Thursday 29 July 2021

TỪ BÁNH MÌ HƯ NÁT ĐẾN BÁNH TRƯỜNG SINH. Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật XVIII TN B

 Bản Văn 6,24-35

Hy Lạp

Việt

24 ὅτε οὖν εἶδεν ὁ ὄχλος ὅτι Ἰησοῦς οὐκ ἔστιν ἐκεῖ οὐδὲ οἱ μαθηταὶ αὐτοῦ, ἐνέβησαν αὐτοὶ εἰς τὰ πλοιάρια καὶ ἦλθον εἰς Καφαρναοὺμ ζητοῦντες τὸν Ἰησοῦν.

 25 καὶ εὑρόντες αὐτὸν πέραν τῆς θαλάσσης εἶπον αὐτῷ· ῥαββί, πότε ὧδε γέγονας;

 26 Ἀπεκρίθη αὐτοῖς ὁ Ἰησοῦς καὶ εἶπεν· ἀμὴν ἀμὴν λέγω ὑμῖν, ζητεῖτέ με οὐχ ὅτι εἴδετε σημεῖα, ἀλλ᾽ ὅτι ἐφάγετε ἐκ τῶν ἄρτων καὶ ἐχορτάσθητε.

 27 ἐργάζεσθε μὴ τὴν βρῶσιν τὴν ἀπολλυμένην ἀλλὰ τὴν βρῶσιν τὴν μένουσαν εἰς ζωὴν αἰώνιον, ἣν ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου ὑμῖν δώσει· τοῦτον γὰρ ὁ πατὴρ ἐσφράγισεν ὁ θεός.

 28 εἶπον οὖν πρὸς αὐτόν· τί ποιῶμεν ἵνα ἐργαζώμεθα τὰ ἔργα τοῦ θεοῦ;

 29 ἀπεκρίθη [ὁ] Ἰησοῦς καὶ εἶπεν αὐτοῖς· τοῦτό ἐστιν τὸ ἔργον τοῦ θεοῦ, ἵνα πιστεύητε εἰς ὃν ἀπέστειλεν ἐκεῖνος.

 30 Εἶπον οὖν αὐτῷ· τί οὖν ποιεῖς σὺ σημεῖον, ἵνα ἴδωμεν καὶ πιστεύσωμέν σοι; τί ἐργάζῃ;

 31 οἱ πατέρες ἡμῶν τὸ μάννα ἔφαγον ἐν τῇ ἐρήμῳ, καθώς ἐστιν γεγραμμένον· ἄρτον ἐκ τοῦ οὐρανοῦ ἔδωκεν αὐτοῖς φαγεῖν.

 32 εἶπεν οὖν αὐτοῖς ὁ Ἰησοῦς· ἀμὴν ἀμὴν λέγω ὑμῖν, οὐ Μωϋσῆς δέδωκεν ὑμῖν τὸν ἄρτον ἐκ τοῦ οὐρανοῦ, ἀλλ᾽ ὁ πατήρ μου δίδωσιν ὑμῖν τὸν ἄρτον ἐκ τοῦ οὐρανοῦ τὸν ἀληθινόν·

 33 ὁ γὰρ ἄρτος τοῦ θεοῦ ἐστιν ὁ καταβαίνων ἐκ τοῦ οὐρανοῦ καὶ ζωὴν διδοὺς τῷ κόσμῳ.

 34 εἶπον οὖν πρὸς αὐτόν· κύριε, πάντοτε δὸς ἡμῖν τὸν ἄρτον τοῦτον.

 35 εἶπεν αὐτοῖς ὁ Ἰησοῦς· ἐγώ εἰμι ὁ ἄρτος τῆς ζωῆς· ὁ ἐρχόμενος πρὸς ἐμὲ οὐ μὴ πεινάσῃ, καὶ ὁ πιστεύων εἰς ἐμὲ οὐ μὴ διψήσει πώποτε. (Jn. 6:24-35 BGT)

24 Khi đám đông thấy rằng Đức Giê-su không ở đó các môn đệ của Người cũng không, họ lên thuyền và đi vào Ca-phác-nao-um tìm Đức Giê-su

25 Khi tìm thấy Người bên kia Biển Hồ, họ nói cùng Người: “Thưa Thầy, Thầy đã ở đây khi nào vậy?

26 Đức Giê-su trả lời với họ và nói rằng: “Amen, Amen, tôi bảo anh chị em, anh chị em tìm tôi không phải bởi vì anh chị em đã thấy những dấu [lạ], nhưng bởi vì anh chị em đã ăn bánh được no thỏa.

27 Hãy làm việc không phải vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực duy trì sự sống đời đời, bánh mà Con Người sẽ ban cho anh chị em, vì Chúa Cha đã ấn định điều đó.

28 họ nói   cùng Người: “chúng tôi phải làm gì để mà có thể làm công việc của Thiên Chúa?

29 Đức Giê-su trả lời và nói cùng họ: “đây là công việc của Thiên Chúa, rằng anh chị em có thể tin vào Đấng mà Người đã sai đến”

30 rồi họ nói cùng Người: “Vậy thì Ngài làm dấu [lạ] nào để chúng tôi có thể thấy và tin vài Ngài? Ngài làm việc gì?

31 Tổ tiên chúng tôi đã ăn Manna trong sa mạc, như đã được chép rằng: “Ông ấy đã cho họ ăn bánh từ trời

32 Đức Giê-su nói cùng họ: “Amen, Amen, tôi bảo anh chị em, không phải ông Mô-sê đã ban cho anh chị em bánh từ trời, nhưng Cha của tôi ban tặng anh chị em bánh từ trời, bánh đích thực.

33 vì bánh của Thiên Chúa là Đấng xuống từ trờilà Đấng ban sự sống cho thế gian.

34 họ mới nói cùng Người: “thưa Ngài! Xin luôn luôn ban cho chúng tôi bánh ấy

35 Đức Giê-su nói cùng họ: “chính tôi là bánh của sự sống, ai đến cùng tôi không thể nào đói; ai tin vào tôi sẽ không khát bao giờ

Bối cảnh bản văn

Đoạn văn Ga 6,24-35 là đoạn đầu tiên trong diễn từ “Bánh Hằng Sống” ở hội đường Ca-phác-nao-um (Ga 6,22-66). Trong bối cảnh trực tiếp, đoạn văn này nằm ngay sau đoạn văn kể về phép lạ Đức Giê-su đi trên mặt nước và dẫn con thuyền đang gặp sóng gió của các môn đệ đến bến bình an. Hình ảnh này gợi nhớ đến việc “đám đông lớn” đã tuyên xưng: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (Ga 6,14), sau khi chứng kiến phép lạ “Hóa Bánh Ra Nhiều” (Ga 6,1-15). Ý tưởng về “vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” lại gợi nhớ đến hình ảnh vị ngôn sứ như ông Mô-sê được nói đến trong sách Đệ Nhị Luật: “Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi [Mô-sê] để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy” (Đnl 18,18). Ngôn sứ Mô-sê đã dẫn dân Ít-ra-el vượt qua Biển Sậy, cũng như Đức Giê-su đã dẫn các môn đệ, đại diện cho dân mới vượt qua Biển Hồ. Sau khi vượt qua “Biển Sậy”, ông Mô-sê đã cầu xin cho dân ăn Manna[1] từ trời thoải mái. Đức Giê-su cũng đã cho “đám đông lớn” ăn bánh mì thoải mái. Tuy nhiên, Đức Giê-su không chỉ là Mô-sê mới. Người hơn hẳn ông Mô-sê, bởi Người có khả năng ban bánh sự sống từ trời. Người cũng chính là bánh trường sinh, bánh đích thực. Diễn từ về “Bánh trường sinh” rõ ràng nối kết chặt chẽ với phép lạ “hóa bánh ra nhiều” trước đó (Ga 6,1-15). Trong bối cảnh rộng hơn, chủ đề ăn Manna và ngôn sứ Mô-sê nối kết với khoảng thời gian bốn mươi năm dân Ít-ra-el đi trong sa mạc cho đến khi vào đất hứa. Chủ đề “sự sống đời đời” là một trong những chủ đề rất quan trọng trong thần học Gioan. Ông là tác giả Tin Mừng nói nhiều nhất về chủ đề này.[2] Niềm tin là hiệu quả tốt nhất cho niềm tin vào Đức Giê-su: “Ai tin vào người Con thì có được sự sống đời đời” (Ga 3,36; Cf. Ga 5,24; 6,47).

Cấu trúc bản văn

Bản văn này có thể được cấu trúc theo kiểu đối thoại giữa hai nhân vật: Đức Giê-su và đám đông. Tuy nhiên, để nhìn thấy dễ dàng hơn nội dung của cuộc đối thoại, nó nên được cấu trúc theo kiểu “bậc cấp của một cầu thang bộ”, trong đó, “bậc cấp” sau được xây dựa trên “bậc cấp” trước nó. Nhờ đó, cuộc đối thoại xem ra rắc rối này được tổ chức một cách hợp logic, mạch lạc, từ trên xuống dưới. Khởi đầu từ việc đám đông đi tìm kiếm Đức Giê-su, vì đã được ăn bánh mì no nê (A). Đức Giê-su cho họ thấy rằng: đó là của ăn hư nát (B) và Người giới thiệu cho họ một “công việc” mang lại của ăn duy trì sự sống vĩnh cửu (C). Đám đông bắt đầu hứng thú về công việc đó (D). “Công việc” đó là: “Tin vào Đấng Chúa Cha sai đến” (E). Muốn người ta tin vào Người thì Người phải làm dấu lạ nào đó, tỷ như dấu lạ Manna trong Cựu Ước vậy (F). Người giới thiệu cho họ bánh từ trời, bánh đích thực mà Chúa Cha ban tặng (G). Bánh ấy chính là “Đấng đi xuống từ trời và ban tặng sự sống cho thế gian” (H). Lời quảng cáo của Đức Giê-su đã làm cho đám đông phấn khích. Họ muốn Người ban cho họ “bánh ấy” (I). Cuối cùng, Đức Giê-su bật mí: “Người chính là bánh ban sự sống, bất kỳ ai đến với Người sẽ không đói và bất kỳ ai tìn vào Người chẳng khát ba giờ” (J).

