Wednesday 28 April 2021

CÂY NHO GIÊSU, CÀNH NHO MÔN ĐỆ, VÀ VINH QUANG CỦA CHÚA CHA. Chú giải Tin Mừng Chúa Nhật V Phục Sinh B (Ga 15,1-8)

Bản văn và dịch sát nghĩa

Hy Lạp

Việt

Ἐγώ εἰμι ἡ ἄμπελος ἀληθινὴ καὶ ὁ πατήρ μου ὁ γεωργός ἐστιν.

 2 πᾶν κλῆμα ἐν ἐμοὶ μὴ φέρον καρπὸν αἴρει αὐτό, καὶ πᾶν τὸ καρπὸν φέρον καθαίρει αὐτὸ ἵνα καρπὸν πλείονα φέρῃ.

 3  ἤδη ὑμεῖς καθαροί ἐστε διὰ τὸν λόγον ὃν λελάληκα ὑμῖν·

 4 μείνατε ἐν ἐμοί, κἀγὼ ἐν ὑμῖν. καθὼς τὸ κλῆμα οὐ δύναται καρπὸν φέρειν ἀφ᾽ ἑαυτοῦ ἐὰν μὴ μένῃ ἐν τῇ ἀμπέλῳ, οὕτως οὐδὲ ὑμεῖς ἐὰν μὴ ἐν ἐμοὶ μένητε.

 5 ἐγώ εἰμι ἡ ἄμπελος, ὑμεῖς τὰ κλήματα. ὁ μένων ἐν ἐμοὶ κἀγὼ ἐν αὐτῷ οὗτος φέρει καρπὸν πολύν, ὅτι χωρὶς ἐμοῦ οὐ δύνασθε ποιεῖν οὐδέν.

 6 ἐὰν μή τις μένῃ ἐν ἐμοί, ἐβλήθη ἔξω ὡς τὸ κλῆμα καὶ ἐξηράνθη καὶ συνάγουσιν αὐτὰ καὶ εἰς τὸ πῦρ βάλλουσιν καὶ καίεται.

 7 ἐὰν μείνητε ἐν ἐμοὶ καὶ τὰ ῥήματά μου ἐν ὑμῖν μείνῃ, ὃ ἐὰν θέλητε αἰτήσασθε, καὶ γενήσεται ὑμῖν.

 8 ἐν τούτῳ ἐδοξάσθη ὁ πατήρ μου, ἵνα καρπὸν πολὺν φέρητε καὶ γένησθε ἐμοὶ μαθηταί.

 (Jn. 15:1-8 BGT)

1 Tôi là cây nho đích thực và Cha Tôi là người trồng nho.

2 Cành nào trong Tôi mà không sinh hoa trái, Ngài lấy nó đi, và cành nào sinh hoa trái thì Ngài cắt tỉa để nó sinh nhiều hoa trái hơn.

3 Anh em đã được sạch nhờ lời Tôi đã nói với anh em

4 Hãy ở lại trong Tôi và Tôi ở trong anh em hệt như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái nếu nó không ở lại trong cây nho. Cũng như thế, Anh em cũng không (sinh hoa trái) nếu không ở lại trong Tôi.

5 Tôi là cây nho, anh em là những cành cây. Người nào ở lại trong và Tôi ở trong nó, người này sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Tôi anh em không thể làm gì được.

6 Nếu ai không ở lại trong Tôi, người đó sẽ bị quăng ra ngoài như cành nho bị khô héo, và người ta gom lại và quăng vào lửa, và nó được đốt đi.

7 Nếu anh em ở lại trong Tôi và những lời của tôi ở lại trong anh em, hãy xin điều mà anh em muốn, và nó sẽ xảy ra cho anh em.

8 Vì điều này Cha Tôi được tôn vinh để anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Tôi.

 

Bối cảnh

Đoạn Ga 15,1-10 nằm trong phần thứ III của Tin Mừng thứ tư có tên là “Sách của sự tôn vinh” (13,1 – 20, 29). Cũng xin nói thêm rằng, nhiều chuyên gia đồng ý rằng Tin Mừng thứ tư được chia làm 3 phần rõ nét. Phần I là phần “Lời tựa” (1,1-18)[1]. Phần II được gọi là “Sách của các dấu (lạ)” gồm hơn kém 12 chương, từ 1,19 – 12,50[2]. “Sách của sự tôn vinh” là tên gọi của phần III, từ 13,1 – 20,29 (chương 13 câu 1 đến chương 20 câu 9). “Sách của sự tôn vinh” nói về việc Đức Giêsu “về cùng Cha”, trở lại với sự vinh quang mà Người có trước mọi thời. Nó khởi đầu bằng hành động Đức Giêsu cúi xuống rửa chân cho từng mộn đệ, cho cả Phêrô, kẻ chối Thầy và Giuđa, kẻ nộp thầy (13,1-20); rồi tiếp theo sau đó, là “diễn từ chia tay” kéo dài từ 13,31 – 16,33; phần III này tiếp tục với trình thuật về cuộc Tử Nạn diễn tả cách thức Đức Giêsu đi về cùng Cha (18,1 – 19,42) (đây là Bài Thương Khó thường được đọc hoặc hát vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh). Kết thúc phần III này (Sách của sự tôn vinh) là những trình thuật về “Sự Phục Sinh” (20,1-31).[3]

Tin Mừng Nhất Lãm có những trình thuật liên quan đến vườn nho. Mátthêu nói đến dụ ngôn, tạm gọi là “Người chủ vườn nho tốt bụng” (20,1-16). Dụ ngôn này nói đến một người thợ thuê mướn nhân viên làm vườn nho cho mình. Điều đặc biệt là ông không căn cứ trên số giờ của nhân viên ấy làm việc mà trả lương cho họ. Đối với những người vào làm từ giờ đầu tiên, ông trả một quan tiền/ một ngày như đã thỏa thuận; còn đối với những người vào làm giờ sau cùng, ông cũng trả một quan theo tình thương và lòng quảng đại của ông. Mátthêu còn kể một dụ ngôn khác về “hai người con” được cha mình nhờ cậy đi làm vườn nho (21,28-32). Người con thứ nhất lúc đầu từ chối nhưng sau lại hối hận và lại đi làm; ngược lại người con thứ hai gật đầu nhưng rồi lại không đi làm. Dụ ngôn kết luận rằng: “Những người thu thuế và nhưng cô gái điếm vào Nước Trời trước” các thượng tế và các kỳ mục (Mt 21,31). Dụ ngôn “những ta điền sát nhân” được cả 3 Tin Mừng Nhất Lãm nói đến (Mt 21,33-42; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19). Trong dụ ngôn này, các tá điền được giao cho việc canh tác vườn nho và nộp hoa lợi cho ông chủ. Họ không những không nộp hoa lợi đừng mùa mà con đánh, giết, ném đá các đầy tớ của ông chủ và giết cả đứa con duy nhất của ông. Trong Tin Mừng Gioan, đoạn mà chúng ta đang nghiên cứu, Đức Giêsu không nói dụ ngôn về vườn nho, nhưng Người tự bạch rằng “Người là cây nho thật” và “Cha” của Người là “Người trồng nho” còn các môn đệ là “những cành nho” đây là mối tương quan chặt chẽ giữa Chúa Cha, Đức Giêsu và các môn đệ. Sự gắn bó này được diễn tả bằng cụm động từ “ở lại trong”. Như những cành nho gắn liền với cây nho, các môn đệ cũng gắn liền bằng cách ở lại trong Đức Giêsu như vậy. Chủ đề “ở lại” đã được nói đến trong đoạn trước đó: “ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Các môn đệ có thể đón nhận Thần Khí vì họ biết Người. “Người (Thần Khí) luôn ở lại giữa họ và trong họ” (Ga 14,17). Tiếp theo sau đoạn này (15,1-8), Đức Giêsu tiếp tục mời gọi các môn đệ “hãy ở lại trong tình thương của Thầy” bằng cách “giữ các điều răn của Thầy”, hệt như Đức Giêsu “ở lại trong tình thương” của Cha bằng cách “giữ cách điều răn” của Chúa Cha (Ga 15,10). Trong bối cảnh của toàn Tin Mừng Gioan, ngay từ chương đầu tiên, hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả đã “đến xem nơi Đức Giêsu ở và ở lại với Người ngày hôm đó” (Ga 1,39). Trong “Diễn từ Bánh Hằng sống”, Đức Giêsu cũng khẳng định rằng “ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). Đức Giêsu cũng đã nói với những “Người Do Thái đã tin Người” rằng “nếu anh chị em ở lại trong lời của tôi, anh chị em thực sự là môn đệ của tôi” (Ga 8,31). Chủ đề tiếp theo, chủ đề “sinh hoa trái”, cũng xuất hiện nhiều lần trong cả Tin Mừng thứ tư và Tin Mừng Nhất Lãm. Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giêsu đã nhấn mạnh sự cần thiết của sự “thối đi” của hạt lúa mì gieo vào lòng đất mới sinh ra nhiều bông hạt khác (Ga 12,24). Liền ngay sau đoạn này, Đức Giêsu nói rằng: “Tôi đã cắt đặt anh em ra đi và sinh nhiều hoa trái, hoa trái sẽ tồn tại” (Ga 15,16). Tin Mừng Nhất Lãm đề cập đến lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả: “Hãy sinh hoa trái xứng với lòng hoán cải” (Mt 3,8.10; Lc 3,8-9). Ở Tin Mừng Nhất Lãm, độc giả cũng tìm thấy hành động nghiêm khắc của Đức Giêsu đối với cây vả không sinh hoa trái. Người nguyền rủa: “muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của ngươi nữa” (Mc 11,14; Mt 21,19) và cây vả này sau đó đã “chết khô tận rễ” (Mc 11,20; Mt 21,19). Luca kể “dụ ngôn cây vả không ra trái” để nhấn mạnh sự kiên nhẫn. Trong dụ ngôn này, người chủ vườn đã muốn chặt cây vả không ra trái nhưng người làm vườn lại xin thêm một năm nữa để hy vọng nó sẽ có trái vào năm tới (Lc 13,6-9). Một vài điểm phác họa sau khi quan sát về bối cảnh rộng cũng như hẹp của đoạn Tin Mừng để thấy sự nối kết chủ đề của đoạn Ga 15,1-8, trong Tin Mừng Gioan và toàn bộ cách Sách Tin Mừng.

