Thursday 26 October 2023

“MỆNH LỆNH TỐI CAO TRONG LUẬT”. Chú giải Tin Mừng CN XXX TN A (Mt 22,34-40); Lm. Jos. Ph.D.Thạch, SVD

Bản văn và dịch sát nghĩa

Việt

Hy Lạp

34 Khi nghe rằng Người đã làm cho những người Xađốc im lặng, những người Pharisêu tập hợp lại với nhau nhằm chống lại Người,

35 Rồi, để thử thách Người, một người trong số họ [người thông luật] hỏi Người rằng:

36 “Thưa thầy! Điều răn nào lớn hơn cả trong Luật?”

37 Người trả lời cho ông ta rằng: ‘Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi bằng tất cả trái tim, và bằng tất cả linh hồn và bằng tất cả sức lực ngươi’

38 Đó là điều răn lớnđiều răn đứng đầu,

39 Điều thứ hai tương tự như điều này là: ‘Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình’

40 Nơi hai điều răn này, toàn bộ Luật và Ngôn Sứ phụ thuộc vào.

34 Οἱ δὲ Φαρισαῖοι ἀκούσαντες ὅτι ἐφίμωσεν τοὺς Σαδδουκαίους συνήχθησαν ἐπὶ τὸ αὐτό,

 35 καὶ ἐπηρώτησεν εἷς ἐξ αὐτῶν [νομικὸς] πειράζων αὐτόν·

 36 διδάσκαλε, ποία ἐντολὴ μεγάλη ἐν τῷ νόμῳ;

 37 ὁ δὲ ἔφη αὐτῷ· ἀγαπήσεις κύριον τὸν θεόν σου ἐν ὅλῃ τῇ καρδίᾳ σου καὶ ἐν ὅλῃ τῇ ψυχῇ σου καὶ ἐν ὅλῃ τῇ διανοίᾳ σου·

 38 αὕτη ἐστὶν ἡ μεγάλη καὶ πρώτη ἐντολή.

 39 δευτέρα δὲ ὁμοία αὐτῇ· ἀγαπήσεις τὸν πλησίον σου ὡς σεαυτόν.

 40 ἐν ταύταις ταῖς δυσὶν ἐντολαῖς ὅλος ὁ νόμος κρέμαται καὶ οἱ προφῆται. (Matt. 22:34-40 BGT)

Bối cảnh

Mt 22,34-40 nằm trong loạt ba câu chuyện về thử thách mà nhóm lãnh đạo Do Thái liên tục đặt ra cho Đức Giêsu. Thử thách thứ nhất liên quan đến việc nộp thuế cho Kaisar (Mt 22,15-22). Thử thách thứ hai liên quan đến sự sống lại của nhóm những người Xađốc (Mt 22,23-33) và Mt 22,34-40 là th thách thứ ba liên quan đến điều răn lớn nhất được một nhà thông luật đại diện cho nhóm Pharisêu thực hiện. Như vậy, thử thách cùng với thử thách thứ nhất đóng vai trò đóng khung cho bộ ba thử thách dựa trên tác nhân thử thách: Pharisêu – Xađốc – Pharisêu. Trong bối cảnh rộng hơn một chút, những câu chuyện này nằm trong hàng loạt những trannh luận giữa Đức Giêsu và nhóm lãnh đạo Do Thái đủ các phe phái và chức sắc trong kỳ giảng của Đức Giêsu tại Jêrusalem: Từ các thượng tế, kỳ mục đến các phái Pharisêu và Xađốc. Trong bối cảnh rộng hơn nữa, Mt 22,34-40 gợi nhớ đến hai bản văn quan trọng của sách Luật: Luật yêu Chúa (Đnl 6,5) và Luật yêu người (Lv 19,18).

Cấu trúc

Đoạn văn Mt 22,34-40 có cấu trúc đối xứng đồng tâm với trung tâm là hai thành phần “điều răn đứng đầu” và “điều răn thứ hai”, tượng trưng cho điều răn “yêu Thiên Chúa” và “yêu người thân cận”.