(A) Đám đông tìm Đức Giê-su vì ăn bánh mì no nê (6,24-26)

(B) Bánh mì là của ăn hư nát (6,27a)

(C) Hãy làm việc vì của ăn duy trì sự sống đời đời (6,27b)

(D) Công việc của Thiên Chúa là gì? (6,28)

(E) Công việc đó là “tin vào Đấng Chúa Cha sai đến” (6,29)

(F) Dựa vào dấu lạ nào để tin? dấu lạ Manna chẳng hạn (6,30-31)

(G) Chúa Cha đang ban bánh từ trời, bánh đích thực (6,32)

(H) Đấng đi xuống từ trời và ban sự sống cho thế gian (6,33)

(I) Vậy thì, hãy ban cho chúng tôi bánh ấy hoài đi (6,34)

(J) Tôi chính là bánh ban sự sống

“Ai đến với tôi, không thể đói

Ai tin vào tôi chẳng bao giờ khát” (6,35)

Một số điểm chú giải

1.     Đám đông”: Đám đông này căn bản là “đám đông lớn” đã đi theo Đức Giê-su, vì đã chứng kiến nhiều dấu lạ Đức Giê-su làm trên những người đau ốm. Và rồi họ được chứng kiến dấu lạ “hóa bánh ra nhiều”, đã ăn bánh no nê, đã tuyên xưng Đức Giê-su là “vị ngôn sứ Đấng phải đến thế gian”, cuối cùng họ muốn bắt Đức Giê-su mà tôn lên làm vua. Đức Giê-su đã lánh mặt họ và đi lên núi một mình. Còn các môn đệ cũng lên thuyền rời khỏi đám đông vào đêm hôm ấy. Đám đông này có thể đông hơn nữa vì “có những chiếc thuyền từ Ti-bê-ri-a đến” và đám đông này đã nhập thuyền với họ (Ga 6,23). Tuy nhiên, thật là khó để tưởng tượng rằng, có một lượng thuyền đủ để chở đám đông hơn 5000 người đến Ca-phác-nao-um. Chính vì vậy E. Haenchen – R. Funk – U. Busse cho rằng người thuật chuyện có lẽ không còn trong đầu đám đông lớn như thế. Họ nghĩ rằng đám đông chừng 100 người.[3]

2.      Tìm Đức Giê-su”: Sau khi bị Đức Giê-su bỏ rơi, vì ý định “tôn Người lên làm vua”, đám đông vẫn tiếp tục “đi tìm” Người. Họ biết các môn đệ đi về hướng Ca-phác-nao-um nên họ lên thuyền đi về nơi ấy để tìm Người. Quả thực, họ đã tìm gặp Người ở đó (Ga 6,25). Danh xưng của họ dành cho Đức Giê-su cũng khá lạ lùng. Lần đầu tiên họ gọi Đức Giê-su là “Rabbi” (nghĩa là Thầy).[4] Trong các tác giả sách Tin Mừng, Gioan là tác giả dùng nhiều nhất danh xưng này (Ga: 8 lần; Mc: 3 lần, Mt: 4 lần; Lc: 0). Một lần nó được dùng cho Gioan Tẩy Giả (Ga 3,26), còn tất cả đều để gọi Đức Giê-su. Hầu hết những người dùng danh xưng này đều là các môn đệ của Đức Giê-su (Ga 1,38.49; 4,31; 9,2; 11,8). Ông Ni-cô-đê-mô cũng gọi Đức Giê-su là Rabbi, vì ông cũng là một mộn đệ của Đức Giê-su trong thầm kín. Đám đông này được diễn tả bằng động từ “đi theo” Đức Giê-su (Ga 6,2), và họ gọi Đức Giê-su là Rabbi. Hai động thái này cho thấy dường như họ cũng là những môn đệ của Đức Giê-su theo nghĩa rộng. Danh xưng Rabbi (thầy dạy) được dùng trong bối cảnh này cũng rất ý nghĩa, bởi bì ngay sau đó Đức Giê-su sẽ dạy cho đám đông về lương thực duy trì sự sống đời đời, và Chúa Cha là người ban tặng nó. Câu hỏi: “Thầy ở đã ở đây khi nào vậy?” cho thấy họ quan tâm từng giây phút Người hiện diện ở một nơi nào đó. Có thể, là họ muốn biết rằng họ đã tìm gặp Người trong khoảng thời gian ngắn nhất hay chưa, hay là họ đã bỏ lỡ thời gian dài để tìm Người. Quan tâm đến khoảng thời gian Đức Giê-su đã ở đó là quan tâm đến từng phút giây trong cuộc đời Đức Giê-su.

3.     Amen, Amen”:  Trạng từ “amen” nhân đôi, cùng với động từ “bảo”, được sử dụng hai lần trong đoạn Tin Mừng này. Cách dùng này là đặc trưng của Tin Mừng thứ tư.  Các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm (Mát-thêu, Mác-cô và Luca) cũng dùng nhiều lần cách nói này, nhưng họ không nhân đôi trạng từ “amen”.  Cách dùng này thường là để nói điều gì đó một cách trịnh trọng hoặc muốn nhấn mạnh một vấn đề. “Amen” nguyên ngữ tiếng Do Thái (אָמֵֽן) có nghĩa là thật, vững chắc, đáng tin cậy. Trong Phụng Vụ, “amen” thường được dùng để xác nhận và đồng ý cách mạch mẽ vào cuối một lời vinh tụng ca với ý nghĩa là: “Đúng là như vậy” (Rm 11,36); hoặc là cuối một lời cầu nguyện tạ ơn với nghĩa là “thật là chính đáng” (1 Cr 14,16).[5] Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giê-su dùng để khẳng định thực tế là đám đông tìm Đức Giê-su không phải là vì họ đã thấy dấu lạ, nhưng vì họ đã được ăn bánh no nê. Lần thứ hai, Đức Giê-su muốn nhấn mạnh rằng không phải ông Mô-sê đã ban cho họ bánh từ trời, nhưng chính Cha của Đức Giê-su ban cho họ bánh đích thực bởi trời.

4.      Thấy những dấu [lạ] … Ngài làm dấu lạ nào?”: Đức Giê-su công bố một cách trịnh trọng rằng đám đông đi tìm Người không phải vì đã thấy dấu lạ. Khẳng định này có vẻ lạ lùng, bởi tác giả đã cho biết rằng đám đông này đi theo Đức Giê-su, vì họ đã “chứng kiến nhiều dấu lạ Đức Giê-su làm trên các người bệnh” (Ga 6,2). Sau khi chứng kiến phép lạ Đức Giê-su làm, họ cũng đã tuyên xưng Người là “vị ngôn sứ Đấng phải đến thế gian” (6,14). Có lẽ, họ đã thấy dấu lạ, nhưng đã hiểu sai về vai trò của Đức Giê-su. Họ đang trông đợi Người làm vua của họ, để giải quyết những khó khăn về lương thực cũng như vấn đề vật chất, cùng với đời sống kinh tế chính trị đang bế tắc.[6] Việc họ hỏi Đức Giê-su rằng: “Ngài làm được dấu lạ nào để chúng tôi thấy mà tin Ngài?” càng lạ lùng hơn. Dấu lạ họ đã chứng kiến không phải là dấu lạ đáng tin hay sao? Hay đám đông này là một đám đông khác, chưa từng thấy dấu lạ? Mạch văn cho thấy, đây chính là nhóm đã ăn bánh và được no nê. Vậy thì, có thể, dấu lạ mà họ muốn nói là dấu lạ như kiểu như ông Mô-sê đã cho cha ông họ ăn bánh từ trời. Đức Giê-su đã cho họ ăn bánh mì no nê từ 5 chiếc bánh và 2 con cá, sao vẫn còn chưa giống với Mô-sê? Có lẽ điều họ muốn những thứ bánh thật sự từ trời, như Manna vậy và với số lần ăn kéo dài chứ không phải chỉ một lần.[7] Đó là lý do mà họ đi tìm Đức Giê-su và bị Đức Giê-su nắm thóp và nhắc nhở. Đám đông cố gắng ép Đức Giê-su vào mẫu thức Mô-sê của họ: Mô-sê ban Manna và Luật mang lại sự sống thể xác tinh thần cho Ít-ra-el.[8] Đức Giê-su vừa là bánh được ban, vừa là người ban bánh và Lề Luật.

5.                 5.     Lương thực hư nát”: Dĩ nhiên, Đức Giê-su có thể làm dấu lạ hóa bánh nhiều lần. Thật vậy, Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại ít nhất 2 lần Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Lần thứ nhất từ năm chiếc bánh và hai con cá, Đức Giê-su đã cho hơn 5000 người ăn và còn dư 12 giỏ bánh vụn (Mc 6,34-44; Mt 14,13-21; Lc 9,10-17). Lần thứ hai Người đã cho khoảng bốn ngàn người ăn no từ bảy chiếc bánh và còn dư bảy giỏ bánh vụn (Mc 8,1-10; Mt 15,32-39). Tuy nhiên, Đức Giê-su không làm hoài những phép lạ như thế. Người không phải là giải pháp cho vấn đề cơm bánh của họ. Người không muốn họ nghĩ đến Người như là vị thần giải quyết nạn đói. Dĩ nhiên, Người không muốn họ chết đói, chết khát. Vấn đề là Người muốn họ hiểu rằng đó là thứ “bánh hư nát”. Động tính từ “hư nát” ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa: (1) Chất bánh mau hư nát; (2) Người ăn bánh ấy dù no trong chốc lát nhưng đến lúc người ấy cũng chết đi. Người không muốn họ bận tâm cả đời cho thứ bánh ấy và đến với Người cũng vì thứ bánh ấy.

6.     Lương thực duy trì sự sống đời đời”: Sau khi đã cảnh giác họ về “bánh hư nát”, Đức Giê-su bắt đầu giới thiệu cho họ về một thứ lương thực khác, lương thực có khả năng kéo dài sự sống đến đời đời. Phận người “sinh, bệnh, lão, tử” là chuyện bình thường. Cái chết luôn là nỗi bất hạnh lớn nhất và đáng sợ nhất của kiếp người. Chính vì thế, giấc mơ “trường sinh bất lão”, “cải lão hoàn đồng”, luôn là giấc mơ của biết bao nhiêu vua chúa, tỷ phú từ cổ chí kim. Tuy nhiên, chưa có ai thoát khỏi được nỗi ám ảnh của cái chết. Đức Giê-su cũng đã dạy rằng “hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm dù chỉ là một gang tay” (Mt 6,27; Lc 12,25). Các Thánh Vịnh Gia của thời Cựu Ước cũng đã cảm nhận sâu sắc về sự ngắn ngủi của phận người: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục; mạnh giỏi chăng là được tám mươi; mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ; cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi” (Tv 90,10) hay là “kiếp phù sinh tháng ngày vắn vỏi; tươi thắm như cỏ nội hoa đồng; một cơn gió thoảng là xong; chốn xưa mình ở cũng không biết mình” (Tv 103 15-16). Chính vì thế, Chúa Giê-su đến mang lại cho người ta niềm hy vọng về “sự sống đời đời”. Đó là một chủ đề rất quan trọng trong giáo huấn của Người. Văn Chương Do Thái thế kỷ thứ hai C.E (kỷ nguyên chung, trước Chúa Ki-tô), đã bắt đầu suy tư về sự sống đời đời. Sách Ma-ca-bê quyển thứ hai đã ghi lại lời của những chứng nhân tử đạo: “Chúng tôi chết vì luật pháp của Vua Vũ Trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2 Mcb 7,9; Cf. 7,36). Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại câu chuyện người thanh niên giàu có hỏi Đức Giê-su về bí kíp để có được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Đức Giê-su cho biết bí kíp là “giữ các điều răn” và “bán của cải, cho người nghèo, rồi đến theo Đức Giê-su” (Mc 10,23-27; Cf. 19,23-26; Lc 18,24-27). Gioan là tác giả ghi lại nhiều nhất những giáo huấn của Đức Giê-su liên quan đến “sự sống đời đời”: “Ai tin vào Người Con thì có được sự sống đời đời” (Ga 3,36); “Ai nghe tôi và tin vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời” (Ga 5,24; Cf. 6,47). Vào cuối diễn từ “Bánh Hằng Sống”, Phê-rô sẽ lên tiếng khẳng định rằng: “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).

