Friday 31 March 2023

TRÌNH THUẬT CUỘC KHỔ NẠN. Tương Đồng và Dị Biệt Giữa Các Tác Giả

Mặc dù Trình thuật Thương khó của cả bốn sách Tin Mừng giống nhau về nhiều mặt, nhưng cũng có những khác biệt đáng kể giữa chúng. Trong nhiều khía cạnh, ba sách Nhất Lãm đồng ý với nhau (vì Mátthêu và Luca gần như chắc chắn dựa trên Máccô), trong khi tường thuật của Gioan thì hoàn toàn khác, đặc biệt về vấn đề niên đại. Bữa Tiệc Ly trong Tin Mừng Nhất Lãm là vào ngày đầu tiên của Lễ Bánh Không Men hoặc là đêm Thứ Năm (Mc 14,12; Cf. Mt 26,17; Lc 22,7), Đức Giêsu chịu bắt trong đêm đó và chịu đóng đinh vào ngày Thứ Sáu. Tác giả Tin Mừng thứ tư ghi chú rằng “Chính họ không vào trong dinh để khỏi bị ô uế, và có thể ăn Lễ Vượt Qua được” (Ga 18,28) và khi Đức Giêsu chịu đóng đinh, tác giả ghi chú rằng “đó là ngày Chuẩn Bị Lễ Vượt Qua”, ngày mà Chiên Vượt Qua bị giết trong đền thờ (Ga 19,14). Nghĩa là vụ bắt giữ và xử án của Đức Giêsu diễn ra trước Lễ Vượt Qua, không giống như Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giêsu bị bắt và xét xử sau khi ăn Lễ Vượt Qua. Theo Gioan, Đức Giêsu còn ở trước tòa Philatô vào giữa trưa (Ga 19,13-14) trong khi đó theo Máccô, giờ đó Đức Giêsu đã chịu đóng đinh trên thập giá (Mc 15,25: Họ đóng đinh Người vào giờ thứ ba, tức là khoảng 9 giờ sáng). Ở những khía cạnh khác, trong khi Matthêu và Máccô gần như giống hệt nhau, thì Luca có thể khác với họ và gần với lời tường thuật của Gioan nhiều hơn. Hơn nữa, một số chi tiết nổi tiếng, hoặc thậm chí một cảnh nào đó, chỉ được tìm thấy ở một trong bốn sách Tin Mừng.


NHỮNG ĐIỂM NHẤN MẠNH TỔNG QUÁT

Mỗi người trong số bốn Tác giả Tin Mừng nhấn mạnh điều gì nhất trong trình thuật Thương Khó?

Máccô: Cuộc thương khó của Chúa Giêsu, cách Người bị từ chối một cách bi thảm, bị kết án bất công, bị đánh đập dã man, bị xúc phạm khủng khiếp và bị nhiều nhóm đối xử tàn nhẫn.

Mátthêu: Vương quyền của Chúa Giêsu, cách các thế lực cầm quyền trên thực tế (đặc biệt là Philatô & Caiapha) âm mưu loại bỏ một người mà họ coi là mối đe dọa chính trị.

Luca: Sự vô tội của Chúa Giêsu, cách Philatô minh chứng là Người không đáng chết, và những người khác (Hêrôđê Antipas, viên đại đội trưởng, tên trộm ăn năn) cũng công nhận sự vô tội của Người.

Gioan: Sự tôn vinh Chúa Giêsu, cách Người điều khiển, thúc đẩy mọi hành động, hoàn thành ý muốn của Chúa Cha và được tôn vinh khi Người được giương cao

SỰ CHỐNG ĐỐI VỚI CHÚA GIÊSU: Tại sao các nhà cầm quyền coi Đức Giêsu là một mối đe dọa lớn như vậy?

Các Tin Mừng Nhất Lãm,

Trong trình thuật về thời thơ ấu của Mátthêu, vua Hêrôđê đã âm mưu tiêu diệt Chúa Giêsu, “vua dân Do Thái” mới sinh (Mt 2,13-18). Tác giả Luca cũng cho biết Hài Nhi Giêsu được đặt lên cho sự ngã xuống hay đứng lên của nhiều người trong Israel và thành dấu hiệu bị chống đối, và gươm sắt sẽ thâu qua lòng Đức Maria (Lc 2,34-35). Sự chống đối Đức Giêsu xuất hiện sớm trong các sách Tin Mừng, chủ yếu là do Người vi phạm luật ngày Sabát (Máccô 3,1-6; Mátthêu 12,1-14); Không giữ truyền thống của tiền nhân liên quan đến thanh sạch và ô uế (Mc 7,1-13; Mt 15,1-9); Ăn uống với những người tội lỗi và thu thuế (Mc 2,15-17; Mt 9,10-13; Lc 5,29-32; 15,1-2).

Ngay sau biến cố ở Đền thờ Giêrusalem, các Thượng Tế và Kinh Sư tìm cách giết Đức Giêsu (Máccô 11,18; Luca 19,47; xem Mátthêu 21,15). Các nhà cầm quyền muốn giết Đức Giêsu một lần nữa sau khi kể dụ ngôn về những tá điền độc ác (Máccô 12,1-12; Mátthêu 21,33-46; Luca 20,9-20).Các Thượng Tế và Kinh Sư âm mưu bí mật bắt và giết Đức Giêsu trước Lễ Vượt Qua (Máccô 14,1-2; Mátthêu 26,1-5).

Tin Mừng thứ tư:

Tác giả Gioan nói là “Người đã đến nơi của mình nhưng người của Người không đón tiếp Người” (Ga 1,11). Trong chuyến viếng thăm Giêrusalem lần đầu tiên của Chúa Giêsu, Người ám chỉ việc chính quyền Do Thái sẽ phá hủy “đền thờ là thân thể Người” (Gioan 2,19). Chính quyền muốn giết Đức Giêsu không chỉ vì vi phạm ngày Sabát, mà còn vì gọi Thiên Chúa là Cha của mình (5,18; xem 7,1; 19-25). Người Do Thái cố gắng ném đá Đức Giêsu khi Người nói, “Ta đây” (áp dụng danh Thiên Chúa cho chính mình; 8,59; đối chiếu 8,37-40) và khi Người nói, “Cha với Ta là một,” mà chính quyền coi là “sự phạm thượng” (10,31-39; xem 11,8). Hội Đồng Do Thái chống lại Đức Giêsu vì Người thực hiện nhiều “dấu lạ”, và họ sợ phản ứng của người Rôma. Thượng Tế Caiapha nói lời ngôn sứ rằng Đức Giêsu nên chết thay cho dân: Thà một người chết còn hơn toàn dân bị tiêu diệt (11,48-53). Các Tư Tế cả cũng định giết Ladarô, vì nhiều người đã tin Đức Giêsu sau khi Người làm cho Ladarô sống lại (12,10-11).

SỰ KIỆN DẪN ĐẾN CUỘC THƯƠNG KHÓ: Điều gì đã xảy ra ngay trước khi Đức Giêsu chết?

ÂM MƯU GIẾT ĐỨC GIÊSU:

Tất cả các Tin Mừng Nhất Lãm đều cho thấy rằng các nhà cầm quyền Do Thái (Thượng Tế, các trưởng lão và/hoặc các luật sĩ) âm mưu giết Chúa Giêsu, nhưng do dự trước phản ứng của mọi người (Mc 14,2; Mt 26,5: Đừng làm vào chính ngày Lễ kẻo dân chúng náo động; Cf. Lc 26,2.6). Gần đến Lễ Vượt Qua (Máccô 14,1-2; Mátthêu 26,1-5; Luca 22,1-2). Máccô và Mátthêu nói rằng hai ngày trước Lễ Vượt Qua, trong khi Luca nói ít chính xác hơn rằng Lễ Vượt Qua “đã gần kề”. Tương tự, Tin Mừng Gioan kể về âm mưu của nhà cầm quyền, nhưng nêu bật vai trò hướng dẫn của Thượng Tế Caiapha (Ga 11,47-53).

ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ XỨC DẦU: Chuẩn bị cho việc mai táng sau này

Trong cả bốn sách Tin Mừng, có một người phụ nữ xức dầu cho Đức Giêsu trong bữa ăn; Nhưng danh tính của người phụ nữ cũng như thời gian và địa điểm của sự kiện rất khác nhau.

Trong Máccô 14,3-9 và Mátthêu 26,6-13, hai ngày trước Lễ Vượt Qua, trong nhà của Simôn người phung ở Bêthania (gần Giêrusalem), một phụ nữ vô danh (không được mô tả “tội nhân”) xức dầu lên đầu Đức Giêsu dầu thơm đắt tiền. Một số người phàn nàn về sự lãng phí, nói rằng dầu thơm có thể được bán và lấy tiền cho người nghèo; Nhưng Đức Giêsu khen ngợi người phụ nữ, nói rằng việc xức dầu là để chuẩn bị cho việc chôn cất Người.

Trong Gioan 12,1-8, việc xức dầu cũng diễn ra tại Bêthania, nhưng sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, và tại nhà của Mátta, Maria và Ladarô. Chính cô Maria Bêthania này (không phải Maria Mađalena, và không được mô tả là “tội nhân”) đã xức dầu cho chân của Đức Giêsu và lau chúng bằng tóc của mình. Giuđa Ítcariốt được chỉ đích danh là người phàn nàn về sự lãng phí, nhưng phản ứng của Đức Giêsu một lần nữa ám chỉ đến việc chôn cất sắp tới của Người.

Câu chuyện xức dầu duy nhất trong Luca không phải là một phần của Trình thuật Thương khó, nhưng sớm hơn nhiều (7,36-50), khi Đức Giêsu vẫn còn ở Galilê. Một người phụ nữ vô danh, nhưng được mô tả là người tội lỗi đã xức dầu lên chân Đức Giêsu khi Người đang dùng bữa tại nhà của một người Pharisêu ẩn danh, người này không phàn nàn về việc làm phí dầu thơm, mà phàn nàn về việc Đức Giêsu cho phép một người phụ nữ tội lỗi chạm vào mình. Đáp lại, Đức Giêsu nói về tình yêu và sự tha thứ, không phải về cái chết của chính mình.

GIUĐA LÊN KẾ HOẠCH PHẢN BỘI CHÚA GIÊSU: Cộng tác của một người trong nhóm Mười Hai

Trong cả ba Nhất Lãm, Giuđa Ítcariốt đồng ý trao nộp Đức Giêsu cho các Thượng Tế (Máccô 14,10-11,); Nhưng chỉ có Mátthêu xác định rằng giá tiền được đồng ý là “ba mươi đồng bạc” (Mátthêu 26,15; xem 27,3.9), và chỉ có Luca đề cập đến ảnh hưởng của Satan đối với Giuđa (22,3-6).

Tin Mừng Gioan cũng đề cập đến ảnh hưởng của Satan trên Giuđa (6,70-71; 13,2.27), nhưng không nói rằng Giuđa đã từng gặp các Thượng Tế.

BỮA TIỆC LY: Ý nghĩa của bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ là gì?

Các Tin Mừng Nhất Lãm:

Đức Giêsu sai một số môn đệ (chỉ có Luca nói đó là Phêrô và Gioan) vào Giêrusalem để chuẩn bị cho bữa ăn cuối cùng của mình; Trong cả ba Tin Mừng Nhất Lãm, rõ ràng đây là Bữa Ăn Vượt Qua, kỷ niệm Cuộc Xuất Hành của dân Do Thái (Máccô 14,12; Mátthêu 26,17; Luca 22,7-8, 15).

Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều cho thấy Đức Giêsu đọc lời chúc lành, và nói bánh và rượu là chính thân thể và máu của Người (Máccô 14,22-25; Mátthêu 26,26-29; Luca 22,15-20; 1 Cr 11,23 -25). Chỉ có Luca (và Phaolô) cho thấy Đức Giêsu nói rõ ràng: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (Luca 22,19b; x. 1 Cr 11,24.25).

Chỉ có Luca đưa ra bằng chứng về truyền thống chúc lành cho nhiều chén rượu trong Lễ Vượt Qua (Luca 22,17.20: “Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: ‘Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau’”; “Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em”). Luca cũng tường thuật nhiều cuộc đối thoại hơn trong Bữa Tiệc Ly, bao gồm cả lời tiên đoán của Đức Giêsu về việc Phêrô chối Chúa (Luca 22,31-34; Cf. Ga 13,36-38).

Trong Máccô và Mátthêu, lời tiên đoán của Đức Giêsu về việc Phêrô chối Chúa diễn ra ngay sau bữa ăn tối, khi họ đang trên đường đến núi Ôliu (Máccô 14,26-31; Mátthêu 26,30-35).