Bối cảnh: Thử thách; nhân vật Pharisêu (34-35)

 Điều răn nào lớn hơn cả trong Luật (36)

phải yêu Thiên Chúa, bằng tất cả trái tim, linh hồn và sức lực ngươi’ (37)

điều răn lớn và điều răn đứng đầu (38)

điều răn thứ hai giống như điều răn ấy (39a)

phải yêu người thân cận như chính mình’ (39b)

Toàn bộ Luật và Ngôn Sứ phụ thuộc vào hai điều răn đó (40)


Một số điểm chú giải

1.   Nhóm Pharisêu và nhóm Xađốc: Về mặt bản chất hai nhóm này có niềm tin khác nhau. Việc kết hợp hai nhóm này lại với nhau là rất khó tin về mặt lịch sử vì hai nhóm này vốn có những niềm tin và truyền thống trái ngược nhau. Nhóm Pharisêu tin có các thiên thần, và linh hồn bất tử; Tin vào sự sống đời sau; Trong khi đó nhóm Xađốc không tin các thiên thần, linh hồn bất tử, hay sự sống đời sau (Mt 22,23; Mc 12,18; Lc 20,27). Thành viên của hai nhóm này có thể làm việc chung trong một Hội Đồng Do Thái (Cv 23,6), nhưng rất khó hòa hợp về mặt tôn giáo. Chỉ có tác giả Mátthêu gom hai nhóm này lại với nhau không những một lần mà đến hai lần. Lần thứ nhất, họ cùng đến với ông Gioan để được dìm trong sông Jorđan và bị gọi là rắn độc (Mt 3,4-12). Lần thứ hai, hai nhóm này lại cùng nhau đến thử Đức Giêsu bằng cách xin Người một dấu lạ từ trời (Mt 16,1). Hơn nữa, Đức Giêsu của Mátthêu cũng hay ghép hai nhóm này lại với nhau: “Phải coi chừng men Pharisêu và Xađốc” (Mt 16,6.11.12)[1]. Ơ đây họ không hợp lại với nhau, nhưng có chung một chiến tuyến. Họ thay phiên nhau thử thách, đánh bẫy Đức Giêsu. Mỗi nhóm tận dụng lợi thế riêng của mình. Nhóm Xađốc đặt ra câu hỏi hóc búa về sự sống lại; còn nhóm Pharisêu đặt câu hỏi liên quan đến cách thức đối xử với ngoại bang và dân tộc, và điều cốt lõi trong Luật. Cách nói “khi nghe Đức Giêsu đã làm cho phái Xađốc câm miệng, những người Pharisêu tụ họp lại với nhau” vừa cho thấy sự nối tiếp liên tục các cuộc thử thách nhóm lãnh đạo dành cho Đức Giêsu, vừa cho thấy nhóm này muốn chứng tỏ mình có khả năng hơn nhóm Xađốc.[2] Câu hỏi của người thông luật không phải ;là một câu hỏi xa lạ vì các rabbi cũng thường thảo luận với nhau về điều ran “nặng” và “nhẹ” và thỉnh thoảng họ cố gắng tóm tắt điểm chính yếu của Luật Môsê theo những bản văn của Cựu Ước.[3]

2.   Thử thách: Đây là động từ Đức Giêsu dùng để mô tả hành động của nhóm Pharisêu trong câu chuyện nộp thuế cho Kaisar. Họ là những người chuyên gia thử thách Đức Giêsu. Thử thách Đức Giêsu là làm cùng hành động với quỷ, Satan, kẻ cám dỗ trong trình thuật về “cám dỗ” trong Mt 4,1-11.[4] Cách nào đó, có thể nói họ đứng cùng chung chiến tuyến với quỷ để chống lại Đức Giêsu.