7.     Bánh hằng sống mà Con Người sẽ ban … Bánh từ trời mà Chúa Cha ban”: Ở đây, Đức Giê-su khẳng định chính Người là chủ thể ban bánh hằng sống (6,27). Sau đó, Đức Giê-su lại nói là “Cha” của Người ban tặng “bánh từ trời” (Ga 6,33). Hai lời nói này thoạt tiên xem ra nghịch lý với nhau, nhưng thực tế lại bổ sung cho nhau. Đức Giê-su chính là “Bánh ban sự sống” (Ga 6,34) và Người ban chính thân mình cho nhân loại. Có thể nói rằng Đức Giê-su vừa là bánh, vừa là chủ thể ban bánh hằng sống. Chúa Cha ban bánh từ trời, là Đức Giê-su, Con của Người để cho thế gian được sống. Vì thế, Chúa Cha cũng là chủ thể trao ban bánh hằng sống. Bánh Chúa Cha ban, hay bánh Con Người ban cũng chỉ là một mà thôi. Bánh hằng sống và bánh từ trời cũng chỉ là một bánh.

8.     “Tin vào Đấng mà Người đã sai đến”: Như đã đề cập ở trên “tin” là yếu tố quan trọng bậc nhất, có tính quyết định vận mệnh của một con người. Nếu như Tin Mừng Nhất Lãm thường cho thấy sự quyết định của yếu tố niềm tin trong việc chữa lành bệnh tật thì Gioan lại cho thấy tính tiên quyết của niềm tin đối với sự sống đời đời của con người. Tin có thể mang lại cho người ta sự sống đời đời (Ga 3,36; 5,24). Thật vậy, trong Tin Mừng Nhất Lãm, độc giả thường nghe Đức Giê-su tuyên bố rằng: “Đức Tin của con đã cứu chữa con” (Mt 9,22; Mc 5,34; 10,52; Lc 8,48). Hay là: “Ông tin thế nào thì được như vậy” (Mt 8,10.13; 9,29; 15,28; Mc 5,36; Lc 7,50; 8,50). Tin Mừng thứ tư đã khởi đầu bằng xác tín “những ai tin vào danh Người [Ngôi Lời], thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12) và kết thúc bằng việc cho thấy mục đích của toàn bộ Tin Mừng là “để anh chị em tin Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa và để nhờ tin mà có sự sống nhờ danh Người. Trong suốt Tin Mừng, có rất nhiều lần Đức Giê-su giải thích về tầm quan trọng của niềm tin đối với sự sống con người. Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giê-su cũng nối kết “niềm tin” với “sự sống đời đời”: Làm việc để có bánh duy trì sự sống đời đời (6,27) – Công việc đó là “tin vào Đấng Chúa Cha đã sai đến” (6,29). Đấng ấy chính là Đức Giê-su: “Ai tin vào tôi [Đức Giê-su” chẳng khát bao giờ.

9.     Ông ấy đã cho họ ăn bánh từ trời”: Đây là câu được trích trong Thánh Vịnh 78: “Người mưa Manna để họ ăn và ban cho họ bánh từ trời; Con người đã ăn bánh của các thiên thần và Người đã gửi đến cho họ lương thực dồi dào” (Tv 78,24-25).[9] Chủ từ ngôi thứ ba số ít (Người) của các động từ trong câu này đều là Đức Chúa. Tuy nhiên, khi đám đông trích lại, họ có vẻ ám chỉ rằng ông Mô-sê đã cho cha ông họ ăn bánh từ trời.[10] Chính vì lẽ đó, Đức Giê-su đã chấn chỉnh bằng một cách nói long trọng bắt đầu bằng “Amen, amen”: “Tôi bảo thật anh chị em, không phải Ông Mô-sê đã ban cho họ bánh bởi trời”. Sau mệnh đề phủ định với động từ ở thì hoàn thành (đã ban cho) (δέδωκεν), Đức Giê-su tiếp tục với một mệnh đề khẳng định với một động từ ở thì hiện tại (ban cho) (δίδωσιν), diễn tả một sự thật luôn luôn đúng, từ trước tới nay và đến cả tương lai. Nghĩa là không phải ông Mô-sê đã ban cho họ bánh từ trời trong quá khứ, mà là Cha của Đức Giê-su đã và đang ban bánh từ trời. R. Brown giải thích rằng, Manna được ban bởi Mô-sê không phải là bánh đích thực từ trời mà Cựu Ước nói đến; nhưng là lời dạy của Đức Giê-su.[11]

10.  Bánh đích thực từ trời” (τὸν ἄρτον ἐκ τοῦ οὐρανοῦ τὸν ἀληθινόν): Bánh từ trời được nói đến ở đây khác hoàn toàn với bánh từ trời trong sa mạc (Manna) vì nó được diễn tả bằng tính từ “đích thực”, ngược lại với “giả, dỏm”. Chính bánh đích thực này mới có khả năng duy trì sự sống đời đời, khác với bánh hư nát như Manna hay bánh từ lúa mạch. Tính từ này cũng là một tính từ rất đặc biệt trong Tin Mừng Gioan. Nó được dùng tất cả 3 lần, chỉ để diễn tả Đức Giê-su và Thiên Chúa. Ngoài lần này, còn có hai lần khác nữa, một lần cho Đức Giê-su và một lần cho Thiên Chúa: (1) Ngôi Lời là “ánh sáng thật, ánh chiếu soi mọi người, đến trong thế gian”; “Đây là sự sống đời đời, rằng họ biết Thiên Chúa duy nhất chân thật và Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Người đã sai đến” (Ga 17,3). Kiểu nói “bánh đích thực” cũng rất giống với kiểu nói “mục tử tốt lành” (ὁ ποιμὴν ὁ καλὸς) (Ga 10,11.14).

11.  “Đấng xuống từ trời … Đấng ban sự sống cho thế gian”: Ga 6,31 thường được chuyển ngữ là “vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (CGKPV); “Vì bánh của Thiên Chúa sự gì bởi trời xuốngban sự sống cho thế gian” (NTT). Các bản dịch Anh, Pháp, Ý chọn cách chuyển ngữ 2 danh động từ (V-ing) của động từ “đi xuống” và “trao ban” + mạo từ xác định là: “Đấng đi xuống từ trời” và “Đấng ban sự sống cho thế gian”[12] (chứ không phải là “bánh”). Cách chuyển ngữ này xem ra hợp lý hơn, vì bánh không thể là chủ ngữ của động từ “đi xuống” và “trao ban” sự sống được. Đấng ấy chính là Đức Giê-su, Người từ trời đi xuống và ban sự sống cho thế gian.

12.  Chính tôi là bánh ban sự sống”: Đức Giê-su dùng lối nói nhấn mạnh “ego eimi” (tôi là) cho lời khẳng định này. Theo nguyên ngữ tiếng Hy Lạp là “bánh của sự sống”. Danh từ thuộc cách “của sự sống” có thể hiểu theo hai cách: (1) Bánh = sự sống, giống như Đức Giê-su đã mạc khải: “Ta là đường là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6); (2) Sự sống chính là đối tượng được Đức Giê-su (=bánh) trao ban. Bánh này chính là bánh “duy trì sự sống đời đời” mà Đức Giê-su mời gọi đám đông làm việc để đạt được, đối lại với bánh hư nát, mà họ đang tìm kiếm. Sự sống đời đời cũng là sự sống trong Vương Quốc Thiên Chúa.[13]

13.  Ai đến cùng tôi không thể nào đói; ai tin vào tôi sẽ không khát bao giờ”: Đây là một bảo đảm hấp dẫn cho mọi độc giả. Tuy nhiên, đây chắc chắn không phải là bảo đảm của sự no đủ về cơm ăn, nước uống thể lý. Đức Giê-su đã cho họ ăn bánh mì no nê, nhưng rồi họ lại đói trong ngày hôm sau và đã tiếp tục chạy theo Người. Họ đã đến với Người và gặp Người nhưng liệu có hết đói hay không, khi họ chỉ tìm bánh mì chứ không phải tìm chính Người. Nói về cơn khát, tác giả Gioan đã kể một câu chuyện rất sống động để nói về cơn khát của Đức Giê-su và của người phụ nữ Samaria (Ga 4,1-42). Câu chuyện khởi đầu bằng việc Đức Giê-su khát nước và dừng lại bên bờ giếng Gia-cóp. Người hỏi xin người phụ nữ Samaria chút nước uống. Tuy nhiên, sau đó Người lại quảng cáo về “nước sự sống” mà Người có thể ban, nếu Người phụ nữ “nhận ra món quà của Thiên Chúa” và hỏi xin Người. Đức Giê-su quảng bá về tính năng đặc biệt của nước sự sống rằng: “Ai uống nước tôi ban, sẽ không bao giờ khát nữa; và nước tôi ban cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, mang lại sự sống đời đời” (Ga 9,14). Câu chuyện kết thúc bằng việc người phụ nữ rao giảng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô và rất nhiều người Samaria tin vào Đức Giê-su (9,39-41). Cả Đức Giê-su và cả người phụ nữ không ai cần uống nước giếng nữa. “Uống nước Đức Giê-su ban cho” trong bối cảnh này có thể là nghe, đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su và tin vào Người. Đây chính là cơ sở khá rõ cho lời khẳng định của Đức Giê-su: “Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”. Quyền năng của Lời Chúa mang lại cho con người một sự nuôi dưỡng về mặt tinh thần đã được sách Đệ Nhị Luật nói đến và đã được Đức Giê-su trích dẫn để chống lại cám dỗ của ma quỷ: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ bởi những lời từ miệng của Thiên Chúa” (Đnl 8,3; Mt 4,4; Lc 4,4).[14] Sau này, vào lúc bế mạc tuần Lễ Lều Đức Giê- su đứng trong đền thờ và kêu lớn tiếng rằng: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Thánh Kinh đã nói: Từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. Người thuật chuyện ghi chú rằng: “Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận” (Ga 7,37-38).

 


Bình luận tổng quát

Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều chiều hôm ấy, và sự biến mất cách lạ lùng của Đức Giê-su. Đám đông vẫn còn nuôi mộng tìm kiếm vị vua Mê-si-a đem lại cơm no, áo ấm mà không phải làm lụng vất vả. Đức Giê-su thương họ như mục tử thương đàn chiên đói khổ của mình và Người thực sự làm cho họ no thỏa. Tuy nhiên, Người không muốn cả đời họ chỉ tất bật với chuyện áo cơm để rồi cũng chết. Cơm bánh thể lý cần thiết để người ta có thể nuôi sống bản thân, thế nhưng những thứ đó chỉ là phương tiện chứ không phải là cùng đích. Vậy, cùng đích là gì? Đó chính là sự sống đời đời. “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26). Ai mới có sự sống đời đời và có khả năng ban tặng cho con người sự sống đời đời? Thưa! Chỉ có một mình Thiên Chúa là Đấng hằng hữu và hằng sống. Muốn có sự sống đời đời thì phải làm việc để đạt được nó. Công việc đó là “tin vào Đấng Chúa Cha đã sai đến”. Chính Chúa Cha đã ban tặng bánh sự sống, là chính Con của Người. Đức Giê-su chính là Đấng từ trời xuống và Đấng ban sự sống cho thế gian. Ai đến với Người sẽ không bao giờ đói, ai tin vào Người sẽ chẳng khát bao giờ. Đức Ki-tô chính là đối tượng và lẽ sống mang lại sự sống đời đời cho tất cả những ai tin theo Người. Khi con người lấy Người làm tâm điểm cho mọi suy nghĩ, lời nói và hành động trong cuộc đời họ, thì chứng tỏ rằng họ đang sống và sống mãi, ngay cả sau khi họ tắt thở rồi.