Tin Mừng Thứ Tư:

Bữa Tiệc Ly của Đức Giêsu không phải là Bữa ăn Vượt Qua, nhưng diễn ra ngay trước Lễ Vượt qua (Gioan 13,1: “Trước Lễ Vượt Qua, khi Đức Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến để rời khỏi thế gian đến cùng Chúa Cha, đã yêu thương những người của mình còn ở trong thế gian, Người yêu họ đến cùng”). Nơi Gioan, Đức Giêsu sẽ chết vào cùng buổi chiều mà các con Chiên Vượt Qua bị sát tế (x. 19,31-37).

Những lời nguyện “Thánh Thể” (Lập bí tích Thánh Thể) của Đức Giêsu không được ghi lại trong Gioan 13, nhưng đã được nói trước đó (6,22-59: Diễn từ về bánh trường sinh). Trong bữa ăn cuối cùng này nơi Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu rửa chân cho tất cả các môn đệ (Gioan 13,2-16). Sau đó, Người nói với họ, “Thầy đã cho anh em một ví dụ, rằng anh em cũng nên làm như Thầy đã làm cho anh em” (13,15). Trong bữa ăn, Đức Giêsu báo trước sự phản bội của Giuđa (Gioan 13,21-30) và sự chối Chúa của Phêrô (13,36-38). Cũng trong bữa ăn ấy có sự xuất hiện của nhân vật “người môn đệ Chúa yêu”, Người mà chỉ xuất hiện trong Tin Mừng Gioan.

Trong bữa ăn, Đức Giêsu cũng đưa ra một “Bài Diễn Văn Từ Biệt” dài (13,31 – 16,33) và dâng lên Thiên Chúa một lời cầu nguyện dài (17,1-26).

ÔNG PHÊRÔ, TÔNG ĐỒ TRƯỞNG CHỐI CHÚA BA LẦN, DÙ ĐÃ ĐƯỢC BÁO TRƯỚC:

Cả bốn tác giả Tin Mừng đều đồng thuận là ông Phêrô chối thầy ba lần. Tuy nhiên có một vài khác biệt trong một số chi tiết. Cả ba tác giả Tin Mừng đều cho biết người chất vấn ông Phêrô dẫn đến lần chối thứ nhất là một người đầy tớ gái (Mc: Đầy tớ gái của vị Thượng Tế; Ga 18,17.25: Đầy tớ gái giữ cổng). Người chất vấn thứ hai trong Mátthêu và Máccô cũng là một người đầy tớ nữ (Mt 26,71; Mc 16,69). Trong Máccô dường như đó là cùng một người đầy tớ nữ, vì có mạo từ xác định (14,69), trong khi đó Mátthêu nói là “một đầy tớ nữ khác” (Mt 26,71). Luca chỉ nói là “một người khác” (22,58). Gioan dùng động từ ngôi thứ ba số nhiều: “Họ nói cùng ông” (18,25). Người chất vấn thứ ba trong Tin Mừng Gioan là một người đầy tớ của vị Thượng Tế và cụ thể là người có họ hàng với người bị ông Phêrô chém đứt tai (Ga 18,26), trong khi đó theo cả Mátthêu và Máccô họ là “những người đang đứng đó, Luca nói là “người khác”. Trong lần chối thứ ba, cả Mátthêu và Máccô đều nhấn mạnh đến sự thề thốt (Mc 14,71; Mt 26,74), trong khi đó Luca và Gioan không ghi chú gì về sự thề thốt này. Hơn nữa, Mátthêu còn ghi chú trước đó, trong lần chối thứ hai, ông Phêrô đã thề (Mt 26,72). Chỉ một mình Máccô ghi chú gà gáy hai lần (sau lần chối thứ nhất và thứ ba) nhằm ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói là “gà chưa gáy hai lần thì con đã chối Thầy ba lần: 14,72). Theo Mátthêu và Luca, Đức Giêsu đã nói là “gà chưa kịp gáy, con đã chối Thầy ba lần” (Mt 26,75; Lc 22,61). Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều ghi nhận sự khóc lóc thảm thiết của ông Phêrô khi nhớ lại lời tiền báo của Đức Giêsu, nhưng chỉ có một mình Luca cho biết là “Đức Giêsu quay lại nhìn ông” (22,61). Tin Mừng thứ tư không nói gì đến phản ứng này.

SỰ BẮT GIỮ TRONG KHU VƯỜN: Đức Giêsu bị bắt ở đâu và như thế nào?

Các Tin Mừng Nhất Lãm:

Sau bữa ăn Lễ Vượt Qua, Đức Giêsu và các môn đệ đi ra “núi Ôliu” (Máccô 14,26; Mátthêu 26,30; Luca 22,39). Nơi mà Đức Giêsu cầu nguyện được gọi là “Vườn Ghếtsêmani” (Máccô 14,32; Mátthêu 26,36).

Luca rút ngắn đáng kể lời cầu nguyện của Đức Giêsu và những thử thách của Người đối với các môn đệ (11 câu trong cả Máccô và Mátthêu; chỉ có 6 câu trong Luca).

Trong cả ba Nhất Lãm, Giuđa chỉ điểm Đức Giêsu bằng một nụ hôn (Máccô 14,43-46; Mátthêu 26,47-50); Nhưng chỉ trong Luca, Đức Giêsu cắt ngang hành động này bằng cách hỏi, “Giuđa, ngươi lấy cái hôn mà phản bội Con Người sao?” (Luca 22,48). Chỉ trong Luca, người ta thấy Đức Giêsu đổ mô hôi như máu nhỏ xuống đất.

Tin Mừng Thứ Tư:

Sau khi Đức Giêsu kết thúc bài giảng và lời cầu nguyện của mình, họ “đi ngang qua thung lũng Kidron” và vào một “khu vườn”, nhưng khu vườn này không được xác định rõ ràng là “Ghếtsêmani” (Gioan 18, 1). Không có “cơn thống khổ” hay bất kỳ lời cầu nguyện nào của Đức Giêsu trong khu vườn này; đó chỉ là cảnh Đức Giêsu bị bắt (18,2-12). Đức Giêsu vẫn kiểm soát hiện trường; Những người lính do dự và ngã xuống đất trong vụ bắt giữ Đức Giêsu khi Người nói hai lần: “Chính là Ta đây” (18,6.8).

Cả bốn sách Tin Mừng đều nói rằng một trong những môn đệ của Đức Giêsu đã cắt tai người đầy tớ của vị Thượng Tế; Nhưng chỉ trong Gioan hai nhân vật này được nêu tên rõ ràng, Simon Phêrô và Mankhô (18,10).

CÁC CÁO TRẠNG VÀ BẢN ÁN: Tại sao Đức Giêsu bị kết án tử hình, và bởi ai?

PHIÊN TÒA TÔN GIÁO: Thượng Tế Do Thái và Hội Đồng (hội đồng trưởng lão) kết luận Đức Giêsu phạm tội phạm thượng với Thiên Chúa.

Máccô 14,61-64 và Mátthêu 26,63-66 rõ ràng sử dụng từ “phạm thượng”, trong khi Luca 22,67-71 và Gioan 18,19-23 sử dụng cách diễn đạt hơi khác.

Từ “phạm thượng” trong tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa đen là “xúc phạm hoặc nói những điều không hay về Chúa”.

Hình phạt được quy định trong Sách Thánh tiếng Hípri cho tội báng bổ là bị ném đá cho đến chết (Lêvi 24,10-23).

Đức Giêsu trực tiếp thừa nhận/đồng ý rằng Người là “Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng” trong Máccô (14,61-62), trong khi câu trả lời của Người hơi mơ hồ hơn trong các sách Tin Mừng khác (Mátthêu 26,64; Luca 22,67-68; xem Máccô 15,39; Gioan 19,7).

CÁC PHIÊN TÒA CHÍNH TRỊ:

Philatô là người cai trị Rôma (“tỉnh trưởng/ tổng trấn/ tổng trưởng” hoặc “thống đốc”) của Juđêa từ năm 26 đến năm 36 sau Công nguyên; Ông cũng được đề cập bởi nhà sử học Rôma Tacitus, trong Biên niên sử 15,44.[1] “Philatô” được nhắc đến 55 lần trong Tân Ước, nhưng tên đầy đủ của ông ta là “Phongxiô Philatô” chỉ được nhắc đến ba lần (Luca 3,1; Công vụ 4,27; 1 Timôthê 6,13).

Tin Mừng Luca mô tả chi tiết nhất bản chất của những cáo buộc chống lại Đức Giêsu (Luca 23,2, 5, 14). Đức Giêsu bị buộc tội tự gọi mình và/hoặc để người khác gọi Người là “Vua dân Do Thái” (Máccô 15,2.9.12.18.26.32; Cf. Gioan 18,33-37; 19,12-15).

Chỉ trong Luca, Philatô cắt ngang phiên tòa bằng cách gửi Đức Giêsu đến gặp Hêrôđê Antipa, vua xứ Galilê, người cũng ở Giêrusalem để dự Lễ Vượt Qua (Luca 23,6-12).

Trong Mátthêu và Máccô, Philatô khá nhanh chóng đồng ý với yêu cầu kết án Đức Giêsu của nhà cầm quyền Do Thái (Máccô 15,2-15; Mátthêu 27,24-26). Chỉ trong Mátthêu có sự can thiệp của người vợ của ông Phêrô. Chính bà này đã gọi Đức Giêsu là “người công chính” (Mt 27,19).

Trong Luca và Gioan, Philatô nhiều lần khẳng định Đức Giêsu vô tội (Luca 23,4, 13-15, 22; Gioan 18,38b; 19,4, 6, 12; x. Mátthêu 27,24-25).

ĐÓNG ĐINH VÀ SỰ CHẾT: Đức Giêsu bị hành hình như thế nào?

KẾT ÁN TỬ HÌNH:

Đóng đinh tử tội là hình phạt phổ biến và là hình thức đau đớn nhất cả về thể xác lẫn tinh thần (bị lột trần truồng và treo lên trước mặt người khác).

Ở những vùng đất bị người Rôma chiếm đóng, án tử hình chỉ có thể được thực hiện với sự chấp thuận của quan tổng đốc Rôma địa phương (xem Gioan 18,31).

Máccô và Mátthêu nói rõ ràng rằng Đức Giêsu đã bị giao cho những người lính Rôma để đóng đinh; Nhưng Luca và Gioan (dùng những đại từ mơ hồ) làm cho có vẻ như Philatô giao Đức Giêsu cho nhà cầm quyền Do Thái để đóng đinh (Luca 23,25: “Ông trao Đức Giêsu theo như ý họ”; Gioan 19,16: “Ông trao Người cho họ để chịu đóng đinh”).

Tác giả Gioan không ghi lại việc Đức Giêsu bị chế giễu. Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều có phần chế giễu, nhục mạ. Đối tượng nhục mạ Đức Giêsu, theo Mátthêu và Máccô là ba nhóm người khác nhau:  Nhóm những người qua lại (Mt 27,39; Mc 15,29; Lc 23,35 nói là dân chúng đứng nhìn); Nhóm thứ hai là “Thượng Tế và Kinh Sư” (Luca 23,35 nói là các thủ lãnh); nhóm thứ ba là các tử tù cùng bị đóng đinh. Các danh xưng mà họ dùng để thách thức Đức Giêsu cứu lấy mình bằng cách xuống khỏi thập giá là: “Con Thiên Chúa” (Mt 27,40); “Vua người Israel (Mt 27,42; Mc 15,32) “Kitô, vua Israel”; “Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, người Chúa tuyển chọn” (Lc 23,35); “Vua người Do Thái” (Lc 23,37).

 ĐÁNH ĐÒN:

Trước khi bị đóng đinh, các tù nhân bị kết án thường bị đánh đập, đánh đòn, chế giễu và ngược đãi theo những cách khác.

Các tù nhân có thể đã chết vì sự ngược đãi này, vì vậy luật Do Thái giới hạn việc đánh đòn ở mức ba mươi chín roi (xem 2 Cr 11, 24).

Vì Đức Giêsu vốn được gọi la “Vua của người Do Thái”, nhưng lại bị chính dân của mình nộp và không chút phản ứng, nên những người lính đã chế nhạo Người bằng các biểu tượng của quyền lực và uy quyền của hoàng gia, bao gồm áo choàng đỏ (hoặc tía), vương miện (bằng gai) và cây sậy (thay vì một vương trượng).