Giới hạn và cấu trúc

Giới hạn

Đoạn Ga 15,1-8 có sự thống nhất về nội dung và dấu hiệu về ngôn ngữ chuyển đoạn. Chủ đề Đức Giêsu là “cây nho” và các môn đệ là những “cành nho” là chủ đề thống nhất của riêng đoạn này. Cả đoạn trước và đoạn sau đó không đề cập đến chủ đề này. Từ ngữ “cây nho” và “cành nho” chỉ gói gọn trong đoạn này (cây nho: Ga 15,1.5; cành nho: Ga 15,2.4.5.6)[4]. Có sự thay đổi về không gian cách rõ nét giữa cuối chương 14 và đầu chương 15 (14,31 và 15,1). Cuối chương 14 (cụ thể ở Ga 14,31), Đức Giêsu ra lệnh: “Hãy đứng dậy, chúng ta đi khỏi đây”. Đức Giêsu muốn ngụ ý đi đâu? Có nhiều ý kiến khác nhau. Có tác giả cho rằng Đức Giêsu sẽ đi gặp kẻ thù như đã nói trong Tin Mừng Máccô: “Hãy đứng dậy, chúng ta đi nào, kìa kẻ nộp Thầy đã đến” (Mc 14,42). C.S. Keener nghĩ rằng Đức Giêsu đi về cùng Chúa Cha như Người đã nói trước đó: “Ta đi về cùng Cha và tôi là đường cho anh em về cùng Cha” (Ga 14,3-6.28.31).[5] Điều chắc chắn là có sự chuyển đổi về không gian vào cuối chương 14. 15,1 rất có thể là một không gian khác. Đoạn 15,1-8 có thể kết ở 15,8 vì chủ đề “sinh hoa trái” được khởi đầu trước đó và đóng khung tại đây. Trước đó chủ đề sinh hoa trái đa được nhắc đến: “Cành nào không sinh hoa trái thì Người chặt đi” (15,2a); “cành nào sinh hoa trái thì Người tỉa tót” (15,2b); “cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho” (15,4); “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (15,5). Cuối cùng, chốt lại “điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (15,8).[6]

Cấu trúc

Sau khi quan sát kỹ, xin chia đoạn Tin Mừng này thành hai tiểu phần dựa trên hai lời giới thiệu khá giống nhau của Đức Giêsu: “Tôi là cây nho đích thực” (15,1) và “tôi là cây nho” (15,5a). Tiểu phần I được định dạng bằng cấu trúc quy tâm. Thành phần (B) Được sạch “nhờ lời” Đức Giêsu “đã nói”, là thành phần trung tâm của cấu trúc. Thành phần (A) Không sinh hoa trái – lấy đi và sinh hoa trái – cắt tỉa, song song với (//) (A’) Ở lại và sinh hoa trái. Tiểu phần thứ II được cấu trúc bởi hai cặp thành phần song song với nhau. Thành phần (A) Ở lại và sinh hoa trái // (A’) Sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Thành phần (B) Không ở lại, thì bị quăng ra ngoài, khô héo, người ta gom lại và đốt đi (tiêu cực) song song và đối lại với thành phần (B’) Ở lại, cầu xin và được như ý (tích cực). Một cách ngắn gọn có thể nói cấu trúc tổng thể của đoạn này gồm hai phần lớn song song với nhau: (I) Đức Giêsu là cây nho và Cha Người là người trồng nho // (II) Đức Giêsu là cây nho và các môn đệ là những cành nho. Ghép hai thành phần này lại độc giả có thể thấy một mối liên hệ xuyên suốt từ Cha – Đức Giêsu – các môn đệ: Cha “trồng”, “chăm sóc” và “nuôi dưỡng” cây nho Giêsu và Đức Giêsu “sinh ra”, “chăm sóc” và “nuôi dưỡng” các cành nho là môn đệ của Người. Các môn đệ lai sinh hoa trái để mang vinh quang cho Cha.

(I) Giới thiệu:  TÔICÂY NHO ĐÍCH THỰC VÀ CHA TÔINGƯỜI TRỒNG NHO (15,1).

(A) Không sinh hoa trái – lấy đi; hoặc sinh hoa trái cắt tỉa – sinh nhiều hơn (15,2)

(B) Sạch nhờ lời mà Tôi đã nói (15,3)

(A’) Ở lại trong Thầy và sinh hoa trái (15,4)

(II) Giới thiệu: TÔICÂY NHO, ANH EM LÀ NHỮNG CÀNH CÂY (15,5a)

(A) Ở lại và sinh hoa trái (15,5b)

(B) Không ở lại trong Thầy, bị quăng ra ngoài, khô, gom, đốt (15,6)

(B’) Ở lại trong Thầy, cầu xin và được như ý (15,7)

(A’) Sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ - Cha được tôn vinh (15,8)

Một số điểm chú giải

1.     Cây nho đích thực”: Đoạn Tin Mừng mang tính tự bạch của Đức Giêsu bắt đầu bằng lối nói long trọng quen thuộc của Đức Giêsu “ego eimi” (ἐγώ εἰμι: tôi là). Kiểu nói này cũng là kiểu từ ngữ đặc trưng của Tin Mừng Gioan. Đây chính là cụm từ mà Thiên Chúa đã mạc khải tên của Ngài cho ông Môsê. Trong lần đầu tiên Môsê giáp mặt với Chúa nơi “bụi gai rực cháy”, ông đã hỏi tên của Chúa và Người đã trả lời rằng: “ἐγώ εἰμι”. Nghĩa là “ta là Đấng ta là, Ta là Đấng Hằng Hữu, Ta là Đấng hiện hữu” (rất khó dịch chính xác nghĩa của cụm từ này). Thực ra, đó cũng chỉ là cách dịch tiếng Hy Lạp từ tiếng Do Thái (ngôn ngữ gốc của Thánh Kinh Cựu Ước). Trong tiếng Do Thái, tên của Chúa được viết là “ אֶֽהְיֶ֖ה אֲשֶׁ֣ר אֶֽהְיֶ֑ה ” (tôi là Đấng tôi là). Nói như thế để thấy rằng kiểu nói này khá long trọng, khi Đức Giêsu muốn tuyên bố một điều gì long trọng Người thường dùng điều này. Trong Tin Mừng thứ tư, từ chương 1 đến chương 3, độc giả có thể thấy Gioan Tẩy Giả cũng dùng y chang cụm từ này nhưng ông thường thêm trạng từ phủ định “uck” (không) (ἐγὼ οὐκ εἰμὶ: tôi không là), để cho thấy ông là người dọn đường cho Đấng Kitô, nhưng ông không là Đấng Kitô (ví dụ trong 1,20 và 3,28: “tôi không là Đấng Kitô”; trong 1,21: “Tôi không là Êlia”; trong 1,27: “Tôi không xứng đáng để cởi quai dép cho Người”). Ngược lại Đức Giêsu luôn luôn là: “Tôi là” (Đấng Kitô) (Ga 6,26); “Chính Thầy đây, đừng sợ” (Ga 6,20); “Tôi là bánh trường sinh” (Ga 6,35.48.51); “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6,41); “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 8,12); “khi các ông treo Con Người lên, các ông sẽ biết rằng “tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28); “trước khi có Ápraham, tôi Hằng Hữu” (Ga 8,58). Kiểu nói: “Tôi là” + Đại từ xác định + danh từ + đại từ xác định + tính từ, chúng ta gặp trong đoạn này “Εγώ εἰμι ἄμπελος ἀληθινὴ” (“Tôi là cây nho đích thực”: Ga 15,1), rất giống với kiểu nói “Ἐγώ εἰμι ποιμὴν καλός” (“tôi là mục tử nhân lành” :10,11.14). Tính từ “đích thực” sẽ định nghĩa cho danh từ “cây nho” cũng như tính từ “tốt lành” định nghĩa cho “mục tử”.

Hình ảnh cây nho gợi nhớ đến truyền thống các ngôn sứ diễn tả Ítrael là “cây nho sinh hoa trái” (Os 10,1).[7] Khi Ítrael hối lỗi và trở về, Đức Chúa sẽ làm cho họ “sinh sôi nẩy nở tựa cây nho” (Os 14,8). Đức Chúa hứa với dân “còn sót” rằng họ sẽ là “hạt giống bình an: cây nho sẽ cho quả” (Kg 8,12). Ítrael là “cây nho tuyển” mà Đức Chúa đã trồng (Gr 2,21). Is 5,1-7 nói đến một “bài ca vườn nho”, trong đó, ông chủ đã làm tất cả những gì có thể để trồng và chăm sóc vườn nho: Đồi màu mỡ, giống nho quý, nhặt đá, cuốc đất, xây vọng gác, khoét bồn đạp nho. Ông chờ đợi nó sinh trái tốt, nhưng nó lại sinh nho dại (Is 5,1-3). Như đã nói trong phần bối cảnh, hình ảnh cây nho cũng gợi nhớ đến dụ ngôn “hai người con được sai đi làm vườn nho”, “dụ ngôn tá điền sát nhân” được nói đến trong các Tin Mừng Nhất Lãm. Tuy nhiên, ở đây chính Đức Giêsu là cây nho “thật”, chứ không phải Ítrael hay một vườn nho nào khác.

Trong đoạn Tin Mừng này, câu “tôi là cây nho” được lặp lại hai lần (15,1.5), nhưng chỉ có lần thứ nhất (15,1), tính từ “đích thật” (ἡ ἀληθινὴ) đi kèm theo. Tuy nhiên, có thể ở lần thứ hai (15,5) tác giả tránh lặp lại tính tứ “đích thực” một lần nữa. Dù có hay không tính từ này ở lần thứ hai thì Đức Giêsu vẫn là “cây nho thật”. Có lẽ, phẩm tính “đích thực” ở đây đối lại với “cây nho” Ítrael đã bao lần không sinh trái hoặc sinh nho dại.[8] Phẩm tính “đích thực” cũng muốn diễn tả sự phẩm tính tốt, “chính hiệu” của cây nho mà hễ cành nào phát sinh từ nó đều có hoa trái phẩm chất tốt, như sẽ thấy sau. Đức Giêsu không dùng lối so sánh, Tôi “giống như” cây nho, cũng như Người cũng không nói các môn đệ “giống như” những cành nho. Người “LÀ” cây nho, và các môn đệ “LÀ” cành. Điều đó không có nghĩa rằng Người đồng hóa mình với cây nho. Điều mà Người muốn nhấn mạnh sau đó là mối tương quan cố hữu tự nhiên giữa cây nho và cành nho cũng phải là mối tương quan giữa các môn đệ và Người. Đó là mối quan hệ mang đến sự sống còn cho cành nho, cũng như các môn đệ. Chính vì vậy, E. Haenchen – R. Funk – U. Busse gọi đó là lối diễn tả tương ứng một cách chính xác thực tại của tính “môn đệ”.[9]

2.     Người trồng nho”: “Cây nho thật này” có nguồn gốc từ “Cha của” Đức Giêsu. Có thể vì được “Người Cha” trồng nên cây nho này “đích thực” nhất trong các cây nho. Trong toàn bộ Thánh Kinh, chỉ có Đức Giêsu là cây nho “thật” và “Người cha” cũng là người duy nhất trồng cây nho này. Nếu như Đức Giêsu là cây nho thì người trồng chỉ có Chúa Cha mà thôi. Danh từ “georgos” (γεωργός) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa đầu tiên là “nông dân”, người canh tác đất đai: “chính người nông dân là người đáng được chia sẻ vụ mùa đầu tiên” (2 Tm 2,6). Ngoài ra, nó còn có nghĩa khác là “người làm vườn”, “người giữ vườn nho”, “người trồng nho”, “chủ vườn nho”.[10] Nghĩa là, người Cha có thể bao gồm tất cả các vai trò này. Người chủ vườn nho trong dụ ngôn “tá điền sát nhân” (Mc 12,1-12) có thể ngụ ý đến người Cha này bởi vì nó đề cập đến chi tiết, cuối cùng người chủ gửi người con duy nhất của mình đến để thu hoa lợi, nhưng các tá điền cũng giết cậu và quăng ra ngoài vườn nho (Mc 12,8). Sách Sáng Thế cũng nói đến Nô-ê là người đàn ông canh tác đất đai (St 9,20).