Đấng Đáng Kính F.X Nguyễn Văn Thuận, cựu chủ tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình, người giảng tĩnh tâm cho Đức Giáo Hoàng và toàn giáo triều Rô-ma vào năm 2000, cựu tù nhân của chế độ CS, đã có kinh nghiệm thật sâu sắc về sự phân biệt giữa Chúa và công việc của Chúa. Ngài vốn là một con người năng động, một vị Giám Mục trẻ đang hăng say với biết bao nhiêu hoạt động mục vụ phát triển giáo phận: Kinh lý giáo phận, huấn luyện nam nữ tu sỹ, giáo dân, thanh niên, kiến thiết thánh đường, cư xá sinh viên, mở các thí điểm truyền giáo… Tuy nhiên, ngài được thuyên chuyển về TGP. Sài Gòn một tuần trước biến cố 30-04-1975. Rồi ba tháng sau (15-08-1975) ngài bị bắt, nhốt tù từ trại này qua trại khác suốt 13 năm. Nhiều lúc, ngài bị đau khổ dày vò, và tự hỏi tại sao đang lúc tuổi 48, trưởng thành và khỏe mạnh, có kinh nghiệm mục vụ sau 8 năm làm Giám Mục, lại phải vào phòng biệt giam, xa giáo phận đến 1700 km. Rồi trong một đêm thanh vắng, ngài bỗng nghe từ đáy lòng tiếng nhắc nhở: “Tại sao con quẫn trí, hoang mang như thế làm gì? Con phải biết phân biệt giữa Chúa và công việc của Chúa”. Những công việc mục vụ con làm “đều là những việc tốt lành, là việc của Chúa nhưng không phải là Chúa. Nếu Chúa muốn con trao tất cả vào tay Ngài, con hãy làm ngay và tin tưởng vào Ngài.”[15] Chính tiếng nói của Chúa trong sâu thẳm nội tâm ấy đã giúp vị Hồng Y đáng kính nhận ra điều quan trọng và cốt thiết nhất của cuộc đời mình. Đó là tìm Chúa, gặp Chúa và sống với Chúa. Chúa ở mọi nơi, thông suốt mọi sự và yêu mến trọn tình. Chẳng ai ngờ chính trong ngục tù tăm tối ấy, Đấng Đáng Kính lại gặp gỡ Chúa một cách thân mật và gần gũi hơn cả. Có ai ngờ ở nơi mất tự do thân xác nhất, lại là nơi nội tâm của ngài được giải thoát hơn cả. Thật kinh ngạc là ở trong một nơi dễ mất niềm hy vọng nhất, ngài lại trở thành chứng nhân của niềm hy vọng. Đức Hồng Y đã trở thành người Việt Nam đầu tiên và có thể là duy nhất đứng đầu Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình và là vị giảng thuyết cho kỳ tĩnh tâm Mùa Chay của Đức Giáo Hoàng và cả giáo triều Rô-ma. Tất cả đều đến từ kinh nghiệm của một cựu tù nhân gặp gỡ Chúa cách thân mật trong nơi lao tù. Vị Hồng Y khả kính đã cho chúng ta thấy rằng: ở trong bất cứ một hoàn cảnh nghiệt ngã nào, người ta vẫn có thể tìm thấy Chúa. Sự tìm kiếm Đức Ki-tô đích thực là sự tìm kiếm Đấng ban bánh trường sinh, và cũng là Đấng ban sự sống. Sự gặp gỡ Đấng ban sự sống một cách đích thực giúp cho người ta lột xác và sống có sức sống hơn, ý nghĩa hơn, có lợi ích hơn cho người khác và cho cả xã hội loài người. Ông trùm kinh doanh Steve Jobs đã từng nói rằng: “Tôi không quan tâm tới việc trở thành một người giàu có nhất trong nghĩa địa… nói rằng chúng ta đã làm điều gì đó tuyệt vời trước khi đi ngủ vào mỗi buổi tối… đó mới là điều quan trọng đối với tôi”. Điều gì là tuyệt vời nhất mỗi ngày trước khi đi ngủ của mỗi người ki-tô hữu, nếu không phải là những suy nghĩ, lời nói, hành động hay nghĩa cử yêu thương dành cho tha nhân, đồng loại? Mỗi ngày qua đi với những điều tuyệt vời là mỗi ngày đáng sống của đời sống vĩnh hằng.

Joseph Phạm Duy Thạch, SVD

 

 



[1] Manna trong tiếng Do Thái là câu hỏi cái gì vây? Bởi lần đầu tiên khi con cái Ít-ra-el thấy một thứ gì đó nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ xuống mặt đất họ hỏi nhau: “Man hu” [מָ֣ן ה֔וּא]? nghĩa là cái gì đây? (Xh 16,14-15).

[2] Ga 3,36; 4,14; 5,24.39; 6,47.68; 10,28; 12,25.50; 17,2.3; Mt 19,16; Mc 10,17; Lc 10,25; 18,18.

[3] E. Haenchen – R.W. Funk – U. Busse, John: a commentary on the Gospel of John (Hermeneia; Philadelphia 1984) 281.

[4] R. Brown cho rằng: “Danh xưng này phản ánh thái độ chung chung về phía Đức Giê-su như một người thầy, vì trong trình thuật của Gioan, Đức Giê-su không dạy điều gì trước phép lạ hóa bành ra nhiều [R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes (AYB; New Haven – London 2008) XXIX, 261].

[5] Analytical Lexiconof Greek New Testament (ed. T. Friberg – B. Friberg – N.F. Miller) (Victoria 2000) “Amen”: A Concise Hebrew and Aramaic Lexicon of the Old Testament (ed. W.L. Holladay) (Grand Rapids 1971) “אָמֵֽן”.

[6] R. Brown giải thích rằng chủ nghĩa nhiệt thành nơi 6,14-15 được đặt nền tảng trên sự nhìn thấy mang tính thể lý của khía cạnh lạ lùng của dấu lạ, nhưng không có một sự nhìn thấy thực sự về việc dấu lạ nói lên điều gì về Đức Giê-su. Đám đông cần Đức Giê-su giải thích nhiều hơn về tương quan giữa dấu lạ và sự sống. (R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes, 264).

[7] Theo R. Brown, chúng ta có bằng chứng trong những văn bản Do Thái trễ hơn về một niềm mong đợi phổ biến rằng vào những ngày cuối cùng Thiên Chúa lại ban Manna – một niềm hy vọng nối kết với một niềm hy vọng về một cuộc Xuất Hành thứ hai. (R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII), 265; G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 91).

[8] F.J Moloney, The Gospel of John (SP; Collegeville 2005) IV, 212.

[9] Xem thêm Xh 16,4.15; Kn 16,20.

[10] Có thể quan thời đó, người ta đã chú giải đoạn văn này là chính Mô-sê đã cho dân ăn bánh từ trời. Vì thế Đức Giê-su phải sửa lại là không phải là Ông Mô-sê, động từ ngôi thứ ba só ít đó muốn nói là Thiên Chúa [G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 91].

[12] “Car le pain de Dieu, c’est celui qui descend du ciel et qui donne la vie au monde” (TOB); “For the bread of God is he who comes down from heaven and gives live to the world” (ESV); “In fatti il pane di Dio è colui che discende dal Cielo e dà la vita al mondo” (CEI)

[13] G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 91

[15] F.X Nguyễn Văn Thuận, Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá (Reichstett 1997) 12-13.

Thursday 22 July 2021

TƯỞNG KHÔNG THỂ MÀ LẠI CÓ THỂ CÁCH KHÔNG TƯỞNG. Chú Giải Tin Mừng CN XVII TN B (Ga 6,1-15)

 Bản Văn Ga 6,1-15

Hy Lạp

Việt

Μετὰ ταῦτα ἀπῆλθεν ὁ Ἰησοῦς πέραν τῆς θαλάσσης τῆς Γαλιλαίας τῆς Τιβεριάδος.

 2  ἠκολούθει δὲ αὐτῷ ὄχλος πολύς, ὅτι ἐθεώρουν τὰ σημεῖα ἃ ἐποίει ἐπὶ τῶν ἀσθενούντων.

 3  ἀνῆλθεν δὲ εἰς τὸ ὄρος Ἰησοῦς καὶ ἐκεῖ ἐκάθητο μετὰ τῶν μαθητῶν αὐτοῦ.

 4  ἦν δὲ ἐγγὺς τὸ πάσχα, ἡ ἑορτὴ τῶν Ἰουδαίων.

 5  Ἐπάρας οὖν τοὺς ὀφθαλμοὺς ὁ Ἰησοῦς καὶ θεασάμενος ὅτι πολὺς ὄχλος ἔρχεται πρὸς αὐτὸν λέγει πρὸς Φίλιππον· πόθεν ἀγοράσωμεν ἄρτους ἵνα φάγωσιν οὗτοι;

 6  τοῦτο δὲ ἔλεγεν πειράζων αὐτόν· αὐτὸς γὰρ ᾔδει τί ἔμελλεν ποιεῖν.

 7  ἀπεκρίθη αὐτῷ [ὁ] Φίλιππος· διακοσίων δηναρίων ἄρτοι οὐκ ἀρκοῦσιν αὐτοῖς ἵνα ἕκαστος βραχύ [τι] λάβῃ.

 8  λέγει αὐτῷ εἷς ἐκ τῶν μαθητῶν αὐτοῦ, Ἀνδρέας ὁ ἀδελφὸς Σίμωνος Πέτρου·

 9  ἔστιν παιδάριον ὧδε ὃς ἔχει πέντε ἄρτους κριθίνους καὶ δύο ὀψάρια· ἀλλὰ ταῦτα τί ἐστιν εἰς τοσούτους;

 10  εἶπεν ὁ Ἰησοῦς· ποιήσατε τοὺς ἀνθρώπους ἀναπεσεῖν. ἦν δὲ χόρτος πολὺς ἐν τῷ τόπῳ. ἀνέπεσαν οὖν οἱ ἄνδρες τὸν ἀριθμὸν ὡς πεντακισχίλιοι.

 11  ἔλαβεν οὖν τοὺς ἄρτους ὁ Ἰησοῦς καὶ εὐχαριστήσας διέδωκεν τοῖς ἀνακειμένοις ὁμοίως καὶ ἐκ τῶν ὀψαρίων ὅσον ἤθελον.

 12  ὡς δὲ ἐνεπλήσθησαν, λέγει τοῖς μαθηταῖς αὐτοῦ· συναγάγετε τὰ περισσεύσαντα κλάσματα, ἵνα μή τι ἀπόληται.

 13  συνήγαγον οὖν καὶ ἐγέμισαν δώδεκα κοφίνους κλασμάτων ἐκ τῶν πέντε ἄρτων τῶν κριθίνων ἃ ἐπερίσσευσαν τοῖς βεβρωκόσιν.