ĐƯỜNG LÊN GOLGÔTHA:

Những người bị kết án thường bị buộc phải vác thập giá của họ đến nơi họ bị đóng đinh (như Đức Giêsu làm trong Gioan 19,17); Ngược lại, Simon of Cyrene buộc phải giúp vác thập tự giá của Đức Giêsu trong Tin Mừng Nhất lãm (Máccô 15,21; Mátthêu 27,32; Luca 23,26). Chỉ có Tin Mừng Gioan nói rằng Chính Đức Giêsu vác thập giá của mình.

Chỉ có Máccô 15,21 xác định Simon Kyrênê là “cha của Alexanđê và Ruphô”; những người con trai rõ ràng đã được độc giả của Máccô biết đến (xem Rôma 16,13 – phải chăng là “Ruphô” này?).

Chỉ có Luca kể về việc Đức Giêsu nói chuyện với những người phụ nữ trên đường đến pháp trường (Luca 23,27-31), nhưng không có sách Tin Mừng nào có đầy đủ mười bốn “Chặng đàng thánh giá” mà sau này trở nên phổ biến trong các hoạt động sùng kính của Kitô giáo.

Golgotha, có nghĩa là “Nơi của Sọ” (Máccô 15,22), có lẽ là một mỏ đá bỏ hoang ngay bên ngoài thành Giêrusalem có tường bao quanh. Tuy nhiên, thành phố đã được mở rộng và những bức tường mới được xây dựng ở phía Bắc và phía Tây ngay sau cái chết của Chúa Giêsu.

Do đó, địa điểm Đức Giêsu bị đóng đinh và chôn cất đã ở bên trong thành phố Giêrusalem từ cuối thế kỷ thứ nhất (tại vị trí của Đền Thờ Mộ Thánh vào thế kỷ thứ 4). Ngược lại, một số người đề xuất rằng địa điểm thực sự của việc đóng đinh là tại cái gọi là “Khu lăng mộ trong vườn” (hướng Bắc của Cổng Đamas).

 CẢNH ĐÓNG ĐINH:

Tác giả Mátthêu nói là “họ cho người uống rượu pha mật đắng”, vốn là thứ rượu làm giảm đau khổ các tử tù, nhưng Đức Giêsu chỉ nếm một chút mà không uống (27,34). Tác giả Máccô cho biết là họ trao rượu pha một dược cho Người, nhưng Người không uống (15,23). Trong Luca, những người lính đưa dấm cho Người uống và chế giễu Người (23,36). Các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều định danh hai người đóng đinh với Đức Giêsu là hai người trộm (Mt 27,38; Mc 15,27), riêng Luca gọi họ là những người tội phạm (Lc 23,33). Tác giả Gioan chỉ nói là “hai người khác nữa” (Ga 19,18).

Riêng tác giả Luca ghi lại lời cầu xin Chúa Cha “tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Những người bị đóng đinh phải được binh lính canh gác để ngăn gia đình hoặc bạn bè đến giải cứu họ trước khi họ chết.

Bản án thường được dán lên đầu của tên tội phạm bị kết án, như một lời cảnh báo cho bất kỳ người xem nào: INRI = Iesus Nazarenus Rex Iudaeorum, tiếng Latinh có nghĩa là “Giêsu người Nadarét, Vua dân Do Thái”.

Chỉ có Gioan đưa ra dòng chữ đầy đủ này (Gioan 19,19-22: Ιησοῦς ὁ Ναζωραῖος ὁ βασιλεὺς τῶν Ἰουδαίων; x. Máccô 15,26: ὁ βασιλεὺς τῶν Ἰουδαίων) và nói rằng nó đã được đăng bằng tiếng Do Thái, tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp; Trong Nhất Lãm, dòng chữ ngắn gọn hơn (“Đây là Giêsu, Vua dân Do Thái” trong Mátthêu 27,37; “Đây là Vua dân Do Thái” trong Luca 23,38; chỉ “Vua dân Do Thái” trong Máccô 15,26).

Chỉ trong Tin Mừng Gioan, người ta mới có những chi tiết đặc biệt như: Đức Giêsu trao “người môn đệ được yêu mến” cho Thân Mẫu Người và ngược lại (Ga 19,26-27); Đức Giêsu nói là “Ta khát” để ứng nghiệm lời Thánh Kinh; Đức Giêsu bị đâm thấu cạnh sườn, và những người tử tội bị đánh dập ống chân” (Ga 19,31-37).

NGUYÊN NHÂN TỬ VONG:

Một số nạn nhân có thể chảy máu đến chết khá nhanh, nhưng một số có thể sống sót trong vài ngày trước khi không chịu nổi sự kết hợp của mất nước và ngạt thở.

Để kéo dài sự đau đớn của nạn nhân, chân của họ sẽ bị trói hoặc đóng đinh vào cột để họ có thể tự đẩy mình lên để thở.

Để nạn nhân chết nhanh hơn, chân của họ có thể bị gãy đến nỗi họ không còn thở được nữa (xem Gioan 19,31-36).

 BẢY LỜI CUỐI CÙNG CỦA CHÚA KITÔ:

Sự sùng kính truyền thống vào Thứ Sáu Tuần Thánh nhắc lại bảy “lời nói” (tiếng Hy Lạp logos = “từ, cụm từ, câu, bài phát biểu”) mà Đức Giêsu đã nói khi bị treo trên thập tự giá; Tuy nhiên, không có sách Tin Mừng nào chứa tất cả bảy lời nói đó, mà chỉ có một hoặc nhiều nhất là ba lời nói (Tin Mừng Gioan và Luca, mỗi Tin Mừng có ghi lại ba lời, Mátthêu và Máccô ghi lại một lời):

Thưa cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm (Luca 23,34: πάτερ, ἄφες αὐτοῖς, οὐ γὰρ οἴδασιν τί ποιοῦσιν).

Nói với người trộm ăn năn: “Quả thật, Tôi nói với anh, hôm nay anh sẽ ở cùng Tôi trên Thiên đường” (Luca 23,43: ἀμήν σοι λέγω, σήμερον μετ᾽ ἐμοῦ ἔσῃ ἐν τῷ παραδείσω ).

Khi Đức Giêsu hấp hối: “Lạy Cha, Con xin đặt hồn Con trong tay Cha” (Luca 23,46: πάτερ, εἰς χεῖράς σου παρατίθεμαι τὸ πνεῦμά μου).

Thân thưa cùng mẹ Người và người môn đệ yêu dấu: “Này người phụ nữ! Đây là con của bà” (Ga 19,26: γύναι, ἴδε ὁ υἱός σου); và nói với môn đệ yêu dấu, “Đây là mẹ của con” (Gioan 19,27: ἴδε ἡ μήτηρ σου)

Để ứng nghiệm lời Thánh Kinh: “Ta khát” (Gioan 19,28: διψῶ).

Sau khi uống một ngụm dấm: “Đã hoàn tất rồi” (Gioan 19,30: τετέλεσται)

Kêu cầu cùng Chúa Cha: “Eloi, Eloi, lema sabachthani?” có nghĩa là, “Chúa con ơi, Chúa con ơi, tại sao Người lìa bỏ con?” (Máccô 15,34; Mátthêu 27,46: ελωι ελωι λεμα σαβαχθανι; ὅ ἐστιν μεθερμηνευόμενον· ὁ θεός μου ὁ θεός μου, εἰς τί ἐγκατέλιπές με;)

CÁC NHÂN CHỨNG CHO SỰ ĐÓNG ĐINH:

Trong Tin Mừng Nhất Lãm, nhiều phụ nữ đã theo Đức Giêsu từ Galilê “nhìn từ xa” (Mc 15,40; Mt 27,55; x. Lc 23,49).

Máccô kể tên ba người phụ nữ [Maria Mađalêna; Maria mẹ của Giacôbê nhỏ (Ἰακώβου τοῦ μικροῦ) và Giôxét; và Salômê (Ἰωσῆτος)]; Mátthêu gọi ba người đó hơi khác một chút [Maria Mađalêna; Maria mẹ của Giacôbê và Giuse (Ἰωσὴφ); và mẹ của các con trai của Dêbêđê (Mt 27,56)]; Nhưng trong Luca, những người phụ nữ vẫn ẩn danh (cho đến 24,10: Maria Mađalêna và Gioanna, Maria mẹ của ông Giacôbê và những người phụ nữ khác).

Một người đại đội trưởng Rôma chứng kiến cảnh này đã tuyên bố, “Quả thật người này là Con Thiên Chúa” (Máccô 15,39; Mátthêu 27,54), hoặc “… công chính” (Luca 23,47).

Trong Gioan 19,25-26, ba hoặc bốn người phụ nữ (mẹ Người; chị của mẹ Người; Maria vợ của Clôpas; và Maria Mađalêna) cũng như “môn đệ mà Đức Giêsu yêu” (được gọi là “con trai của Bà”) đang “đứng bên cạnh cây thánh giá” (tức là rất gần thập giá).

CHÔN CẤT: Ai chôn? Chôn khi nào? Chôn ở đâu? Và chôn như thế nào?

Ai chôn?

Một ông Giuse nào đó, đến từ thị trấn Arimathê của vùng Giuđê (không rõ vị trí chính xác); Ông được gọi là “thành viên đáng kính (εὐσχήμων βουλευτής) của Hội Đồng, người cũng đang mong chờ Nước Thiên Chúa” (Máccô 15,43); “Một người giàu có” và “đã trở thành môn đệ Đức Giêsu” (Mt 27,57: αὐτὸς ἐμαθητεύθη [AIP] τῷ Ἰησου); “Một thành viên của hội đồng, một người tốt và công chính [ἀνὴρ ἀγαθὸς καὶ δίκαιος], người đã không đồng ý với kế hoạch và hành động của họ” [τῇ βουλῇ καὶ τῇ πράξει αὐτῶν] (Luca 23,50); và “một môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng bí mật, vì sợ người Do Thái” (Gioan 19,38:  ὢν μαθητὴς τοῦ Ἰησοῦ).

Chỉ có Gioan đề cập thêm rằng ông Nicôđêmô, người trước đây đã gặp Chúa Giêsu, cũng đã giúp chôn cất Đức Giêsu (19,39; x. 3,1; 7,50).

Khi nào?

Sau khi Giuse được Philatô cho phép lấy xác Đức Giêsu (Máccô 15,43). Sau khi Philatô chắc chắn rằng Đức Giêsu đã chết, dựa trên lời khai của một người đại đội trưởng (Mc 15,44-45) và/hoặc việc đâm cạnh sườn Đức Giêsu (Gioan 19,31-37).

Vào chiều Thứ Sáu ngay trước khi mặt trời lặn [khi ngày Sabát bắt đầu], nên việc chôn cất được thực hiện vội vàng (Máccô 15,42; Luca 23,54; Gioan 19,42).

Chôn thế nào?

Bằng cách quấn xác Đức Giêsu trong một tấm vải gai (Máccô 15,46), đặt xác vào một ngôi mộ đục bằng đá, và lăn một tảng đá lớn chặn lối vào (Máccô 15,46).

Trong Gioan 19,40, họ cũng quấn thi thể bằng một hỗn hợp lớn các loại hương liệu, theo phong tục chôn cất của người Do Thái.

Nhưng trong Nhất Lãm, họ không dùng hương trầm ngay (rõ ràng là vì thiếu thời gian trước khi mặt trời lặn); Đúng hơn, những người phụ nữ chuẩn bị hương liệu sau khi về nhà (Luca 23,56) và định ướp xác đúng cách sau ngày Sabát (Máccô 16,1).

 Chôn ở đâu?

Tin Mừng Nhất lãm không đề cập đến vị trí của ngôi mộ, mà chỉ nói rằng nó được đục từ đá (Máccô 15,46). Luca 23,53 và Gioan 19,41 nói thêm rằng trước đó không có ai khác được chôn cất trong ngôi mộ này, trong khi Mátthêu 27,60 cho biết rằng đó là ngôi mộ mới của Giuse Arimathêa (ἔθηκεν αὐτὸ ἐν τῷ καινῷ αὐτοῦ μνημείῳ ὃ ἐλατόμησεν [ατομέω: Cắt, khoét] ἐν τῇ πέτρᾳ).

Chỉ có Gioan 19,41-42 nói rằng ngôi mộ nằm trong một khu vườngần nơi Đức Giêsu bị đóng đinh (ἦν δὲ ἐν τῷ τόπῳ ὅπου ἐσταυρώθη κῆπος).