3.   Trong Luật … toàn bộ Luật và các Ngôn Sứ: Danh xưng “Luật” không có nghĩa như là luật pháp dân sự như người ta thường hiểu trong xã hội hiện đại. Luật được dịch từ tiếng Hy Lạp “ὁ νόμος”, thường có mạo từ xác định để chỉ một thực thể nhất định mà khi nói tới ai cũng biết. Thuật ngữ này có nguồn gốc trong tiếng Hípri là “Torah” [תּוֹרָה], nghĩa là những hướng dẫn, những lời dạy dỗ của Chúa dành cho dân, để họ sống xứng đáng căn tính của mình như là dân Chúa và được nhận phúc lành của Thiên Chúa. “Luật” là một ân huệ, một món quà của Thiên Chúa, hơn là những gì bó buộc, cấm đoán làm cho người ta thấy bất tiện, khó chịu. Chúng ta thấy nét đẹp của “Torah” được mô tả trong Tv 1: “Hạnh phúc thay người không bước đi theo lời khuyên của người xấu, cũng không đứng trong đường lối các tội nhân, cũng không ngồi chung với những người nhạo bang, nhưng Luật (torah) của Chúa là niềm vui của mình, và gẫm suy Luật Người ngày và đêm” (Tv 1,1-2). Cựu Ước thường gọi là “Sách Luật của ông Môsê” (בְּסֵ֙פֶר֙ תּוֹרַ֣ת מֹשֶׁ֔ה) (Gs 8,31.32), nói ngắn gọn là “Sách Luật” hoặc “Luật” (Gs 8,34). Sở dĩ nó được gọi là sách Luật của ông Môsê vì chính tay ông Môsê viết xuống (Đnl 31,9). Hơn nữa, đó chính là Luật Thiên Chúa ban cho dân qua ông Môsê (Ga 1,17; 7,19). Theo nghĩa rộng “Luật” (hoặc “Môsê” [Lc 16,29.31]; hoặc “Luật của Môsê”, [Cv 13,38 15,5], “truyền thống của Môsê” [Cv 15,1]) song song với “Các ngôn sứ” diễn tả toàn bộ Sách Thánh Hípri, trong đó “Các ngôn sứ” là phần thứ hai theo cách phân chia của Sách Thánh Hípri (I. Torah; II. Các Ngôn Sứ; và III. Các văn phẩm).[5] Tân Ước rất hay dùng cặp thuật ngữ này để ám chỉ toàn bộ Sách Thánh Hípri (Mt 5,17; 11,13; 7,12; 22,40; Lc 24,37; Ga 1,45; Cv 24,14; 26,22; 28,23; Rm 3,21). Trong các tác giả Tin Mừng, chỉ có Luca nhắc đến bộ ba “Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh”, như là tượng trưng cho toàn bộ Sách Thánh Hípri (Lc 24,24). Ngoài ra, Tân Ước cũng dùng cách nói “ông Môsê ra lệnh … Ông Môsê cho phép…” (Mt 19,7.8; Mc 10,3.4; Lc 5,14; Ga 8,5), “ông Môsê nói …” (Mt 22,24; Mc 7,10; Cv 3,22), “ông Môsê đã viết…” (Mc 12,19; Lc 20,28), “ông Môsê cho biết …” (Lc 20,37), “ông Môsê đã viết trong Luật” (Ga 1,45), để ám chỉ đến “Torah”, phần đầu tiên của Sách Thánh Hípri. Có vố số điều luật được quy định trong năm cuốn sách đầu tiên của bộ Sách Thánh Hípri. Chính vì thế, không dễ gì, người ta có thể nói điều nào là lớn hơn cả. Câu hỏi này đến từ một chuyên gia về Luật, một người đủ khả năng chứng thực rằng Đức Giêsu nói sai hay đúng. Ở đây, Mátthêu cho biết rằng, người thông luật này thuộc phái Pharisêu. Như thế, trong phái Pharisêu có thể có nhiều người thông luật.