 14  Οἱ οὖν ἄνθρωποι ἰδόντες ὃ ἐποίησεν σημεῖον ἔλεγον ὅτι οὗτός ἐστιν ἀληθῶς ὁ προφήτης ὁ ἐρχόμενος εἰς τὸν κόσμον.

 15 Ἰησοῦς οὖν γνοὺς ὅτι μέλλουσιν ἔρχεσθαι καὶ ἁρπάζειν αὐτὸν ἵνα ποιήσωσιν βασιλέα, ἀνεχώρησεν πάλιν εἰς τὸ ὄρος αὐτὸς μόνος. (Jn. 6:1-15 BGT)

1 Sau những chuyện này, Đức Giê-su đi qua phía bên kia biển Ga-li-lê của Ti-bê-ri-a

2 Nhưng rồi Đám đông lớn đi theo Người bởi vì họ cứ chứng kiến những dấu [lạ] Người đã vẫn làm trên những bệnh nhân.

3 Đức Giê-su đi đến núi và Người ngồi đó với các môn đệ của Người

4 Lễ Vượt Qua đã gần đến, Lễ của Người Do Thái

5 khi ngước mắt lên Đức Giê-su thấy đám đông lớn đến với Người, Người liền nói với Phi-líp-phê: ‘chúng ta mua đâu ra bánh để mà họ có thể ăn?’

6 Nhưng Người nói điều này vì Người đang thử ông ta vì Người đã biết phải làm gì.

7 Phi-líp-phê trả lời; ‘200 denarion bánh cũng không đủ để mỗi người có thể lấy một chút

8 Một trong các môn đệ của Người, An-rê, anh của Si-môn, nói cùng Người:

9 ở đây có một đứa bé, có 5 chiếc bánh lúa mạch hai con cá, nhưng những thứ ấy làm sao mà [đáp ứng cho] số nhiều như vậy.

10 Đức Giê-su nói: ‘hãy làm cho người ta nằm xuống. Có nhiều cỏ trong chỗ ấy. Số người đàn ông đã nằm xuống chừng 5000 người.

11 rồi Đức Giê-su cầm lấy bánh, sau khi tạ ơn, Người trao cho những người nằm, và cá cũng như thế, nhiều như họ đang muốn.

12 khi họ đã no nê, Người nói cùng các môn đệ của Người: ‘Hãy thu gom lại những mẫu bánh còn thừa, để mà nó không bị hư đi.

13 các môn đệ thu gom và làm đầy 12 thúng những mẫu bánh từ 5 chiếc bánh lúa mạch mà còn dư bởi những người đã ăn

14 những người thấy dấu [lạ] Người đã làm nói rằng ông ta thực sự là vị ngôn sứ Đấng xuất hiện trong thế giới.

15 Vì biết họ sẽ đến bắt Người để tôn Người làm vua, nên Người lại rút lui vào núi một mình.



Bối cảnh bản văn:

Đoạn văn Ga 6,1-15 được khởi đầu bằng một cách nói tổng quát: “Sau những sự việc này”. Cụm từ “những sự việc này” có thể ám chỉ đến trình thuật về dấu [lạ] chữa một người bại liệt ở hồ Bết-da-tha (Ga 5,1-18) và “diễn từ nói về công việc của Chúa Con (Ga 5,19-47). Phép lạ hóa bánh ra nhiều chắc chắn nối kết và là tiền đề cho diễn từ “Bánh Hằng Sống” diễn ra ngay sau đó (Ga 6,16-51). Nó cũng gợi nhớ đến hình ảnh Thiên Chúa-mục tử trong Cựu Ước nhất là Thánh Vịnh 23[1], bởi vì trong đó có hình ảnh “cỏ xanh” và “được ăn bánh no nê”. Đây là dấu [lạ] duy nhất được cả bốn tác giả sách Tin Mừng thuật lại (Ga 1,1-15; Mt 14,13-21; Mc 6,30-44; Lc 9,10-17).[2] Vì vậy, phép lạ này cũng cho thấy sự nối kết giữa truyền thống Gioan và Tin Mừng Nhất Lãm. Loạt hành động “cầm lấy bánh, tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó” gợi nhớ đến trình thuật về sự việc Đức Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể (Mt 26,26-29; Mc 14,22-25; Lc 22, 14-20; 1 Cr 11,23-25), trong đó Đức Giê-su cũng “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng rồi bẻ ra và trao cho các ông. Dĩ nhiên, phép lạ này cũng nhớ đến việc Chúa ban mana nuôi dân Ít-ra-el trong sa mạc (Xh 16, Ds 11). Việc nhắc tên hai Tông Đồ cụ thể (Phi-líp-phê và An-rê), cho phép liên kết với những chỗ khác có tên hai người này (Ga 12,22; Mc 3,18). Mốc thời gian “Lễ Vượt Qua” cũng là một chủ đề nối kết với những trình thuật liên quan đến “Tiệc Vượt Qua” và Chiên Vượt Qua (Mc 14,12-16; Mt 26,17-19; Lc 22,3-6). Chủ đề Đức Giê-su là “vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” là một trong những chủ đền quan trọng nhất trong các sách Tin Mừng (Ga 4,19: “Thưa ông, tôi thấy ông là một ngôn sứ”; Ga 7,40: Ông này quả thật là một ngôn sứ”; Ga 9,17: Anh mù đáp: ‘Người là một vị ngôn sứ”. Đức Giê-su rút lui lên núi một mình (Ga 11,15) bởi vì Người biết rằng người ta sẽ tôn Người lên làm vua, là biểu hiện cho thấy Người “không cần người đời tôn vinh” như Người đã nói trong diễn từ “công việc của Chúa Con” (Ga 5,41). Sách Đệ Nhị Luật cũng nói đến việc “Đức Chúa sẽ làm nổi lên giữa anh chị em một vị ngôn sứ như tôi [ông Mô-sê]” (Đnl 18,15).

Cấu trúc bản văn

Đoạn Ga 6,1-15 có phần khởi đầu (A) và phần kết (A’) giới thiệu chung về không gian, thời gian và nhân vật của câu chuyện. Câu chuyện xảy ra ở vùng Ti-bê-ri-a, trên núi, vào dịp gần đến Lễ Vượt Qua của Người Do Thái. Nhân vật gồm có Đức Giê-su, các môn đệ và đám đông lớn. Nội dung trình thuật sự kiện “hóa bánh ra nhiều” được cấu thành bởi ba thành phần, song song và quy tâm. Có hai cặp thành phần song song với nhau: (B) Đức Giê-su đặt vấn đề về một giải pháp cho sự đói kém của dân chúng // (B’) Dân chúng nhận ra Đức Giê-su là một vị ngôn sứ Đấng phải đến thế gian; (C) Thái độ bi quan của các môn đệ: không có giải pháp nào khả thi // (C) Chứng kiến một giải pháp hơn cả khả thi. Tất cả đều xoay quanh tâm điểm là giải pháp lạ lùng của Đức Giê-su: Cầm bánh, tạ ơn và phân phát (D).

(A) Mở đầu: Không gian, thời gian và nhân vật: Bên kia biển hồ Ga-li-lê, thành phố Ti-bê-ri-a, núi; Lễ Vượt Qua của Người Do Thái; đám đông lớn; Đức Giê-su và các môn đệ (6,1-4).

(B) Vấn đề: Không có bánh (6,6-7)

(C) Thái độ của các môn đệ: Không có giải pháp khả thi (6,8-9)

(D) Giải pháp của Đức Giê-su: Cầm lấy, tạ ơn và phân phát (6,10-11)

(C’) Kiểm chứng của các môn đệ: Bánh còn dư 12 thúng (6,12-13)

(B’) Hiệu quả: Tuyên xưng Đức Giê-su là một ngôn sứ (6,14)

(A’) Kết thúc:  Nơi chốn; nhân vật: Một mình Đức Giê-su rút lui lên núi (6,15)

Một số điểm chú giải

1.     Bên kia biển Ga-li-lê của Ti-bê-ri-a: Danh từ thuộc cách chỉ địa danh “của Ti-bê-ri-a cho độc giả biết rằng đây là Biển Hồ Ga-li-lê-a nhưng phần gần thành phố Ti-bê-ri-a. Chính vì thế mà Biển Hồ này đôi khi được gọi là Biển Ti-bê-ri-a (Ga 21,21). Ti-bê-ri-a là một thành phố biển, được Hê-rô-đê An-ti-pa xây vào năm 20 C.E. ở phía Tây Biển Hồ Ga-li-lê. Nó là thủ đô của vùng Ga-li-lê, nơi Hê-rô-đê An-ti-pa cai quản thời bấy giờ và được đặt tên của vị hoàng đế thứ hai của Đế Quốc Rô-ma (Tiberius). Nơi đây được Gioan nối kết với phép lạ hóa bánh ra nhiều: “có những thuyền khác đến từ Ti-bê-ri-a đến, gần nơi dân chúng đã được ăn bánh no nê” (Ga 6,23). Đây là dữ liệu về địa danh, cho biết rõ ràng về nơi đã diễn ra phép lạ “hóa bánh ra nhiều”, khác với các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm vốn không nhắc đến địa danh cụ thể. Mác-cô chỉ nói là nơi “hoang vắng” (sa mạc) (Mc 6,31.32.35; Mt 14,13). Địa danh này có thể Gioan muốn nói đến sự trái ngược giữa một thành phố xa hoa giàu có và một nhóm người “thiếu bánh ăn” bên cạnh nó.

2.     Nhưng rồi đám đông lớn cứ đi theo Người: Ghi chú về nhân vật “đám đông lớn” (6,2) cứ đi theo Đức Giê-su nhằm chuẩn bị cho chi tiết số người “nằm xuống” là 5000 người đàn ông (6,10). Lý do những người này đi theo Đức Giê-su được diễn tả rất rõ ràng: “Vì họ đã từng chứng kiến những dấu lạ Người làm cho các bệnh nhân”. Cả ba động từ “đi theo”, “thấy” (chứng kiến” và “làm” đều được Gioan cận thận dùng ở thì “vị hoàn”, diễn tả một sự kéo dài của hành động. Nghĩa là họ đã thấy nhiều lần, vì Đức Giê-su cũng đã làm nhiều dấu [lạ] chữa lành bệnh tật và họ cứ “đi theo” Chúa hoài. Cụ thể là có hai dấu [lạ] chữa bệnh được ghi lại trước trình thuật này: (i) Chữa lành con của một sĩ quan cận vệ của nhà vua (Ga 4,46-54); (ii) Chữa lành một người bại liệt 38 năm ở hồ nước Bết-da-tha. Đám đông đã biết đến Đức Giê-su như một người làm những “dấu lạ” chữa lành các bệnh nhân.