3.     Lấy đi … cắt tỉa”: Một cách tự nhiên, khi chăm sóc vườn nho, người chủ sẽ khôn ngoan cắt tỉa cho những cành cây cho nhiều quả; còn những cành cây không có quả thì ông sẽ chặt bỏ đi, nếu không, chất đinh dưỡng sẽ bị chia cho những nhành cây vô ích. Người Cha cũng sẽ cắt tỉa để những cành cây sinh hoa trái sẽ có nhiều hoa trái hơn. Động từ diễn tả hành động của Người Cha đối với những cành không sinh hoa trái là “áirô” (αἴρω) có nghĩa là lấy đi, tách lìa cành ra khỏi cây nho. Theo lẽ thường, cành nào gắn với cây nho “đích thực” thì phải sinh hoa trái, nếu không sinh hoa trái thì không nên gắn vào đó nữa. Động từ “kaitháirồ” (καθαίρω) dùng để diễn tả hành động của Người Cha dành cho những cành sinh hoa trái. Động từ này có hai nghĩa: (1) Làm sạch; (2) Cắt tỉa những cành cây. Trong bối cảnh này nghĩa thứ hai có vẻ phù hợp hơn. Tuy nhiên, nếu kết hợp với tính từ “sạch” ở câu tiếp theo: “Anh em đã được sạch rồi” thì nghĩa thứ nhất lại phù hợp hơn. Hay nói đúng hơn, cả hai nghĩa cũng được dùng phối hợp với nhau, “cắt tỉa” cũng có nghĩa là “làm sạch”, “làm cho gọn gàng”.

Theo cấu trúc, phần (A) Không sinh hoa trái lấy đi; hoặc Sinh hoa trái cắt tỉa (15,2) song song với phần (A’) Ở lại trong Thầy và sinh hoa trái (15,4). Điều này chứng tỏ rằng (A) sẽ được soi sáng và hiểu rõ nhờ (A’) và ngược lại. (A) Nói đến việc cành nho sinh hoa trái sẽ được cắt tỉa để sinh nhiều hoa trái hơn. Tuy nhiên, muốn sinh được hoa trái thì trước tiên cành nho phải “ở lại trong” Đức Giêsu (ἐν ἐμοὶ) và được Chá cắt tỉa. Sự cắt tỉa này có hiệu quả là các môn đệ được sạch.

4.     Được sạch nhờ lời mà Thầy đã nói”: Theo cấu trúc, đây là phần trung tâm của tiểu phần thứ nhất. Đang nói về việc “cắt tỉa” cành nho để nó sinh nhiều hoa trái hơn (15,2), Đức Giêsu bất ngờ chuyển hướng: “Anh em đã được sạch nhờ lời Thầy đã nói vói anh em” (15,3). Tuy nhiên, câu này nối kết cách chặt chẽ với cả câu trước câu sau đó (15,4). Nó nối kết với câu trước bằng tính từ sạch “καθαρός”. Động từ “cắt tỉa” (καθαίρω) ở câu trước đó cũng có nghĩa là làm sạch.[11] Động từ này có cùng nguồn gốc với tính từ “sạch”. Như thế, sự “cắt tỉa” hay “làm sạch” của cành nho liên hệ đến “sự sạch sẽ” của các môn đệ. Nó nối kết với câu sau đó bằng đặc tính sinh hoa trái. Muốn sinh nhiều hoa trái nhiều thì phải được “làm sạch” hay “cắt tỉa”. Giới từ “đìa” (διὰ) + danh từ ở đối cách (accusative), diễn tả nguyên nhân của một hành động nào đó. Vì thế, “διὰ τὸν λόγον”, có thể hiểu là “vì lời”. Lời này được giới hạn bởi mệnh đề tình từ “vì lời mà thầy đã nói với anh em”. Động từ nói “laléồ” (λαλέω) được chia ở thì hoàn thành, diễn tả một hành động đã diễn ra mà hiệu quả vẫn còn trong hiện tại. Nguyên nhân các môn đệ được sạch là vì lời mà Đức Giêsu đã nói. Lời này là lời nào? C. Barette cho rằng “tiến trình rửa sạch là toàn bộ sự phục vụ yêu thương dành cho nhân loại, đỉnh cao là cái chết; “lời” cũng là thông điệp cứu độ mà Người mang.[12] Nói về cách thức lời “làm cho các môn đệ sạch”, R. Brown giải thích rằng nó không có nghĩa rằng qua hoặc nhờ lời Đức Giêsu công bố mà các môn đệ tự nhiên được sạch. Đúng hơn nó là vấn đề của sự hoạt động, làm việc của lời ấy trong lòng các môn đệ. Lời ở đây có nghĩa là toàn bộ lời dạy của Đức Giêsu.[13] Nói cách khác, chính lời Đức Giêsu làm cho họ được biến đổi và được sạch. “Lời” của Đức Giêsu cũng được lặp lại ở số nhiều (những lời) đi kèm với lời mời gọi: “Anh em hãy ở lại trong Thầy” và “Những lời của Thầy ở lại trong anh em” (15,7). Nếu cả hai điều này xảy ra cùng lúc thì bất cứ điều gì họ muốn, và cầu xin, điều đó sẽ thành hiện thực. Trong Tin Mừng thứ tư, nhiều lần Đức Giêsu dạy về tác dụng của “lời” của Người: “Lời Thầy đã nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (Ga 6,63); “nếu anh em ở lại trong lời của Thầy, anh em thực sự là môn đệ của Thầy”; “ai giữ lời Thầy sẽ không bao giờ thấy sự chết” (Ga 8,51.52); Chính Phêrô cũng xác tín: “Thầy có những lời của sự sống đời đời, chúng con biết đến với ai nữa?” (Ga 6,68). J. Moloney cho rằng được làm sạch bởi lời của Đức Giêsu bao gồm một sự chấp nhận đối với mạc khải về Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.[14]

5.     Quăng ra ngoài, khô héo, gom lại, quăng vào lửa và đốt đi”: Hình ảnh này như tiếp nối và mở rộng hình ảnh ở 15,2 và là hình ảnh đối nghịch của 15,7 như đã thấy trong phần cấu trúc.

(a)  Nối tiếp với 15,12: Ở 15,2 Đức Giêsu nói đến số phận của những cành nho không sinh hoa trái. Chúng sẽ bị tách ra khỏi cây nho. Và dĩ nhiên một khi bị tách ra khỏi thân nho thì cành nho sẽ khô héo và chết. Ở 15,6, Đức Giêsu diễn tả một cách đầy đủ, mạnh mẽ và triệt để hơn về số phận của những ai “không ở lại trong” Người: “nếu ai không ở lại trong Tôi, nó sẽ bị quăng ra ngoài như cành nho bị khô héo, và người ta gom lại và quăng vào lửa, và nó được đốt đi.”. Có 4 động từ được dùng trong câu này: “Quăng ra ngoài”; “Bị khô héo”; “Gom lại”; “bị đốt cháy”. Trong bốn động từ được dùng đó có đến ba động từ diễn tả sự loại bỏ và tận diệt rất mạnh. Thậm chí, động từ “quăng, ném” (βάλλω) được dùng đến 2 lần: “Quăng ra ngoài” và “ném vào lửa”. Phải nói đây là sự tận diệt bởi nó đi đến bước cuối cùng là “đốt cháy” thành tro. Đây là tiến trình bình thường mà người nông dân xử lý những cành nho “không hoa trái” của mình. Đức Giêsu đã khéo dùng hình ảnh tự nhiên đời thường để diễn tả một số phần nghiệt ngã của những người “không ở lại” trong Chúa. Ngôn từ “gom lại”, “quăng vào lửa” và “đốt đi” phảng phất tư tưởng dứt khoát mạnh mẽ của Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng Nhất Lãm: “Cây rìu đã được đặt dưới gốc cây, vì thế bất kỳ cây nào không sinh hoa trái thì bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10; Lc 3,9)[15]; “Tay Người cầm nia, thóc mẩy thì bỏ vào kho còn vỏ trấu thì Người sẽ đốt đi bằng lửa không hề tắt” (Mt 3,12; Lc 3,17). Đức Giêsu cũng nói đến việc “cỏ lùng sẽ được gom lại và đốt đi”, tương tự “những nguyên nhân tội lỗi và người làm điều xấu sẽ bị ném vào lò lửa” (Mt 13,40.42.50). Đây là những hình ảnh của ngày cánh chung (tận thế). R. Brown ghi chú, khi dùng danh từ “lửa” với mạo từ xác định (τὸ πῦρ), có thể tác giả có ý đề cập đến lửa của sự trừng phạt thời cánh chung.[16]

(b)  Song song nhưng đối lại về nghĩa với 15,7: 15,7 Nói đến điều kiện “nếu như anh em ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong anh em thì hãy xin điều anh em muốn, nó sẽ xảy ra” trong khi đó 15,6 nói về việc “không ở lại trong”: quăng ra ngoài, khô héo, gom lại, quăng vào lửa và bị đốt. Kiểu hành văn song đối làm nỗi bật hai hình ảnh trái ngược giữa hai chọn lựa khác nhau của những người tin.

6.     Ở lại trong” (μένω ἐν): Theo cấu trúc, trong phần (A’), Đức Giêsu mời gọi các môn đệ “hãy ở lại trong Thầy”. Động từ “μένω” được sử dụng với mật độ dày đặc trong đoạn văn này. Có ít nhất 7 lần động từ này được dùng trong đoạn văn chỉ có 8 câu (“Hãy ở lại trong Thầy như Thầy trong anh em”; “trừ khi cành nho ở lại trong cây nho”; “trừ khi anh em ở lại trong Thầy” (15,4); “Ai ở lại trong Thầy và Thầy trong người ấy” (15,5); “Nếu ai đó không ở lại trong Thầy” (15,6); “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy trong ở lại trong anh em” (15,7). Mạch chảy của động từ “ở lại trong” vẫn tiếp tục cho đến những câu sau đoạn này: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (15,9); “nếu anh em giữ những điều răn của Thầy, anh em ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy giữ điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (15,10). Đó là chưa tính đến những lần tác giả ngụ ý để tránh lặp lại động từ này. Rõ ràng, chủ đề “ở lại trong” là một chủ đề trọng yếu trong đoạn này. Chủ đề “ở lại trong” kéo dài đến Ga 15,16. Nghĩa là thêm 8 câu sau đoạn này nữa. C. Keener gọi chủ đề này là thần học chủ đạo của đoạn này hệt như là “cây nho” và “hoa trái” là hai hình ảnh chủ đạo.[17] Việc so sánh sự “ở lại trong Thầy” giống như “cành nho ở lại” trong cây nho, cho thấy một sự gắn bó tự nhiên, cố hữu quyết định sự sống chết của cây nho. Khi cành nho tách khỏi cây nho, nó sẽ chết. Cũng vậy, nếu không “ở lại trong” Đức Giêsu các môn đệ cũng sẽ chết. Như thế, người tín hữu không phải là một con người tự quyết theo kiểu muốn làm gì thì làm theo ý mình nhưng là người luôn lãnh nhận điều mới từ Đức Giêsu, cũng như Đức Giêsu không nói và làm điều gì tự mình. Người làm điều Người thấy Chúa Cha làm (Ga 5,19.36; 8,28; 10,25.37) và nói những điều Chúa Cha trao phó (“Điều tôi nói, tôi nói như là Chúa Cha đã bảo tôi” (Ga 12,50). “Chúa Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ờ trong Chúa Cha” (Ga 14,11).