4.   Chúa, Thiên Chúa: Cụm từ này là một danh xưng kép trong đó “θεός” (theos) là danh từ chung có nghĩa là “thần”, “Thiên Chúa”, và “κύριος” (kurios) là “ông chủ”, “chúa”. Nhóm dịch thuật CGKPV chọn thuật ngữ “Đức Chúa” để chuyển ngữ danh xưng “kurios”, phân biệt với “theos”, được chuyển ngữ là “Thiên Chúa” (Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi …). Dịch giả Nguyễn Thế Thuấn, chuyển ngữ danh từ “theos” thành “Thiên Chúa” tương tự như nhóm CGKPV, nhưng “kurios” được chuyển ngữ thành “Chúa” (ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi…”. Rõ ràng, các bản dịch tiếng Việt đều gây bối rối vì danh xưng “Chúa” cho cả hai thuật ngữ Hy Lạp. Các ngôn ngữ hiện đại khác dùng hai thuật ngữ hoàn toàn khác nhau để chuyển ngữ hai danh xưng này (Pháp: le Seigneur, ton Dieu; Ý: il Signore, tuo Dio; Anh: the Lord, your God), hay tiếng Latinh cũng vậy (Dominum, Deum). Hai danh xưng này có nguồn gốc trong tiếng Hípri. θεός là chuyển ngữ của “אֱלֹהִ֜ים” và κύριος” là chuyển ngữ của “יְהוָ֙ה”.[6] Danh xưng “יְהוָ֙ה” chính là tên gọi đặc biệt mà Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê trong trình thuật về cuộc gặp gỡ của ông với Thiên Chúa nơi bụi gai rực cháy. Thiên Chúa tự xưng mình là “Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Isaác và Thiên Chúa của Giacóp” (Xh 3,6; Cf. 3,15.16). Ông Môsê đặt vấn đề nếu như dân Israel hỏi ông “tên của Người là gì?” thì ông phải trả lời họ thế nào. Thiên Chúa trả lời “Ta là Đấng Ta là” [אֶֽהְיֶ֖ה אֲשֶׁ֣ר אֶֽהְיֶ֑ה ] (Xh 3,14). Sau đó Thiên Chúa dặn ông Môsê nói cùng dân Israel rằng:  “Chúa, Thiên Chúa [אֲלֵהֶם֙ יְהוָ֞ה] của tổ tiên anh chị em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp, đã gửi tôi đến với anh chị em. Đó là danh của Ta cho tất cả các thế hệ”. Người Do Thái không đọc danh xưng này, có lẽ vì tôn trọng danh của Thiên Chúa. Khi gặp danh xưng này, họ đọc thành “Adonai”, nghĩa là “ông chủ của tôi”. Một thời gian dài trong thế kỷ 20, người ta thấy trong các văn bản tiếng Việt bao gồm cả bản dịch Thánh Kinh và văn bản Giáo Hội gọi danh xưng này là Giavê hoặc Yavê, tương ứng các cách dùng Tiếng Anh: Yahweh, Yahwè, Jahweh, Jahwè, Jave, Yehovah. Tuy nhiên, ngày 29/06/2008, ĐHY Arinze, tổng trưởng bộ Phụng Tự và Kỷ Luật các Bí Tích đã ban huấn thị chỉ thỉ rằng, cách phiên âm tên riêng của danh thánh Thiên Chúa “יְהוָ֞ה” không được dùng nữa, vì tôn trọng thánh danh Chúa, như người Do Thái. Chính vì thế, các bài hát có chữ Giavê, Yavê thường không được dùng nữa.