3.     Đức Giê-su đi đến ngọn núi và Người ngồi đó: Đức Giê-su đến thành phố Ti-bê-ri-a nhưng Người không vào trong thành phố mà Người đi ra ngoại ô thành phố, nơi có núi đồi. Ngọn núi ở đây được xác định bởi một mạo từ xác định (τὸ). Có lẽ đó là một ngọn núi ở ngoại ô Ti-bê-ri-a, mà ai cũng biết nên Gioan dùng mạo từ xác định. Cũng cần biết thêm, danh từ “ὄρος” trong tiếng Hy Lạp vừa có nghĩa là núi, cũng vừa có nghĩa là “đồi” hoặc “cao nguyên”. Có thể Đức Giê-su lên một ngọn đồi gần thành phố Ti-bê-ri-a. Rất khó để nói chính xác đó là núi nào hay đồi nào.[3] Tuy nhiên, kiểu nói “lên núi và ngồi xuống với các môn đệ” làm cho độc giả nhớ đến câu khởi đầu bối cảnh Bài Giảng Trên Núi do Tin Mừng Mát-thêu ghi lại: “Khi thấy đám đông, Người lên núi, và sau khi Người ngồi xuống, các môn đệ của Người đến gần bên” (Mt 5,1). Tư thế “ngồi” là tư thế của một người thầy giảng dạy.[4] Giảng dạy trên “núi” cũng gợi nhớ đến hình ảnh của ông Mô-sê, người chuyển giao Lề Luật của Chúa cho dân ở trên núi Si-nai. Gioan không nói gì đến việc Đức Giê-su có giảng dạy điều gì hay không. Tuy nhiên, ngồi ở trên núi, cùng với các môn đệ, có lẽ ngụ ý một buổi giảng dạy. Mác-cô nói rõ bối cảnh của phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất là “thấy đám đông lớn, Đức Giê-su đã chạnh lòng thương vì họ như những con chiên không có mục tử và Người giảng dạy họ nhiều điều” (Mc 6,34).

4.     “Lễ Vượt Qua”:[5] Trong bốn tác giả sách Tin Mừng, chỉ có Gioan cho độc giả biết rằng Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem vào ba dịp Lễ Vượt Qua trong hành trình rao giảng của Người (Ga 2,13.23; 5,1; 12,1). Chính vì thế mà theo truyền thống, Đức Giê-su rao giảng khoảng 3 năm, và chết ở tuổi 33. Luca cho biết Đức Giê-su khởi đầu sứ vụ rao giảng khi Người khoảng 30 tuổi (Lc 3,23), cùng với 3 Lễ Vượt Qua (xảy ra mỗi năm một lần), trong đó, Người bị kết án và đóng đinh vào Lễ Vượt Qua thứ ba. Các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ cho biết Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem một lần, vào dịp Lễ Vượt qua trong suốt quá trình rao giảng. Tin Mừng Nhất Lãm chỉ nhắc đến một Lễ Vượt Qua trong trình thuật về cuộc Thương Khó (Mt 26,2.17-19; Mc 14,1.12.14.16; Lc 22,1.7.28.11.13.15),[6] và đó là lần Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó – Chịu Chết đóng đinh. Chặng đường lên Giê-ru-sa-lem là rất quan trọng. Thậm chí, Tin Mừng Luca còn dành cho chặng đường lên Giê-ru-sa-lem đến 10 chương (9,51 – 19,27), nghĩa là gần một nửa Tin Mừng của Luca (24 chương). Đối với các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, Ga-li-lê là thánh địa cho sứ vụ rao giảng và làm dấu lạ, còn Giê-ru-sa-lem là tử địa nơi xảy ra cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su.

Lễ Vượt Qua là một Đại Lễ hằng năm của Người Do Thái. Nó kỷ niệm biến cố quan trọng: Dân đã được cứu khỏi ách nô lệ của Pha-ra-ô. Trong đêm ấy, sứ thần Chúa đã tiêu diệt tất cả các con đầu lòng của người Ai-cập. Thậm chí con vật đầu lòng cũng bị giết. Con cái Ít-ra-el thì được sống nhờ vào những vết máu bôi trên cửa theo chỉ dẫn của Chúa (Xh 11,5; 12, 12-13.29). Lễ Vượt Qua trong tiếng Do Thái là הַפָּ֑סַח” (pesah), trong tiếng là Hy Lạp là “πάσχα” (paskha). Trong tiếng gốc Do Thái “Pesah”, có nghĩa là “bảo vệ” hay “bỏ qua”. Theo một số tác giả, Lễ này, có nguồn gốc ban đầu liên quan đến một nghi lễ mang tính giải hạn của những người du mục, cử hành mùa xuân. Tuy nhiên, ý kiến được chấp nhận rộng rãi nhất liên quan đến lễ hội cổ xưa cho những giai đoạn của trăng, đặc biệt cho dịp trăng tròn. Và trên bình diện lịch sử, Lễ này dĩ nhiên là liên kết đến sự kiện Xuất Hành từ Ai-cập.[7] Trong Lễ Vượt Qua, một con vật hiến tế (cừu hoặc dê một tuổi) được giết thịt vào ngày thứ 14 của tháng Nisan và được ăn vào buổi đêm, hoặc ngay sau hoàng hôn, đánh dấu khởi đầu của ngày 15 tháng Nisan. Thánh Kinh kết hợp việc sát tế Vượt Qua với Lễ Bánh Không men, lễ hội kéo dài bảy ngày bắt đầu vào ngày 15 của tháng Nisan. Trong thời gian hậu Thánh Kinh, hai lễ này được hòa nhập thành một lễ hội mà thôi.[8]

Nhắc đến thời điểm “gần đến Lễ Vượt Qua”, tác giả có lẽ không phải muốn nói đến thời gian lịch sử cụ thể của biến cố, nhưng là thời gian thần học. Biến cố Vượt Qua được nhắc đến trong bối cảnh “dấu [lạ] hóa bánh ra nhiều nối kết với Lễ Vượt Qua cuối cùng, trong đó Đức Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể, biến Mình Người thành của ăn và Máu Người thành của uống nuôi linh hồn các tín hữu. Cũng xin biết thêm là Tin Mừng Gioan, là Tin Mừng duy nhất không có trình thuật về việc lập Bí Tích Thánh Thể. Thay vào đó, Gioan lại là tác giả duy nhất tường thuật lại hành động rửa chân trong đêm Tiệc Ly. Ông cũng là tác giả duy nhất nhắc đến Lễ Vượt Qua trong trình thuật phép lạ “hóa bánh ra nhiều” và cũng là tác giả duy nhất ghi lại diễn từ “diễn từ Bánh Hằng Sống” (6,22-66).

5.     Phi-líp-phê và An-rê: Phi-líp-phê và An-rê: Trong danh sách 12 tông đồ của Tin Mừng Mác-cô, tên Phi-líp-phê được đặt ngay sau tên An-rê (Mc 3,18: … rồi đến các ông An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô…). Mác-cô đặt bộ ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan vào đầu danh sách, sau đó mới đến An-rê và Phi-líp-phê và các môn đệ khác.[9] Mát-thêu xếp tên của An-rê ngay sau tên Phê-rô và Phi-líp-phê sau tên của hai anh em Gia-cô-bê và Gioan. Luca cũng liệt kê tương tự Mát-thêu. Tin Mừng Gioan không nói đến danh sách 12 Tông Đồ. Theo tác giả, An-rê và một môn đệ vô danh là hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả. Họ đã nghe Gioan Tẩy Giả giới thiệu về Đức Giê-su : “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Rồi, họ đã “đến, xem chỗ Người ở và ở lại” với Đức Giê-su một ngày (Ga 1,39). Chính An-rê, sau khi trở về từ chỗ Đức Giê-su ở đã giới thiệu và dẫn em mình là Phê-rô đến với Đức Giê-su (1,41-42). Tiếp theo sau đó, Đức Giê-su gặp và gọi ông Phi-líp-phê: “Anh hãy theo tôi” (1,43). Theo Gioan, hình như Phi-líp-phê được gọi trước cả Gia-cô-bê và Gioan. Theo Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su gọi liền hai cặp anh em: Phê-rô – An-rê, rồi Gia-cô-bê – Gioan (Mt 4,18-22 ; Lc 5,1-11 ; Mc 1,16-20).[10] Phi-líp-phê được giới thiệu là ở Bết-sai-đa, cùng quê với hai anh em Phê-rô và An-rê. Đây là dữ liệu của riêng tác giả Tin Mừng thứ tư. Theo Tin Mừng Nhất Lãm, Phê-rô có một ngôi nhà ở Ca-phác-na-um, một thành phố ngay bên bờ, đầu hồ Ga-li-lê, phía Bắc (Mc 1,29-31 ; Mt 8,14-15 ; Lc 4,38-39). Theo Mát-thêu và Luca, Bết-sai-đa là một trong những thành phố bị Đức Giê-su nguyền rủa, vì không đã không sám hối (Mt 11,21; Lc 10,13-15). Đây cũng là thành phố Đức Giê-su lánh vào sau phép lạ “hóa bánh ra nhiều” (Mc 6,45 ; Lc 9,10) và chữa lành một người mù (Mc 8,22-26). Sự xuất hiện sóng đôi của Phi-líp-phê và An-rê trong Tin Mừng Gioan được ghi lại ít nhất 2 lần. (i) Ga 6,1-15: Phi-líp-phê được Đức Giê-su tham vấn về cách thức mua bánh cho “đám đông lớn”; An-rê giới thiệu em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá. (ii) Ga 12,20-26: Những người Hy Lạp đến gặp ông Phi-líp-phê để xin gặp Đức Giê-su; Ông Phi-líp-phê nói ông An-rê và hai ông đến thưa với Đức Giê-su. Việc Phi-líp-phê đi nói với An-rê có thể giải thích ở góc độ thân thích: hai người là đồng hương. Tuy nhiên, lý do quan trọng hơn có thể là vì An-rê là môn đệ đầu tiên được gọi. Thế giá của An-rê, có thể là cao hơn Phê-rô, vì ông được gọi trước và là người giới thiệu Phê-rô cho Đức Giê-su. R. Brown tin rằng Phi-líp-phê và An-rê là những Tông Đồ được coi trọng hơn ở miền Tiểu Á, mà Tin Mừng Gioan được viết cho những tín hữu ở vùng Tiểu Á. Chính vì vậy, hai Tông Đồ này được đề cập cách cụ thể để Tin Mừng đi vào lòng các tin hữu dễ dàng hơn.[11]

6.     200 denarius… 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá: Hai môn đệ đưa ra hai dữ liệu khác nhau. Phi-líp-phê vì được hỏi là: “Bằng cách nào chúng ta có thể mua bánh để họ ăn?”, nên câu trả lời của ông liên quan đến số tiền mua. Đây là số tiền khá lớn đủ để Phi-líp-phê diễn tả sự bất lực, không thể: Đến 200 denarion cũng không đủ cho mỗi người một tý. Denarion là đơn vị tiền tệ của Roma thời bấy giờ. 1 denarion bằng một ngày lương của một công nhân bình thường (x. Mt 20,2). 200 denarion bằng 200 ngày lương của một người làm công. Sau khi Phi-líp-phê thể hiện sự thất vọng, An-rê quan sát thấy có một cậu bé mang theo 5 chiếc bánh và hai con cá. Đây lại là một số lượng quá ít so với 5000 người đàn ông: “Nhưng số ấy thì thấm vào đâu so với số người nhiều như thế”. Cả hai môn đệ đều cho thấy cho “đám đông lớn” ăn là một nhiệm vụ bất khả thi. Mác-cô ghi lại đề xuất của các môn đệ: “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng chung quanh mà mua thức ăn” (Mc 6,36; Mt 14,15; Lc 9,12). Hình ảnh cậu bé chia sẻ 5 chiếc bánh và 2 con cá là hình ảnh riêng của Gioan vì trong truyền thống Nhất Lãm, dường như số bánh và cá này là của các môn đệ: “Ở đây chúng con chỉ có vọn vẹn 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mt 14,17; Mc 6,38; Lc 9,13).

