để bỏ túi riêng.

Không phải chỉ ngồi tại bàn thu thuế đâu. Nhiều lúc, tui phải đích thân đến từng nhà những người đồng hương không nộp thuế đúng kỳ hạn để đòi thuế. Nhiều khi họ không đủ tiền để nộp thuế tôi lại bắt con dê con cừu hay vét mớ lúa mạch còn sót lại để trừ vào tiền thuế. Cho nên, họ oán hận tui lắm. Có khi tui bị đuổi đánh như đuổi tà vậy, khó lắm mới chạy thoát thân được.

Nhiều lúc nhục lắm nhưng tui nhủ lòng: Thôi! chịu đấm ăn xôi thôi. Mình phải bảo đảm cuộc sống cho mình và gia đình mình nữa. Thú thật, nhờ làm nghề thu thuế mà lúc nào túi tui cũng rủng rỉnh tiền. Gia đình cũng ăn sung mặc sướng, cuộc sống no đủ. Đời sống vật chất được đảm bảo hơn so với những người đồng hương khác. Hơn nữa, nhờ làm tay sai của ngoại bang, thân với quan quân triều đình mà an ninh gia đình tui cũng ổn. Vợ con tui không bị họ ức hiếp như những gia đình đồng hương khác. Con cái lại được học hành đầy đủ.

Nhưng mà, quả thật cuộc sống như thế không đem lại cho tui một tâm hồn bình an đích thực. Nhiều lúc tôi thấy tủi nhục, cô đơn ngay giữa những người đồng hương của mình. Tui cảm thấy tâm hồn mình nặng nề, quá tải, không còn đủ sức để hằng ngày đối diện với sự khinh bỉ của người khác. Tui bị loại ra khỏi cộng đoàn thờ phượng. Tui bị xếp chung với những người tội lỗi. Không một người đồng hương nào muốn đến gần tui. Bất cứ ai đến gần tui, tiếp xúc với tui đều bị đặt vấn đề hết.

Nhiều lúc tui thèm được thấy, được đón nhận một cái nhìn thiện cảm, một nụ cười thân thiện của người đồng hương, một lời chào hỏi, một cái bắt tay. Tôi ao ước được hòa mình vào dòng người đi trẩy hội đền Giêrusalem hằng năm, được tham dự những buổi hội họp, chia sẻ Sách Thánh trong các Hội đường vào ngày Sa-bát.  Nhưng tất cả những cái bình thường ấy giờ đây đều trở nên quá xa xỉ đối với tui và gia đình tui nữa.

Tui bắt đầu cảm thấy lo âu hoảng sợ cho chính mình và cho nhiều thế hệ con cháu sau này sẽ ra như thế nào nếu tui lìa bỏ Thiên Chúa, không tham dự vào các nghi lễ phụng tự của dân tui nữa. Tất cả như vò xé lương tâm tui mỗi lúc đêm về. 

Nhiều lần tui nghĩ đến chuyện sẽ bỏ hết mọi sự và quay về làm một con người bình thường, dù đói kém, cơ cực cũng được nhưng cuộc sống bình an thanh thản là được. Nhưng mà, ai đón nhận tui, ai mà cho tui trở về. Các kinh sư và những người Pharisêu sẽ không tha cho tui đâu. Tui hoàn toàn bế tắc, không lối thoát.

May mà Thiên Chúa, vẫn không bỏ rơi tui. Người hiểu được tâm ý của tui về một niềm khao khát, hối hận khôn nguôi. Người vẫn dành cho tui một cơ hội ngọt ngào bất ngờ.

Đó chính là khoảnh khắc Đức Giê-su đi ngang qua cuộc đời tui. Ổng nhìn tui với một ánh mắt trìu mến lạ thường. Một ánh mắt mà như tui đã kể, là niềm khát khao của tui bấy lâu nay. Đã lâu lắm rồi không một người đồng hương nào nhìn tui với ánh mắt trìu mến như thế. 

Tui chưa hết vui mừng, hạnh phúc, thì Ồng lại mời gọi tui: “Anh hãy theo tôi”. Tui bàng hoàng, choáng váng, lâng lâng, như không còn tin vào mắt mình và tai mình nữa. Người gọi tui ư? Kẻ mà biết bao người khinh bỉ lánh xa lại được Thầy Giêsu danh tiếng lẫy lừng mời gọi ư?

Sao mà sung sướng đến thế! sao mà hạnh phúc đến thế! Bao lâu nay tui chỉ nghe tiếng chửi rủa và đuổi đánh của mọi người. Họ tránh xa tui, xin lỗi, như tránh một đống phân. 

Vậy mà, hôm nay, Thầy Giê-su lại mời gọi tui “hãy theo tôi”. Mơ ước quay về, khao khát một cuộc sống bình thường của một con người bình thường liền được sống dậy và khởi đầu từ giây phút ấy.