5.   Yêu bằng tất cả trái tim, và bằng tất cả linh hồn và bằng tất cả sức lực ngươi”: Đây là một câu trích dẫn từ bản văn nòng cốt của sách Đệ Nhị Luật, thường được xem là bản tuyên xưng đức tin của người Israel:[7]

Hãy nghe, hỡi Ítrael! Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, bằng cả trái tim, với toàn thể linh hồn và với toàn thể sức lực ngươi. Hãy đưa những lời này, mà tôi truyền lệnh cho ngươi hôm nay vào trong lòng ngươi. Ngươi phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy, phải buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu, phải viết lên khung cửa nhà ngươi, và lên cổng thành ngươi.” (Đnl 6,4-9)

Đây là mệnh lệnh mà dân Ítrael lặp đi lặp lại mỗi phútgiây và dạy rất kỹ. Tính từ “ὅλῃ” (tất cả/toàn thể, Hípri, כֹּל) được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh. Ba cụm giới từ “bằng tất cả trái tim”, “bằng tất cả linh hồn”, “bằng tất cả thân xác” ngụ ý toàn thể con người trong ngoài không có phần nào không tham gia vào hành động “yêu thương” dành cho Thiên Chúa. Tác giả Luca còn thêm vào cụm giới từ “hết trí năng ngươi” (ἐν ὅλῃ τῇ διανοίᾳ σου). Xem ra, tác giả Luca cảm thấy cần phải thêm phần trí năng của con người nữa, phần rất được đề cao trong thế giới triết lý Hy Lạp, thế giới mà tác giả Luca thấm nhuần. Đức Giêsu nhấn mạnh đây là điều răn thứ nhất và là điều răn đứng đầu, nhằm trả lời cho phép so sánh “điều răn lớn hơn cả”. “Thứ nhất” cũng đối lại với “thứ hai” và Người sẽ giới thiệu tiếp tục.

6.   Yêu người thân cận như chính mình”:[8] Người thông luật, đại diện cho nhóm Pharisêu hỏi “điều răn lớn nào” (số ít), Đức Giêsu giới thiệu hai điều răn. Người nhấn mạnh bằng tính từ so sánh “giống như nó”. Đó là: “Ngươi phải yêu người thân cận của ngươi như chính ngươi”. Mệnh lệnh này được trích lại từ sách Lêvi: “Ngươi không được báo thù và cũng không được nuôi lòng giận hờn con cái của dân ngươi và phải yêu người thân cận (bạn hữu) như chính mình, Ta là Chúa!” (Lv 19,18). “Yêu người thân cận” là chiều tích cực, đối lại với hai lệnh cấm “không được báo thù” và “không được nuôi lòng giận hờn”. “Con cái của dân ngươi”, đối lại với “người thân cận” (bạn hữu). Trạng từ “πλησίον” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là gần, sát bên. Khi dùng với chức năng danh từ có mạo từ đi kèm, nó thường được hiểu là “người thân cận”, “người hàng xóm”, “đồng bạn”, “bạn đồng hương”, “người đồng đạo”. Danh từ này xuất hiện 6 lần trong Lv 19,11-18. Trong 3 câu (16.17.18), danh xưng này đều đi song song với một danh từ mô tả những người đồng chủng tộc Israel. Cụ thể, “không được vu khống (người) trong dân ngươi” // cũng không được đứng yên khi mạng sống của người thân cận ngươi bị đe dọa” (Lv 19,16); “Không được ghét người anh em của ngươi bằng suy nghĩ của người // hãy sửa dạy người thân cận của ngươi công khai và ngươi không mắc tội vì anh ta” (Lc 19,17); “Ngươi không được báo thù và cũng không được nuôi lòng giận hờn con cái của dân ngươi nhưng phải yêu người thân cận (bạn hữu) như chính mình, Ta là Chúa!”. Như thế, khái niệm “người thân cận” ở đây dường như ngụ ý đến những người đồng chủng tộc Israel, hơn là khái niệm liên quan đến sự gần về mặt địa lý.