7.     Sinh hoa trái… sinh nhiều hoa trái”: Chủ đề “ở lại trong” đi liền sát bên chủ đề “sinh hoa trái”. Có thể nói rằng, hai chủ đề này như là một “cặp bạn nhảy” ăn ý lầu năm trong đoạn Tin Mừng này.  Cụm động từ “sinh hoa trái” (φέρον καρπὸν) xuất hiện đến 6 lần (động từ “ở lại” cũng xuất hiên 7 lần) trong đoạn văn gồm 8 câu (câu 2: 3 lần; câu 4: 1 lần; câu 5: 1 lần; câu 8: 1 lần). Ngoài ra, có một lần nó xuất hiện cách ẩn ý nữa: “Cành nho không tự mình sinh hoa trái nếu không gắn liền với cây nho; cũng như vậy, anh em cũng không (sinh hoa trái) nếu không ở lại trong Thầy”. Hành động “sinh hoa trái” có hai cấp độ: (1) Sinh hoa trái và (2) “Sinh nhiều hoa trái” (καρπὸν πολύν: 15,2.5.8). Nghĩa là luôn có mức độ tiến triển trong việc “sinh hoa trái”. E. Haenchen – R. Funk – U. Busse cho rằng tác giả có sự phân biệt giữa hai sự (có thể là 3) “không hoàn hảo” của những người tin vào Chúa: Từ mức độ khô héo đến mức độ sinh hoa trái và đến sinh nhiều hoa trái.[18] Muốn “Sinh nhiều hoa trái” phải chịu sự cắt tỉa (15,2). Ai muốn “sinh nhiều hoa trái” phải ở lại trong Đức Giêsu và Đức Giêsu ở lại trong anh ta/chị ta. Hơn nữa, “sinh nhiều hoa trái là một trong những điều “làm cho Chúa Cha được tôn vinh. Danh từ “hoa trái” trong cụm động từ “sinh hoa trái” hay “sinh nhiều hoa trái” nên hiểu theo nghĩa nào vẫn là một đề tài đáng bàn luận. C. Keener không ngần ngại gọi đó là “hoa trái của tình yêu” nối kết với đề tài “ở lại trong tình yêu” được nói đến ngay sau đó (15,10).[19] Ngoài ra, ông còn đề xuất một số loại “hoa trái” khác trong bối cảnh toàn Tin Mừng Gioan: (1) Hoa trái của chứng từ Kitô hữu được nói đến trong (Ga 4,36: “Người thu hoạch đã được nhận phần thường và thu lượm hoa trái cho sự sống đời đời”; Ga 12,4: “nếu hạt lúa rơi xuống đất mà thối đi thì “nó mới sinh nhiều bông hạt”); (2) Hoa trái về luân lý đạo đức. Trong bối cảnh Tin Mừng Nhất Lãm có thể nói đến lời rao Giảng của Gioan Tẩy Giả: “Hãy sinh hoa trái xứng với lòng hoán cải” (Mt 3,8.10; Lc 3,8-9). Trong bối cảnh trực tiếp của đoạn văn, “Sinh nhiều hoa trái” có liên quan đến “trở thành môn đệ của” Đức Giêsu và liên quan đến sự tôn vinh của Chúa Cha.

8.     Cha được tôn vinh”: Chủ đề “sinh nhiều hoa trái” khép lại đoạn văn. “Sinh nhiều hoa trái”, cùng với việc “trở thành môn đệ” là hai tiêu chuẩn để Chúa Cha được tôn vinh. Như đã nói trên, trong phần “bối cảnh”, đoạn 15,1-8 nằm trong “Sách của sự tôn vinh”. Vì thế, chủ đề tôn vinh được nhắc đến ở đây cũng là điều dễ hiểu. Chỉ có một điều khác biệt là sự kết hợp giữa “sinh hoa trái” và “trở thành môn đệ” là những điều làm cho Chúa Cha được tôn vinh. Nếu xâu chuỗi toàn bộ các hình ảnh liên quan đến nhau từ đầu đến giờ lại. Ta có thể nói như sau: Chúa Cha là người trồng và chăm sóc cây nho Giêsu – cây nho Giêsu là nơi để cho các “cành cây” môn đệ “ở lại” – và nếu “ở lại trong cây nho” Giêsu thì nó sẽ sinh nhiều hoa trái – “Sinh nhiều hoa trái” và “ở lại trong” Giêsu là những đặc tính của những người môn đệ - Và những đặc tính này làm cho Chúa Cha được tôn vinh. Nói gọn lại:  Chúa Cha trồng cây nho Giêsu là để cho các môn đệ nhờ Người mà sinh hoa trái và họ càng sinh nhiều hoa trái tốt thì Chúa Cha lại được tôn vinh. Đó là vòng tuần hoàn trong mối tương quan yêu thương cứu độ Chúa Cha dành cho nhân loại. Động từ “tôn vinh” được dùng ở thì aorist có thể ngụ ý hai nghĩa: (1) Sẽ được tôn vinh và (2) Luôn luôn được tôn vinh. Mỗi khi các môn để thể hiện “căn tính” môn đệ nơi mình bằng cách sinh nhiều hoa trái tốt lành, thì Chúa Cha sẽ được tôn vinh. R. Brown cho rằng, nó có thể có yếu tố “một lần cho tất cả” trong thì aorist này, bởi vì các môn đệ tiếp tục sứ vụ của Đức Giêsu và duy trì hiệp thông với Người, vậy nên, chỉ có một sứ vụ được chia sẻ bời Người Con và các môn đệ. Trong một sứ vụ này, Chúa Cha được tôn vinh.[20]

9.     Trở thành môn đệ của Tôi”: Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giêsu gọi các môn đệ là “môn đệ của tôi” trong 3 dịp. Ngoài lần này (15,8), “trở thành môn đệ của tôi” đi đôi với “sinh nhiều hoa trái” làm thành hai đặc tính để Chua Cha “được tôn vinh”, Đức Giêsu còn đề cập đến 2 điều kiện để được gọi là môn đệ của Người. Thứ nhất, “Ở lại trong lời của Người” (“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, các ông thật là môn đệ của tôi: Ga 8,31). Thứ hai, “Có tình yêu thương lẫn nhau” (“mỗi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của thầy, nếu anh em có lòng yêu thương nhau”: Ga 13,35). Điểm quy chiếu của mức độ yêu thương của các môn đệ dành cho nhau là “như Thầy đã yêu”. “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu” là “điều răn mới” Đức Giêsu ban cho các môn đệ. “Điều răn mới” cũng là “lời” đã được Đức Giêsu ban ra. Nghĩa là hai điều kiện mà Đức Giêsu đưa ra ở hai dịp khác nhau, có một sự nối kết mật thiết với nhau. “Ở lại trong lời” và “yêu thương nhau như Thầy đã yêu” là hai cách diễn tả của cùng một nội dung. “Ở lại trong lời” nghĩa là hòa làm một với “lời” trở thành “con của lời” và lời trở thành lẽ sống, lối sống của người môn đệ. Lẽ sống, lối sống căn bản, nền tảng, bao trùm mọi “lời” của Đức Giêsu là điều răn mới: “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”.

Bình luận chung

Phụng vụ tuần IV Phục Sinh cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về Mục Tử Tốt Lành Giêsu. Vị Mục Tử ấy tốt lành ở 3 điểm chính: (1) Người dám hy sinh tính mạng vì đoàn chiên. Đây là đặc tính làm cho Cha yêu mến vị mục tử và cũng là mệnh lệnh của Cha; (2) Người biết chiên của Người mà chiên của Người biết Người, một sự hiểu biết đỉnh cao hệt như Con biết Cha và Cha biết Con; (3) Vị mục tử có hoài bảo tìm kiếm, quy tụ tất cả các con chiên thành một đàn chiên duy nhất và một vị mục tử. Trong đoạn Tin Mừng tuần V Phục Sinh, độc giả cũng tìm thấy cách hành văn và lối diễn tả tương tự về một vai trò khác của Đức Giêsu: “Người là cây nho đích thực”. Trong truyền thống Cựu Ước, Ítrael là một vườn nho được Thiên Chúa trồng và chăm sóc, nhưng nhiều khi nó sinh nho dại chứ không sinh trái ngọt trái ngon. Trong bối cảnh đo, Đức Giêsu tự bạch rằng “Người là cây nho thật”. Từ cây nho này, hoa trái tốt lành sẽ được sinh ra. Cây nho thật có nguồn gốc từ Cha, được Cha trồng và chăm sóc. Chính Chúa Cha là người chịu trách nhiệm tối cao cho tất cả những gì Đức Giêsu nói và mạc khải.[21] Nguồn gốc và cách thức chăm sóc của Cha làm cho “cây nho” Giêsu trở thành cây nho độc nhất vô nhị. Với cây nho chính hiệu, phẩm chất tốt như thế thì lẽ ra bất cứ “cành cây nào gắn liền” với nó đều phải sinh hoa trái. Tuy nhiên, thực tế, không phải bất cứ “cành nho” gắn liền với cây nho đều sinh hoa trái. Một cách tự nhiên, có những cành không sinh hoa trái và bị lấy đi; và nhiều cành sinh hoa trái thì được để lại. Muốn sinh được nhiều hoa trái những cành này phải được cắt tỉa, làm sạch những nhánh con không cần thiết. Sự cắt tỉa những nhánh cây được ví như sự thanh tẩy, làm sạch cho người môn đệ. Và công cụ, tác nhân làm sạch cho người môn đệ không gì khác hơn là lời Đức Giêsu đã nói. Nếu họ ở lại trong Đức Giêsu thì được lời Người làm cho sạch trong và sinh được nhiều hoa trái thiêng liêng tốt lành. Yếu tố căn bản tiên quyết để sinh hoa trái là phải “ở lại trong Đức Giêsu” và để cho “những lời” của Người ở trong mình. Bất cứ ai không ở lại trong Đức Giêsu thì bị quăng ra ngoài, bị khô héo, bị gom lại, bị ném vào lửa và bị đốt đi, cháy rụi. Đó là hình ảnh hình phạt thời cánh chung. Hình phạt ấy có thể bắt đầu từ thời này, lúc này. Một khi người ta không ở lại trong Đức Giêsu và không chịu để cho lời của Người cắt tỉa, Người ta sẽ tự nhiên thiếu nhựa sống và khô héo, chết queo. Những cành nho gắn liên với thân cây nho, chịu cắt tỉa bởi Người Cha, và sinh nhiều hoa trái; sinh nhiều hoa trái tình yêu cũng là biểu hiện của người môn đệ của Đức Giêsu. “Sinh nhiều hoa trái” và “trở thành môn đệ” của Đức Giêsu là những điều làm cho Chúa Cha được tôn vinh. Nói cách khác, việc trở thành môn đệ, đồng nghĩa với việc các tín hữu ở lại trong Đức Giêsu, và ở lại trong Đức Giêsu thì sinh nhiều hoa trái tình yêu. Điều này làm cho Chúa Cha được tôn vinh. Tương tự như kiểu nói: “mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy nếu anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Đoạn Tin Mừng này được cấu trúc theo một vòng tròn khép kín biểu lộ tương quan tình yêu cứu độ: Cha trồng và chăm sóc cây nho Giêsu – cây nho này sinh ra những cành nho môn đệ – những cành nho này ở trong cây nho Giêsu và sinh nhiều hoa trái yêu thương – nhiều hoa trái yêu thương làm cho Chúa Cha được tôn vinh. Dĩ nhiên, sự tôn vinh Chúa Cha ở mức độ cao nhất phải là sự tôn vinh nơi Người Con chứ không phải nơi hoa trái của các môn đệ. Trong Tin Mừng thứ tư, sự tôn vinh ấy bắt đầu khi Người Con bước vào cuộc khổ nạn: “Giờ đây Con Người được tôn vinh cả Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31-32). Đức Giêsu sẽ làm bất cứ điều gì các môn đệ cầu xin “để Chúa Cha được tôn vinh nơi Người Con” (Ga 14,13). Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giêsu làm cho Cha Người được tôn vinh qua những dấu lạ Người làm: “Dấu lạ chữa người bất toại” (“Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa”, Mt 9,8; Mc 2,12; Lc 5,25-26); “Phép lạ chữa con trai bà góa Nain” (“Họ sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa, nói rằng: Một ngôn sứ đã xuất hiện giữa chúng ta và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người: Lc 7,16).