Chỉ có Mátthêu 27,62-66 nói rằng một số binh lính đã đóng quân đ canh giữ ngôi mộ của Chúa Giêsu, kẻo các môn đ lấy trộm xác Người (xem 28,11-15).

Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD (chuyển ngữ và bổ túc theo dữ liệu của tác giả Felix Just)



[1] After Nero burned a large part of Rome, he blamed the Christians, whose name was linked to Christ: “Nero fastened the guilt and inflicted the most exquisite tortures on a class hated for their abominations, called Christians by the populace. Christus, from whom the name had its origin, suffered the extreme penalty during the reign of Tiberius at the hands of one of our procurators, Pontius Pilate, and a most mischievous superstition thus checked for the moment, again broke out not only in Judaea, the first source of the evil, but even in Rome, where all things hideous and shameful from every part of the world find their center and become popular.”
 

Thursday 23 March 2023

SỐNG ĐỜI NÀY – SỐNG ĐỜI SAU. Chú Giải Tin Mừng CN V MC A (Ga 11,1-45); Lm Jos. Ph.D. Thạch SVD

 Bản Văn và dịch sát nghĩa

Việt

Hy Lạp

1 Bấy giờ, có một người bị bệnh, ông Ladarô từ Bêtania, từ làng của cô Maria và Martha, chị của cô.

2 Maria là người đã xức dầu thơm cho Chúa và lau những bàn chân của Người bằng tóc của mình, người mà người anh em của cô là Ladarô bị bệnh.

3 Những người chị này sai người đến cùng Người, nói rằng: “Chúa ơi! Người mà Ngài thương bị bệnh”.

4 Khi nghe như vậy, Đức Giêsu nói rằng: “Bệnh này không dẫn đến sự chết nhưng vì vinh quang của Thiên Chúa, để Con Thiên Chúa được tôn vinh qua nó”.

5 Đức Giêsu yêu cô Martha và người chị em của cô và anh Ladarô.

6 Khi Người nghe rằng anh ta bị bệnh, Người còn lưu lại nơi Người ở hai ngày nữa.

7 Rồi sau đó, Người nói cùng các môn đệ rằng:  “Chúng ta lại đi Giuđê”.

8 Các mộn đệ nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy! hiện giờ những người Do Thái đang tìm để ném đá Thầy, mà Thầy lại đến đó sao”?

9 Đức Giêsu trả lời: “Không phải mười hai giờ là của một ngày sao?” Nếu ai đi vào ban ngày, thì sẽ không trật bước, vì người ấy có thể thấy ánh sáng của thế giới.

10 Nếu ai đó đi vào ban đêm, thì sẽ bị trât bước, vì ánh sáng không ở nơi người đó.

11 Người đã nói điều ấy và sau điều ấy, Người nói cùng họ: “Ladarô, người thương của chúng ta đang ngủ, nhưng Thầy sẽ ra đi để có thể đánh thức anh ta.”

12 Các môn đệ nói cùng Người: “Chúa ơi! Nếu anh ta đang ngủ thì anh ta có thể được cứu.”

13 Nhưng Đức Giêsu nói về cái chết của anh ta, nhưng những người ấy nghĩ rằng Người nói về giấc ngủ nghỉ ngơi.

14 Rồi Đức Giêsu mới nói thẳng với họ là anh Ladarô chết rồi.

15 Nhưng Thầy vui mừng vì các con để các con, có thể tin, khi Thầy không ở đó, nhưng chúng ta đi đến với anh ấy.

16 Ông Tôma người được gọi là Điđimô nói cùng đồng bạn: “Chính chúng ta đi và để có thể chết với Người”.

17 Khi Đức Giêsu đến, Người mới biết là anh ta đã ở trong mồ bốn ngày.

18 Bêtania gần Giêrusalem, khoảng 15 stadia (1 stadia= 190 m).

19 Nhiều người trong số những người Do Thái đã đến cùng cô Martha và Maria, để an ủi họ về vấn đề người anh em.

20 Khi cô Martha nghe rằng Đức Giêsu đến, cô đến gặp Người, còn cô Maria thì cứ ngồi trong nhà.

21 Cô Martha nói cùng Đức Giêsu rằng; “Chúa ơi! Nếu Ngài ở đây, thì người anh em của con đã không chết.

22 Nhưng bây giờ con biết rằng những gì Ngài xin cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài.”

23 Đức Giêsu nói cùng cô rằng: “Người anh em của con sẽ sống lại

24 Cô Martha nói cùng Người: “Con biết rằng nó sẽ sống lại, trong ngày sống lại, trong ngày cánh chung”.

25 Đức Giêsu nói cùng cô rằng: “Chính Ta là sự sống lại và là sự sống, người tin vào Ta nếu có chết, cũng sẽ sống,

26 và người sống và tin vào Ta không thể chết đời đời, con có tin điều ấy không?”

27 Cô nói cùng Người: “Có thưa Chúa! Con đã tin rằng Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đến trong thế gian”

28 Sau khi nói điều này, cô rời khỏi và gọi cô Maria, người chị em của cô, cách bí mật, nói rằng: “Người Thầy đã đến và gọi em”

29 Khi nghe điều đó, cô trỗi dậy lập tứcđến cùng Người.

30 Khi ấy, Đức Giêsu chưa vào làng mà đang ở nơi mà cô Martha đến gặp Người.

31 Những người Do Thái, những người đang ở với cô trong nhà và an ủi cô, khi thấy cô vội vã đứng lên và đi ra, họ đi theo cô, nghĩ rằng cô đi đến mộ để khóc ở đó.

32 Cô Maria đến nơi Đức Giêsu đang ở, khi thấy Người, cô sụp xuống dưới chân, nói cùng Người rằng: “Chúa ơi! Nếu có Ngài ở đây thì người anh em của con đã không chết.”

33 Khi Đức Giêsu thấy cô ấy khóc và những người Do Thái cùng đến với cô cũng khóc, Người xúc động mạnh trong tinh thầnvô cùng bứt rứt.

34 Rồi Người nói: “Chị em đặt anh ta ở đâu? Cô nói cùng Người: “Chúa ơi! Hãy đến và xem!”

35 Đức Giêsu khóc.

36 Những người Do Thái nói: “Xem Người thương anh ta dường nào!”

37 Vài người trong số họ nói: “Ông ta, người đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm gì để anh ta khỏi phải chết sao?”

38 Đức Giêsu lại xúc động mạnh trong mình, Người đi đến ngôi mộ. Nó ở trong một cái hang và một tảng đá được đặt trên hang.

39 Đức Giêsu nói: “Hãy mang tảng đá đi.” Người chị em của người chết là Martha đã nói cùng Người: “Chúa ơi! Đã có mùi rồi, vì là ngày thứ bốn rồi”.

40 Đức Giêsu nói cùng cô: “Không phải Ta đã nói cùng chị rằng nếu chị tin, chị có thể nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa”.

41 Rồi, người ta lấy tảng đá đi, Đức Giêsu ngước mắt lên trên và nói: “Cha ơi! Con cảm ơn Cha vì Cha đã lắng nghe Con”.

42 Chính Con đã biết rằng Cha luôn lắng nghe Con, nhưng vì đám đông đang đứng quanh đây, Con nói, để họ có thể tin rằng Cha đã sai Con”.

43 Sau khi nói điều ấy, Đức Giêsu kêu lớn tiếng:Hỡi Ladarô! Hãy ra khỏi đó!”

44 Người chết đi ra, chân và tay còn băng bằng những băng vải, và mặt được quấn bằng khăn che mặt. Đức Giêsu nói: “Hãy tháo cởi cho anh ta và để anh ta đi”.

45 Nhiều người trong số những người Do Thái đến cùng cô Maria và thấy điều Người làm, đã tin vào Người.

46 Nhưng vài người trong số họ ra đi đến với những người Pharisêu và nói với họ về điều Đức Giêsu đã làm.

1 Ἦν δέ τις ἀσθενῶν, Λάζαρος ἀπὸ Βηθανίας, ἐκ τῆς κώμης Μαρίας καὶ Μάρθας τῆς ἀδελφῆς αὐτῆς.

 2 ἦν δὲ Μαριὰμ ἀλείψασα τὸν κύριον μύρῳ καὶ ἐκμάξασα τοὺς πόδας αὐτοῦ ταῖς θριξὶν αὐτῆς, ἧς ἀδελφὸς Λάζαρος ἠσθένει.

 3 ἀπέστειλαν οὖν αἱ ἀδελφαὶ πρὸς αὐτὸν λέγουσαι· κύριε, ἴδε ὃν φιλεῖς ἀσθενεῖ.

 4 ἀκούσας δὲ Ἰησοῦς εἶπεν· αὕτη ἀσθένεια οὐκ ἔστιν πρὸς θάνατον ἀλλ᾽ ὑπὲρ τῆς δόξης τοῦ θεοῦ, ἵνα δοξασθῇ υἱὸς τοῦ θεοῦ δι᾽ αὐτῆς.

 5 ἠγάπα δὲ Ἰησοῦς τὴν Μάρθαν καὶ τὴν ἀδελφὴν αὐτῆς καὶ τὸν Λάζαρον.

 6  Ὡς οὖν ἤκουσεν ὅτι ἀσθενεῖ, τότε μὲν ἔμεινεν ἐν ἦν τόπῳ δύο ἡμέρας,

 7 ἔπειτα μετὰ τοῦτο λέγει τοῖς μαθηταῖς· ἄγωμεν εἰς τὴν Ἰουδαίαν πάλιν.

 8 λέγουσιν αὐτῷ οἱ μαθηταί· ῥαββί, νῦν ἐζήτουν σε λιθάσαι οἱ Ἰουδαῖοι, καὶ πάλιν ὑπάγεις ἐκεῖ;

 9 ἀπεκρίθη Ἰησοῦς· οὐχὶ δώδεκα ὧραί εἰσιν τῆς ἡμέρας; ἐάν τις περιπατῇ ἐν τῇ ἡμέρᾳ, οὐ προσκόπτει, ὅτι τὸ φῶς τοῦ κόσμου τούτου βλέπει·

 10 ἐὰν δέ τις περιπατῇ ἐν τῇ νυκτί, προσκόπτει, ὅτι τὸ φῶς οὐκ ἔστιν ἐν αὐτῷ.

 11 Ταῦτα εἶπεν, καὶ μετὰ τοῦτο λέγει αὐτοῖς· Λάζαρος φίλος ἡμῶν κεκοίμηται· ἀλλὰ πορεύομαι ἵνα ἐξυπνίσω αὐτόν.

 12 εἶπαν οὖν οἱ μαθηταὶ αὐτῷ· κύριε, εἰ κεκοίμηται σωθήσεται.

 13 εἰρήκει δὲ Ἰησοῦς περὶ τοῦ θανάτου αὐτοῦ, ἐκεῖνοι δὲ ἔδοξαν ὅτι περὶ τῆς κοιμήσεως τοῦ ὕπνου λέγει.

 14 τότε οὖν εἶπεν αὐτοῖς Ἰησοῦς παρρησίᾳ· Λάζαρος ἀπέθανεν,

 15 καὶ χαίρω δι᾽ ὑμᾶς ἵνα πιστεύσητε, ὅτι οὐκ ἤμην ἐκεῖ· ἀλλ᾽ ἄγωμεν πρὸς αὐτόν.

 16 εἶπεν οὖν Θωμᾶς λεγόμενος Δίδυμος τοῖς συμμαθηταῖς· ἄγωμεν καὶ ἡμεῖς ἵνα ἀποθάνωμεν μετ᾽ αὐτοῦ.

 17 Ἐλθὼν οὖν Ἰησοῦς εὗρεν αὐτὸν τέσσαρας ἤδη ἡμέρας ἔχοντα ἐν τῷ μνημείῳ.

 18 ἦν δὲ Βηθανία ἐγγὺς τῶν Ἱεροσολύμων ὡς ἀπὸ σταδίων δεκαπέντε.

 19 πολλοὶ δὲ ἐκ τῶν Ἰουδαίων ἐληλύθεισαν πρὸς τὴν Μάρθαν καὶ Μαριὰμ ἵνα παραμυθήσωνται αὐτὰς περὶ τοῦ ἀδελφοῦ.

 20 οὖν Μάρθα ὡς ἤκουσεν ὅτι Ἰησοῦς ἔρχεται ὑπήντησεν αὐτῷ· Μαριὰμ δὲ ἐν τῷ οἴκῳ ἐκαθέζετο.

