Thursday 25 November 2021

NIỀM VUI NGÀY CỨU CHUỘC HAY NỖI BUỒN NGÀY TẬN THẾ. Chú Giải Tin Mừng CN I MV C (Lc 21,25-28.34-36)

 Bản văn Tiếng Hy Lạp và Bản dịch Tiếng Việt sát nghĩa

Hy Lạp

Việt

25  Καὶ ἔσονται σημεῖα ἐν ἡλίῳ καὶ σελήνῃ καὶ ἄστροις, καὶ ἐπὶ τῆς γῆς συνοχὴ ἐθνῶν ἐν ἀπορίᾳ ἤχους θαλάσσης καὶ σάλου,

 26  ἀποψυχόντων ἀνθρώπων ἀπὸ φόβου καὶ προσδοκίας τῶν ἐπερχομένων τῇ οἰκουμένῃ, αἱ γὰρ δυνάμεις τῶν οὐρανῶν σαλευθήσονται.

 27  καὶ τότε ὄψονται τὸν υἱὸν τοῦ ἀνθρώπου ἐρχόμενον ἐν νεφέλῃ μετὰ δυνάμεως καὶ δόξης πολλῆς.

 28  ἀρχομένων δὲ τούτων γίνεσθαι ἀνακύψατε καὶ ἐπάρατε τὰς κεφαλὰς ὑμῶν, διότι ἐγγίζει ἡ ἀπολύτρωσις ὑμῶν.

 29  Καὶ εἶπεν παραβολὴν αὐτοῖς· ἴδετε τὴν συκῆν καὶ πάντα τὰ δένδρα·

 30  ὅταν προβάλωσιν ἤδη, βλέποντες ἀφ᾽ ἑαυτῶν γινώσκετε ὅτι ἤδη ἐγγὺς τὸ θέρος ἐστίν·

 31  οὕτως καὶ ὑμεῖς, ὅταν ἴδητε ταῦτα γινόμενα, γινώσκετε ὅτι ἐγγύς ἐστιν ἡ βασιλεία τοῦ θεοῦ.

 32  ἀμὴν λέγω ὑμῖν ὅτι οὐ μὴ παρέλθῃ ἡ γενεὰ αὕτη ἕως ἂν πάντα γένηται.

 33  ὁ οὐρανὸς καὶ ἡ γῆ παρελεύσονται, οἱ δὲ λόγοι μου οὐ μὴ παρελεύσονται.

 34  Προσέχετε δὲ ἑαυτοῖς μήποτε βαρηθῶσιν ὑμῶν αἱ καρδίαι ἐν κραιπάλῃ καὶ μέθῃ καὶ μερίμναις βιωτικαῖς καὶ ἐπιστῇ ἐφ᾽ ὑμᾶς αἰφνίδιος ἡ ἡμέρα ἐκείνη

 35  ὡς παγίς· ἐπεισελεύσεται γὰρ ἐπὶ πάντας τοὺς καθημένους ἐπὶ πρόσωπον πάσης τῆς γῆς.

 36  ἀγρυπνεῖτε δὲ ἐν παντὶ καιρῷ δεόμενοι ἵνα κατισχύσητε ἐκφυγεῖν ταῦτα πάντα τὰ μέλλοντα γίνεσθαι καὶ σταθῆναι ἔμπροσθεν τοῦ υἱοῦ τοῦ ἀνθρώπου. (Lk. 21:25-36 BGT)

25 Sẽ có những dấu lạ nơi mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao và trên mặt đất có sự hoảng sợ của các dân ở trong nỗi lo lắng vì tiếng gầm của biển và sóng.

26 Người ta nín thở vì sợ và đợi chờ điều xảy đến cho cư dân trên trái đất, vì các quyền lực trên trời sẽ lay chuyển.

27 Rồi, họ sẽ nhìn thấy Con Người đến trong đám mây với nhiều quyền năng và vinh quang.

28 Nhưng khi những điều này xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì ơn cứu chuộc của anh em đã gần kề.

29 Và Người nói với họ một dụ ngôn. Anh em hãy nhìn xem cây vả và tất cả các loại cây.

30 Khi nó đâm chồi nẩy lộc rồi, khi anh em quan sát từ chúng, anh em biết rằng mùa hè đã gần kề rồi.

31 Cũng như vậy, khi thấy những điều này xảy ra, anh em biết rằng Nước Thiên Chúa đã gần kề.

32 Thật, Thầy bảo thật anh em, thế hệ này sẽ không qua đi, cho đến khi tất cả những điều này xảy ra.

33 Trời và đất sẽ qua đi, nhưng những lời của Thầy sẽ không qua đi.

34 Anh em hãy chú ý, kẻo lòng của anh em bị đè nặng bởi uống quá chén và say sưa và lo lắng cho cuộc sống và ngày ấy có thể ập xuống thình lình trên anh em. 35 Như chiếc lưới,

vì nó sẽ xảy đến trên tất cả những ai cư ngụ trên toàn mặt đất.

36 Hãy canh chừng trong mọi lúc, cầu xin để anh em có thể mạnh sức thoát khỏi những điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.

    


       
Bối Cảnh

Lời Chúa trong bối cảnh Mùa Vọng tiếp nối chủ đề về ngày cánh chung trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Đoạn Tin Mừng Lc 21,25-36 trích trong loạt những trình thuật về thời cánh chung của Tin Mừng Luca (Lc 21,5-37). Tiếp theo sau lời tiền báo về những ngày cuối cùng của Giêrusalem, Luca chuyển qua những dự báo về những ngày cuối cùng của thế giới.[1] Cũng như Giêrusalem đối diện với một sự khủng hoảng khi Đức Giêsu tiến vào giảng dạy, thế giới cũng đối diện với khủng hoảng như thế khi Con Người đến trong vinh quang.[2] Luca theo sát Tin Mừng Máccô và Mátthêu trong hai trình thuật “Những điềm lạ trên trời và Con Người quang lâm” (Lc 21,25-28; Mt 24, 29-31; Mc 13,24-27); và “Ví dụ về mùa thay lá của cây vả” (Lc 21, 29-33; Mt 24,32-35; Mc 13,28-31). Trình thuật về lời dạy “hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (21, 34-36) là trình thuật riêng của Luca. Cũng giống như các Tin Mừng Nhất Lãm khác, đoạn văn nói về sự quang lâm của Con Người được đặt ngay sau những trình thuật “báo trước về sự sụp đổ của thành Giêrusalem” (Lc 21,5-19); “Giêrusalem bị bao vây” (Lc 21,20-23b). Ngoài những đoạn chia sẻ chung với hai tác giả Nhất Lãm còn lại, Luca cũng thêm một đoạn ngắn về “thời của dân ngoại” (Lc 21,23b-24). Về chủ đề, hình ảnh “Con Người đến trong vinh quang và đầy quyền năng gợi nhớ đến” hình ảnh Con Người trong sách ngôn sứ Đaniel, cũng ngự giá mây trời mà đến (Đn 7,13). Chủ đề liên quan đến sự cứu chuộc đã được Luca nói nhiều lần trong Tin Mừng và cả trong sách Công Vụ (Lc 1,68; 2,38; 21,28; 24,21; Cv 7,35). Đây cũng là đề tài trải rộng trong các thư của thánh Phaolô. Chủ đề “cầu nguyện” cũng là một chủ đề rất phổ biến trong Tin Mừng Luca nói riêng và Tin Mừng Nhất Lãm nói chung. “Tỉnh thức”, “Coi chừng” cũng là một mệnh lệnh quan trọng trong Tin Mừng Luca và Mátthêu (Mt 6,1;7,15; 10,17; 16,6; 16,11; Lc 12,1; 17,3; 20,46; 21,34.36; Cf. Cv 5,35; 20,28; Mc 13,33). Ngoài ra, “vinh quang và quyền năng” của Đức Giêsu cũng là đề tài quan trọng không kém trong truyền thống Tân Ước. “Nước Thiên Chúa” là một chủ đề trọng yếu bao trùm toàn bộ sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu.

Cấu trúc

(A) Dấu lạ trên trời dưới đất (21,25a)

Các dân: Hoảng sợ và nín thở đợi chờ tai họa (21,25b-26)

Con Người Đến đầy quyền năng và vinh quang (21,27a) 

Anh em: Đứng thẳng và ngẩng đầu đợi chờ ơn cứu độ (21,28)

(B) Ví dụ cây vả và tất cả các loại cây (21,29)

Thấy đâm chồi nẩy lộc (21,30a)

biết mùa hè đã gần kề rồi (21,30b)

Thấy những điều này xảy ra (21,31a) 

biết Nước Thiên Chúa đã gần kề (21,31b)

(C) Lời Thầy nói sẽ không qua đi (21,32-33)

(D) Hãy để ý (21,34a)

để không say sưa và lo lắng cho cuộc sống (21,34-35a)

Hãy canh chừng và khẩn cầu (21,36a)

để có thể mạnh sức thoát khỏi và đứng vững (21,36b)

Một số điểm chú giải[3]

1.     Dấu lạ nơi mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao … tiếng gầm thét của biển và sóng… quyền lực trên trời lay chuyển: Luca lấy lại dữ liệu từ Máccô. Tuy nhiên, khác với Mátthêu – lặp lại gần như hoàn toàn dữ liệu của Máccô – tác giả Luca sửa lại và thêm vào các nguồn riêng của mình khá nhiều. Đức Giêsu của Máccô cho biết rằng “mặt trời sẽ ra tối tăm”; “mặt trăng sẽ không còn chiếu sáng”, còn “các ngôi sao thì rơi xuống” (Mc 13,24-25a). Đức Giêsu của Luca chỉ nói là có những dấu lạ nơi mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao.[4] Luca dường như không muốn cụ thể hóa các điềm lạ ấy, hoặc là ông giả định rằng độc giả đã biết Tin Mừng Máccô nên không cần nhắc lại những điềm lạ cách cụ thể nữa. Cũng có thể vì trước đó, Luca đã nói đến những tai họa cụ thể rồi: Những trận động đất lớn, nạn đói khắp nơi và ôn dịch, tai ương kinh khủng, những dấu lạ lớn trên trời (21,11). Đức Giêsu của Luca còn thêm vào chuyển động của biển và sóng. Dường như tác giả muốn có sự cân bằng của những sự lạ trên trời và dưới biển. Luca giữ lại chi tiết “các quyền lực trên trời sẽ lay chuyển” giống như Máccô (Lc 21,26; Mc 13,25b).