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD



[1] Chương 1, từ câu 1 đến câu 18, ghi chú: gạch ngắn ở giữa là dấu cách từ câu này đến câu kia.

[2] Chương 1 câu 19 đến chương 12 câu 50, ghi chú: gạch dài ở giữa là dấu cách từ chương này đến chương kia.

[3] Xem F.J. Moloney, “John”, The Paulist Biblical Commentary (Ed., J.E.A. Chiu et als) (New York 2018) 1110-1111.

[4] Ghi chú: dấu chấm là dấu các giữa câu này với câu kia trong cùng một chương.

[5] C.S. Keener, The Gospel of John. A Commentary (Grand Rapids 2012) I, 986.

[6] J. Moloney chọn khối thống nhất của đoạn này là 15,1-11 và ông đề xuất cấu trúc gồm 3 phần: (1) Abiding in Jesus (vv.1-5a); (2) The results of abiding and not abiding in Jesus (vv.5b-8); (3) Abiding in the love of Jesus (vv.9-11) [F.J. Moloney, The Gospel of John (SP; Collegeville 2005) IV, 419].

[7]  Một số đoạn khác của Cựu Ước nói đến Ít-ra-el là vườn nho: Tv 80:8-16; Is 27,2-6; Ed 15,2-6; 17,5-10; 19,10-14.

[8] F.J. Moloney, “John”, 1163; C.S. Keener, The Gospel of John, 993; Đây là ngôn ngữ của hình thức bút chiến, F.J. Moloney, The Gospel of John, 419.

[9] E. Haenchen – R.W. Funk – U. Busse, John: a commentary on the Gospel of John (Hermeneia – CHCB; Philadelphia 1984) 131.

[10] C.S. Keener, The Gospel of John, 989.

[11] R.E. Brown, The Gospel according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and notes (AYB; New Haven – London 2008) 29A, 660.

[12] C.K. Barrett, The Gospel According to St. John. An Introduction with Commentary and Notes on the Greek Text (Philadelphia 1978) 474.

[15] Đức Giê-su cũng lặp lại “cây nào không sinh hoa trái tốt lành thì bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 7,19).

[17] C.S. Keener, The Gospel of John, 988.

[18] E. Haenchen – R.W. Funk – U. Busse, John: a commentary on the Gospel of John, 131.

[19] C.S. Keener, The Gospel of John, 988.

[21] F.J. Moloney, The Gospel of John, 419.

Friday 23 April 2021

“MỤC TỬ TỐT LÀNH” BIẾT, TÌM VÀ CHẾT CHO ĐÀN CHIÊN. Chú Giải Tin Mừng CN IV PS B (Ga 10, 11-18); Lm. Jos. Ph.D.Thạch, SVD

Bản văn và dịch sát nghĩa

Hy Lạp

Việt

11 Ἐγώ εἰμι ὁ ποιμὴν ὁ καλός. ὁ ποιμὴν ὁ καλὸς τὴν ψυχὴν αὐτοῦ τίθησιν ὑπὲρ τῶν προβάτων·

 12 ὁ μισθωτὸς καὶ οὐκ ὢν ποιμήν, οὗ οὐκ ἔστιν τὰ πρόβατα ἴδια, θεωρεῖ τὸν λύκον ἐρχόμενον καὶ ἀφίησιν τὰ πρόβατα καὶ φεύγει- καὶ ὁ λύκος ἁρπάζει αὐτὰ καὶ σκορπίζει-

 13 ὅτι μισθωτός ἐστιν καὶ οὐ μέλει αὐτῷ περὶ τῶν προβάτων.

 14  Ἐγώ εἰμι ὁ ποιμὴν ὁ καλὸς καὶ γινώσκω τὰ ἐμὰ καὶ γινώσκουσίν με τὰ ἐμά,

 15 καθὼς γινώσκει με ὁ πατὴρ κἀγὼ γινώσκω τὸν πατέρα, καὶ τὴν ψυχήν μου τίθημι ὑπὲρ τῶν προβάτων.

 16 καὶ ἄλλα πρόβατα ἔχω ἃ οὐκ ἔστιν ἐκ τῆς αὐλῆς ταύτης· κἀκεῖνα δεῖ με ἀγαγεῖν καὶ τῆς φωνῆς μου ἀκούσουσιν, καὶ γενήσονται μία ποίμνη, εἷς ποιμήν.

 17 Διὰ τοῦτό με ὁ πατὴρ ἀγαπᾷ ὅτι ἐγὼ τίθημι τὴν ψυχήν μου, ἵνα πάλιν λάβω αὐτήν.

 18 οὐδεὶς αἴρει αὐτὴν ἀπ᾽ ἐμοῦ, ἀλλ᾽ ἐγὼ τίθημι αὐτὴν ἀπ᾽ ἐμαυτοῦ. ἐξουσίαν ἔχω θεῖναι αὐτήν, καὶ ἐξουσίαν ἔχω πάλιν λαβεῖν αὐτήν· ταύτην τὴν ἐντολὴν ἔλαβον παρὰ τοῦ πατρός μου.

(Jn 10,11-18)

11 Tôi là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống vì những con chiên của mình.

12 Người làm thuê không phải là một người mục tử, những con chiên không thuộc về anh ta. Khi anh ta thấy sói đến, anh ta để những con chiên lại và tẩu thoát, và sói vồ lấy chúng và chúng phân tán.

13 Vì anh ta chỉ là người làm thuê, anh ta không bận tâm về những con chiên.

14 Tôi là mục tử tốt lành và tôi biết những con chiên của tôi và những con chiên của tôi biết tôi.

15 Hệt như Người Cha biết tôi và tôi biết Người Cha, và tôi hy sinh mạng sống vì những con chiên.

16 Tôi có những con chiên khác, những con không thuộc đàn này. Tôi phải dẫn chúng về và chúng nghe tiếng tôi, và sẽ trở thành một đàn chiên và một mục tử.

17 Sở dĩ Người Cha yêu thương tôi là vì tôi hy sinh mạng sống của tôi để rồi tôi lấy lại nó.

18 không ai lấy nó khỏi tôi, tôi có quyền hy sinh nó và tôi có quyền lấy lại nó. Đây là mệnh lệnh tôi nhận từ Cha của tôi.

 

Bối cảnh

Đoạn văn Ga 10,11-18 nằm trong đoạn lớn 9,1 – 10,21, đoạn dài nói về việc một người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt, trong khi đó những lãnh đạo Do Thái lại trở nên mù lòa (9,1-38). Tiếp theo sau đó, song song với việc mặc khải mình là một mục tử đích thực, Đức Giêsu quở trách cách ý nhị các lãnh đạo Do Thái là những người mù, những kẻ trộm, những tên cướp, những kẻ xa lạ và những kẻ chăn thuê, những người không quan tâm đến những con chiên họ chăn (9,39 – 10,13). Bối cảnh cử hành Lễ Lều của người Do Thái (Ga 7,2) kéo dài cho đến Ga 10,21 là bối cảnh phù hợp cho những diễn từ nói về một Mục Tử Tốt Lành mang tính Mêsia.[1] Chủ đề về một Mục Tử tốt lành nối kết chặt chẽ với phần đầu của chương 10 nói về mục tử (Ga 10,2); Đức Giêsu là “cửa chuồng chiên” (Ga 10,7). Chủ đề “mục tử” cũng được Tin Mừng Mátthêu nhắc đến ngay từ đầu. Đức Giêsu chính là “vị mục tử chăn dắt dân ta, Israel” (Mt 2,26). Người cũng được ví như người “mục tử” bỏ chín mươi chín con chiên lạc được nói đến trong Mátthêu và Luca (Mt 18,12-14; Lc 15,4-7); là vị “mục tử” chạnh lòng thương đám dân chúng vì họ bơ vơ không người chăn dắt (Mt 9,36; Mc 6,34). Đức Giêsu cũng là vị mục tử cánh chung, Người phân biệt “chiên” và “dê” trong ngày cánh chung (Mt 25,32). Chủ đề “người mục tử” cũng là một trong những chủ đề nổi bật trong các sách Cựu Ước. Chúa là mục tử (St 48,15; Tv 23,1). Vua Đavít là mục tử chăn dắt dân Ítrael (2 Sm 5,2; 1 Sbn 11,2; Tv 78,71). Các ngôn sứ nói về những ngôn sứ Chúa ban (Gr 3,15; 23,4; Mk 5,5;) và những ngôn sứ xấu xa, bị Chúa lên án (Gr 10,21; 12,10; 23,1-2; 50,6; Ed 34; Dcr 10,3; 11,8). Chủ đề “hy sinh mạng sống” vì đàn chiên gợi nhớ và tiền báo về cái chết đau khổ mà Đức Giêsu đã trải qua. Điều đó đã được Đức Giêsu nói trước trong khi Người lập Bí Tích Thánh Thể: “đây là mình Thầy, mình được trao ban vì anh em” (Lc 22,19). Cách Gioan mô tả cảnh Đức Giêsu bị bắt trong vườn Cây Dầu cho thấy Đức Giêsu tự ý hiến mạng sống mình, như Người đã nói ở trong trình thuật này (Ga 10,18). Chỉ có Tin Mừng Gioan ghi lại chi tiết rằng: sau khi Đức Giêsu nói: “Chính là tôi đây” thì tất cả quân lính đều “lùi lại và ngã xuống đất” (Ga 18,6). Điều này chứng tỏ rằng nếu Đức Giêsu không tự hiến mạng sống mình thì chẳng có ai có thể bắt Người được. Ngoài ra, chủ đề Đức Giêsu nối kết với Chúa Cha qua sự hiểu biết cũng liên kết với nhiều đoạn trong Tin Mừng thứ tư. Đức Giêsu biết Cha vì Người đến từ Cha (Ga 7,29; Cf. 17,25). Ai biết Đức Giêsu thì cũng biết Chúa Cha (Ga 8,18; 14,7). Trong câu chuyện “chữa lành người mù từ thuở mới sinh” trước đó (Ga 9,1-41), những người Do Thái, cũng chất vấn anh mù về sự hiểu biết của anh ta về người đã chữa lành cho anh ta. Anh ta đã từng bước tiến triển trên con đường nhận thức về Đức Giêsu để rồi đạt đến đỉnh cao là tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu. Từ sự mù mờ: “Tôi không biết” (Ga 9,12), đến phủ nhận Đức Giêsu là một tội nhân, và khẳng định “một điều tôi biết là tôi dù đã bị mù nhưng giờ tôi thấy” (Ga 9,25); cuối cùng nhận ra Đức Giêsu là Đức Chúa (Lord) và tuyên xưng niềm tin và thờ lạy Người (Ga 9,38). Trong bối cảnh trực tiếp, vào đầu chương 10, đoạn ngay trước đoạn này diễn tả rằng những con chiên “theo người mục tử vì chúng biết giọng nói của anh ta” (Ga 10,4). Chúng không “theo người lạ vì chúng không biết tiếng của người lạ” (Ga 10,5). Trong đoạn này (Ga 10,11-18), Đức Giêsu khẳng định là Người biết chính những con chiên của Người và chúng biết Người (Ga 10,14), như thể là Người Cha biết Người và Người biết Người Cha (Ga 10,15). Đó là một cái nhìn sơ lược về bối cảnh để thấy được sự nối kết những chủ đề của bản văn này với những đoạn trước đó và sau đó, với toàn bộ Tin Mừng thứ tư và Tin Mừng Nhất Lãm, cũng như với các Sách Cựu Ước.