 21 εἶπεν οὖν Μάρθα πρὸς τὸν Ἰησοῦν· κύριε, εἰ ἦς ὧδε οὐκ ἂν ἀπέθανεν ἀδελφός μου·

 22 [ἀλλὰ] καὶ νῦν οἶδα ὅτι ὅσα ἂν αἰτήσῃ τὸν θεὸν δώσει σοι θεός.

 23 λέγει αὐτῇ Ἰησοῦς· ἀναστήσεται ἀδελφός σου.

 24 λέγει αὐτῷ Μάρθα· οἶδα ὅτι ἀναστήσεται ἐν τῇ ἀναστάσει ἐν τῇ ἐσχάτῃ ἡμέρᾳ.

 25  εἶπεν αὐτῇ Ἰησοῦς· ἐγώ εἰμι ἀνάστασις καὶ ζωή· πιστεύων εἰς ἐμὲ κἂν ἀποθάνῃ ζήσεται,

 26 καὶ πᾶς ζῶν καὶ πιστεύων εἰς ἐμὲ οὐ μὴ ἀποθάνῃ εἰς τὸν αἰῶνα. πιστεύεις τοῦτο;

 27 λέγει αὐτῷ· ναὶ κύριε, ἐγὼ πεπίστευκα ὅτι σὺ εἶ χριστὸς υἱὸς τοῦ θεοῦ εἰς τὸν κόσμον ἐρχόμενος.

 28 Καὶ τοῦτο εἰποῦσα ἀπῆλθεν καὶ ἐφώνησεν Μαριὰμ τὴν ἀδελφὴν αὐτῆς λάθρᾳ εἰποῦσα· διδάσκαλος πάρεστιν καὶ φωνεῖ σε.

 29 ἐκείνη δὲ ὡς ἤκουσεν ἠγέρθη ταχὺ καὶ ἤρχετο πρὸς αὐτόν.

 30 οὔπω δὲ ἐληλύθει Ἰησοῦς εἰς τὴν κώμην, ἀλλ᾽ ἦν ἔτι ἐν τῷ τόπῳ ὅπου ὑπήντησεν αὐτῷ Μάρθα.

 31 οἱ οὖν Ἰουδαῖοι οἱ ὄντες μετ᾽ αὐτῆς ἐν τῇ οἰκίᾳ καὶ παραμυθούμενοι αὐτήν, ἰδόντες τὴν Μαριὰμ ὅτι ταχέως ἀνέστη καὶ ἐξῆλθεν, ἠκολούθησαν αὐτῇ δόξαντες ὅτι ὑπάγει εἰς τὸ μνημεῖον ἵνα κλαύσῃ ἐκεῖ.

 32 οὖν Μαριὰμ ὡς ἦλθεν ὅπου ἦν Ἰησοῦς ἰδοῦσα αὐτὸν ἔπεσεν αὐτοῦ πρὸς τοὺς πόδας λέγουσα αὐτῷ· κύριε, εἰ ἦς ὧδε οὐκ ἄν μου ἀπέθανεν ἀδελφός.

 33 Ἰησοῦς οὖν ὡς εἶδεν αὐτὴν κλαίουσαν καὶ τοὺς συνελθόντας αὐτῇ Ἰουδαίους κλαίοντας, ἐνεβριμήσατο τῷ πνεύματι καὶ ἐτάραξεν ἑαυτὸν

 34 καὶ εἶπεν· ποῦ τεθείκατε αὐτόν; λέγουσιν αὐτῷ· κύριε, ἔρχου καὶ ἴδε.

 35 ἐδάκρυσεν Ἰησοῦς.

 36 ἔλεγον οὖν οἱ Ἰουδαῖοι· ἴδε πῶς ἐφίλει αὐτόν.

 37 τινὲς δὲ ἐξ αὐτῶν εἶπαν· οὐκ ἐδύνατο οὗτος ἀνοίξας τοὺς ὀφθαλμοὺς τοῦ τυφλοῦ ποιῆσαι ἵνα καὶ οὗτος μὴ ἀποθάνῃ;

 38 Ἰησοῦς οὖν πάλιν ἐμβριμώμενος ἐν ἑαυτῷ ἔρχεται εἰς τὸ μνημεῖον· ἦν δὲ σπήλαιον καὶ λίθος ἐπέκειτο ἐπ᾽ αὐτῷ.

 39 λέγει Ἰησοῦς· ἄρατε τὸν λίθον. λέγει αὐτῷ ἀδελφὴ τοῦ τετελευτηκότος Μάρθα· κύριε, ἤδη ὄζει, τεταρταῖος γάρ ἐστιν.

 40 λέγει αὐτῇ Ἰησοῦς· οὐκ εἶπόν σοι ὅτι ἐὰν πιστεύσῃς ὄψῃ τὴν δόξαν τοῦ θεοῦ;

 41 ἦραν οὖν τὸν λίθον. δὲ Ἰησοῦς ἦρεν τοὺς ὀφθαλμοὺς ἄνω καὶ εἶπεν· πάτερ, εὐχαριστῶ σοι ὅτι ἤκουσάς μου.

 42 ἐγὼ δὲ ᾔδειν ὅτι πάντοτέ μου ἀκούεις, ἀλλὰ διὰ τὸν ὄχλον τὸν περιεστῶτα εἶπον, ἵνα πιστεύσωσιν ὅτι σύ με ἀπέστειλας.

 43 καὶ ταῦτα εἰπὼν φωνῇ μεγάλῃ ἐκραύγασεν· Λάζαρε, δεῦρο ἔξω.

 44 ἐξῆλθεν τεθνηκὼς δεδεμένος τοὺς πόδας καὶ τὰς χεῖρας κειρίαις καὶ ὄψις αὐτοῦ σουδαρίῳ περιεδέδετο. λέγει αὐτοῖς Ἰησοῦς· λύσατε αὐτὸν καὶ ἄφετε αὐτὸν ὑπάγειν.

 45 Πολλοὶ οὖν ἐκ τῶν Ἰουδαίων οἱ ἐλθόντες πρὸς τὴν Μαριὰμ καὶ θεασάμενοι ἐποίησεν ἐπίστευσαν εἰς αὐτόν·

 46  τινὲς δὲ ἐξ αὐτῶν ἀπῆλθον πρὸς τοὺς Φαρισαίους καὶ εἶπαν αὐτοῖς ἃ ἐποίησεν Ἰησοῦς. (Jn. 11:1-46 BGT)


Bối cảnh

Ga 11,1-46 là đoạn văn mô tả giai đoạn cuối cùng của cuộc sống công khai của Đức Giêsu, theo tác giả Gioan, trước khi Người bước vào Giêrusalem cho lần tham dự Lễ Vượt Qua thứ ba của Người. Phép lạ làm cho anh Ladarô, người đã chết và được chôn bốn ngày, sống lại, là đỉnh cao của quyền năng của Đức Giêsu trong Tin Mừng thứ tư. Dấu lạ này gợi nhớ đến các phép lạ phục sinh người chết trong Tin Mừng Nhất Lãm: Phục sinh con gái ông trưởng hội đường Jairô (Mc 5,21-43; Mt 9,18-26; Lc 8,40-56); Phục sinh con trai bà góa thành Nain (Lc 7,11-17). Yếu tố đức tin được nhấn mạnh như đề tài chính yếu xuyên suốt Tin Mừng thứ tư. Trong bối cảnh này là niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời đời. Câu cuối của chương 10 (10,42) cho biết nhiều người đã tin vào Đức Giêsu, vào cuối dấu lạ này nhiều người Do Thái đã thấy và tin vào Đức Giêsu (Ga 11,45). Dấu lạ này cũng nối kết với dấu lạ chữa lành người mù từ thuở mới sinh (Ga 9,1-41) vì có vài người dùng nền tảng phép lạ chữa lành người mù tử thuở mới sinh, để giả định rằng Đức Giêsu có thể phục sinh kẻ chết (Ga 11,37). Câu giới thiệu về nhân vật Maria cho biết trước sự kiện xức dầu tại Bêtania sau đó (Ga 12,1-8). Sự kiện anh Ladarô sống lại được nhắc đến trong:

Cấu trúc

Mở đầu (1-3): Người thương của Đức Giêsu, Ladarô, bị bệnh

Thái độ của Đức Giêsu: (4-16) Bệnh không dẫn đến chết nhưng vì vinh quang Thiên Chúa

Bệnh này không dẫn đến chết nhưng vì vinh quang Thiên Chúa

Ladarô, người thương của chúng ta đang ngủ

Các môn đệ nghĩ là giấc ngủ nghỉ ngơi

Đức Giêsu nói về cái chết của anh ta

Đức Giêsu vui mừng khi không ở đó, để các môn đệ có thể tin

Cô Martha gặp Đức Giêsu (17- 27): Nếu Ngài ở đây thì người anh em của con đã không chết. 

“Chúa ơi! Nếu Ngài ở đây thì người anh em của con đã không chết”

Những gì Ngài xin cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài

“Người anh em của con sẽ sống lại”

“Con biết rằng nó sẽ sống lại, trong ngày sống lại, trong ngày cánh chung”

“Chính Ta là sự sống lại và là sự sống: 

+ người tin vào Ta nếu có chết, cũng sẽ sống,

+ người sống và tin vào Ta không thể chết đời đời”

Con đã tin rằng Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Đấng đến trong thế gian”

Cô Maria gặp Đức Giêsu (28-38): Nếu Thầy ở đây, thì người anh em của con đã không chết

“Chúa ơi! Nếu có Ngài ở đây thì người anh em của con đã không chết”

Người xúc động mạnh trong tinh thần và vô cùng bứt rứt

“Chúa ơi! Hãy đến và xem!”

Đức Giêsu khóc

“Ông ta, không thể làm gì để anh ta khỏi chết sao?”

Đức Giêsu lại xúc động mạnh trong mình

Đức Giêsu phục sinh anh Ladarô (39-46)

“Hãy mang tảng đá đi”

“Chúa ơi! Đã có mùi rồi, vì là ngày thứ bốn rồi”

“Nếu chị tin, chị có thể nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa”

“Cha ơi! Con cảm ơn Cha vì Cha đã lắng nghe Con”

Cha luôn lắng nghe Con, nhưng Con nói, để họ có thể tin rằng Cha đã sai Con”

Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Hỡi Ladarô! Hãy ra khỏi đó!”

Người chết đi ra.

Kết luận (45-46): Nhiều người tin – vài người đi thông báo cho nhóm Pharisêu

Một vài điểm chú giải

1.     Gia đình Martha – Maria – Ladarô: Đây là một gia đình rất thân tình với Đức Giêsu. Nơi chốn được xác định là Bêtania, trên triền núi Ôliu (Mc 11,1; Lc 19,29) cách Jêrusalem khoảng chừng ba kilômét về phía Đông. Theo truyền thống Tin Mừng thứ ba, Đức Giêsu đã ghé vào nhà này (Lc 10,38-42) trên hành trình lên Jêrusalem, hành trình khổ nạn – phục sinh. Trong dịp ấy, cô Maria tỏ là người thấu hiểu Đức Giêsu và đã chọn vị trí tốt nhất: “Ngồi bên chân Chúa và nghe lời của Người”. Nhân vật Ladarô không được nhắc đến trong câu chuyện ấy. Theo truyền thống Nhất Lãm, Đức Giêsu thường qua đêm tại Bêtania (Mc 11,1-12; Mt 21,17) khi Người giảng tại Jêrusalem, rất có thể là Đức Giêsu trú ngụ tại gia đình này. Gioan là tác giả duy nhất có dữ liệu về dấu lạ chữa lành anh Ladarô, cùng với nhiều dữ liệu riêng về nhân vật này (Ga 12,1.2.10.17). Ông cũng là tác giả mô tả tương quan rất gần gũi giữa Đức Giêsu và những người trong gia đình này. Anh Ladarô được gọi là “người thương của Đức Giêsu” (Người Đức Giêsu thương);[1] Đức Giêsu yêu cô Martha, người chị em của cô là Maria và anh Ladarô. Theo truyền thống của riêng Gioan, chính cô Maria là người đã xức dầu Chúa, và lau chân Người bằng tóc của mình (Ga 11,2; 12,1-11), trong khi nhân vật xức dầu Đức Giêsu ở Bêtania, tại nhà ông Simon, người cùi là một người phụ nữ vô danh (Mc 14,3-9; Mt 26,6-13). Trong trình thuật này nhân vật Ladarô im lặng hoàn toàn, chỉ có hai nhân vật Martha và Maria lên tiếng đối thoại với Đức Giêsu. Nhân vật Ladarô chia sẻ thân phận Đức Giêsu bị bách hại. Các Thượng Tế quyết định giết cả anh Ladarô nữa, bởi lẽ vì anh mà nhiều người Do Thái bỏ đi và tin vào Đức Giêsu (Ga 12,10)

2.     Các danh xưng của Đức Giêsu: Có rất nhiều danh xưng mô tả Đức Giêsu được dùng trong bản văn này. Đức Giêsu tự gọi mình là “Con Thiên Chúa (11,4); Sự sống lại và là sự sống (11,25). Các môn đệ gọi Đức Giêsu bằng hai danh xưng khác nhau: (1) Rabbi (tiếng Aram, nghĩa là Thầy 11,9)[2]; (2) Chúa (11,12). Cô Martha là nhân vật gọi Đức Giêsu bằng nhiều danh xưng nhất:  (1) Chúa (11,27); Đấng Kitô (11,27); Con Thiên Chúa (11,27). Khi nói riêng với cô Maria, Martha gọi Đức Giêsu là “người Thầy” (ὁ διδάσκαλος, thầy dạy; Cf. 3,2.10; 13,13.14). Maria chỉ gọi Đức Giêsu là “Chúa”. Người thuật chuyện cũng gọi Đức Giêsu là “Chúa” (11,2).