7.      “Hãy làm cho người ta nằm xuống”: Động từ “ana-pipto” (ἀνα-πίπτω[12]) có nghĩa đen là “ngã về phía sau”, trong đó “pipto” là ngã. Động từ này thường được dùng để diễn tả sự ổn định vị trí để chuẩn bị cho một bữa ăn (Mc 6,40; Lc 11,37; Ga 13,12.25). Cách chuyển ngữ “hãy cho người ta ngồi xuống” hay là “hãy cho người ta nằm xuống” vẫn không diễn tả chính xác nghĩa của động từ này. Có lẽ đó là một tư thế nằm tựa để dùng bữa, theo phong tục của người Do thái. Người ta không nằm dài như lúc ngủ, nhưng họ cũng không ngồi ăn như hầu hết con người ngày nay. Người môn đệ “được Đức Giê-su yêu mến” được diễn tả là nằm tựa vào ngực Đức Giê-su trong bữa Tiệc Ly (Ga 13,25). Các môn đệ nhận lệnh ổn định dân chúng trong tư thế vào bàn ăn để chuẩn bị cho việc dùng bữa. Họ chắc chắn cũng rất ngạc nhiên, vì mệnh lệnh này của Đức Giê-su, bởi vì chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thì dùng bữa sao đủ. Luca còn ghi lại kỹ càng hơn chỉ thị của Đức Giê-su: “Hãy bảo họ nằm thành từng nhóm khoảng 50 người một” (Lc 9,14). Nhóm này ở trong trình thuật của Mác-cô có số lượng khác nhau: “Chỗ thì một trăm chỗ thì năm mươi” (Mc 6,39).

8.     Có nhiều cỏ trong chỗ ấy: Chi tiết này có vẻ thừa nhưng lại không thừa. Tác giả Gioan dường như muốn gợi cho độc giả nhớ đến hình ảnh “đồng cỏ xanh” được nói đến trong Thánh Vịnh 23: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ”. Hình ảnh đồng cỏ xanh gợi nhớ đến sự chăm sóc tốt lành của Thiên Chúa-mục tử dành cho đàn chiên của mình. Nhóm 5000 người đàn ông nằm trên đồng cỏ xanh như đàn chiên đang được mục tử Giê-su nuôi dưỡng.

9.     Số người đàn ông đã nằm xuống chừng 5000 người: Ghi chú về số lượng này cho thấy sự hài hòa với chi tiết giới thiệu nhân vật trong phần bối cảnh: “Đám đông lớn đi theo Đức Giê-su”. Đám đông ấy lớn cỡ nào? Lớn tới mức “5000 người đàn ông” (Ga 6,10; Mc 6,44). Mát-thêu còn thêm vào mệnh đề “không tính đàn bà và trẻ em”. Dĩ nhiên rồi, chẳng lẽ số người đi theo Đức Giê-su chỉ toàn đàn ông thôi sao. Chắc chắn phải có đàn bà và và trẻ em nữa. Thường thì số lượng đàn bà và trẻ con phải nhiều hơn số người đàn ông. Vậy thì, số lượng người của “đám đông lớn” hôm ấy phải trên 10 ngàn người.

10.  Cầm lấy bánh, tạ ơn, phân phát: Những động từ: cầm lấy, tạ ơn rồi phân phát kết hợp với dữ liệu về thời gian “gần đến Lễ Vượt Qua” rõ ràng gợi nhớ đến trình thuật Đức Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể. Đức Giê-su đã lập Bí Tích Thánh Thể vào dịp Lễ Vượt Qua cuối cùng trong hành trình dương thế của Người. Trong Bữa Tiệc Ly: “Người cầm lấy bánh, sau khi đã dâng lời tạ ơn, Người bẻ ratrao cho các môn đệ và nói: ‘Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em” (Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Động từ “Eukharisteo” (εὐ-χαριστέω)[13] có nghĩa là “tạ ơn”. Chính vì thế Bí Tích Thánh Thể còn được gọi là “Hy tế Tạ Ơn”.[14] Tiếng Anh gọi Bí Tích Thánh Thể là “Eucharist” (Tiếng Pháp: Eucharistie; Tiếng Ý: Eucaristia). Như vậy, phép lạ hóa bánh ra nhiều là tiền thân của Bí Tích Thánh Thể. Việc Đức Giê-su ban bánh mì cho dân chúng ăn no nê báo trước việc Người sẽ ban chính Mình Người để trở thành của ăn, và Máu Người để trở thành của uống nuôi dưỡng linh hồn người tín hữu.[15]

11.  Khi họ đã no nê: Động từ “em-pim-ple-mi” (ἐμ-πίμπλημι)[16] có nghĩa là “làm đầy” hoặc “thỏa mãn”, diễn tả một tình trạng no đủ, thoa thê của “đám đông lớn”.

12.  12 thúng những mẫu bánh thừa: Mệnh lệnh thu gom được Đức Giê-su đưa ra cùng với mục đích là “để khỏi hư đi”. Mệnh lệnh này cho thấy Đức Giê-su quan tâm đến việc giáo dục các môn đệ cũng như dân chúng, biết tôn trọng những gì Chúa ban cho mình. Không được phí phạm những thức ăn còn dùng được. 12 thúng bánh vụn còn thừa là con số ngược lại với những thái độ thất vọng của cả An-rê và Phi-líp-phê lúc khởi đầu. Có thể nói rằng: Tưởng là không thể nhưng lại có thể như không tưởng. 200 denarion cũng không đủ cho mỗi người một tý và 5 chiếc bánh và 2 con cá thì thấm vào đâu với số lượng người đông như thế. Ai ngờ, chỉ số bánh vụn còn dư đã lên đến 12 giỏ.

13.  Ông ta thực sự là một ngôn sứ, đấng phải đến: Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giê-su được gọi là một ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian. Ý tưởng này của dân chúng có thể ám chỉ đến lời hứa rằng Thiên Chúa “sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ông Mô-sê được nói đến trong sách Đệ Nhị Luật” (Đnl 18,15).[17] Tin Mừng thứ tư cho thấy nhiều nhân vật tuyên xưng Đức Giê-su là một ngôn sứ. Người phụ nữ Samari đã xác nhận: “Tôi thấy ông là một vị ngôn sứ” (Ga 4,19). Dân chúng cũng nhìn nhận “ông này thật là vị ngôn sứ” (Ga 7,40). Anh mù được sáng mắt cũng nghĩ người làm cho anh sáng mắt là một “vị ngôn sứ” (Ga 9,17; Mt 16,14; 21,11.46). Tuy nhiên, một vị ngôn sứ làm phép lạ hóa bánh ra nhiều có lẽ gợi nhớ đến hình ảnh ngôn sứ Ê-li-sê. Ông đã làm phép lạ cho cả tram người ăn từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Tiểu đồng của ông đã nghi ngờ và nói rằng: “Có bằng này, sao con có thể phá cho cả tram người ăn”. Ê-li-sa đã trả lời: “Cứ phát cho họ ăn vì Chúa đã phán: ‘Họ sẽ ăn mà vẫn còn dư’. Và quả thực đã xảy ra như lời ngôn sứ nói (x. 2 V 4,42-44). Ngoài ra, Ê-li-sa còn một lần làm phép lạ “hóa dầu ra nhiều” để giúp một bà góa, có hai con nhỏ bị bắt làm nô lệ, vì bà thiếu nợ (x. 2 V 4,1-7). Thành thật mà nói, nhận ra Người là “một vị ngôn sứ” chưa phải là đỉnh cao của sự nhận biết. Đó chỉ là khởi điểm và họ cần phải vươn đến căn tính Ki-tô và Con Thiên Chúa của Đức Giê-su. Tin Mừng Gioan khởi đầu bằng việc giới thiệu “Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1) và kết thúc bằng việc nêu lên mục đích của toàn bộ Tin Mừng là: “Để anh chị em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20,31). Ngay trước câu kết thúc, thánh Tô-ma đã tuyên xưng Đức Giê-su là Thiên Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28). Đây là cái kết hoàn hảo cho Tin Mừng thứ tư: Khởi đầu bằng lời giới thiệu Ngôi Lời là Thiên Chúa và kết thúc bằng việc một Tông Đồ tuyên xưng Đức Giê-su là Thiên Chúa.

14.  Tôn Người làm vua: Đức Giê-su có thân phận đế vương. Người là vị vua được dân Do Thái bao đời mong chờ. Người xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và được hạ sinh tại Bê-lem, quê hương của vua Đa-vít. Chính vì thế, ngay từ lúc lọt lòng, Người đã bị vua Hê-rô-đê đuổi giết trong thân phận là một “vị vua mới sinh của Người Do Thái” (Mt 2,2). Các sách Tin Mừng ghi lại rất nhiều dữ liệu về thân phận đế vương của Đức Giê-su. Khi Đức Giê-su trừ quỷ cho một người vừa mù lại vừa câm, dân chúng đã sửng sốt và nói rằng: “Ông này chẳng phải là con vua Đa-vít sao?” (Mt 12,23). Người phụ nữ dân ngoại Ca-na-an vẫn gọi Người là con vua Đa-vít: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi! Đứa con gái của tôi bị quỷ ám khổ sở lắm” (Mt 15,22). Hai ngưởi mù thành Giê-ri-khô cũng gọi Người là con vua Đa-vít (Mt 20,30-31; Mc 10,48; Lc 18,38). Người đã vào thành trong một cuộc đón rước long trọng với tiếng hô vang: “Hoan hô con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21,9; Mc 11,9-10; Lc 19,38). Theo Luca, dân chúng gọi Đức Giê-su là vua một cách trực tiếp: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên trời và vinh quang Chúa trên các tầng trời” (Lc 19,38). Sự việc xảy ra như thế nhằm ứng nghiệm lời ngôn sứ về biến cố nhập thành của vị vua: “Hãy báo cho thiếu nữ Si-on, này Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Mt 21,5; Ga 12,15). Trước câu chất vấn của Tổng trấn Phi-la-tô, quan chức cao nhất của đế quốc Rô-ma trên đất nước Do Thái, “Ông là vua dân Do Thái sao?”, Đức Giê-su đã xác nhận: “Chính ông nói đó” (Mt 27,11; Mc 15,2; Lc 23,3; Ga 18,37a). Tác giả Gioan còn ghi thêm lời giải thích sứ vụ “làm vua” của Đức Giê-su: “Tôi sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: để làm chứng cho sự thật, ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37b). Điều này phù hợp với mạc khải của Đức Giê-su về căn tính của Người: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống, không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua tôi” (Ga 14,16). Tất cả những dữ liệu này để cho thấy Đức Giê-su chính là vị vua Mê-si-a, Đấng mà dân Do Thái đang mong chờ. Tuy nhiên, Người lại không phải là vị vua mang lại quyền lực chính trị và sung túc về vật chất như họ mong muốn. Họ muốn tôn vinh Người như là vị vua cơm bánh và chữa bệnh, nhưng Người lại rút lui lên núi một mình. Không chỉ có dân chúng lầm tưởng, mà chính các môn đệ của Người cũng đã lầm tưởng về cách thức hành động của Mê-si-a-Vương Đế Giê-su. Người là một vị vua tình yêu. Vương miện của Người là vòng gai nhọn và ngai tòa của Người là thập giá. Vị Vua-Mê-si-a kiểu như thế đã làm cho các môn đệ thực sự hoảng sơ, hoảng loạn trong một lúc, nhưng lại mang đến cho các ông một sự bình an đích thực và ơn cứu độ muôn đời.