Giới hạn và cấu trúc

Giới hạn

Đoạn văn được đánh dấu bằng lời tự bạch của Đức Giêsu (Ga 10,11a). Lời tự bạch này được nhắc lại nhiều lần trong đoạn này (10,11b.14). Vì thế, nó làm cho đoạn văn thống nhất về mặt chủ đề. Ga 10,18 có thể được xem là câu kết của đoạn văn này vì nó đóng lại chủ đề nói về tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giêsu khởi đầu bằng sự hiểu biết giữa Người Cha và Người Con (Ga 10,15). Hơn nữa, câu văn tiếp theo sau đó (Ga 10,16) đã có dấu hiệu thay đổi về nhân vật và chủ đề, nên đoạn văn này nên kết thúc ở 10,18.

Cấu trúc

Sau khi quan sát bản văn, xin đề xuất hai loại cấu trúc: (1) Cấu trúc chi tiết bốn tiểu đoạn; (2) Cấu trúc tổng thể. Đoạn 10,11-18 có thể được chia thành 4 tiểu đoạn. Hai tiểu đoạn đầu tiên được cấu trúc theo lối diễn dịch: bắt đầu bằng một câu chủ để sau đó là những phát triển xoay quanh ý tưởng chủ đề trong câu đó. Tiểu đoạn I gồm hai thành phần song song nhau. Hành động của người mục tử tốt lành: chết cho chiên (A) // (A’) Hành động của người làm thuê: bỏ chiên lại và tẩu thoát. Tiểu đoạn II gồm hai cặp thành phần song song với nhau. Hành động của người mục tử tốt lành: Biết chiên (A) // (A’) Hành động của những con chiên: Biết mục tử. Hành động của Người Cha: Biết Người Con (B) // (B’) Hành động của Người Con: Biết Người Cha. Tiểu đoạn III có cấu trúc đối xứng quy tâm với hai cặp thành phần song song với nhau và hướng vào phía trung tâm. Những con chiên lạc (A) // (A’) Những con chiên đã được quy tụ. Sở dĩ những con chiên lạc được quy tụ là nhờ vào hai hành động: Hành động của người mục tử tốt lành: Tìm kiếm (B) // (B’) Hành động của những con chiên: Lắng nghe. Tiểu đoạn IV gồm có 5 thành phần, cấu trúc theo lối song song. Hành động của Người Cha: Yêu Người Con (A) // (A’) Hành động của không ai: Lấy mạng Người Con. Hành động của Người Con: Tự hiến mạng sống và lấy lại (B’) // (B’) Quyền của Người Con: Tự hiến mạng sống và lấy lại // (B’’) Mệnh lệnh từ Người Cha. Cấu trúc của toàn bộ bốn tiểu đoạn này có thể định dạng bằng hai cặp thành phần song song với nhau: A (I) Mục Tử hy sinh vì những con chiên // A’ (IV) Người Con tự hiến mạng và lấy lại. B (II) Mục tử biết những con chiên // B’ (III) Mục tử biết chiên lạc và tìm chiên lạc.

(1)  Cấu trúc chi tiết 4 tiểu đoạn 

Tiểu đoạn I:

Giới thiệu: “Tôi là mục tử tốt lành (10,11a)

(A) Hành động Mục Tử Tốt Lành: Hy sinh mạng sống vì những con chiên (10,11b)

Giới thiệu: Người làm thuê, không phải là một người mục tử (10,12a)

(A’) Hành động của anh ta: Để những con chiên lại và tẩu thoát (10,12b)

& không bận tâm về những con chiên (10,13)

Tiểu đoạn II:

Giới thiệu: “Tôi là mục tử tốt lành” (10,14a)

(A) Hành động của Người Mục Tử tốt lành: Biết những con chiên (10,14b)

(A’) Hành động của chiên: Biết mục tử (10,14c)

(B) Hành động của Người Cha: Biết Người Con (10,15a)

(B’) Hành động của Người Con: Biết Người Cha (10,15b)

&hy sinh mạng sống vì những con chiên

Tiểu đoạn III:

            (A) Những con chiên lạc (10,16a)

(B) Hành động của Người Mục Tử Tốt Lành: Dẫn chúng về (10,16b)

(B’) Hành động của con chiên: Nghe tiếng tôi (10,16c)

(A’) Những con chiên quy tụ: Một đàn chiên và một mục tử (10,16d)

Tiểu đoạn IV:

            (A) Hành động của Người Cha: Yêu Người Con (10,17a)

(B) Vì hành động của Người Con: Tự hiến và lấy lại (10,17b)

(A’) Hành động của không ai: Lấy mạng Người Con (10,18a)

(B’) Quyền của Người Con: Tự hiến và lấy lại (10,18b)

(B’’) Mệnh lệnh của Người Cha (10,18c)

(2)  Cấu trúc tổng thể: 

        A (I) Hành Động của Mục tử tốt lành: Hy sinh vì những con chiên (Ga 10,11-13)

          B (II) Hành động của mục tử tốt lành: Biết chiên (Ga 10,14-15)

          B’ (III) Hành động của mục tử tốt lành: Biết chiên lạc và tìm chiên lạc (Ga 10,16)

       A’ (IV) Hành động của Người Con: Tự hiến mạng sống và lấy lại (Ga 10,17-18)

Một số điểm chú giải

1.     Mục tử tốt lành (ὁ ποιμὴν ὁ καλός): Danh từ mục tử (ὁ ποιμὴν), đi chung với tính từ “tốt lành” (ὁ καλός) chỉ xuất hiện trong Tin Mừng Gioan và chỉ xuất hiện trong đoạn này. Nó xuất hiện một cách dày đặc. Có đến 3 lần cụm danh từ này được dùng trong đoạn này (10,11a.11b.14). Danh từ “mục tử” được đi kèm với phẩm tính “tốt lành”. Tính từ này bổ nghĩa cho danh từ “mục tử”. Đức Giêsu không phải là bất cứ một mục tử nào nhưng là “mục tử tốt lành”. Chính Đức Giêsu thừa nhận điều này bằng một cách nói long trọng “ego eimi”, “tôi là” (Ἐγώ εἰμι). Động từ “eimi” kéo vị ngữ đến đồng hóa với chủ ngữ: ego (tôi) = “mục tử tốt lành”. Trong toàn bộ các sách Tin Mừng, chỉ có Đức Giêsu mới là “mục tử tốt lành”. Tính từ “καλός” trong tiếng Hy Lạp vừa có nghĩa là đẹp bề ngoài, vừa có nghĩa là tốt bề trong, và là mẫu mực hoàn hảo cho người khác. R. Brown dịch tính từ này là “model” (người mẫu, vật mẫu).[2] Có lẽ ông muốn hiểu Đức Giêsu là hình mẫu cho các mục tử khác Danh từ “mục tử” đứng riêng một mình còn xuất hiện 3 lần khác trong chương 10 (Ga 10,2.12.16). Ga 10,2 nói đến “người đi qua cổng (chứ không trèo rào) là “người mục tử”, “chiên nghe tiếng anh; anh gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra” (Ga 10,2-3). Ga 10,16 nói đến một mục tử và một đàn chiên. Mục tử này có lẽ cũng ám chỉ Đức Giêsu. Ga 10,12, người làm thuê không phải là một mục tử và không sở hữu những con chiên. Như đã nói trên, Tin Mừng Mátthêu giới thiệu ngay từ đầu, Hài Nhi Giêsu chính là một thủ lãnh “chăn dắt” dân Chúa đã được sinh ra trong thành Bếtlehem (Mt 2,6). Mátthêu cũng nói đến một vị mục tử để 99 con chiên ở đồng hoang để đi tìm một con chiên lạc (Mt 18,12-14; Cf. Lc 15,4-7). Mátthêu còn nói đến một vị mục tử của thời cánh chung, tách biệt chiên với dê (Mt 25,32). “Mục tử tốt lành” của Gioan trong bối cảnh trực tiếp đối nghịch lại với những vị mục tử lãnh đạo dân Do Thái thời bấy giờ. Họ không đồng cảm với “người mù từ thuở mới sinh”. Thay vì họ chia sẻ niềm vui với anh vì anh đã được sáng mắt, họ lại tìm cách bắt bớ anh và ngay cả cha mẹ anh cũng bị họ tra hỏi. Họ sợ phải bị trục xuất ra khỏi hội đường nếu họ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Ga 9,22). Nhiều quan quyền tin vào Đức Giêsu nhưng không tuyên xưng vì họ sợ những người Pharisêu sẽ trục xuất họ ra khỏi hội đường (Ga 12,42). Chính “anh mù” cũng bị “trục xuất ra ngoài” vì đã tuyên xưng Đức Giêsu “bởi Thiên Chúa mà đến” (Ga 9,34-35). Hình ảnh “mục tử tốt lành” dĩ nhiên làm người ta nhớ đến hình ảnh đối nghịch với những mục tử “không tốt lành” mà Êdêkiel được lệnh phải nguyền rủa: “Khốn cho các mục tử Ítrael, những kẻ chỉ biết lo cho mình” (Ed 34,2); “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên thì không lo chăn dắt” (Ed 34,3).

2.     Hy sinh mạng sống (τὴν ψυχὴν αὐτοῦ τίθησιν): Phẩm chất “tốt lành” (καλός) được thể hiện một cách mỹ mãn bằng hành động “hy sinh tính mạng” cho những con chiên. Hy sinh mạng sống rõ ràng là sự hy sinh ở mức độ cao nhất, không còn gì để hy sinh nữa. Đây là kiểu nói mang đặc trưng Gioan. Chúng ta tìm thấy cách nói này trong Ga 15,13: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của kẻ dám thí mạng vì bạn hữu của mình”. Trong thư thứ nhất Gioan chúng ta cũng gặp thấy tư tưởng này: “Chúng ta biết tình yêu bằng cách này, Người đã hy sinh tính mạng cho chúng ta, và chúng ta cũng có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau” (1 Ga 3,16).[3] Đức Giêsu khi đứng trước cuộc tử nạn đã xin cho các môn đệ: “nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này đi”. Tác giả Tin Mừng còn thêm “thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói: ‘Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai’” (Ga 18,8-9). Hành động chết thay cho các môn đệ không chỉ ở tầm mức bảo tồn tính mạng tạm thời của các môn đệ, nhưng sâu xa hơn là cái chết của Người trên thập giá đã chuộc tội cho nhân loại, và mang lại cho họ ơn cứu độ, để họ có thể chia sẻ sự sống đời đời với Người. Máu Đức Giêsu là “máu giao ước” đã đổ ra cho “nhiều người được tha tội” (Mt 26,28; Mc 14,24; Lc 22,20; 1 Cr 11,25). Các tín hữu được công chính hóa nhờ máu Đức Giêsu (Rm 5,9). Họ được cứu độ nhờ máu của Người (Eph 1,7; 2,3). Chính máu của Đức Giêsu rửa sạch muôn vàn tội lỗi của chúng ta (1Ga 1,7). Đức Giêsu Kitô đã trao ban chính mình cho chúng ta để Người có thể cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi và thanh tẩy cho Người một dân, dân nhiệt thành với những việc tốt lành (Tt 2,14). Thánh Phaolô cũng xác tín rằng: “Khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô đã chết cho chúng ta” (Rm 5,8; 1 Cr 15,3).