3.     Người thầy thươngngười thương của chúng ta. Hai chị em Martha nhắn với Đức Giêsu là “Người mà Thầy thương bị bệnh” (ἴδε ὃν φιλεῖς ἀσθενεῖ). Cách nói này cho biết mối tương quan gần gũi của Đức Giêsu với anh Ladarô vừa nhắc Đức Giêsu phải làm gì đó cho anh trong khi anh bị bệnh. Động từ “philêô” (thương) được hai chi em Martha-Maria dùng để diễn tả tình cảm của Đức Giêsu dành cho anh Ladarô. Đức Giêsu cũng gọi anh Ladarô là “người thương”, nhưng là “người thương của chúng ta”, ngụ ý là của cả các môn đệ chứ không riêng gì Đức Giêsu. Danh từ “ὁ φίλος” thường được dịch là “người bạn”. Tuy nhiên, trong bối cảnh này, theo cách diễn tả của hai chị em Martha-Maria, thì nên hiểu là “người thương” (người thân) hơn là “người bạn”, vốn rất bình thường. Tương tự, trong lời công bố của Đức Giêsu liên quan đến cách gọi mới mà Người dành cho các môn đệ: “Thầy gọi các con là “người thương” (ὁ φίλος, người thân) của Thầy vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho các con biết” (Ga 15,15; x. Lc 12,4). Trong bối cảnh này, không nên hiểu “ὁ φίλος” là “bạn hữu” vì như thế sẽ giảm thiểu tương quan mà Đức Giêsu muốn nói đến. Danh xưng này rất đặc biệt trong Tin Mừng thứ tư: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh mạng sống vì “người thương” của mình” (Ga 15,13); “Các con là “người thương” của Thầy, nếu các con làm những điều Thầy dạy” (Ga 15,14). Người thuật chuyện ghi chú thêm là Đức Giêsu không chỉ thương một mình anh Ladarô, mà cả ba thành viên trong gia đình ấy: “Đức Giêsu yêu cô Martha và người chị em của cô và anh Ladarô” (Ga 11,5).

4.     Bệnh …không chết… ngủ … chết: Chuyện xảy ra là anh Ladarô bị bệnh và Đức Giêsu được thông báo với ẩn ý là một lời cầu xin trợ giúp. Lúc đầu Đức Giêsu nói với các môn đệ là bệnh này không dẫn đến cái chết “nhưng vì vinh quang của Thiên Chúa, để Con Thiên Chúa có thể được tôn vinh qua nó. Cả vinh quang của Thiên Chúa và Con Thiên Chúa được đề cập đến. Liên từ “ἀλλά” (nhưng) mô tả sự trái ngược của tình huống phía sau mệnh đề “bệnh này không dẫn đến sự chết”. Nghĩa là, Đức Giêsu có lẽ muốn nói là “nhưng nó sẽ dẫn đến cái chết vì vinh quang của Thiên Chúa và để cho Con Thiên Chúa có thể được tôn vinh”. Vinh quang dành cho Thiên Chúa và tôn vinh dành cho Đức Giêsu được tỏ lộ trong phân khúc, nơi mà, Đức Giêsu kêu cầu sự trợ giúp của Chúa Cha cách công khai, to lớn, và sau đó làm cho anh Ladarô sống lại. Đức Giêsu nói với các môn đệ là anh Ladarô đang ngủ (κεκοίμηται), nhưng vì các môn đệ nghĩ rằng đó là một giấc ngủ mang tính nghỉ ngơi vì sự mệt nhọc của bệnh tật, nên Đức Giêsu đành nói thẳng là “anh Ladarô đã chết” (Ga 11,14: Λάζαρος ἀπέθανεν). Cái chết thể lý của anh Ladarô được nhắc lại nhiều lần và thêm yếu tố thời gian cho thêm chắc chắn. Có thể mô tả hoàn cảnh của anh Ladarô ngắn gọn là: Bệnh không dẫn đến cái chết – đã chết vì … – được xem như ngủ - Đức Giêsu sẽ đánh thức – làm cho sống lại.

5.     Lưu ý về mặt thời gian và không gianHai ngày”; “bốn ngày rồi” (τέσσαρας ἤδη ἡμέρας)[3]; “ngày thứ  tư” (τεταρταῖος γάρ ἐστιν)[4]; “cách Jêrusalem 15 stadia” (2,850 km); “ban ngàyban đêm”: Bốn ngày rồilà khoảng thời gian người thuật chuyện đã cho biết Đức Giêsu biết là ông Ladarô đã trong mồ. Cô Martha, người chị em của anh Ladarô thì lưu ý với Đức Giêsu là “ngày thứ tư rồi” (τεταρταῖος γάρ ἐστιν). Cả hai cách nói này, tuy có phần khác nhau, nhưng có lẽ cũng chỉ đ nhấn mạnh một thực tế rằng anh Ladarô đã chết thật. Một người đã bốn ngày/ hay ngày thứ tư trong mồthì không thể còn sống được. “Hai ngàylà khoảng thời gian Đức Giêsu còn lưu lại nơi Người sau khi hay tin anh Ladarô bị bệnh. Khoảng thời gian này Đức Giêsu chủ động lại, có lẽ đ không phải can thiệp vào việc chữa lành. Lý giải này được ủng hộ bởi lời nói của Đức Giêsu dành cho các môn đ: “Vì anh em, Thầy vui vì đã không đó, đ anh em có thể tin” (Ga 11,15). Ban ngày là khoảng thời gian người ta có thể đi mà không trật bước vì người ta có thể thấy ánh sáng thế gian. Ban đêm là khoảng thời gian người ta có thể trật bước vì ánh sáng không nơi họ. Trong Tin Mừng thứ tư Đức Giêsu là “ánh sáng thế giới” (Ga 8,12; 12,46;  Cf. 12,35). Ban đêm, bóng tối là hình ảnh đối lại với Đức Giêsu, ánh sáng (Ga 1,5; 3,19; 6,17). Ai theo Đức Giêsu sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng mang lại sự sống (Ga 8,12); Ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ không trong bóng tối (Ga 12,46). Ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu (Ga 12,35). Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra, ngay lập tức trời tối (Ga 13,30). Khoảng không gian “15 stadia” (2,850 km) là một quãng đường Đức Giêsu có thể đi đến trong chốc lát, và dễ dàng vì đây là khoảng không gian Người thường di chuyển qua lại khi giảng tại Jêrusalem, nhưng Người vẫn quyết định lưu lại hai ngày có chủ đích.

6.     Chúa ơi! Nếu Ngài đây, thì người anh em của con đã không chết”: Đây là lời nhận định của cả hai chị em Martha và Maria. Giả địnhnếu Ngài đâysong song với ý định lưu lại hai ngày sau khi nghe anh Ladarô bị bệnh. Mệnh đem con đã không chếtsong song với khẳng định của Đức Giêsu trước đó: “Bệnh này không dẫn đến cái chết” và “vì anh em, Thầy vui vì đã không đó đ anh em có thể tin”. Lời nhận định này giả định một niềm tin vào khả năng chữa lành mọi chứng bệnh của Đức Giêsu. Dấu lạ chữa lành gần nhất Đức Giêsu làm chính là dấu lạ chữa lành một người mù từ thuở mới sinh (Ga 9,1-41). Nhận định này là khởi điểm cho mặc khải quan trọng của Đức Giêsu liên quan đến sự sống lại. Danh xưng mà cô Martha dùng đ gọi Đức Giêsu đây cũng rất đặc biệt (Chúa). Nó khác với danh xưng mà cô dùng đ nói với người chị em của mình (thầy dạy). Danh xưng Chúa gắn liền với quyền năng chữa lành, cứu khỏi cái chết thể lý, mà cô Martha đã giả định.

7.     Người anh em của con sẽ sống lại” … “Sẽ sống lại trong ngày cánh chung: Khẳng định này của Đức Giêsu làm đầy nhận định của Người trước đó rằng anh Ladarô chỉ ngủ, và Người đến đ đánh thức anh ấy dậy. Cách hành văn gây hiểu lầm lại được áp dụng tương tự như lúc Đức Giêsu nói về giấc ngủ của anh Ladarô. Các môn đ tưởng rằng Người nói vế giấc ngủ mang tính nghỉ ngơi, dưỡng bệnh. Kiểu hành văn này cũng được tác giả sử dụng trong câu chuyện Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ. Trong bối cảnh những người Do Thái Đức Giêsu chứng tỏ mình có quyền làm như thế bằng một dấu lạ, Đức Giêsu đã mời gọi rằngcác ông cứ phá hủy đền thờ này, trong vòng ba ngày, Tôi sẽ cho xây dựng lại” (Ga 2,19). Những Người Do Thái hiểu là Đức Giêsu nói về đền thờ Jêrusalem. Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn nói đến đền thờ thân xác của Người (Ga 2,21). Trong bối cảnh này, Đức Giêsu nói về sự phục sinh thể lý, tức thời của anh Ladarô, còn cô Martha thì nghĩ đến một sự sống vĩnh cửu mai sau. Lời khẳng định của Đức Giêsu sẽ được cụ thể hóa vào phần cuối của câu chuyện. Niềm tin về sự phục sinh của người chết vào thời cánh chung, được thể hiện khá rõ trong văn chương Do Thái vài thế kỷ thứ II, cụ thể là trong sách Maccabê (2 Mcb 7,1-41). Có lẽ, niềm tin của cô Martha thuộc truyền thống này.

8.     Chính Ta là sự sống lại và là sự sống”: Đức Giêsu khẳng định căn tính kép nơi Người: Sự sống lại và là sự sống. Mầu nhiệm về sự sống lại đã được mặc khải trong trình thuật về thanh tẩy đền thờ: Thân xác của Người sẽ bị phá hủy và trong ba ngày Người sẽ sẽ trỗi (Ga 2,19). Mầu nhiệm này được hiện thực hóa trong biến cố Khổ NạnPhục Sinh của Người. Căn tínhsự sốngnơi Đức Giêsu đã được giới thiệu ngay trong lời tựa: “Điều đã được tạo thành nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (1,4). Đức Giêsu là sự sống theo nghĩa tạo dựng. Người là Lời Sự Sống, nhờ Người, Chúa Cha đã tạo thành thế giới, trao ban sự sống cho thế gian: “Nhờ Người, tất cả hiện hữu, và không có Người, không có gì hiện hữu” (1,3). Qua mặc khải của Đức Giêsu, các tín hữu biết là Chúa được gọi là “Cha đang sốngvà Đức Giêsu sốngvì Chúa Cha” (6,57). Danh từsự sống” được đặt sausự sống lại” (Ta là sự sống lại và là sự sống) có thể được hiểu như là sự sống đời đời, vốn là cùng đích của mọi ngườilàm điều lành”: “Ai đã làm điều lành thì sẽ sống lại đ được sống, còn ai làm điều dữ thì sẽ sống lại đ bị kết án” (5,29; Cf. 6,54; 10,28). Đức Giêsu cũng tự giới thiệu mình là “đường, sự thật và là sự sống” (11,25).