Tui nhủ lòng: Lêvi ơi! chần chừ gì nữa, hãy chộp lấy và nắm cho thật chặt cơ hội này. Tui đứng dậy, rời khỏi bàn thu thuế, bỏ lại tất cả sự nghiệp bấy lâu tui gầy dựng, bỏ lại những bảo đảm về vật chất trần gian, bỏ lại chính con người tui với quá khứ lỗi lầm và tham lam và bước theo Ổng. Tui quyết tìm lại phận người Do Thái, một người con Chúa, chứ không làm một con chó của ngoại bang nữa. 

Tui mời Ổng và các môn đệ về nhà dùng bữa. Có nhiều đồng nghiệp thu thuế và những người tội lỗi cùng đến ăn với tụi tui. Ngay lập tức, những người Pharisêu ở đâu kéo đến và đặt vấn đề với các môn đệ của Ổng liền: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?”. Lúc ấy, các môn đệ tái mặt và hoảng sợ. Tui cũng phát hoảng và thầm nghĩ chắc là hy vọng trở về của mình bị mấy ông nội Pharisêu này dập tắt rồi.

Thế nhưng tui đã nhầm, Thầy Giê-su rất điềm tĩnh trả lời rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế… Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." (Mt 9,12-13). Hay quá! Mấy lão Pharisêu nghe vậy liền cứng họng và rút lui.

Qua lời nói ấy của Ổng, tui hiểu rằng: À thì ra Ổng không phải tình cờ đi ngang qua bàn thu thuế của tui; không phải Ổng gặp tui tình cờ; không phải Ổng tình cờ gọi tui. Ổng đến đó vì tui chính là đối tượng mà Ổng đang tìm. Ổng đến để kêu gọi người tội lỗi, mà tôi là một người tội lỗi, nên tôi là đối tượng để Ổng kêu gọi. Nghe có vẻ ngược đời nhưng đó chính là lý lẽ và lối sống của Thầy Giêsu.

Tui càng yên tâm hơn về vị trí của mình. Yên tâm không phải tui thấy mình xứng đáng nhưng vì tui là đối tượng để Ổng tìm kiếm và yêu thương. Tui không có gì cả. Từ một con người bế tắc không lối thoát trở thành một con người tràn trề niềm hy vọng cứu độ. Tất cả đều do bởi tình thương của Chúa. Tui cảm mến và cảm phục Ổng vì Ổng đã dám nghĩ và dám làm những điều trái ngược với những người Pharisêu, là những người danh giá nhất trong dân tui.

Được ổng gọi theo như vậy là tui cũng mãn nguyện lắm rồi. Cuộc đời tui đã cảm thấy bình an vui vẻ lắm rồi. Tui đã bắt đầu có những giấc ngủ ngon và những nụ cười thỏa thích trên con đường theo Ổng. 

Tuy nhiên, niềm vui của tui không dừng lại tại đó. Sau này, tui lại còn được Ổng tuyển chọn vào trong Nhóm Mười Hai, thường được gọi là Mười Hai Tông Đồ. Cũng như các Tông Đồ khác tui cũng được “ban cho các quyền trên các thần ô uế,…và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1); được sai di rao giảng, trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là một niềm vinh dự lớn lao cho cuộc đời tui.

Nhưng rồi tui cũng như các tông đồ khác, cũng bị vướng vào giấc mơ quyền lực; cũng ảo tưởng về một triều đại huy hoàng về mặt chính trị quân sự mà Đức Giêsu sẽ thiết lập; và mỗi người tụi tui sẽ được làm một quan chức cấp cao trong triều đình Chúa và được hưởng nhiều bổng lộc trần gian.

Mộng vàng tan mây! khi Ổng bị bắt, tui hoảng sợ lo tìm đường thoát thân. Sau khi Ổng Phục Sinh tụi tui lại được quy tụ và được chính thức sai đi truyền giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Tui đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes và sau cùng, tui đã được lãnh phúc tử đạo tại Tarium thuộc Êthiopi.

Cái phúc của tui lại được tiếp tục khi tui được vinh dự làm người viết cuốn Tin Mừng mang tên của mình và được Giáo Hội tin dùng cho đến ngày nay.

Ổng đã đi ngang cuộc đời tui trong lúc tôi bất an và bế tắc nhất và bắt chợt khao khát trở về trong tui. Ổng chẳng những thắp lên trong tui niềm hy vọng trở về mà còn mở lối thênh thang cho tôi trên đường làm Tông Đồ. Ổng yêu thương tha thứ cho tui tất cả những lỗi lầm quá khứ và tiếp tục tin dùng tui làm sứ giả loan Tin Mừng cho Ổng. Chưa hết, Ổng lại tiếp tục dùng bàn tay và khối óc của tui để viết lại Tin Mừng, Lời của Ổng để lưu truyền hậu thế. Tui thật sự hạnh phúc viên mãn không phải vì những thành công của đời Tông Đồ hay là tác phẩm Tin Mừng Mátthêu, nhưng vì tôi đã được và vẫn được Ổng yêu thương trọn đời như thế.

Lêvi, Người thu thuế,

Fr.Joseph Phạm Duy Thạch SVD 


No comments:

Post a Comment