3.     “Người làm thuê” (ὁ μισθωτὸς): Đối lại với “người mục tử” (người đi qua cổng chính) (Ga 10,3) là kẻ trộm, kẻ cướp (trèo qua lối khác) (Ga 10,2). Đối lại với “người mục tử tốt lành” là “người làm thuê”. Danh từ “người làm thuê” được nhắc đến hai lần trong toàn Tin Mừng Gioan, và đều ở trong đoạn này, ở hai câu liên tục, với ý định nhấn mạnh (Ga 10,12.13). Máccô và Luca cũng nói đến một người làm thuê theo nghĩa chung chung: người làm công của gia đình ông Dêbêđê (Mc 1,20); Người con hoang đàng muốn trở thành người làm công của cha mình (Lc 15,17.19). Người làm thuê của Gioan trong bối cảnh này là người chăn chiên mướn. Anh ta có thể chăn mướn theo ngày hoặc theo tháng, nhưng chắc chắn “những con chiên không thuộc về anh ta” (Ga 10,12). Tác giả Gioan phân biệt rõ 3 điều liên quan đến “người chăn thuê” bằng ba câu phủ định: (1) Anh ta không phải là một mục tử (οὐκ ὢν ποιμήν), khác với Đức Giêsu là một mục tử; (2) Những con chiên không thuộc về anh ta (3) Anh ta không bận tâm đến những con chiên. Ba cái “không” đó đã chi phối hoàn toàn hành vi bỏ chiên lại và tẩu thoát của anh ta. Mục Tử Giêsu được định nghĩa là “tốt lành” trong khi đó “người chăn thuê” không được định nghĩa gì cả. Như thế mới hiểu rằng, không phải bất cứ ai chăn chiên, đều là người mục tử. Họ có thể chỉ là “người chăn thuê”.

4.     Để những con chiên lại… tẩu thoát: Dấu hiệu để nhận ra người đang chăn bầy chiên là “một mục tử” hay là “một người chăn thuê” được bộc lộ rõ nét khi đàn chiên gặp nguy hiểm. Nếu như người mục tử “hy sinh tính mạng” để bảo vệ đàn chiên, thì “người chăn thuê” bỏ những con chiên lại, mặc cho sói vồ lấy chiên và làm cho chúng tan tác. Lý do được đưa ra là vì anh ta không “bận tâm đến” sự sống chết của những con chiên, vì những con chiên “không thuộc về anh” và vì anh chỉ là “người chăn thuê”. Dĩ nhiên, con sói ở đây mang ý nghĩa biểu tượng cũng như vị mục tử cũng mang ý nghĩa biểu tượng. Những người “chăn thuê” ở đây có thể là những lãnh đạo Do Thái, đối lại với vị mục tử tốt lành là Đức Giêsu. Những người lãnh đạo này bảo tồn cuộc sống của họ trong khi những cư dân Jêrusalem, “chiên của đàn” bị “vồ” và “phân tán”.[4] Con sói có thể là biểu tượng của thế lực ngoại bang xâm chiếm và phân tán người dân thường. “Con sói” cũng có thể là biểu tượng của quỷ có nguy cơ làm cho những tín hữu mất đức tin, lạc xa Chúa và đưa đến diệt vong. Đức Giêsu nói với những “Người Do Thái” rằng: “Cha các ngươi là quỷ và các ngươi chọn làm theo sở thích của cha các ngươi” (Ga 8,44).[5] Tin Mừng Gioan cũng cho thấy hành động “nộp” Thầy của Giuđa có tác động lớn bởi quỷ: “Ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con trai của ông Simon Ítcariốt ý định nộp Người” (Ga 13,2). Cuộc chiến giành giật mạng sống của “những con chiên” thật sự là một cuộc chiến với ma quỷ. Đức Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở Giuđa nhưng không có kết quả gì (Ga 6,64; 13,11; 13,21.26).

5.     Biết chiên… chiên biết: Đặc tính, biểu hiện tiếp theo của vị “mục tử tốt lành” là “biết những con chiên” của mình. Gioan dùng một cấu trúc song song để diễn tả mối quan hệ hỗ tương giữa “người mục tử tốt lành” và “những con chiên của mình”. Cấu trúc trong tiếng Hy Lạp cho thấy tính song song rất rõ, nhưng khi diễn tả qua tiếng Việt rất khó giữ cấu trúc này. 

          γινώσκω τὰ ἐμὰ                tôi biết những con chiên của tôi

καὶ     γινώσκουσίν με τὰ ἐμά biết tôi những con chiên của tôi

Động từ biết (γινώσκω) diễn tả một sự hiểu biết sâu sắc, qua quá trình tìm hiểu và nhận ra. Mục tử Giêsu biết những con chiên của mình một cách tường tận. Người mục tử Giêsu “gọi tên từng con một, rồi dẫn” những con chiên ra khỏi ràn (Ga 10,3). Khi chiên đã ra hết, anh ta đi trước” (Ga 10,4). Những con chiên đích thực, ngoan hiền cũng có một sự hiểu biết người mục tử y chang như người mục tử hiểu chúng. Liên từ “và” (καὶ) nối hai vế ngang nhau của một câu ghép. Động từ dùng diễn tả sự hiểu biết của Đức Giêsu đối với những con chiên (γινώσκω) cũng là động từ dùng để diễn tả sự hiểu biết của những con chiên đối với Đức Giêsu. Nghĩa là sự hiểu biết này trên lý thuyết là không khác nhau. Khi vị mục tử đi trước thì đàn chiên theo sau (ἀκολουθεω) anh ta (Ga 10,4). Những con chiên “nghe tiếng” (ἀκούω) vị mục tử (Ga 10,3) và “nhận biết tiếng” (οἶδα) của anh (Ga 10,4). Ngay cả những con chiên lạc khi đã được đưa về thì cũng “nghe tiếng” (ἀκούω) mục tử Giêsu (Ga 10,16). “Lắng nghe”, “hiểu biết”, “đi theo sau” là những đặc tính không thể thiếu của những con chiên “biết” vị mục tử của mình.

6.     Biết Cha… Cha biết: Bằng một liên từ so sánh “hệt như” (καθὼς), Đức Giêsu đồng hóa sự hiểu biết giữa Người và những con chiên với sự hiểu biết giữa Người với Cha Người. Dưới đây là sơ đồ về sự đồng hóa của hai sự hiểu biết của hai cặp nhân vật: Mục tử Giêsu – chiên và Người Cha – Người Con. Động từ dùng diễn tả sự hiểu biết của tất cả các nhân vật là như nhau. Động từ “biết” (hiểu, nhận ra) được dùng với mật độ vô cùng dày đặc. Độc giả nghe có cảm giác như là: “biết”, “biết”, “biết” rồi “biết”, một điệp khúc của động từ biết. Điệp từ này cùng với liên từ “hệt như” (καθὼς) góp phần thắt chặt mối tương quan giữa bốn loại nhân vật này lại gần nhau nhất có thể qua sự thấu hiểu lẫn nhau. Hai câu này có cấu trúc như một bài thơ vậy, với hai loại cấu trúc được sử dụng. Cấu trúc của mối tương quan giữa mục tử Giêsu và chiên là cấu trúc song song (A//B), trong khi đó cấu trúc của mối tương quan giữa Cha và Con là cấu trúc giao thoa (Chiasm) (ABBA). Hai cấu trúc này lại được nối với nhau bằng liên từ “hệt như” (καθὼς). Nghĩa là (A//B) = (ABBA). Mối tương quan giữa mục tử - chiên cũng khăng khít như mối tương quan giữa Cha – Con vậy. Đây quả là một lý tưởng đỉnh cao cho cộng đoàn Gioan vươn tới, bởi lẽ sự thấu hiểu giữa Cha – Con là sự thấu hiểu ở mức độ sâu xa nhất trên trần gian này. Đó là nền tảng là điểm quy chiếu cho mọi sự thấu hiểu. 

γινώσκω τὰ ἐμὰ                                     tôi biết (A) những con chiên của tôi (B)

καὶ       γινώσκουσίν με τὰ ἐμά,   và         biết tôi (A) những con chiên của tôi (B)

καθὼς   γινώσκει με ὁ πατὴρ       hệt như            biết tôi (A) Người Cha (B)

κἀγὼ γινώσκω τὸν πατέρα và                  Tôi (B) biết Người Cha (A)

7.     Những con chiên khác (ἄλλα πρόβατα): Sau khi bày tỏ bộc bạch về mối tương quang khăng khít giữa chiên và “người mục tử tốt lành”. Giờ đây, “người mục tử tốt lành” hướng đến những con chiên không thuộc đàn này. Người mục tử này tự cảm thấy có trách nhiệm phải dẫn đưa chúng về. Lối diễn tả “Tôi còn những con chiên khác” (ἄλλα πρόβατα ἔχω) cho thấy Mục tử Giêsu xem những con chiên lạc cũng thuộc sở hữu của Người, dẫu cho những con chiên ấy nhiều khi chẳng biết đến vị mục tử của mình. “Những con chiên khác” cũng có thể là cộng đoàn dân ngoại rộng lớn chưa tin vào Đức Giêsu.[6]

8.     Phải đưa chúng về”: Động từ không ngôi “phải” (δεῖ)[7] diễn tả một sự bắt buộc trong sứ vụ mục tử của Đức Giêsu. Sứ vụ này gợi nhớ đến lời căn dặn của Đức Giêsu dành cho các Tông Đồ khi Người sai các ông đi: “Hãy đến với những con chiên lạc của nhà Ítrael”. Đó cũng chính là sứ vụ của Đức Giêsu: “Tôi chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Ítrael” (Mt 15,24). Một người mục tử bình thường có 100 con chiên mà lỡ mất một con thì anh ta cũng bỏ 99 con lại trên núi để tìm cho được con chiên lạc ấy (Mt 18,10-14; Lc 15,4-7). Bởi lẽ, “ý định của Chúa Cha là không để cho một trong những kẻ bé mọn này bị lạc mất” (Mt18,14). Đức Giêsu đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng là để kêu gọi người tội lỗi (Lc 5,32; Mc 2,17; Mt 9,13). “Phải đưa chúng về” cũng là cách nói về sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Đức Giêsu như người mục tử sẽ quy tụ tất cả về một “đàn chiên” và “một mục tử”. Đó cũng là sứ vụ của Giáo Hội mà Đức Giêsu là đầu. Đây cũng có thể là sự phân biệt thời sơ khai được đưa ra bởi cộng đoàn Do Thái Kitô giáo có Đức Giêsu là mục tử với những Kitô hữu gốc dân ngoại. Đức Giêsu sẽ làm cho họ trở thành một đàn chiên để xóa tan sự khác biệt.[8] Tuy nhiên, xem ra cho đến ngày nay sự phân rẽ ngày càng nhiều giữa các đàn chiên của Đức Giêsu và vẫn chưa có một đàn chiên và một người mục tử. Có chăng là một mục tử và nhiều đàn chiên.