9.   Người tin vào Ta nếu có chết, sẽ sống, người sống và tin vào Ta không thể chết đời đời[5]

Đây là mặc khải mấu chốt của Đức Giêsu cho toàn bộ Tin Mừng thứ tư. Tương quan giữa đức tin vào Đức Giêsu và sự sống (hay sự sống đời đời) như theo cấu trúc nhân quả được nhấn mạnh liên tục trong Tin Mừng thứ tư. Mục đích của toàn thể Tin Mừng thứ tư và nhiều tác giả xem như là mục đích cho cả các Tin Mừng khác nữa là: “Đ anh em tin rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và nhờ tin mà anh em có thể có sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Đức Giêsu nhiều lần khẳng định điều này trong các bài giảng của mình bằng ngôn ngữ nhấn mạnh: “Amen, Amen, Tôi nói cùng anh em, ai tin thì sẽ có sự sống đời đời” (Ga 6,47; Cf. 6,40; 3,16). Ngược lại, người không tin thì không nhữngkhông nhìn thấy sự sốngmà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa còn luôn trên người ấy” (3,36). Đức Giêsu là bánh của sự sống, ai ăn bánh ấy sẽ sống đời đời (6,51.54.56). Người cũng có thể ban nước sự sống làm chấm dứt cơn khát cho nhân loại, và mang lại sự sống đời đời (Ga 4,14). Mặc khải của Đức Giêsu gồm có hai vế: “Người tin vào Người, nếu có chết[6], sẽ sốngvà “Người sống, tin vào Người sẽ không chết đời đời”. Động từ sống trong vế thứ nhất có thể có hai nghĩa: 1. Sống lại về mặt thể lý, rồi lại chết. Nghĩa này được minh chứng bằng sự sống lại của anh Ladarô. Anh Ladarô đã chết và được chôn cất, nhưng anh được Chúa làm cho sống lại. Tương tự như các phép lạ phục sinh người chết trong Tin Mừng Nhất Lãm (Con gái ông trưởng hội đường trong Mc 5,21-43; Con trai bà góa thành Nain trong Lc 7,11-17) 2. Sống lại và sống đời đời, vĩnh cửu, không bao giờ chết nữa. Vế thứ hai hướng đến những người chưa chết về thể lý, với lời hứa về một sự sống đời đời trong ngày cánh chung cho những người tin. Đức Giêsu không có ý nói rằng người tin vào Người sẽ không bao giờ chết, nhưng sẽ được phần thưởng sự sống hạnh phúc đời đời.

10.  Con đã tin rằng Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đến trong thế gian”:[7] Lời tuyên xưng của cô Martha bắt đầu bằng mệnh đ nhấn mạnhchính con đã tin” (ἐγὼ πεπίστευκα). Động từtin thì hoàn thành, diễn tả một kiến thức niềm tin đã có trước thời điểm hiện tại và hiệu quả của hành động tin vẫn còn kéo dài. Đây có thể là niềm tin của cả cộng đoàn của tác giả Tin Mừng Gioan. Nội dung lời tuyên xưng của cô Martha là một xác tín mang tính Kitô học rất cao về Đức Giêsu, nếu không muốn nói là cao nhất. Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đến trong thế gian. Lời tuyên xưng này có nội dung khác giống với lời tuyên xưng của ông Phêrô được ghi lại trong Tin Mừng Mátthêu: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (Mt 16,16). Cô Martha thêm cụm từ “Đấng đến thế gian” (ὁ εἰς τὸν κόσμον ἐρχόμενος). Đây là ý tưởng khá phổ biến trong Tin Mừng thứ tư. Đức Giêsu là “Đấng đến” (ὁ ἐρχόμενος): Ngôi Lời là ánh sáng “đến thế giới” (1,9); “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà đã không đón nhận” (1,11); “Đấng đến từ trên cao” (3,31); “Đến nhân danh Cha tôi” (5,43); “vị ngôn sứ, Đấng đến thế gian” (6,14); . Người không tự mình đến nhưng “được Cha gửi đến”. Ý tưởng này được lặp lại nhiều lần trong Tin Mừng thứ tư (x. Ga 3,2; 5,38; 6,29; 10,36; 13,30). Trong câu chuên này Đức Giêsu cũng nhấn mạnh đến ý tưởng này như là một nội dung đức tin quan trọng: Đ những người đang đứng quanh đây có thể tin rằng Cha đã gửi Con” (11,42). Lời tuyên xưng của cô Martha chắc chắn và đầy đ, nhưng có lẽ, cũng như ông Phêrô, cô chưa hiểu hết năng lực của Đức Giêsu, khi Người thể hiện các căn tính mà cô vừa tuyên xưng. Đức Giêsu hỏi cô là cô có tin “điều đó” không? “Điều đó” là tất cả những gì Đức Giêsu đã mặc khải trước đó: Chính Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ta, nếu có chết, cũng sẽ sống, ai sống và tin vào Ta không chết đời đời”. Cô Martha trả lời là “có” và đưa ra lời tuyên xưng. Tuy nhiên, khi Đức Giêsu đ nghị lấy tảng đá trên hầm mộ đi, thì cô lại phản ứng là “Chúa ơi! Có mùi rồi, vì đã là ngày thứ tư” (11,29). Phản ứng này cho thấy dường như cô Martha chưa hiểu trọn vẹn lời Đức Giêsu mặc khải. Chỉ sau khi anh Ladarô sống lại thì niềm tin ấy mới rõ ràng hơn. Trước phản ứng của cô Martha, Đức Giêsu dường như muốn lặp lại điều mà Người đã nói trước đó với chị nhưng với ngôn ngữ khác, nhấn mạnh đến vinh quang Thiên Chúa: “Thầy đã không nói với chị là nếu chị tin thì chị sẽ nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa đó sao?”. Vinh quang Thiên Chúa trong bối cảnh này chính là dấu lạ làm cho anh Ladarô sống lại.

11.  Chuyển động của cô Maria: Cứ ngồi nhà – nghe rằng Đức Giêsu gọitrỗi dậy nhanh chóng – đi đến với Đức Giêsu sụp lạybày tỏ nuối tiếckhóc: Cuộc gặp gỡ của cô Maria và Đức Giêsu không có nhiều câu hội thoại. Cô Maria lặp lại sự tiếc nuối giống y như cô Martha: “Chúa ơi! Nếu Ngài đây, thì người anh em con đã không chết”. Đức Giêsu không đáp trả gì sau phàn nàn của cô Maria. Điều đáng chú ý đây là sự thay đổi chuyển động của cô Maria khi vừa nghe nói là Đức Giêsu đến. Trước đó, cô được mô tả là “cứ ngồi nhà” (ἐν τῷ οἴκῳ ἐκαθέζετο). Động từngồi thì chưa hoàn thành nhấn mạnh đến sự kéo dài của hành động ngồi. Tuy nhiên, sau khi nghe cô Martha nói là “Thầy đến và gọi cô”, cô liên trỗi dậy cách nhanh chóng và đi đến với Người. Có thể nói, Đức Giêsu đã giúp cho cô thay đổi tư thế và không gian đau buồn đang kéo dài của cô: “Cứ ngồi nhà”. Sự thay đổi tư thế và không gian ấy là rất quan trọng, vì nó kéo theo cả một nhóm người Do Thái, những người đã đến đ an ủi chi em cô.[8] Khi thấy cô “nhanh chóng trỗi dậy và đi ra”, họ đi theo cô, và nhờ đó, cuối cùng họ gặp Đức Giêsu, chứng kiến dấu lạ và tin vào Người. Những hành vi khác biệt rõ nét của Maria, so với cô Martha, trong buổi gặp gỡ Đức Giêsu không chỉ được diễn tả bằng sự vội vã, hối hả, nhưng còn hành động chào đón đặc biệt của cô. Khi gặp Đức Giêsu, cô đã sụp xuống dưới chân Người (ἔπεσεν αὐτοῦ πρὸς τοὺς πόδας), như một hành động thờ lạy.[9] Dù rằng Đức Giêsu yêu cả ba thành viên trong gia đình này, nhưng cách thức đối đãi của cô Maria thường đặc biệt hơn. Trước đó, người thuật chuyện đã dành một câu đặc biệt đ mô tả cô Maria: “Cô này đã xức dầu Chúa và lau chân Người bằng tóc của mình” (11,2). Đây là một kỹ thuật văn chương được gọi là kỹ thuậtbáo trước” (foreshadowing), được dùng đ giới thiệu trước điều gì đó sẽ xảy ra sau đó trong câu chuyện. Câu chuyện xức dầu tại Bêtania là câu chuyện được ghi lại bởi ba tác giả Mátthêu, Máccô và Gioan. Dầu vậy, trong khi hai tác giả Mátthêu và Máccô không cho biết danh tánh của người xức dầu và không gian câu chuyện là nhà ông Simon, người cùi (Mt 26,6-13; Mc 14,3-9), tác giả Gioan cho biết đó chính là cô Maria, và không gian câu chuyện là tại làng Bêtania, “nơi anh Ladarô ”, không cụ thể nhà ai. Hành động của cô Maria được Đức Giêsu giải thích là “giữ cho ngày mai tángcủa Người (Ga 12,7). Ngoài tác giả Gioan, tác giả Luca cũng mô tả Maria với một hình ảnh đặc biệt trong tương quan với Đức Giêsu: “Ngồi bên chân Chúa và cứ nghe lời Người” (Lc 10,39). Cô Maria quả là một nhân vật có tương quan đặc biệt với Chúa.

12.  Cảm xúc đặc biệt của Đức Giêsu: Đức Giêsu được giới thiệu trước đó là người có tình cảm đặc biệt với gia đình này: Anh Ladarô là “người Chúa thương”, Đức Giêsu gọi anh ta là “người thương của chúng ta”, “Đức Giêsu yêu cô Martha, người chị em của cô, và anh Ladarô”. Thực tế, Đức Giêsu đã có những cảm xúc đặc biệt đ bày tỏ tình thương của Người đối với anh Ladarô và hai người chị em. Tác giả dùng ba động từ đ mô tả cảm xúc đặc biệt của Đức Giêsu: Xúc động mạnh, bứt rứt, và khóc. Động từxúc động mạnh” được dùng hai lần và được bổ nghĩa bởi hai cụm trạng ngữ có nghĩa tương đương: “Xúc động mạnh trong tinh thầnvà “xúc động mạnh trong mình”. Cùng với động từbứt rứt”, động từxúc động mạnhdường như diễn tả những tần suất đau đớn bên trong.[10] Đây là hai động từ dành riêng đ mô tả cảm xúc của Đức Giêsu. Động từkhócdiễn tả biểu hiện bên ngoài. Đức Giêsu chia sẻ cảm xúc với cô Maria và những người Do Thái đi theo cô, vì cô Maria đã khóc và những người đi theo cô cũng khóc. Đức Giêsu khócsau khi cô Maria mời Người: “Chúa ơi! Hãy đến và xem”. Đây chính là lời mời gọi Đức Giêsu dành cho hai môn đ của ông Gioan Tẩy Giả lúc họ muốn biếtnơi của Người (Ga 1,39). Ông Philípphê, sau khi được gọi làm môn đ, cũng đã mời ông Nathanael như thế (Ga 1,46). Đó là lời mời gọi dẫn đến tình thầytrò giữa Đức Giêsu và các môn đ đầu tiên. Lời mời gọi của cô Maria có lẽ ẩn ý thăm viếng, ủi an, cảm thông, chia sẻ. Đức Giêsu đã bật khóc khi nghe lời mời gọi ấy. Và hành độngkhóccủa Người đã đánh động những người Do Thái: “Xem Người thương anh ta dường nào”. Nhìn vào cấu trúc đối xứng đồng tâm phía dưới, người ta có thể nhận ra đỉnh cao của cảm xúc là bật khóc, nhưng cảm xúc thường xuyên, đều đặn hơn là “xúc động mạnh”.

A. Người xúc động mạnh trong tinh thần và vô cùng bứt rứt

B. Đức Giêsu khóc.

A’. Lại xúc động mạnh trong mình

13.  Cảnh phục sinh:

§  Đức Giêsu và Cha: Khởi đầu câu chuyện, Đức Giêsu đã hé mở rằng “bệnh này không dẫn đến sự chết, nhưng vì vinh quang Thiên Chúa và đ Con Thiên Chúa được tôn vinh”, và gần nhất là lời nói của Người dành cho cô Martha: “Thầy đã không nói với chị là nếu chi tin thì chị có thể nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa sao?”. Trong lời cầu nguyện của mình, Đức Giêsu càng tỏ lộ rõ ràng tương quan ChaCon trong việc thực hiện dấu lạ này. Ngước mắt nhìn lên là nhìn lên nơi Thiên Chúa hiện diện; GọiCha ơi!” là thể hiện tương quan ChaCon với Thiên Chúa. Đức Giêsu biết rõ Chúa Cha luôn lắng nghe Người trong mọi sự, nhưng vì những người đang đứng chung quang đó. Điều Người bận tâm là làm sao cho họ nhận ra và tin rằng Người được Thiên Chúa sai đến và đang làm công việc của Thiên Chúa (Ga 4,34; 5,36; 9,4; 10,25); nhân danh Thiên Chúa (Ga 10,25).