Mc 13,24-27

Lc 21,25-28

24 “Nhưng trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng,25 các ngôi sao từ trời sa xuống,các quyền lực trên trời bị lay chuyển.26 Bấy giờ, thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.27 Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.

25 Sẽ có những dấu lạ nơi mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao và trên mặt đất, sự hoảng sợ của các dân tộc trong nỗi lo lắng vì tiếng gầm của biển  và sóng.

26 Người ta nín thở vì sợ và đợi chờ điều xảy đến cho trái đất, vì các quyền lực trên trời sẽ lay chuyển.

27 Rồi, họ sẽ nhìn thấy Con Người đến trong đám mây với nhiều quyền năng và vinh quang.

28 Nhưng khi những điều này xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì ơn cứu chuộc của anh em đã gần kề.

 

2.     Các dân hoảng sợ …người ta nín thở: Đối lại với những điềm lạ trên trời là những điềm lạ dưới đất. Phản ứng của các quyền lực trên trời cũng song song với phản ứng của con người dưới đất. Trên trời, các quyền lực lay chuyển, dưới đất các dân tộc hoảng sợ. Giêsu của Máccô hoàn toàn không nói gì đến phản ứng của con người dưới đất. Giêsu của Luca dường như quân bình hơn khi đề cập đến phản ứng của các dân tộc trên mặt đất. Cám xúc của họ được mô tả cách cụ thể và phong phú: “hoảng sợ”; “lo lắng”; “nín thở vì sợ”; và “đợi chờ điều sắp xảy đến”. Nói chung, cảm giác của các dân tộc là lo lắng, bất an trước những sự lạ trên trời dưới đất.

3.     Con Người đến: Hình ảnh Con Người đến trong đám mây đầy quyền năng và vinh quang là hình ảnh mấu chốt, trung tâm của trình thuật cánh chung. Chính vì thế, cả Mátthêu, và Luca đều lấy lại dữ liệu từ Máccô một cách hoàn toàn. “Con Người” (viết hoa) là một trong danh xưng mang tính Kitô học rất quan trọng trong truyền thống Tin Mừng. Trong Luca, chúng ta có thể nhắc đến những điểm cốt lõi liên quan đến Con Người như sau. “Con Người có quyền tha tội” (Lc 9,24); “Con Người làm chủ của ngày Sabát” (Lc 6,5); “Con Người ăn uống, làm bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7,34); “Con Người chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22.44; 24,7 Cf. 18,31; 22,22.48); “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thiên thần” (Lc 9,26; 21,27; 22,69); “Con Người sẽ đến cách bất ngờ” (Lc 12,40; Cf. 17,22.24.26;); “Con Người lang thang không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58); “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Như vậy, trong Luca, Con Người được mô tả trải dài từ đau khổ đến vinh quang. Việc Con Người đến trong vinh quang và quyền năng là hoàn tất mầu nhiệm cứu độ mà Người đã khởi sự trên mặt đất. Nơi đây chúng ta có thể nghe phảng phất dụ ngôn về một vị vua đi lãnh nhận vương quyền rồi trở lại thưởng hay phạt các thần dân của mình (Lc 19,11-27). Nhất là, hình ảnh Con Người gợi nhớ cách cụ thể đến Đn 7,13, nói về Con Người đến trong đám mây. Luca diễn tả Đức Giêsu trở lại như một cuộc thần hiện.[5] Vai trò của Con Người trong Mc 13,26-27 là vai trò kép: Phán xét (c.26) và tập họp những người được chọn. Trong Luca, vai trò phán xét được giữ nguyên và vai trò triệu tập được thay bằng vai trò giải thoát.[6]

4.     Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên: Nơi Máccô, sau khi đến Con Người sẽ sai các thiên thần đi và sẽ tập họp những “người được chọn từ khắp bốn phương”, trong khi đó, trong Luca, người ta không thấy hình ảnh của “những người được chọn”.[7] Hình ảnh được Đức Giêsu nói đến trực tiếp là nhân vật ngôi thứ hai số nhiều “anh em”. Đối tượng ngôi thứ hai số nhiều (anh em) trong bối cảnh này rất có thể là các môn đệ, hoặc có thể mở rộng ra cho các tín hữu trong cộng đoàn Luca. Đối lại với hình ảnh của các dân tộc hoảng sợ và nín thở trước những điềm lạ trên trời dưới đất, các môn đệ được mời gọi “đứng thẳng” và “ngẩng đầu lên”. “Đứng thẳng” và “ngẩng đầu” tượng trưng cho sự tự tin, mạnh mẽ, mong chờ cách hạnh phúc ngược lại với sự hoảng sợ, lo lắng, nín thở của các dân khác. Danh từ “các dân” (ἔθνος) thường được dùng để chỉ các dân ngoại, những người không tin vào Chúa. Ngay trước đoạn này, Đức Giêsu nói đến thời điểm dân Giêrusalem “bị ngã gục dưới lưỡi gươm và bị đày đi khắp các dân ngoại, Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại giày xéo cho đến khi mãn thời các dân ngoại” (Lc 21,24). Nói cách khác, đây chính là thời khắc các môn đệ, và cộng đoàn các tín hữu đang mong chờ, trong khi dân ngoại thì cố tránh. Trái ngược lại với cuộc phán xét sẽ được tiến hành trên thế giới, các môn đệ Đức Giêsu có thể cảm nhận ơn cứu độ của họ trong tầm tay.[8] Động từ “đứng thẳng” (ἀνακύπτω) được dùng để mô tả người phụ nữ lưng còng, không thể “đứng thẳng” suốt mười tám năm. Ngay sau khi Đức Giê          su đặt tay chữa lành, bà liền tôn vinh Thiên Chúa. Đó là một dấu lạ mang lại ơn cứu chuộc, giúp người phụ nữ có thể đứng thẳng lên được.[9]

5.      Ơn cứu chuộc: Đây là điểm khác biệt quan trọng nữa giữa bản văn Luca và Máccô. Máccô không hề đề cập đến ơn cứu chuộc. Máccô chỉ nói đến việc những người được chọn được quy tụ về từ bốn phương. Có thể, trong cách nói này Máccô đã bao hàm sự “cứu chuộc” hoặc là “phần thưởng” dành cho những “người được chọn”. Rõ ràng, Luca cụ thể hơn trong việc đề cập đến kết cục của cánh chung: “Sự Cứu Chuộc”.[10]  “Sự Cứu Chuộc” là thuật ngữ mang đậm dấu ấn của Luca. Trong bài Magnificat (chỉ có trong Luca), Đức Maria đã chúc tụng Đức Chúa “đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người” (Lc 1,68). Trong trình thuật về nữ ngôn sứ Anna (chỉ có trong Luca), tác giả cũng cho biết là bà Anna đã “nói về Hài Nhi (Giêsu) cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem” (Lc 2,38). Hai môn đệ trên đường về Emmaus cũng đã hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ “cứu chuộc Ítrael” (Lc 24,21). Cựu Ước nói đến ba ý nghĩa khác nhau của sự cứu chuộc. (1) Một thuật ngữ pháp lý được áp dụng cho việc chuộc lại tài sản thừa kế, thành viên gia đình khỏi nô lệ, hoặc những vật dụng và tài sản (Lv 25,25.47-49; 27,15-20; R 4,1-6; Tv 72,4.14; Gr 32,1-15). (2) Chuộc lại con đầu lòng bằng cách trả một số tiền hay lễ vật (Ds 3,45-51; 18,15-16; Xh 21,8.30). Đặc biệt trong những trường hợp đổ máu (Ds 35,12.19) và trường hợp Chúa hành động trong một cách thức cứu chuộc cho dân Người (Xh 6,6; 15,13; Đnl 7,8 Tv 19,1; 25,22; 106,10; Is 41,14). (3) Ý niệm thần học chuyên biệt về sự cứu độ đặt nặng vào sự hồi phục, tái thiết lập tương quan của Chúa với dân Người sau khi họ đã nổi loạn, và bất trung. Ý niệm này thường được gọi là “giá chuộc”, “sự chuộc tội” (Tv 49,7-8;13,8; Xh 21,30). Trong Tân Ước, sự cứu độ được hoàn thành trong cái chết hiến tế của Đức Giêsu (Rm 3,23-25; 8,23; 1 Cr 1,30; 6,20; 7,23; Ep 1,7.14; 4,30; Cl 1,14; Gl 3,13; 4,5; Dt 9,15; 1Pr 1,18-19).[11] Công trình cứu chuộc sẽ được Đức Kitô hoàn tất trong ngày cánh chung.