9.     Hy sinh mạng sống … quyền hy sinh mạng sống… Mệnh lệnh từ Cha:

Nhìn vào cấu trúc chi tiết phần IV ở trên, độc giả sẽ thấy 3 thành phần đi song song với nhau: phần (B) Hy sinh mạng sống & lấy lại // Phần (B’) Quyền hy sinh mạng sống & lấy lại // Phần (B’’) Mệnh lệnh từ Chúa Cha. Sự hy sinh mạng sống của vị mục tử tốt lành là vì và cho những con chiên (Ga 10,11.15). Sự hy sinh mạng sống và lấy lại của mục tử Giêsu được lý giải là quyền tự hiến của chính Người (Ga 10,18c). Cuộc gặp giữa Đức Giêsu với quân lính trong “khu vườn” bên kia suối Kítrôn đã cho thấy rõ điều ấy. Quân lính và các thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu “đã lùi lại và ngã xuống đất” khi Đức Giêsu chỉ trả lời là “Ta đây!” (Ga 18,6). Trước quan Philatô, kẻ tự cho mình có quyền tha hay đóng đinh Đức Giêsu (Ga 19,10), Đức Giêsu đã khẳng định rằng “Ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu không được ban xuống từ trên” (Ga 19,11).

10.  Đây là mệnh lệnh tôi nhận từ Cha Tôi”: Lý do mà Người Cha yêu thương Người Con là vì Người Con hy sinh mạng sống mình và lấy lại theo “chỉ dẫn” của Chúa Cha. Sự hy sinh mạng sống cách tự nguyện, tự do này là làm theo “mệnh lệnh” (τὴν ἐντολὴν) của Chúa Cha. Danh từ “ἐντολὴν” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “điều răn”, “mệnh lệnh”, “giáo huấn”, “giới luật” (Lc 23,56). Danh từ này xuất hiện 8 lần trong Tin Mừng thứ tư. Nhiều lần khác, điều răn có nguồn gốc từ Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu ban truyền “một điều răn mới (Ἐντολὴν καινὴν) để mà ‘anh em có thể yêu thương nhau, hệt như Thầy đã yêu thương anh em để mà anh em cũng có thể yêu thương nhau’” (Ga 13,34). Đức Giêsu cũng nói rằng: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì anh em giữ điều răn của Thầy” (Ga 14,15.21; 15,10). Đây là điều răn của Đức Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Bốn lần “lệnh truyền” này có nguồn gốc từ Chúa Cha. Ngoài lần này ra, Chúa Cha cũng ban cho Đức Giêsu một “lệnh truyền” về “điều phải nói và điều phải kể” (Ga 12,49) và lệnh truyền của Chúa Cha là sự sống vĩnh cửu (Ga 12,50). Đức Giêsu “giữ những điều răn của” Cha Người (Ga 15,10). Nhiều lần Đức Giêsu nói gián tiếp về việc Người làm có nguồn gốc từ Chúa Cha. “Người Con không thể tự mình làm điều gì nhưng chỉ những điều anh ta thấy Người Cha làm; vì điều gì Người Cha làm, Người Con cũng làm như thế” (Ga 5,19); “Những công việc Người Cha giao cho Tôi hoàn tất, những công việc tôi đang làm minh chứng thay cho Tôi là Người Cha đã sai Tôi” (Ga 5,36); “Tôi nói những điều này như Người Cha đã hướng dẫn Tôi” (Ga 8,28). Sự hiểu biết Người Cha của Người Con được đề cập trước đó (Ga 10, 15) bao hàm cả việc Người Con biết Người Cha muốn gì, và muốn Người Con làm gì. Do vậy, sự hy sinh mạng sống của Người Con cũng là theo “ý định” của Người Cha. Tin Mừng thứ tư không ghi lại khoảnh khắc Đức Giêsu cầu nguyện, đấu tranh nội tâm trong Vườn Cây Dầu để “xin khỏi phải uống chén này”, nhưng rồi Người sẵn sàng chấp nhận “xin đừng theo ý Con mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39; Cf. Mc 14,36; Lc 22,42). Tuy vậy, cách nói “Chúa Cha yêu tôi vì tôi hy sinh mạng sống rồi lấy lại nó” và “đây là mệnh lệnh của Cha Tôi” cho thấy Đức Giêsu sẵn sàng làm theo mệnh lệnh Chúa Cha cho đến cùng như Tin Mừng Nhất Lãm đã diễn tả.

Tin mừng Gioan cũng ghi lại khoảnh khắc Phêrô khẳng khái tuyên bố: “Con sẽ thí mạng con vì Thầy” (13,37-38) nhưng rồi Đức Giêsu chặn đứng tuyên bố của ông bằng cách bật mí một sự thật phũ phàng: “Trước khi gà gáy, con đã chối Thầy 3 lần” (Ga 13,38). Tuy nhiên, sau này Phêrô cũng đã thực hiện tuyên bố của mình. Ông đã thực sự chết cho niềm tin vào Đức Giêsu và làm chứng cho niềm tin ấy. Theo truyền thống, nơi ông bị đóng đinh ngược là đồi Vatican, là nơi người ta xây Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô ngày nay.

Bình Luận Tổng Quát

Bối cảnh văn hóa chung của thời các tổ phụ trong Cựu Ước là bối cảnh của những người du mục và chăn nuôi.[9] Cho đến thời Đức Giêsu, nhiều người, nếu không muốn nói là đa số dân Do Thái còn sống du canh, du cư. Vì thế, hình ảnh người mục tử là rất quen thuộc với họ. Mục tử thường có những chức năng như cho ăn, cho uống, chăm sóc nói chung, và bảo vệ đàn chiên trước nguy hiểm. Trong lịch sử dân thánh, các ngôn sứ đã cho thấy rằng, bởi có những vị mục tử xấu xa, không bận tâm, chăm sóc những con chiên mà chỉ kiếm lợi lộc trên chúng (Ed 34,2-8), nên Đức Chúa sẽ tự mình, tìm kiếm và chăm nom, chăn nuôi đàn chiên (Ed 34,11-12.15). Người sẽ tập họp chúng lại và dẫn đưa về lại thửa đất của chúng (Ed 34,13). Đức Giêsu chính là Thiên Chúa-mục tử. Chính Người sẽ chăm sóc những con chiên của Người một cách chu đáo. Người không chỉ chăm sóc chúng với những chu cấp bánh ăn nước uống, như đã xảy ra trong dấu lạ hóa bánh ra nhiều (Ga 6,5-15), mà Người còn mang lại sự sống đời đời cho họ. Người tự bạch rằng “Tôi là mục tử tốt lành” đến hai lần trong đoạn văn này (Ga 10,11.14). Cùng với hai lần tự bạch, vị “mục tử tốt lành” diễn giải những phẩm tính ưu việt của mình.[10]

Lần thứ nhất (Ga 10,11), vị mục tử Giêsu bộc lộ phẩm tính ưu việt qua việc sẵn sàng “thí mạng vì những con chiên”. Người cho thấy hình ảnh của Người hoàn toàn trái ngược với “người chăn thuê”. Trong khi “người chăn thuê” không bận tâm, để chiên lại, và tẩu thoát trước sự đe dọa của sói rừng, mục tử Giêsu sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đàn chiên. Sự hy sinh mạng sống này chính là phẩm tính cao cả nhất mà chỉ duy mình Người mới có được. Cũng như trong toàn bộ Thánh Kinh, không ai dám tự xưng mình là “mục tử tốt lành”, thì cũng chỉ có một mình mục tử Giêsu dám hiến mạng vì đàn chiên. Đây chính là phẩm tính đáng yêu làm cho Chúa Cha yêu thương người vị mục tử Giêsu (10,17). Bởi lẽ, “hy sinh mang sống vì đàn chiên” cũng là “mệnh lệnh” mà mục tử Giêsu nhận từ Chúa Cha. “Sự hy sinh mạng sống ấy” càng cao cả và đúng nghĩa khi nó đến từ sự tự hiến hoàn toàn của Người Con chứ không phải là có ai có thể lấy mạng của Người được. Gioan đã cấu trúc mầu nhiệm “hy sinh mạng sống” thật khéo léo. Đó là phẩm tính của vị mục tử tốt lành (10,11); là nét đẹp của Người Con làm cho Chúa Cha yêu (10,17); đó cũng là “quyền hy sinh” của Người Con (10,18b); và là “mệnh lệnh” đến từ Người Cha (10,18c).[11] Những cách nói này gợi nhớ đến mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh mà Đức Giêsu đã trải qua.

Lần thứ hai (Ga 10,14), “mục tử tốt lành” gắn liền với điệp khúc “biết”. Mục tử Giêsu là một mục tử thấu hiểu những con chiên của mình và chiên của người mục tử này cũng thấu hiểu vị mục tử của chúng. Chưa hết, sự thấu hiểu giữa mục tử – những con chiên, được đồng hóa với sự thấu hiểu giữa Người Cha – Người Con. Đó là một sự thấu hiểu ở mức cao nhất. Mục tử Giêsu biết Chúa Cha đồng nghĩa với việc biết Chúa Cha mong muốn Người hy sinh tính mạng cho đàn chiên. Người biết những con chiên nghĩa là biết Người phải hy sinh tính mạng cho chúng. Tất cả những sự hiểu biết này đều quy về mầu nhiệm “tự hiến của Người Con”. Chính vì thế, kết thúc lần tự bạch lần 2 về “mục tử tốt lành” chỉ có thể là câu: “Và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,15).

Ngoài ra, mục tử tốt lành còn phải có chức năng tìm kiếm và quy tụ. Đó là sứ vụ bắt buộc của “mục tử tốt lành”: “Tôi phải dẫn chúng về” (δεῖ με ἀγαγεῖ). Những con chiên khác có thể là những con chiên lạc đàn, đang rong ruổi đâu đó và không biết đường về. “Những con chiên khác” cũng có thể là những người dân ngoại vì chưa nhận biết Đức Giêsu, nên cũng chưa tin vào Người. Mục tử Giêsu ao ước đưa chúng về và làm cho chúng nghe theo tiếng Người. Đức Giêsu được sai đến trước hết cho những con chiên lạc nhà Ítrael nhưng Người cũng không loại trừ sự rao giảng trong phạm vi của dân ngoại. Dân ngoại cũng nằm trong kế hoạch tìm kiếm bắt buộc của Người. “Một đàn chiên và một mục tử” chính là tâm huyết của cả đời Người.

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD

 



[2] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes (AYB; New Haven – London 2008) XXIX, 386.

[3] Ibid.

[4] F.J. Moloney, The Gospel of John, 310.

[5] R. Brown nhận xét rằng không có lý do gì để tin rằng Đức Giê-su không tiếp tục những ghi chú của mình về những người Phari-sêu được nói đến ở Ga 8,41 (R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII), 388).

[7] Gioan dùng rất nhiều lần động từ diễn tả sự bắt buộc này (Ga 3,7; 3,14.30; 4,4.20.24; 9,4; 10,16; 12,34; 20,9).

[8]E. Haenchen– R.W. Funk – U. Busse, John: a commentary on the Gospel of John (Hermeneia; Philadelphia 1984) 49.

[10] Xem thêm Joseph Phạm Duy Thạch, SVD, “Những Phẩm Tính của Mục Tử Tốt lành và Chiên Ngoan”, HORIZON MISSIONARY: NHỮNG PHẨM TÍNH CỦA MỤC TỬ TỐT LÀNH VÀ CHIÊN NGOAN (josephpham-horizon.blogspot.com) (truy cập ngày 23/04/2021).

[11] Xem thêm, G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 171.