Bình luận tổng quát

Vào một ngày đẹp trời bên bờ Hồ Ga-li-lê, bên cạnh một thành phố biển giàu có, sung túc Ti-bê-ri-a, có một đám đông lớn, nghèo nàn đi theo một thầy giảng, bởi họ đã từng chứng kiến nhiều phép lạ Người đã làm. Đức Giê-su ngồi đó, trên núi, trong tư thế giảng dạy họ. Có lẽ Người đã giảng dạy họ nhiều điều như thường lệ. Tuy nhiên, hôm nay Người đặc biệt quan tâm đến cái đói của những con người này. Người đã có sẵn ý định cho họ ăn. Dầu vậy, Người lại muốn thử lòng các môn đệ xem các ông nghĩ gì, sau khi đã chứng kiến nhiều phép lạ chữa lành mà Người đã làm. Người chưa từng làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Chính vì thế, khi Người hỏi Phi-líp-phê về phương cách làm sao có thể mua đủ bánh cho đám đông lớn ăn. Phi-líp-phê đã nói một cách thẳng thắn: 200 denarion cũng không đủ cho một người một chút bánh. Có tiền bằng 200 ngày công cũng không thể giải quyết được vấn nạn này. Chung quy lại, trong đầu ông nghĩ là không có cách nào hết. Thêm vào đó, môn đệ An-rê cũng tỏ ra bi quan không kém. Với 5 chiếc bánh và 2 con cá của cậu bé, thì cũng chẳng thấm vào đâu với số lượng hơn mười ngàn người. Ấy vậy mà, Đức Giê-su lại ra lệnh: “Hãy sắp xếp cho họ ở trong tư thế dùng bữa”. Sao có thể được chứ? Có gì đâu mà dùng bữa? Đám cỏ xanh rì vào mùa xuân gợi lên một bữa ăn no nê cho đàn chiên được chăm sóc bởi Thiên Chúa mục tử. Mục tử Giê-su cũng sẽ có cách để nuôi đám đông đàn chiên của Người. Chỉ những hành động giản đơn: “Cầm lấy bánh, tạ ơn rồi phân phát” mà đám đông hơn 10.000 người được ăn bao nhiêu tùy thích. Không những thế, số bánh vụn còn dư lại lên đến 12 thúng đầy. Những chuyện không thể theo suy nghĩ của các môn đệ, lại trở nên có thể một cách dễ dàng đối với Đức Giê-su. Sau dấu lạ ấy dân chúng đã cảm nhận được nơi Người phẩm chất, tư cách của vị ngôn sứ. Có lẽ trong đầu họ đã hình dung về hình ảnh ngôn sứ Ê-li-sê, người đã từng làm cho bánh và dầu hóa nhiều trong Cựu Ước. Nhất là, họ nghĩ đến lời hứa rằng Chúa sẽ ban cho họ “một vị ngôn sứ như ông Mô-sê” (Đnl 18,18), người đã từng cho dân chúng ăn manna trong sa mạc. Hơn thế nữa, họ còn muốn tôn Người lên làm vua của họ, một vị vua có thể chữa bệnh và ban cơm bánh. Đó là một vị vua trong mơ của đám đông ấy. Tuy nhiên, Người đã rút lui khỏi họ và lên núi một mình. Bởi lẽ, Người không muốn họ đặt hy vọng nơi Người chỉ vì đói cơm, thiếu áo, hay cuộc sống đau khổ với nhiều bệnh tật. Hình ảnh Lễ Vượt Qua sắp đến gợi nhớ đến việc Chúa giải thoát và cứu dân Người khỏi ách nô lệ Ai-cập.[18] Nó cũng hướng đám đông dân chúng cũng như các độc giả đến một thứ bánh đích thực. Đó chính là Mình và Máu Đức Giê-su, là lương thực thường tồn và là bánh ban sự sống đời đời cho con người. Bí Tích Thánh Thể được thiết lập trong dịp Lễ Vượt Qua cuối cùng, cũng chính là dấu chứng cuộc Thương Khó – Tử nạn của Đức Giê-su. Nhận biết Người là vị ngôn sứ hay làm phép lạ chưa đủ. Mong muốn Người là vị vua mang lại bảo đảm về vật chất và ổn định về chính trị vẫn chưa đủ. Họ phải vươn đến niềm tin nơi một Đấng Mê-si-a-hoàng đế, yêu cho đến chết và chết trên thập giá, Đấng dẫn họ vào vương quốc Thiên Đàng bằng con đường thập giá, chứ không phải chỉ là no nê cơm bánh.

Trớ trêu thay, xã hội chúng ta đang sống luôn tồn tại một thực tế trái chiều: “Người ăn không hết kẻ lần không ra”. Có những nơi giàu có “ăn sung mặc sướng” thì cũng có những nơi nghèo nàn khổ sở, đến nỗi “cơm không đủ no, áo không đủ ấm”. Có những nhà giàu có đến nứt tường đổ vách, thì cũng cò những gia đình kiếm cơm từng ngày, nhà không có tường để đổ. Có những người dư ăn đến nứt thịt căng da, cũng có những người óm đói gầy guộc. Có biết bao người béo phì thì cũng có biết bao người suy dinh dưỡng. Tình hình đại dịch bùng phát với lệnh phong tỏa gắt gao, Sài Gòn chìm trong sự thiếu thốn đủ điều. “Cái bụng” của dân nghèo, và của cả dân giàu đang bị đánh tơi tả vì thiếu thốn những thực phẩm cần thiết. Tuy nhiên, nhiều “tấm lòng” của những con người hảo tâm vẫn bùng phát không thua gì virus Corona. Cùng với loại virus Corona độc hại đang làm suy yếu và giết chết con người, người ta bỗng thấy một loại vi khuẩn “tình thương” đang âm thầm chăm sóc và cứu sống con người. Chính trong hoàn cảnh bi đát nhất của phận người, bản năng của tình người, tình huynh đệ phổ quát bỗng chỗi dậy một cách mạnh mẽ khủng khiếp. Bên cạnh bản năng thú vật của những người chỉ biết nhắm đến lợi lộc của cá nhân, của doanh nghiệp để tăng giá, trục lợi trên nỗi khổ của những con người cùng khổ trong cơn đại dịch, người ta lại tìm thấy những bản năng con người dám bỏ đi tất cả những lợi lộc và cả thời gian, sức khỏe để mang đến những nhu yếu phẩm 0 đồng cho những người thiếu thốn. “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm những ai yêu thương thì đều được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4,7-8.16). Bản năng tình người, tình nhân loại chính là món quà quý giá nhất, đỉnh nhất, “chất” nhất mà Thiên Chúa đã phú bẩm cho con người. Tuy vậy, tiếc thay, nhiều người trong nhiều lúc lại quên yêu thương và đánh mất món quà ấy một cách quá dễ dàng. Đức Giê-su đã chạnh lòng thương những người đói cơm thiếu bánh. Người đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều tức thì. Phép lạ đó khởi đi từ sự rộng rãi chia sẻ của một cậu bé vô danh. Bí quyết phép lạ đó có lẽ Người vẫn gửi lại trong nhân gian, trong lòng mỗi người. Đó là, mỗi khi con người, đặc biệt là những người no đủ biết nhìn thấy cái đói, cái rách nơi những người người thân, người hàng xóm, bạn hữu, và đồng loại. Tình yêu ấy phải được đặt nền tảng và truy nguồn lên tận Thiên Chúa, Đấng đã chết vì yêu nhân loại, không so đo, tính toán thiệt hơn.

Joseph Phạm Duy Thạch, SVD

 



[1] “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì

Trên đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành”

Và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự Người” (Tv 23,1-3).

[2] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes (AYB; New Haven – London 2008) XXIX, 236.

[3] R. Brown claims that “There is no way of localizing it, although tradition associates it with the northwest shore of the lake and a hill called “the Mount of the Beatitudes.” (R.E. Brown, The Gospel according to John, 232).

[4] E. Haenchen – R.W. Funk– U. Busse, John. A Commentary on the Gospel of John (Hermeneia; Philadelphia 1984) 271.

[5] Xem thêm về “Lễ Vượt Qua”, Dictionary of Jesus and the Gospels, 273.

[6] Luca cho biết là Hằng Năm Đức Giê-su đều lên Giê-ru-sa-lem, trong bối cảnh Luca trình bày sự kiện Đức Giê-su “bị lạc” cha mẹ, ở lại trong đền thờ, ngồi giữa “các thầy dạy, vừa nghe họ vừa đặt câu hỏi” (Lc 2,41-49). Tuy vậy, đây là thời gian Đức Giê-su còn ở với cha mẹ tại Na-gia-rét. Chúng ta cũng có thể phỏng đoán rằng, Đức Giê-su vẫn tiếp tục thói quen ấy, mỗi năm lên Giê-ru-sa-lem một lần, như những người Do Thái đạo Đức. Thế nhưng, Gioan có điểm nhấn về 3 lần Lễ Vượt qua, trong khi các Tin Mừng Nhất Lãm thì không đề cập.

[8] Xem B.M. Bokser, The Anchor Dictionary (D.N. Freedman et Al. eds.) (New York – London – Tornto – Syned – Auckland 1992) VI Si-Z, “Unleavened Bread and Passover, Feast of.”,755-765; G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 37.

[9] Danh sách 12 Tông đồ theo Tin Mừng Nhất Lãm. Mát-thêu: “đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em của ông; ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông Ta-đê-ô; ông Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Người” (10,2-4) ; Mác-cô: “Si-môn là Phê-rô, rồi có ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và ông Gio-an em ông Gia-cô-bê -Người đặt tên cho hai ông là Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi, rồi đến các ông An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Ta-đê-ô, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là chính kẻ nộp Người” (3,16-19); Luca: “đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em của ông; ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông Ta-đê-ô; ông Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Người” (6,2-4).

[10] Luca không nhắc đến tên An-rê trong nhóm các môn đệ đầu tiên, và câu chuyện Đức Giê-su gọi Phê-rô – Gio-cô-bê – Gioan cũng thú vị và kịch tính hơn hai tác giả còn lại.

[12] M. Zerwick – M. Grosvenor, A grammatical analysis of the Greek New Testament (Rome 1974) 303.

[13] ibid.

[15] Về những đặc tính của Bí Tích Thánh Thể trong trình thuật này xem thêm R.E. Brown, The Gospel according to John, 246-247.

[16] M. Zerwick – M. Grosvenor, Greek New Testament (Rome 1974) 303.

[17] G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 88.

[18]F.J. Moloney, “John”, The Paulist Biblical Commentary (Ed. J.E.A. Chiu et al.) (New York 2018) 1137.