6.     Ví dụ cây vả và tất cả các loại cây: Ví dụ cây vả với nội dung chính là “sự đâm chồi nảy lộc” báo hiệu một mùa hè sắp đến. Có hai điểm khác biệt trong trình thuật của Luca so với của Mátthêu và Máccô: Thứ nhất, ngoài cây vả Luca thêm “tất cả các cây khác”; Thứ hai, Luca thay đổi chủ ngữ của cụm động từ “đã gần bên”. (i) Luca dường như muốn bổ sung vào số cây thay lá, đâm chồi nẩy lộc vào trước mùa hè. Bài học này không chỉ dành riêng cho cây vả.[12] Thực tế, có nhiều loại cây có quy trình thay lá như cây vả, nhưng cũng có những loại cây không rụng lá vào mùa đông, nên sẽ không có quy trình thay lá như vây. (ii) Máccô và Mátthêu dùng đại từ ngôi thứ ba số ít cho cụm động từ “đã gần kề”. Đại từ này có thể hiểu là “Con Người” (Con Người đã gần bên, Người đã gần bên), nhưng cũng có thể hiểu là “cuộc quang lâm của Con Người” (nó đã gần bên).[13] Trong Luca, chủ từ của cụm động từ “gần bên” là “Nước Thiên Chúa” (Triều đại Thiên Chúa): Anh em biết rằng “Triều Đại Thiên Chúa đã gần bên”. Triều đại Thiên Chúa[14] rõ ràng là một trong những chủ đề quan trọng nhất trong nội dung giảng dạy của Đức Giêsu. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều ghi lại nhiều lời dạy của Đức Giêsu liên quan đến chủ đề “Nước Thiên Chúa”. Cả Mátthêu và Máccô đều đặt lời rao giảng: “Thời kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh chị em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15; Mt 4,17). Khác với Mátthêu và Máccô, Luca không ghi lại lời giảng này của Đức Giêsu. Trong Luca, lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu được ghi lại tại hội đường Nadarét, nơi Đức Giêsu đã đọc lời ngôn sứ Isaiah: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn  phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho những người nghèo. Người đã sai tôi đi công bố cho người bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa (Lc 4,16-19). Rồi, Đức Giêsu công bố rằng, tất cả những lời ngôn sứ đã ứng nghiệm trên Người. Đức Giêsu của Luca cho biết rằng mục đích của Người khi được sai đi là “loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” cho các thành (Lc 4,48). Trong lời chỉ dẫn dành cho nhóm Bảy Mươi Hai Môn Đệ (chỉ có trong Luca), Đức Giêsu lặp lại hai lần “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 10,9.11). Luca cũng là tác giả duy nhất ghi lại sự kiện những người Pharisêu hỏi Đức Giêsu “khi nào Triều Đại Thiên Chúa đến?” và Đức Giêsu đã trả lời rằng: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được và Người ta sẽ không nói ‘ở đây này’ hay ‘ở kia kìa’ vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,20-21). Cả Mátthêu và Luca đều ghi lại “dụ ngôn mười nén bạc” (Lc 19,11-27; Mt 25,14-30). Tuy nhiên, Luca đặt dụ ngôn này vào bối cảnh ngay trước khi Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem và tác giả còn ghi chú về lý do: “Vì Người đang ở gần Giêrusalem, và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện” (Lc 19,11). Trong bối cảnh Bữa Tiệc Ly, sau khi trao chén cho các môn đệ, Đức Giêsu nói: “Thầy nói cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến” (Lc 22,18). Trong cùng một trình thuật, Máccô ghi rằng: “Thầy bảo thật anh em, Thầy không bao giờ uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14,25); Mátthêu thì thay “Nước Thiên Chúa” bằng cụm từ “Nước của Cha Thầy” (Mt 26,29). Như thế, xem ra Luca tô đậm hơn sự kiện “Triều Đại Thiên Chúa đến” trong nhiều hoàn cảnh, và không lạ gì tác giả thay đổi chủ ngữ của ngữ động từ “gần bên” – Con Người – bằng danh ngữ “Triều Đại Thiên Chúa”. Trong bối cảnh này, hình ảnh “Triều Đại Thiên gần bên” song song với “sự cứu chuộc dành cho anh em đã đến gần”. Được cứu chuộc là được ở trong Nước Thiên Chúa. 

Mt 24,32-33

Mc 13,28-29

Lc 21,29.31

“Anh em cứ lấy ví dụ cây vả mà học hỏi”

 

“Cũng vậy, khi thấy tất cả những điều ấy, anh em biết rằng Con Người đã gần bên, ngay ngoài cửa rồi”.

“Anh em cứ lấy ví dụ cây vả mà học hỏi”

 

“Cũng vậy, khi thấy những điều ấy xảy ra thì anh em biết Con Người đã gần bên, ở ngay ngoài cửa rồi”.

“Anh em hãy quan sát cây vả cũng như tất cả các cây khác

 

“Cũng vậy, khi thấy những điều ấy xảy ra, anh em biết rằng Triều Đại Thiên Chúa đã gần bên”.

7. Anh em hãy chú ý … hãy tỉnh thức, khẩn cầu: Tiếp theo sau “ví dụ cây vả” Mátthêu và Máccô đều lưu ý đến bí mật của “ngày và giờ”: Không ai biết, ngay cả các thiên thần trên trời hay cả Người Con; chỉ một mình Chúa Cha biết thôi (Mt 24,36; Mc 13,32). Luca không ghi lại lưu ý này, có lẽ để tránh đi sự khó hiểu là tại sao Người Con lại không biết. Tuy nhiên, cả ba tác giả đều ghi lại những cảnh báo tương tự nhau sau “ví dụ cây vả”. Máccô ghi lại rằng: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức vì anh em không biết khi nào thời ấy đến” (Mc 13,33); Mátthêu: “Vậy anh em hãy tỉnh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24,42). Luca dùng ba động từ. Động từ đầu tiên (chú ý, đề phòng) diễn tả một sự cảnh báo để tránh những điều tiêu cực. Đây là lần thứ tư Luca dùng động từ này cho các môn đệ: “Anh em phải coi chừng men Pharisêu, tức là thói đạo đức giả” (12,1); Trong bối cảnh Đức Giêsu dạy về sự nghiệm trọng của việc làm cớ cho người khác sa ngã, Đức Giêsu chốt lại “anh em hãy coi chừng” (17,3); “Anh em phải coi chừng những ông Kinh Sư ưa dạo quanh trong bộ áo dài, thích được người ta chào hỏi nơi công cộng…” (20,46). Hai động từ còn lại (tỉnh thức và cầu xin) dành cho những cảnh báo nhằm đạt đến kết quả tích cực. Những động từ này cổ vũ không những một thái độ đúng đắn về Chúa, mà còn một cách sống phù hợp với lịch sử cứu độ đến hồi hoàn tất.[15] Động từ “cầu xin” được dùng nhiều trong Luca với nhiều bối cảnh khác nhau: Người bệnh phong cầu xin được sạch (5,12); Quỷ cầu xin Đức Giêsu đừng hành hạ nó (8,28); Kẻ được trừ quỷ xin được ở với Đức Giêsu nhưng Người không đồng ý (8,38); Một người cha cầu xin cho đứa con bị bệnh kinh phong (9,38); Đức Giêsu dạy các môn đệ xin thợ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về (10,2); Đức Giêsu cầu xin cho ông Phêrô khỏi mất lòng tin (22,32).

8.     Say sưa và lo lắng cho cuộc sống: Đi theo mệnh lệnh cảnh báo đầu tiên – “hãy coi chừng” – là một loạt những hành động tiêu cực: Lòng ra nặng nề vào chuyện ăn uống quá mức, đến mức say xỉn và lo lắng cho cuộc sống. Những đam mê ăn uống và quá bận tâm về cuộc sống (có thể là tiền tài danh lợi thú) làm cho người ta không còn tâm trí quan tâm đến ngày Con Người đến nữa, hay nói theo kiểu Luca ngày “Triều Đại Thiên Chúa đến”. Trong lời dạy về sự sẵn sàng như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới về (Lc 12,35-36), Đức Giêsu đã đề cập đến một loại đầy tớ đã đánh đập tôi trai, tớ gái, chè chén say sưa vì nghĩ rằng chủ của anh ta còn lâu mới về (Lc 12,45). “Lo lắng cho cuộc sống” gọi nhớ đến dụ ngôn “người gieo giống” trong đó, hạt giống rơi vào bụi gai được ví như người đã nghe lời Chúa nhưng hạt mầm Lời không lớn lên được vì anh ta bận tâm, sự giàu sang, và thú vui cuộc sống” (Lc 8,14).[16] Hậu quả có thể xảy ra nếu không hết sức “đề phòng” là các môn đệ của Chúa sẽ chịu chung số phận với những dân cư trên khắp mặt đất, khi ngày ấy ập xuống trên họ một cách bất ngờ như một chiếc lưới. Điều đáng chú ý đặc biệt ở đây là ý tưởng phổ quát của cuộc phán xét sẽ xảy ra trên tất cả mọi người, tin hay không tin vào Chúa.[17]

9.     Mạnh sức thoát khỏi: Trái ngược với mệnh lệnh “phải hết sức chú ý” tránh những điều tiêu cực nhằm tránh tai họa ập đến, hai mệnh lệnh tiếp theo đi kèm với hai hiệu quả tích cực: “Nhưng hãy tỉnh thức trong mọi lúc, khẩn cầu để (1) Anh em có thể mạnh sức thoát khỏi những điều sẽ xảy đến[18] và (2) Để có thể đứng vững trước mặt Con Người. Tương tự như ở 21,28, Người môn đệ được mời gọi “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên” thì ở đây họ cũng được mời gọi làm sao để “đứng vững trước mặt Con Người”. Để được như vậy, họ phải luôn luôn tỉnh thức và khẩn cầu Chúa giữ gìn, cũng như chuẩn bị cách tích cực bằng đời sống tốt lành và trung tín của mình. Đứng vững trước mặt Con Người là phong thái của những người đã sẵn sàng đón nhận “Nước Thiên Chúa đến” và đón nhận được ơn cứu độ do Con Người ban tặng. Lời cầu nguyện quan trọng mà Đức Giêsu dạy trong “Kinh Lạy Cha” liên quan đến Nước Thiên Chúa phải được lặp đi lặp lại bằng lời nói và hành động tích cực nữa: “Xin làm cho danh Cha được vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến” (Lc 11,2).