§  Đức Giêsu và người chết, Ladarô: Có rất nhiều điều cản trở Đức Giêsu “đến và xemanh Ladarô. Vật cấm cản là phiến đá đặt trên cửa mộ. Lời cấm cản của cô Martha là “đã có mùi rồi”. Người cấm cản là “người chết”. Anh Ladarô được nhắc đến hai lần với danh xưng là “người đã chết”: (i) “Martha, người chị em củangười đã chết’” (11,39: ἡ ἀδελφὴ τοῦ τετελευτηκότος); (ii) “Người đã chết liền đi ra” (11:44: ἐξῆλθεν ὁ τεθνηκὼς). Tuy nhiên, vượt qua tất cả những cấm cản, Đức Giêsu đã đến và xem anh Ladarô theo cách thức của Người, không phải xem ngôi mộ nhưng là gặp Người trong ngôi mộ. Người giao tiếp cùng người chết. Mệnh lệnh lớn tiếng của Người đã làm cho anh Ladarô bước đi. Hình ảnhngười đã chết đi ralà một hình ảnh hết sức lạ lùng, có thể nói chỉ có trong phim ảnh mà thôi. Tác giả còn nhấn mạnh thêm là “chân và tay vẫn đang được băng bằng những băng vải, và đầu vẫn còn được quấn bằng một miếng vải” (Ga 11,44). Tất cả nhằm tô đậm rằng đó là một người chết thật, và anh ta có thể chuyển động, ra khỏi mộ, nhờ vào quyền năng Đức Giêsu, Đấng được Cha sai đến. 

Hỡi Ladarô! Hãy ra khỏi đó!”

Người chết đi ra, chân và tay vẫn còn được băng bằng những băng vải, và mặt được quấn bằng tấm khăn.

Hãy tháo cởi cho anh ta và đ anh ta đi

§  Đức Giêsu và “những người đứng quanh đó”: Những điều Đức Giêsu làm không chỉ đ bày tỏ tình cảm đặc biệt với gia đình ba người Martha, Maria, và Ladarô, nhưng nhắm đến niềm tin của những người Do Thái. Và điều tuyệt vời là cuối cùng nhiều người trong số họ đã tin. Hơn nữa, chắc chắn niềm tin của ba anh chị em Martha, Maria và Ladarô cũng được gia cố vững chắc.

14.  Phản ứng của nhóm những người Do Thái: Nhóm người Do Thái đã đến thăm và an ủi hai cô Maria và Martha vì sự việc của người anh em của họ. Họ đã đi theo cô, đã khóc với cô, đã chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa cô và Đức Giêsu, và cuối cùng xem thấy “điều Người làm”. Phản ứng của họ phân chia cách rõ ràng bởi liên từnhưng” (δὲ): “Nhiều người trong số họ đã tin vào Người NHƯNG vài người trong số họ đã đến với những người Pharisêu và nói với họ điều Đức Giêsu đã làm”. Câu chuyện tiếp theo sau đó là nhóm thượng tế và những người Pharisêu triệu tập hội đồng đ bàn tính kế sách đối phó với Đức Giêsu. Cuối cùng, họ lên kế hoạch đ giết Đức Giêsu từ ngày ấy (11,53). Nhóm những người tin vào Đức Giêsu chiếm đa số trong nhóm những người Do Thái “đang đứng đó”. Vinh quang Thiên Chúa được tỏ lộ khi có nhiều người đã chứng kiến dấu lạ và tin vào Đức Giêsu. Dấu lạ phục sinh anh Ladarô không ồn ào náo động với những lời tôn vinh dành cho Đức Giêsu hay Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng không tìm kiếm vinh quang nơi sự thán phục và ca tụng của dân chúng. Vinh quang của Thiên Chúa là nhiều người tin, và tin cũng có nghĩa là được sự sống đời đời.

Bình luận tổng quát

Tin Mừng thứ tư không trình thuật lại nhiều phép lạ như các Tin Mừng Nhất Lãm. Điều đặc biệt nơi những phép lạ được kể lại trong Tin Mừng thứ tư, là hành trình đức tin được mô tả cách chi tiết. Điểm chung có thể nói giữa truyền thống Nhất Lãm và truyền thống Gioan là đặt dấu lạ phục sinh người chết như là đỉnh cao của mọi dấu lạ. Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ chữa lành, trừ quỷ, làm chủ sóng biển, thiên nhiên. Tuy nhiên, quyền năng đỉnh cao biểu lộ căn tính của Người vẫn là quyền trên sự chết. Để cho người ta có thể tin cách tuyệt đối vào Người, Người phải chứng tỏ là Người có thể giải thoát họ khỏi cái chết, tột cùng bi kịch của nhân loại. Tin Mừng Gioan không có tường thuật về hai dấu lạ phục sinh con gái ông trưởng hội đường và con trai bà góa thành Nain như các Tin Mừng Nhất Lãm. Thay vào đó, tác giả trình bày một câu chuyện dài về việc Đức Giêsu phục sinh anh Ladarô cách kỳ diệu. Ngay từ đầu, tác giả đã khéo léo mô tả mối tương quan gần gũi, có tính cách gia đình giữa Đức Giêsu và nhóm ba anh chị em này. Họ là những người Đức Giêsu “thương” và “yêu” (tác giả dùng hai động từ khác nhau).[11] Tình yêu của Người dành cho gia đình này, được thể hiện rõ nét trong biến cố tang tóc bằng những cung bậc khác nhau: Xúc động mạnh trong tinh thần, bứt rứt khó chịu, và bật khóc. Tuy nhiên, điều mà Người quan tâm nhất là làm sao dẫn họ đến một đức tin đích thực, để dù đối diện với thực tại đau đớn nhất của phận người (đau khổ và sự chết) họ vẫn có một niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng. Cuộc đối thoại với cô Martha là dịp để chính cô Martha, cũng như cộng đoàn Gioan bày tỏ niềm tin của mình vào Đức Giêsu. Có rất nhiều điều nổi bật trong niềm tin của cô Martha. Thứ nhất, cô xác tín về quyền năng chữa lành nơi Đức Giêsu “Nếu Thầy hiện diện ở đây, thì người anh em của con đã không chết”. Đây cũng là niềm tin của cô Martha. Kế đến, cô xác tín về quyền năng nơi lời thỉnh cầu của Đức Giêsu: “Con biết rằng bất cứ điều gì Ngài xin cùng Thiên Chúa, thì Người sẽ ban cho Ngài”.[12] Niềm tin về sự sống đời sau cũng được cô tỏ bày. Cuối cùng, cô đã bộc lộ niềm tin nền tảng về căn tính của Đức Giêsu: Người là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đến trong thế gian. Đây là niềm tin của các Tông Đồ, đã được ông Phêrô tuyên xưng khi họ được yêu cầu trình bày quan điểm về căn tính của Người: “Anh em nói Thầy là ai?”. Trong cuộc đối thoại với cô Martha, Đức Giêsu mặc khải những chân lý rất quan trọng về căn tính của mình, những điều không nằm trong tuyên tín của cô Martha: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy, thì dù có chết cũng sẽ sống; Ai sống và tin vào Thầy thì không thể chết đời đời”. Mặc khải này vừa báo trước cho dấu lạ làm cho anh Ladarô, một người đã chết, sống lại, vừa đặt nền cho niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu, vượt qua nỗi sợ hãi cái chết, vốn tồn tại trong nhân loại xưa nay. Mặc khải này gia cố vững chắc cho niềm tin vào sự sống đời sau của cô Martha. Đức Giêsu chứng tỏ là mình có quyền trên sự chết, chiến thắng sự chết, qua dấu lạ phục hồi sự sống cho anh Ladarô. Tuy nhiên, đó chưa phải là đỉnh điểm quyền năng của Người. Quyền năng này sẽ đạt đến đỉnh điểm nơi cái chết và sự phục sinh của chính Người, vì Người đã chiến thắng sự chết và không còn chết nữa. Cô Maria là nhân vật được nhắc đến như là người sẽ xức dầu thơm cho Đức Giêsu, để chuẩn bị cho ngày mai táng Người. Đó là cách cô tham dự cách đặc biệt vào mầu nhiệm khổ nạn – phục sinh của Đức Giêsu. Khác với cô Martha, cô Maria đến với Đức Giêsu bằng một sự thay đổi tư thế và nơi chốn cách nhanh chóng. Cô kéo theo cả nhóm người Do Thái đến với Người. Chính cô đã mời Đức Giêsu “đến và xem”, qua đó, Đức Giêsu đã đến và xem theo cách thức của Người: Gặp gỡ, phục hồi sự sống cho “người đã chết”. Cuối cùng, Đức Giêsu đã đạt được mục đích ban đầu của mình, “vì vinh quang Thiên Chúa và Con Thiên Chúa được tôn vinh”, được thể hiện qua kết quả là nhiều người Do Thái đã tin vào Người. Có một điều đáng tiếc là vinh quang của Thiên Chúa không được tất cả mọi người đón nhận. Có một vài người đã đi đến cùng những người Pharisêu và tường thuật cho họ nghe về điều Đức Giêsu đã làm. Hậu quả là, các Thượng Tế và những người Pharisêu triệu tập hội đồng, lên kế hoạch để giết Đức Giêsu.

Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD



[1] “This description, which uses philein, “to love,”[1] is the basis for the suggestion that Lazarus is the anonymous “disciple whom Jesus loved” [R.E. BROWN, The Gospel according to John (I–XII): Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) XXIX, 423].

[2] “This is the last time that the disciples address Jesus with this title. “Rabbi” was also used in 9:2; notice the similarities between 9:2–5 and 11:8–10” (Ibid.).

[3] “This detail is mentioned to make it clear that Lazarus was truly dead. There was an opinion among the rabbis that the soul hovered near the body for three days but after that there was no hope of resuscitation” (R.E. BROWN, The Gospel according to John (I–XII), 424); F. Moloney, The Gospel of John (SP IV; Collegeville 1998) 337.

[4] “The day that it took for the message to come to Jesus, plus the two days that Jesus remained on after he got the message (6), plus the day that it took Jesus to go to Bethany—these are the four days of vs. 17” (R.E. BROWN, The Gospel according to John (I–XII),431); G.R. BEASLEY-MURRAY, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 188.

[5]Bultmann, Lagrange, and Hoskyns think that vs. 26 refers to physical life, and they understand the comparison between vss. 25 and 26 thus:

25: Belief, despite physical death, will lead to eternal life.

26: Physical life combined with belief will not be subject to death.

Bernard and others maintain that vs. 26 refers to spiritual or eternal life. The comparison would then be:

25: The believer, if he dies physically, will live spiritually.

26: The believer who is alive spiritually will never die spiritually” (R.E. BROWN, The Gospel according to John (I–XII), 425).

[6] “The aorist points to understanding this as a reference to physical death” (R.E. BROWN, The Gospel according to John (I–XII), 425).

[7]The position taken in the interpretation, that Martha's confession of faith reflects contemporary messianic expectation and is therefore at best partial, does not represent majority opinion” (339)

[8] “In a warm climate where embalming is not practiced, burial takes places on the day of death. This means that the mourning which precedes burial in our culture must follow burial in such lands. According to custom in Jesus’ time, the sexes walked separately in the funeral procession, and after burial the women returned alone from the grave to begin the mourning which lasted for thirty days. This mourning included loud wailing and dramatic expression of grief” (R.E. BROWN, The Gospel according to John (I–XII), 424).

[9] “Some would see in this the suggestion of a livelier faith on Mary’s part, but it is noteworthy that Mary of Bethany is always pictured at Jesus’ feet (Luke 10:39; John 12:3)” (R.E. BROWN, The Gospel according to John (I–XII), 435).

[10] “here the verb is used with the expression tō pneumati, “in spirit,” while in 38 it is used with en heautō, “in himself”—these are Semitisms for expressing the internal impact of the emotions” (.E. BROWN, The Gospel according to John (I–XII), 425).

[12]The belief that a miracle-workerhad privileged access to God was "in accord with Jewish piety" (Schnackenburg, Gospel 2:239)” (F. Moloney, The Gospel of John, 338).