 Bình luận tổng quát

Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật những bài giảng của Đức Giêsu, trong những ngày cuối cùng tại Giêrusalem theo ngôn ngữ khải huyền với ba chủ đề chính yếu: (1) Sự báo trước về sự kiện Giêrusalem bị phá hủy, cùng với đền thờ; (2) Nói trước về sự trở lại của Con Người trong vinh quang để phán xét và ban thưởng, cùng với sự kết thúc của thế giới hiện tại, vương quốc Thiên Chúa hoàn thành; (3) Những khó khăn thử thách các môn đệ phải chịu trong suốt hành trình rao giảng, cùng với sự nâng đỡ và đồng hành của Chúa giữa cuộc tàn phá Giêrusalem và sự trở lại của Con Người.[19] Dựa theo những dữ liệu sẵn có của Máccô, Luca đã biên tập lại một cách phù hợp, rõ ràng hơn lối diễn tả và nguồn dữ liệu riêng của mình. Quang cảnh mặt trời trở nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, còn các vì sao thì rơi xuống, trong Máccô được Luca thu gọn thành “những dấu lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao”. Thay vào đó, Luca mô tả toàn diện hơn, cả vũ hoàn rung động, khi ông mô tả thêm cảnh biển gầm sóng thét dưới mặt đất. Hơn nữa, sự kiện này gây ảnh hưởng trên các dân trên toàn địa cầu. Cảm xúc của họ được mô tả cách cụ thể: hoảng sợ, kinh hoàng, nín thở đợi chờ. Cùng với hình ảnh song song giữa những sự kiện theo không gian trên trời và dưới đất, giữa thời gian ngày (mặt trời), đêm (mặt trăng và các vì sao), Luca còn cho thấy hai hình ảnh song song trái ngược giữa hai nhóm người. Nhóm các tín hữu, các môn đệ trung thành với Đức Giêsu trong tư thế đứng thẳng, ngẩng đầu, đợi chờ trong niềm vui vì ơn cứu độ đã đến. Họ như nhìn thấy một thế giới mới tươi sáng hơn được mở ra, khi thế giới hiện tại được khép lại vì đã hoàn tất. Nhóm các dân khác, có thể là những người không tin nhận Đức Giêsu, không sẵn sàng cho ngày tận cùng của thế giới, nín thở đợi chờ trong vô vọng vì thế giới xem như kết thúc đối với họ và án phạt, đau khổ sẽ bắt đầu. Hình ảnh Con Người đến trong đám mây, đầy quyền năng và vinh quang vẫn là hình ảnh trung tâm, đáng mong chờ nhất của ngày cánh chung. Con Người đến hoàn tất Triều Đại Thiên Chúa mà Người đã rao truyền, giảng dạy, minh chứng trong suốt cuộc đời của Người. Đó là vương quốc của tình yêu, sự sống sung mãn vĩnh cửu vô cùng vô tận. Tuy nhiên, để có thể đứng thẳng và ngẩng đầu lên trong ngày Con Người ngự đến, các tín hữu, những môn đệ của Đức Giêsu được mời gọi “hãy coi chừng”, “hãy tỉnh thức trong mọi lúc” và “hãy khẩn cầu”. “Coi chừng, cảnh giác” để khỏi bị lôi cuốn vào những đam mê ăn uống hưởng thụ đến say sưa quên hết mọi sự. Đó là một lối sống chìm vào trong những dục vọng xấu và quên đi lý tưởng đời mình là tìm kiếm chính Chúa và hướng đến tha nhân với tình yêu vị tha. “Tỉnh thức trong mọi lúc”, và “cầu xin” để có thể thoát khỏi những hình phạt cánh chung và đứng vững trước mặt Con Người trong cuộc phán xét. Tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ. “Tỉnh thức luôn luôn” giúp cho con người luôn nhận ra rõ ràng những cơn cám dỗ. “Cầu nguyện” là ý thức thân phận mình yếu đuối, luôn cần đến Chúa trong cuộc chiến chống lại sự dữ. Cầu nguyện bao hàm sự tín thác và sự gắn bó khăng khít với Chúa. Đời sống thân mật với Chúa sẽ giúp các tín hữu vượt qua mọi khó khăn thử thách, cám dỗ, với ơn Chúa. Mùa vọng là mùa hy vọng, mùa đợi chờ. Đó không phải đợi chờ một ngày cánh chung và một phần thưởng, nhưng là đợi chờ một Đấng yêu thương mọi người và được mọi người yêu, sự mong chờ của người những đứa con dành cho người Cha yêu dấ của mình. Đời người, xét cho cùng, chỉ là một Mùa Vọng kéo dài. Từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đi, con người luôn mong chờ những giây phút gặp gỡ Chúa đích thực và gặp gỡ Chúa trong ngày Chúa quang lâm. Muốn có niềm mong chờ như thế giả thiết người ta phải cảm nhận được mối tương quan gần gũi giữa mình với Chúa, như là Đấng tạo thành và nhất là người Cha, người Mẹ của mình, chứ không phải là vị quan tòa phán xét, rồi thưởng – phạt mà thôi.

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD



[1] J.A. Fitzmyer,  The Gospel according to Luke X–XXIV. Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) 28A, 1348;  J.B. Green, The Gospel of Luke (NICNT; Grand Rapids 1997) 739.

[3] Nhiều điểm chú giải của đoạn Tin Mừng này sẽ được tìm thấy trong phần chú giải của Mc 13,24-32 [x. J.P.D. Thạch, “Không Ai Biết Ngày Đó Giờ Đó, Kể Cả Người Con”, LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: KHÔNG AI BIẾT NGÀY ĐÓ GIỜ ĐÓ, KỂ CẢ NGƯỜI CON. Chú Giải Tin Mừng CN XXXIII TN B (Mc 13,24-32) (josephpham-horizon.blogspot.com)

[4] “Now they take place not directly in the sky but in the three celestial bodies known to ancient science: the sun, the moon, and the stars. That is to say, they will occur by day as well as by night.” [F. Bovon, Luke 3. A Commentary on the Gospel of Luke 19:28–24:53 (ed. H. Koester) (Hermeneia; Minneapolis 2012) 116].

[5] J.B. Green, The Gospel of Luke, 740.

[7] Theo M. Hamm, Luca bỏ qua chi tiết cho về cuộc triệu tập này có lẽ vì ông sẽ đề cập một cuộc triệu tập của Giáo Hội được ghi lại trong sách Công Vụ Tông Đồ, được bắt đầu từ sau Lễ Ngũ Tuần cho đến khi Nước Trời tỏ hiện cách hoàn toàn [M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary (Ed. R.J. Clifford et al.) (New York 2018) 1092].

[8] J.A. Fitzmyer,  The Gospel according to Luke X–XXIV, 1349; F. Bovon, Luke 3, 118.

[9] F. Bovon, Luke 3, 119.

[10] “the term “deliverance” (ἀπολύτρωσις), which is unusual in Luke, undoubtedly coming from the source he used, but along with “salvation” (σωτηρία) and “visitation” (ἐπισκοπή) is part of the New Testament vocabulary of salvation” (F. Bovon, Luke 3, 119.)

[11] X. J.E. Alsup, The HarperCollins Bible Dictionary (ed. P.J. Achtemeier) (New York 1996) “Redemption”, 920; “The New Testament texts use the term with various nuances: (a) the total eschatological liberation brought about by Christ (here as well as in Rom 8:23; Eph 1:14; 4:30); (b) the status of the liberated person (Col 1:14; Eph 1:7); (c) by metonymy, the person of Christ the redeemer (1 Cor 1:30)” (F. Bovon, Luke 3, 120).

[13] C.A. Evans, Mark 8:27-16:20 (WBC; Dallas 2002) 334.

[14]“Vương quốc Thiên Chúa”, Mátthêu hay sử dụng Nước Trời nhiều hơn là Nước Thiên Chúa, có lẽ vì Mátthêu tránh gọi danh “Thiên Chúa”, vốn không phù hợp với văn hóa Do Thái.

 

[15] F. Bovon, Luke 3, 122.

[16] M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary (Ed. R.J. Clifford et al.) (New York 2018) 1092.

[17] J.A. Fitzmyer,  The Gospel according to Luke X–XXIV, 1355; L.T. Johnson, The Gospel According to Luke (SP 3; Collegeville 1991) 329.

[18] “Thoát khỏi những điều này” âm vang câu hỏi của Gioan Tẩy Giả dành cho đám đông “ai đã dạy cho các ngươi biết cách trốn khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (L.T. Johnson, The Gospel According to Luke,329).

[19] M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary, 1092.

Thursday 18 November 2021

MỘT VỊ VUA CHỊU THẨM VẤN. Chú Giải Tin Mừng CN XXXIV TN B (Ga 18,33-37)

 Bản Văn và dịch sát nghĩa

Hy Lạp

Việt

33  Εἰσῆλθεν οὖν πάλιν εἰς τὸ πραιτώριον Πιλᾶτος καὶ ἐφώνησεν τὸν Ἰησοῦν καὶ εἶπεν αὐτῷ· σὺ εἶ ὁ βασιλεὺς τῶν Ἰουδαίων;

 34  ἀπεκρίθη Ἰησοῦς· ἀπὸ σεαυτοῦ σὺ τοῦτο λέγεις ἢ ἄλλοι εἶπόν σοι περὶ ἐμοῦ;

 35  ἀπεκρίθη ὁ Πιλᾶτος· μήτι ἐγὼ Ἰουδαῖός εἰμι; τὸ ἔθνος τὸ σὸν καὶ οἱ ἀρχιερεῖς παρέδωκάν σε ἐμοί· τί ἐποίησας;

 36  ἀπεκρίθη Ἰησοῦς· ἡ βασιλεία ἡ ἐμὴ οὐκ ἔστιν ἐκ τοῦ κόσμου τούτου· εἰ ἐκ τοῦ κόσμου τούτου ἦν ἡ βασιλεία ἡ ἐμή, οἱ ὑπηρέται οἱ ἐμοὶ ἠγωνίζοντο [ἂν] ἵνα μὴ παραδοθῶ τοῖς Ἰουδαίοις· νῦν δὲ ἡ βασιλεία ἡ ἐμὴ οὐκ ἔστιν ἐντεῦθεν.

 37  εἶπεν οὖν αὐτῷ ὁ Πιλᾶτος· οὐκοῦν βασιλεὺς εἶ σύ; ἀπεκρίθη ὁ Ἰησοῦς· σὺ λέγεις ὅτι βασιλεύς εἰμι. ἐγὼ εἰς τοῦτο γεγέννημαι καὶ εἰς τοῦτο ἐλήλυθα εἰς τὸν κόσμον, ἵνα μαρτυρήσω τῇ ἀληθείᾳ· πᾶς ὁ ὢν ἐκ τῆς ἀληθείας ἀκούει μου τῆς φωνῆς.(Jn. 18:33-37 BGT)

33 Ông Phi-la-tô lại đi vào trong dinh và gọi Đức Giê-su và nói cùng Người: “Có phải ông là vua của Người Do Thái?”

34 Đức Giê-su trả lời: “Ông nói điều này từ chính ông hay người khác đã nói với ông về tôi?”

35 Ông Phi-la-tô trả lời: “Tôi không phải là người Do Thái, có phải không nào? Dân của ông và các Thượng Tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”

36 Đức Giê-su trả lời: “Vương quốc của tôi không thuộc về thế giới này.” Nếu vương quốc của tôi thuộc về thế giới này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu để tôi không bị trao nộp cho những Người Do Thái. Nhưng bây giờ Vương Quốc của tôi không thuộc về nơi này.

37 Vì thế, ông Phi-la-tô nói cùng Người: “Vậy, ông là vua sao? Đức Giê-su trả lời: “Chính ông nói tôi là vua. Tôi được sinh ra đã đến trong thế giới này, để mà tôi có thể làm chứng cho sự thật. Bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi


Bối cảnh

Đoạn Tin Mừng (Ga 18,33-37) nằm trong trình thuật về các cuộc thẩm vấn của Tổng Trấn Phi-la-tô dành cho Đức Giê-su, bắt đầu từ lúc những người Do Thái dẫn Đức Giê-su đến với ông đến lúc ông trao Người cho họ dẫn đi đóng đinh vào thập giá (18,2 – 19,16a). Trình thuật được tác giả mô tả dựa trên bối cảnh không gian trong và ngoài dinh Phi-la-tô (Bên ngoài [18,28-32]; Bên trong [18,33-38a]; Bên ngoài [18,38b-40]; Bên trong [19,1-3]; Bên ngoài [19,4-8]; Bên trong [19,9-11]; Bên ngoài [19,12-16a]).[1] Ông Phi-la-tô xét xử Đức Giê-su (bên trong dinh) theo yêu cầu của những người Do Thái đang ở ngoài dinh, vì họ sợ vào dinh sẽ bị dơ bẩn. Chính vì thế, Ông phải chạy ra, chạy vào năm lần bảy lượt. Theo tác giả Tin Mừng thứ tư, sau khi bắt Đức Giê-su và trói lại, quân lính cùng đám thuộc hạ của người Do Thái điệu Đức Giê-su đến nhà ông Kha-nan là nhạc phụ của ông Cai-pha (Ga 18,13). Ông Kha-nan, được gọi với chức danh là Thượng Tế[2], thẩm vấn Đức Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của Người (Ga 18,19). Sau đó, ông Kha-nan cho giải Đức Giê-su vẫn bị trói đến với Thượng Tế Cai-pha (Ga 18,24). Gioan không ghi lại bất kỳ một thẩm vấn nào của Thượng Tế Cai-pha. Khác với Tin Mừng Mác-cô, trong đó, ông Cai-pha hỏi Đức Giê-su về căn tính Mê-si-ah của Người: “Ông có phải là Đấng Mê-si-ah, Con của Đấng được chúc tụng không?" Đức Giê-su đã trả lời xác nhận cho câu hỏi này (x. Mc 14,61-62). Từ nhà ông Cai-pha, Đức Giê-su được người Do Thái điệu đến dinh Tổng Trấn Phi-la-tô (Ga 18,18). Phi-la-tô hỏi gặp những người Do Thái và hỏi họ về tội của Đức Giê-su. Họ trả lời rằng: “Nếu ông ta không làm gì gian ác, thì chúng tôi đã không nộp cho quan” (Ga 18,30). Rồi, Phi-la-tô ngụ ý không muốn xét xử Đức Giê-su nên ông bảo họ đem Người đi mà xét xử theo luật của họ. Tuy nhiên, những người Do Thái nói rằng họ không có quyền xử tử ai cả (Ga 18,31). Điều này ngụ ý rằng họ muốn Đức Giê-su phải bị tử hình. Chính vì thế, ông Phi-la-tô mới trở vào và thẩm vấn Đức Giê-su. Vấn đề chính mà Phi-la-tô muốn hỏi là “có phải Đức Giê-su là vua của Người Do Thái không?”. Câu hỏi này rõ ràng liên hệ đến chính căn tính Mê-si-ah của Đức Giê-su. Câu hỏi căn bản nòng cốt mà Đức Giê-su hỏi các môn đệ sau một khoảng thời gian theo Chúa là: “Anh em bảo Thầy là ai”. Si-môn Phê-rô thưa rằng: “Thầy là Đấng Ki-tô”[3] (tiếng Do Thái là Mê-si-ah) (x. Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,18-21). Chắc chắn rằng, trong suy nghĩ của Phê-rô và các anh em Tông Đồ, Đấng Ki-tô theo nghĩa là Ki-tô Vua. Người là Đấng Mê-si-ah được hứa là xuất thân từ hoàng tộc vua Đa-vít và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận (x. 2 Sm 7). Người đã tiến vào Giê-ru-sa-lem trong tiếng reo mừng hoan hô: “Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-el” (Ga 12,15). Việc Đức Giê-su ngồi trên lưng lừa được tác giả Gioan ghi chú là để ứng nhiệm lời đã chép “Hỡi thiếu nữ Si-on, đừng sợ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con” (Ga 12,16). Dân chúng đã công khai nhận Người là vua. Có lẽ, chính vì thế mà câu hỏi Phi-la-tô thắc mắc là “ông là vua sao?”. Ngoài chủ đề về Đấng Mê-si-ah vua, đoạn văn này còn nhắc đến hai chủ đề quan trọng khác. Thứ nhất, nhân vật “những người Do Thái” xuất hiện, như là những người thù ghét Đức Giê-su rất thường thấy trong Tin Mừng Gioan. Thứ hai, chủ đề về sự thật liên quan đến một căn tính khác của Đức Giê-su: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Lời của Chúa Cha cũng là sự thật (Ga 17,17). Chúa Thánh Thần cũng được biết đến như là Thần Khí sự thật.

Cấu trúc

(A)  Có phải ông là vua của Người Do Thái (18,33)

(B) Từ chính ông hay người khác (18,34)

 (C) Dân của ông và các Thượng Tế đã nộp ông cho tôi (18,35a)

(D) Ông đã làm gì? (18,35b)

(E) “Vương quốc của tôi không phải từ thế giới này (18,36a)

(C’) Để tôi không bị trao nộp cho những Người Do Thái (18,36b)

(E’) Vương Quốc của tôi không phải từ nơi này (18,36c)

(A’) Vậy, ông là vua sao? (18,37a)

(B’) “Chính ông nói tôi là vua (18,37b)

(D’) Làm chứng cho sự thật (18,37c)

Bất cứ ai nghe từ sự thật thì nghe tiếng tôi. (18,37d)

 

Một số điểm chú giải

1.     Phi-la-tô:[4] Ông là một Tổng Trấn (tương đương Tỉnh Trưởng) Rô-ma, đời thứ ba (sau Coponius, 6 – 9 CE; và Valerius Gratus, 15 – 36 CE) tại tỉnh Giu-đê, và là người cai trị lâu thứ hai trên vùng đất này (26-36 C.E.). Nhiệm kỳ của ông bắt đầu từ thời kỳ hoạt động của Gioan Tẩy Giả, cũng như sứ vụ công khai của Đức Giê-su (x. Lc 3,1). Phi-la-tô đóng vai trò chính yếu trong vụ xử và cho phép đóng đinh Đức Giê-su (Mt 27,1-2.11-26; Mc 15,1-15; Lc 23,1-25; Ga 18,28 – 19,16; Cv 3,13; 4,27; 13,28; 1 Tm 6,13). Hình ảnh của Phi-la-tô hơi khác nhau trong mỗi sách Tin Mừng. Tuy nhiên, chung quy lại, dường như các tác giả đều cho thấy rằng ông Phi-la-tô nhận ra Đức Giê-su vô tội, nhưng vì chiều lòng dân chúng, ông đành giao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá. Mác-cô ghi chú rằng: “Ông thừa biết là chỉ vì ganh tỵ mà họ nộp Đức Giê-su” và ông hỏi đám đông có muốn ông phóng thích “vua Dân Do Thái” cho họ không. Khi họ la to đòi đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá, ông lại hỏi rằng “nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” (x. Mc 15,1-15). Tương tự, Mát-thêu lặp lại những thái độ tích cực của ông Phi-la-tô đối với Đức Giê-su và không có ý muốn xử tử Đức Giê-su. Tuy nhiên, Mát-thêu thêm vào hai chi tiết rất quan trọng. Thứ nhất, người vợ của ông Phi-la-tô đến can thiệp trong lúc ông đang ngồi xử án. Bà gọi Đức Giê-su là “người công chính” và khuyên chồng mình không nên nhúng tay vào vụ xử Đức Giê-su. Thứ hai, Ông đã “lấy nước rửa tay trước mặt đám đông và nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này” (x. Mt 27,11-25). Theo Luca, Phi-la-tô biện hộ nói rằng Đức Giê-su vô tội đến ba lần, + một: (i) “Ta xét thấy người này không có tội gì” (Lc 23,4); (ii) “Ta đã hỏi cung ngay trước mặt các người, mà không thấy người này có tội gì, như các người tố cáo (Lc 23,14); (iii) “Các người thấy đó, ông này chẳng có tội gì đáng chết cả” (Lc 23,15); (iv) Qua lời Phi-la-tô, độc giả cũng biết rằng cả vua Hê-rô-đê cũng không thấy Đức Giê-su có tội. Hơn nữa, Luca còn ghi chú rằng “Phi-la-tô muốn thả Đức Giê-su” (Lc 23,20); Ông cố gắng làm dịu dân chúng nên nói rằng “vậy, ta sẽ cho đánh đòn rồi thả hắn ra” (Lc Lc 23,22). Tương tự, ông Phi-la-tô của Gioan cũng có ít nhất ba lần biện hộ cho sự vô tội của Đức Giê-su: “Phần ta, ta không thấy lý do nào để kết tội ông ấy” (Ga 18,38); (ii) “Ta dẫn ông ấy ra cho các người, để các người biết rằng ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy” (Ga 19,4); (iii) “Các ngươi cứ đem ông ấy đi mà đóng đinh, phần ta, ta không tìm thấy lý do gì để kết tội ông ấy” (Ga 19,6). Gioan cũng ghi chú thêm là “từ đó ông Phi-la-tô tìm cách tha Người” (Ga 19,21). Trong đoạn Tin Mừng này, ông Phi-la-tô chất vấn Đức Giê-su về căn tính vương đế của Người và về lý do tại sao họ nộp Người cho ông.

2.     “Vua của Người Do Thái”: Trong ba câu hỏi quan Tổng Trấn đặt ra cho Đức Giê-su trong đoạn này, thì có đến hai câu hỏi liên quan đến căn tính “vương đế” của Đức Giê-su: “Ông có phải là vua của những người Do Thái không?” (18,33); “Vậy, ông là vua sao?” (18,37). Thật lạ lùng, câu hỏi mà ông Phi-la-tô hỏi Đức Giê-su lại là “ông là vua dân Do Thái sao?”. Một câu hỏi có vẻ ngạc nhiên và có thể có ngụ ý mỉa mai, chua xót. Lẽ ra, quan Tổng Trấn nên hỏi về bản cáo trạng về những tội Đức Giê-su đã phạm (nếu có) vì người Do Thái nộp Đức Giê-su cho quan, vì đinh ninh rằng Người đã và đang làm nhiều điều gian ác (18,30). Ông Phi-la-tô ngạc nhiên không hiểu tại sao họ lại trao nộp vua của họ. Ông có lẽ mỉa mai rằng làm vua kiểu gì mà bị dân ghét đến vậy. Chính vì thế, câu hỏi là “ông có thật là vua của người Do Thái không”? Mà nếu là vua thật thì sao ra nông nỗi này? Dữ liệu mà quan Tổng Trấn có về căn tính “vua của những người Do Thái” của Đức Giê-su, có lẽ đến từ sự kiện Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem, trong tiếng reo hò chào đón của dân chúng: “Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-el” (Ga 12,13). Dân chúng trong Tin Mừng Mác-cô còn hô vang: “Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời” (Mc 11,10). Còn Luca thì ghi lại cụ thể hơn: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa!” (Lc 19,38). Trong buổi truyền tin cho Đức Maria, sứ thần đã bật mí cùng Đức Maria về căn tính vương đế của Đức Giê-su: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng của vua Đa-vít tổ tiên Người; Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,32-33). Dân chúng trong Mát-thêu thì tung hô Đức Giê-su như là Con Vua Đa-vít (ngụ ý người thừa kế ngai vàng vua Đa-vít). Tuy nhiên, trong trình thuật về Giáng Sinh, Mát-thêu là tác giả duy nhất đã dùng danh xưng này, qua cửa miệng các nhà chiêm tinh: “Đức vua của những Người Do Thái mới sinh hiện ở đâu?” (Mt 2,2). Điều này ngụ ý rằng, ngay cả những người ngoại ở phương xa cũng đã nhìn thấy căn tính đế vương nơi Đức Giê-su. Đức Giê-su cũng không từ chối danh xưng này.[5] Khi Phi-la-tô hỏi Người, Người đã xác nhận: “Chính ngài nói tôi là vua” (Ga 18,37), qua việc Người nói về vương quốc của Người. Thật ra, kiểu trả lời của Đức Giê-su dường như vừa khẳng định, lại vừa từ chối rằng “Người là vua”. Khẳng định vì Người đã nói về vương quốc của Người; và từ chối vì Người không phải là vua theo cách nghĩ của ông Phi-la-tô. Điều đó chứng tỏ rằng khái niệm về căn tính “vua” của Đức Giê-su, khác với khái niệm ấy của ông Phi-la-tô và những người Do Thái. Cuối cùng, những người Do Thái (chống đối) phủ nhận hoàn toàn danh hiệu này của Đức Giê-su. Họ thà nhìn nhận hoàng đế Rô-ma hơn là nhìn nhận Đức Giê-su như là vua của họ: “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài hoàng đế Kaisar” (19,15). Còn quân lính thì chế giễu Người bằng cách mặc cho Người một áo choàng đỏ, rồi đội vương miện bằng vòng gai lên đầu Người và nói: “Tâu vua của những Người Do Thái”, rồi vả vào mặt Người (Ga 19,3). Trên thập giá Đức Giê-su có ghi một tấm bảng bằng ba thứ tiếng (Do Thái, Latinh, và Hy Lạp): “Giê-su Na-gia-rét, vua của những người Do Thái” (Ga 19,19-20). Đây cũng là bảng hiệu mang tính chế giễu chứ không phải một cách thức định danh, định tín. Đức Giê-su thật sự là vua Mê-si-ah theo lời hứa trong Sách Thánh Cựu Ước. Người xuất thân từ hoàng tộc Đa-vít; Sinh ra tại quê hương vua Đa-vít (Bết-le-hem); Được Phê-rô tuyên xưng là Đấng Ki-tô (Mê-si-ah); Được dân chúng rước vào thành như là đế vương; Chính Người cũng xác nhận điều ấy. Tuy nhiên, vương quyền[6] và vương quốc của Người không phải thuộc trần thế như ông Phi-la-tô và những người Do Thái lầm tưởng.

3.     “Người Do Thái”: Trong bốn tác giả sách Tin Mừng, Gioan là tác giả đề cập đến “những người Do Thái” nhiều nhất (Mt: 5 lần; Mc: 6 lần; Lc: 3 lần; Ga: 61 lần). Có ít nhất ba nhóm nghĩa cho danh từ “những người Do Thái” được dùng trong Tin Mừng thứ tư: (1) Bất cứ người Do Thái nào (2,6.13; 3,1.26; 4,9a.9b) (2) Những người Do Thái đối nghịch với Đức Giê-su, thậm chí muốn giết Đức Giê-su (2,18.20; 5,16.18; 7,1; 10,31.33); (3) Những người Do Thái tin vào Đức Giê-su (8,31; Ông Ni-cô-đê-mô [3,1-21;19,39]; Giu-se A-ri-ma-thê [19,38]; 12,11). Trong đoạn Tin Mừng này, danh xưng “những người Do Thái” xuất hiện ba lần. Hai lần đầu, danh từ này được dùng để diễn tả “những người Do Thái” nói chung, phân biệt với những người thuộc dân tộc khác: Ông Phi-la-tô nói: “Tôi không phải là người Do Thái, phải không nào?” (18,35); Ông Phi-la-tô hỏi: “Ông có phải là vua của những người Do Thái?” (18,33). Lần thứ ba, danh từ “những người Do Thái” có nghĩa là những người đang chống đối và muốn giết Đức Giê-su: “Nếu Vương Quốc của tôi từ thế giới này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho những người Do Thái” (18,36). Người Do Thái trong nghĩa thứ ba này có lẽ chủ yếu là nhóm lãnh đạo Do Thái (các Thượng Tế và những người Pha-ri-sêu [Ga 18,3]), những người âm mưu và sách động dân chúng lên án tử Đức Giê-su.

4.     “Dân của ông và các Thượng Tế”: Danh từ chung “người dân, dân tộc” đi kèm với tính từ sở hữu, ngôi thứ hai số ít (của ông) xác định dân này là của Đức Giê-su, hay thuộc về Đức Giê-su. Nếu hiểu rằng Đức Giê-su là vua, thì có thể hiểu những người này như là thần dân của Đức Giê-su. Cũng có thể hiểu một cách đơn giản danh từ “dân của ông” như là cách nói những người cùng chủng tộc và quốc gia với Đức Giê-su. Thượng tế là người đứng đầu Đền Thờ và cũng là người đứng đầu cơ quan hành pháp của chính phủ tỉnh Giu-đê-a, vào thời ấy (dĩ nhiên là sau Tổng Trấn Rô-ma). Thực tế, họ được các Tổng Trấn Rô-ma bổ nhiệm. Họ có quyền thẩm vấn và xét xử tội phạm như trong vụ án của Đức Giê-su, nhưng họ không có quyền kết án tử hình, nên họ cần đến ông Phi-la-tô công bố bản án tử. Sở dĩ, ông Phi-la-tô gọi là “các Thượng Tế” (số nhiều) có thể bao gồm cả Kha-nan, (đã rời nhiệm sở nhưng vẫn còn quyền lực), và Cai-pha (người đương nhiệm sở). Cả dân chúng lẫn các Thượng Tế cùng nộp Đức Giê-su, nghĩa là từ quan đến dân đều muốn Đức Giê-su bị quan Phi-la-tô xử tử.

5.     “Đã nộp”: Động từ trao nộp được dùng hai lần trong đoạn Tin Mừng này, một lần ở chủ động và một lần bị động. Lần thứ nhất, Phi-la-tô nói rằng “dân của ông và các Thượng Tế đã nộp ông cho tôi” (18,35). Lần thứ hai, Đức Giê-su nói rằng Người đã bị nộp cho những người Do Thái. Túc từ gián tiếp của động từ “trao nộp” khác nhau ở hai lần: (i) Nộp cho Phi-la-tô; (ii) Nộp cho những người Do Thái. Chủ ngữ của hành động “nộp” Đức Giê-su cho quan Phi-la-tô chính là những người Do Thái: “Nếu ông ấy không làm gì gian ác thì chúng tôi đã không nộp ông ấy cho quan” (Ga 18,30). Còn tác nhân của hành động “nộp” Đức Giê-su cho những người Do Thái có thể là Giu-đa Ít-ca-ri ốt, với sự giúp đỡ của quân lính của các Thượng Tế và những người Pha-ri-sêu (Ga 18,3). Tuy nhiên, tác nhân đó cũng rất có thể là chính Đức Giê-su. Chính Người đã tự trao nộp mình. Đó cũng là thánh ý của Chúa Cha. Thực tế, khi Đức Giê-su trả lời cho đám lính đến bắt Người: “Chính là Ta đây”, họ đã lùi lại và ngã xuống đất. Phê-rô cũng đã tuốt gươm ra và chém đứt tai bên phải của Man-khô, một đầy tớ của vị Thượng Tế. Đức Giê-su đáp trả rằng: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Cha đã trao, lẽ nào Thầy không uống?” (Ga 18,11). Nhắc đến nhân vật những “người Do Thái” trong hành động “bị trao nộp”, Đức Giê-su dường như muốn nhấn mạnh đến vai trò chính của những người Do Thái trong vụ án này hơn là của Tổng Trấn Phi-la-tô. Tin Mừng Nhất Lãm nói đến nhiều loại túc từ gián tiếp của động từ “trao nộp”: (i) “Bị nộp cho các Thượng Tế và Kinh Sư” (Mt 20,18; Mc 10,33) (ii) “Bị nộp vào tay người đời” (Nghĩa đen: Người ta, Mt 17,22; Mc 9,31; Lc 9,44); (iii) “Bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi” (Mt 26,45; Mc 14,41; Lc 24,7); (iv) Nộp cho Tổng Trấn Phi-la-tô (Mt 27,2; Mc 15,1); (v) “Nộp cho dân ngoại” (nghĩa đen: Các dân, Lc 18,32).

6.     “Ông đã làm gì?”: Câu hỏi này đi liền sau câu “dân của ông” và các “Thượng Tế” đã nộp ông cho tôi, tỏ lộ một thái độ vừa ngạc nhiên vừa chua xót. Phi-la-tô ngụ ý rằng, sao ra nông nỗi này vậy ông Giê-su? Ông đa làm gì đến nổi cả quan và dân của ông phải nộp ông cho một người ngoại như tôi? Tôi nghe nói ông là vua của họ. Họ đã tung hô ông lúc ông tiến vào thành Giê-ru-sa-lem. Chẳng phải thế sao?

7.     Vương quốc của tôi: Đức Giê-su không lại không trả lời trực tiếp cho câu hỏi của ông Phi-la-tô (Ông đã làm gì nên tội?). Đức Giê-su dường như tiếp tục lý giải câu hỏi trước (Có phải Ông là vua của những người Do Thái?). Người nói về vương quốc của Người.[7] Danh từ “vương quốc” (ἡ βασιλεία), cùng với tính từ sở hữu “của tôi” (ἡ ἐμὴ) được dùng ba lần trong câu trả lời của Đức Giê-su. Trong tiếng Hy Lạp danh xưng “vua” và “vương quốc” có cùng gốc từ: Vua (βασιλεὺς); Vương quốc (ἡ βασιλεία). Ngoài nghĩa là “nước”, “vương quốc”. Danh từ này còn có nghĩa là “vương triều”, “triều đại”. Đức Giê-su có thể ngụ ý cả hai nghĩa. Không giống như Tin Mừng Nhất Lãm (dùng nhiều lần danh xưng vương quốc), Tin Mừng thư tư chỉ dùng hai lần danh xưng này. Ngoài lần này, một lần khác trong bối cảnh đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô: Phải tái sinh bởi nước và Thần Khí mới có thể vào vương quốc (Ga 3,3-5). Vương quốc là nơi Chúa trị vì, một cộng đoàn yêu thương huynh đệ và những ai thuộc về Chúa, thuộc về sự thật, đáp trả lại tiếng của Đức Giê-su sẽ vào vương quốc.[8] Tin Mừng Nhất Lãm nói vương quốc Thiên Chúa trong lời công bố của Đức Giê-su, diễn tả những hoạt động năng động của Thiên Chúa tối cao vì ơn cứu độ nhân loại qua những hoạt động của Đức Giê-su.[9] Như đã nói trên căn tính “vua” của Đức Giê-su không giống với cách hiểu của Phi-la-tô cũng như những người Do Thái, kể cả các Tông Đồ. Tương tự, vương quốc của Người cũng vậy. Nó được phân biệt với vương quốc trần gian bằng cụm giới từ “không thuộc thế giới này”, cũng được lặp lại ba lần. Khởi đầu sứ vụ của mình, Đức Giê-su đã mời gọi: “Thời kỳ đã hoàn tất, Vương Quốc (triều đại) Thiên Chúa đã đến gần, anh chị em hay hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15) [πεπλήρωται ὁ καιρὸς καὶ ἤγγικεν ἡ βασιλεία τοῦ θεοῦ· μετανοεῖτε καὶ πιστεύετε ἐν τῷ εὐαγγελίῳ]. (Mát-thêu dùng danh xưng “Vương Quốc Thiên Giới”, thay vì Vương Quốc Thiên Chúa như Mác-cô [ἡ βασιλεία τῶν οὐρανῶν, Mt 4,17]). Vương quốc của Đức Giê-su, cũng là vương quốc của Thiên Chúa,[10] đã khởi sự nhưng chưa hoàn tất. Nó không thuộc chốn này, giống như vương quốc của thế quyền như người ta nghĩ.

Vương quốc của tôi không thuộc về thế giới này,

Nếu vương quốc của tôi thuộc về thế giới này,

thì những thuộc hạ của tôi đã chiến đấu

để tôi không bị trao nộp cho những người Do Thái,

Thật sự, vương quốc của tôi không thuộc về nơi này.

8.     “Được sinh ra và đã đến trong thế giới này”: Đức Giê-su muốn nói đến mầu nhiệm nhập thể, như cách mọi người vẫn biết về Người, khi Người nói rằng “tôi đã được sinh ra”. Tác giả Lagrange, từ chối bất cứ cách hiểu nào về động từ thứ nhất liên quan đến sự sinh ra của Đức Giê-su và cho rằng cả hai động từ đều chỉ diễn tả một chuyện mà thôi. Sự sinh ra của Đức Giê-su là đến trong thế gian này.[11] Tuy nhiên, tác giả Tin Mừng thứ tư đã diễn tả trong lời tựa rằng: “Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14a). Như thế, tác giả đã nói rõ mầu nhiệm nhập thể giống như các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm.  Người đã được sinh ra bởi Đức Maria; là dưỡng tử của thánh Giuse; Lớn lên tại làng Na-gia-rét. Tuy nhiên, khi Người nói “tôi đã đến trong thế giới này”, Người ngụ ý đến căn tính thần linh cùa mình. Người thuộc một thế giới khác chứ không phải thế giới này, Kinh Tin Kính tuyên xưng rằng Đức Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa. Người “được sinh ra mà không phải được tạo thành”.

9.     “Làm chứng cho sự thật”: Nhìn vào cấu trúc (D//D’) độc giả có thể nhận ra câu trả lời của Đức Giê-su dành cho câu hỏi của Phi-la-tô (ông đã làm gì nên tội?) là “làm chứng cho sự thật”. Đức Giê-su chẳng làm gì nên tội cả. Người chỉ giảng dạy sự thật lẽ ngay nhằm mang lại ơn cứu độ cho muôn người. Thuật ngữ “sự thật” (ἀλήθεια) là một trong những thuật ngữ mang đậm chất của Tin Mừng Gioan. Trong ba Tin Mừng Nhất Lãm, Mác-cô là tác giả dùng hạn từ này nhiều nhất với ba lần xuất hiện (Mc 5,33; 12,14.32); Luca dùng hai lần (4,25; 22,59) và Mát-thêu một lần (22,16). Tác giả Gioan dùng thuật ngữ này đến hai mươi ba lần. Đức Giê-su đã tự giới thiệu mình là “con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Người cũng nói đến Đấng Pa-rác-lê là Pnêuma sự thật (thường được hiểu là Chúa Thánh Thần) (Ga 15,26; 16,13; x. 14,17). Lời của Chúa Cha cũng là sự thật (Ga 17,17). Ngay từ Lời Tựa, tác giả Gioan đã giới thiệu Đức Giê-su như là “Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14) và “ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 14,17). Những dữ liệu này cho thấy cả Chúa Cha, Đức Giê-su và Chúa Thánh Linh đều là “sự thật”. Trong sứ vụ rao giảng của mình, Đức Giê-su luôn “nói sự thật mà Người đã nghe từ Thiên Chúa” (Ga 8,40; cf. 8,45-46). “Sự thật” mà Đức Giê-su nói sẽ mang lại cho người ta ơn giải thoát: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ của tôi, các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải thoát các ông” (Ga 8,31-32). Trong bối cảnh này, Đức Giê-su nói mục đích của việc được sinh ra và đến trong trần gian này là “để làm chứng cho sự thật”. Mệnh đề được bắt đầu bằng liên từ chỉ mục đích “để” (ἵνα). Qua lời của Đức Giê-su, độc giả cũng biết rằng ông Gioan (Tẩy Giả) cũng “làm chứng cho sự thật” (Ga 5,33). Đức Giê-su không nói về một sự thật trừu tượng hay là thậm chí trong cách chung chung, nhưng cách cụ thể trong tương quan với sự vụ của Người. Sứ vụ của Người là nói ơn cứu độ và con đường cứu độ của Thiên Chúa qua lời nói và hành động của Người.[12] Sự thật trọn vẹn chính là con người toàn thể của Đức Giê-su.

10.  “Thuộc về sự thật… nghe tiếng tôi”: Theo R. Brown, túc từ của động từ nghe được dùng ở thuộc cách (nghe của tiếng của tôi) diễn tả một sự lắng nghe với sự hiểu biết và đón nhận. Trong Ga 10,3 (cũng x. 10,16.27) độc giả cũng đã được biết rằng con chiên lắng nghe lời của người mục tử. Sự song song này là rất đặc biệt vì mô hình mục tử-chiên có bối cảnh trong bức tranh Cực Ước về vua, và ở đây Đức Giê-su trả lời về đặc tính vương đế của Người. Như thế, những người thuộc về sự thật là những con chiên được Chúa Cha trao ban cho Đức Giê-su, những người không lắng nghe Đức Giê-su không thuộc về Thiên Chúa (Ga 8,47).[13] Ai lắng nghe tiếng Con Thiên Chúa thì sẽ được sống (Ga 5,25). Câu nói của Đức Giê-su vừa làm cho Phi-la-tô phần nào nhẹ nhỏm, vì Người không hứng thú với quyền lực chính trị. Nhưng câu nói này cũng thách thức Phi-la-tô về sự thật. Ông ta có biết sự thật và có đứng về sự thật hay không? Thực tế, từ lúc này về sau Phi-la-tô đã cố đứng về phía sự thật, khi ông đã ít nhất 3 lần nói rõ Đức Giê-su vô tội (18,38b; 19,4b.6b) và ông đã tìm cách tha cho Đức Giê-su (18,39b; 19,12a). Tuy nhiên, cuối cùng ông cũng không theo đuổi sự thật đến cùng, vì đã chiều theo dân chúng mà trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh.

Bình luận chung

Các Thượng Tế và “những người Do Thái” (thù ghét) đã nộp Đức Giê-su cho quan Phi-la-tô vì theo họ, Đức Giê-su đã làm quá nhiều điều gian ác. Vì họ không thể kết án xử tử Đức Giê-su, nên họ phải mượn tay của quan Tổng Trấn Rô-ma. Điều này ngụ ý rằng một khi mang đến cho Tổng Trấn, họ đã có sẵn ý định giết chết Đức Giê-su. Cuối cùng họ đã đạt được mục đích: “Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá” (Ga 19,16a). Tuy nhiên, cuộc xử án của Phi-la-tô, đặc biệt là cuộc gặp riêng với Đức Giê-su (18,33-38) làm lộ ra nhiều điều quan trọng. Câu hỏi đầu tiên vị Tổng Trấn dành cho Đức Giê-su là: “Có phải ông là vua của người Do Thái không?” Đức Giê-su không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, nhưng quan tâm đến nguồn gốc của ý tưởng ấy của vị Tổng Trấn. Tuy nhiên, dù đó là suy nghĩ của riêng Tổng Trấn hay là ông đã nghe từ người khác, thì ông vẫn không hiểu danh hiệu “vua” nơi Đức Giê-su một cách đúng đắn. Cuộc thẩm vấn tiếp tục với câu thẩm vấn thứ hai: “Ông đã làm gì?” Vị Tổng Trấn tạm thời bỏ qua câu hỏi về địa vị “vua” của Đức Giê-su. Ông quan tâm đến “những điều gian ác” mà Đức Giê-su đã làm theo như các Thượng Tế và những “người Do Thái” đã tố cáo (18,30). Cùng với việc nhấn mạnh “các Thượng Tế và dân ông đã nộp ông cho tôi”, câu hỏi “ông đã làm gì?” biểu lộ một sự chua xót, lẫn mỉa mai, bởi lẽ một người được xem là “vua” nhưng đã làm gì xấu đến mức cả lãnh đạo và dân, từ trên xuống dưới đều muốn Người bị xử tử. Đức Giê-su lại không trả lời trực tiếp câu hỏi của vị Tổng Trấn. Người nói đến việc Người đã bị “nộp cho người Do Thái”, qua đó Người giới thiệu về vương quốc (triều đại của Người). Thực chất, không ai có thể nộp Người cho “những người Do Thái” để rồi, họ nộp Người cho quan Phi-la-tô. Chính Người đã tự ý trao nộp chính mình. Không ai có thể đụng đến Người, nếu như Người không chịu trao nộp. Sự kiện đám quân lính ngã rạp xuống đất sau khi Người nói: “Chính là Ta đây” (18,6) đã minh chứng rõ ràng quyền năng tự giải thoát của Người. Theo giải thích của Đức Giê-su, độc giả hiểu rằng không phải Người không có quyền năng, hay không muốn sử dụng quyền năng nhưng “vì vương quốc của Người không thuộc về thế giới này”. Người đã dùng cả sứ vụ công khai để rao giảng về “Nước Thiên Chúa” (Nước Trời). Nước Trời đã khởi sự trong những lời giảng và hành động của Người, nhưng rõ ràng nó không phải là vương quốc chính trị như Phi-la-tô và những người Do Thái nghĩ. Sự mạc khải của Đức Giê-su về “vương quốc” của Người làm cho quan Phi-la-tô quay trở lại câu hỏi lúc ban đầu: “Vậy, ông là vua sao?”. Câu trả lời của Đức Giê-su vừa xác nhận vừa từ chối: “Chính ông nói rằng tôi là vua”. Xác nhận bởi vì Người đúng là vị vua Mê-si-ah mà dân Do Thái hằng mong đợi. Từ chối bởi vì ông Phi-la-tô nói đến một vị vua theo nghĩa chính trị. Người không phải là vị vua của một quốc gia theo nghĩa chính trị, đảng phái. Người là vị vua của vương quốc tình yêu và sự thật. Vương quốc của Người sẽ bao phủ cả trên trời dưới đất, chứ không hạn chế trong một vùng lãnh thổ, hay dân tộc nào. Ông Phi-la-tô có thể không hiểu được vương quốc, hay vương quyền mà Đức Giê-su muốn nói đến. Ông chỉ hiểu rằng Đức Giê-su không đe dọa đến quyền lực chính trị của ông và đế quốc Rô-ma. Cuối cùng Đức Giê-su đã trả lời cho câu hỏi thứ hai của quan Tổng Trấn (Ông đã làm gì nên tội?). Câu trả lời là “Tôi chẳng làm gì nên tội cả, tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật”. Ông Phi-la-tô chắc cũng chẳng hiểu sự thật mà Đức Giê-su muốn nói là gì và ông đã hỏi bâng quơ “sự thật là gì?” và quay bước ra ngoài với dân chúng. Ngạc nhiên thay, không cần Đức Giê-su trả lời, ông cũng đã nói sự thật là Đức Giê-su hoàn toàn vô tội (18,38b; 19,4b.6b) và đã tìm cách tha Người (19,12). Có thể nói rằng cách nào đó, quan Phi-la-tô đã thuộc về sự thật và nghe tiếng nói sự thật của Đức Giê-su. Tiếc thay, ông đã không đi đến cùng con đường sự thật dưới áp lực ghê gớm của dân chúng.

Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, các tín hữu được mời gọi liên lỉ nhìn lại hành trình làm người của mình. Lễ các Thánh vào đầu tháng Mười Một cho họ thấy viễn ảnh hạnh phúc vinh quang với Chúa và với các thánh mà họ phải hướng về. Tiếp theo sau Lễ các thánh, Lễ cầu cho các linh hồn giúp họ hướng về những người thân, bạn hữu, và những đồng đạo đang chịu nhiều đau khổ, thanh luyện trong nơi luyện hình để rồi hy sinh cầu nguyện, để Chúa thương tha thứ mọi lỗi lầm cho các linh hồn lầm lỗi đang mong ước ngày gia nhập cộng đoàn các thánh. Qua đó, những thành viên trong Giáo Hội lữ hành nhận biết đích đến của mình: Hoặc là nơi luyện tội tạm thời, hoặc là nơi Thiên Đàng vĩnh cửu. Còn một nơi nữa mà không ai muốn nhắc đến. Đó là hỏa ngục muôn kiếp. Những ngày cuối cùng của năm phụng vụ là những ngày lý tưởng để người ta suy xét cho kỹ về mục đích của đời người và những điều mình đã làm để đạt được mục đích ấy. Có điều gì còn trục trặc, thiếu xót cần chỉnh sửa và bổ sung cho hành trình làm người của mình? Lời mời gọi “ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi” của vị Vua của sự thật giúp cho các tín hữu bừng tỉnh nếu như họ đang mải mê với những giấc mơ tiền, quyền, danh, lợi, thú của thế gian này. Họ được mời gọi trở về với triết lý làm người của Đức Ki-tô. Chân lý mà Người muốn mạc khải là chân lý tình yêu và sự tha thứ. Chân lý ấy hướng dẫn nguyên tắc hành xử của một vị Vua luôn cúi xuống thấp nhất có thể để phục vụ những người yếu hơn, thấp hơn, thay vì đè đầu cưỡi cổ thần dân của mình. Chân lý của Người là chân lý “thượng đạp hạ đội” khác hẳn với lối sống “thượng đội hạ đạp” của thế nhân: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, thấp bé” (Lc 1,52). Các tín hữu được mời gọi lắng nghe tiếng nói của vị Vua sự thật trong mọi suy nghĩ, phát ngôn và hành động của mình và đáp trả cách tích cực trong từng phút giây của đời mình. 

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD

 

 

 

 

 

 

 



[1] R.E. Brown, The Gospel according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) 29A, 859.

[2] Kha-nan (Annas) làm Thượng Tế các năm 6-15 C.E. Theo lịch sử vào lúc xét xử vụ án Đức Giê-su ông đã rời nhiệm sở. Nhưng có lẽ sự ảnh hưởng của ông còn quá lớn đến nỗi khi bắt được Đức Giê-su họ đã dẫn Người đến ông Kha-nan để chịu thẩm vấn. Ông được nhắc đến như là Thượng Tế bốn lần trong toàn bộ Tân Ước (Lc 3,2; Ga 18,13.24; Cv 4,6). Luca nhắc đến cả hai người đều làm Thượng Tế: “Kha-nan và Cai-pha làm Thượng Tế”. Gioan cũng có vẻ đồng ý như vậy khi ông cũng gọi cả Kha-nan và Cai-pha là Thượng Tế ở hai dinh khác nhau. Con rể của Kha-nan là Cai-pha và cháu của Kha-nan, Matthias đều làm Thượng Tế. [x. P.D.G, “Annas”, The New International Engcyclopedia of Bible Characters. The Complete Who’s Who in Bible (ed. P. Gardner) (Grand Rapids 2001)].

[4] F.O. Garcia-Treto, “Pilate”, The HarperCollins Bible Dictionary (ed. P.J. Achtemeier) (New York 1996) 855-856.

[5] “Jesus will not categorically refuse to be known as a king, but he indicates that he prefers to describe his role in terms of testifying to the truth. John has not portrayed Jesus as a preacher of the kingdom but as the unique revealer who alone can speak and show the truth about God” (R.E. Brown, The Gospel according to John (XIII-XXI), 853-854).

[6]Jesus does not deny that he is a king, but it is not a title that he would spontaneously choose to describe his role” (R.E. Brown, The Gospel according to John (XIII-XXI), 853-854).

[7] “if Jesus talks about his “kingdom” he really means his sovereign rule, his kingly activity, i.e., his action in his capacity as the king who brings salvation”[7] [G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 330.].

[8] F.J. Moloney, “John”, The Paulist Biblical Commentary (ed. R.J. Clifford et al.) (New York 2018) 1170.

[9] G.R. Beasley-Murray, John, 330.

[12] G.R. Beasley-Murray, John, 331-332.

[13] Ibid.