Các ngươi không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt người thân cận mình. Các ngươi không được lấy danh Ta mà thề gian: làm thế là ngươi xúc phạm đến danh Thiên Chúa của ngươi. Ta là Chúa. Ngươi không được bóc lột người thân cận, không được cướp của; tiền công người làm thuê, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng. Ngươi không được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ Thiên Chúa của ngươi, Ta là Chúa. Các ngươi không được làm điều bất công khi xét xử: không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người thân cận. Ngươi không được vu khống những người trong dân tộc, không được ra tòa đòi người thân cận phải chết. Ta là Chúa. Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người thân cận, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Ta là Chúa.” (Lv 19,11-18).

Điều răn thứ hai được trích ra từ đoạn văn trên, không xa lạ gì đối với độc giả của Tin Mừng Mátthêu, vì trước đó, Đức Giêsu đã nhắc đến điều răn này: “Anh em đã nghe nói rằng: Phải yêu người thân cận và ghét kẻ thù. Nhưng tôi nói cùng anh em hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ anh em, để ngươi có thể là con cái của Cha anh em trên trời, Đấng cho mặt trời mọc lên trên kẻ xấu cũng như người tốt, cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,43-45). Đối tượng yêu thương được Đức Giêsu mở rộng ra ở mức độ vô tận. Bởi lẽ, khi người ta có thể yêu kẻ thù thì không còn ai mà họ không thể yêu nữa.

Trong trình thuật của tác giả Luca, người thông luật còn hỏi thêm: “Nhưng ai là người thân cận của tôi”. Để giải thích cho khái niệm “người thân cận”, Đức Giêsu kể cho ông ta nghe dụ ngôn “Người Samari nhân hậu” (Lc 10,29-37). Khi đưa ra những hình ảnh trái ngược giữa nhóm “người đi từ Jêruslem đến Jêrikhô, người tư tế, người Lêvi” với “người Samari”, Đức Giêsu dường như muốn nói rằng “người đồng hương, đồng chủng tộc Israel” chưa chắc đã là “người thân cận” (theo quan niệm của người Israel, đại diện là người thông luật”. Người thân cận được mở rộng ra cho bất kỳ một người nào, không giới hạn chủng tộc, màu da, sống gần bên. Một khi người ta biết tỏ lòng thương xót với những người hoạn nạn là tức khắc trở thành “người thân cận” của họ.

7.   Như chính mình”: Đây là cách đối chiếu nhằm diễn tả mức độ cao nhất của tình yêu. Tác giả thư Giacôbê cũng nhắc lại quy chuẩn này móc nối với việc làm điều tốt: “Đã hẳn anh em làm điều tốt nếu anh em chu toàn Luật Thánh đưa lên hàng đầu: “Phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Gc 2,8). Phaolô dùng quy chuẩn này cho tình yêu chồng vợ: “Mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình” (Ep 5,33). Khi trao ban “điều răn mới”, Đức Giêsu chuyển điểm quy chiếu vào tình yêu mà Người đã dành cho các môn đệ: “Hãy yêu nhau như chính Thầy đã yêu anh em” (Ga 13,34). Tình yêu của Đức Giêsu dành cho các môn đệ bây giờ là tình yêu cao nhất: Tình yêu của người hy sinh mạng sống vì người yêu của mình (Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu này, rằng một ai đó có thể chết tự nguyện vì người yêu của mình: μείζονα ταύτης ἀγάπην οὐδεὶς ἔχει, ἵνα τις τὴν ψυχὴν αὐτοῦ θῇ ὑπὲρ τῶν φίλων αὐτοῦ, Ga 15,13; Cf. Ga 10,11). Tác giả thư thứ nhất Gioan diễn giải lại điều rằn rằng: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết được tình yêu là gì: ‘Đó là Đức Kitô thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em’” (1 Ga 3,16).

8.   Đều phụ thuộc vào hai điều ấy”: Đức Giêsu khẳng định tính “lớn, quan trọng” của hai điều răn này bằng cách nói nhấn mạnh. Thứ nhất cụm giới từ “nơi hai điều răn này” (ἐν ταύταις ταῖς δυσὶν ἐντολαῖς) được đưa ra đầu câu. Thứ hai, tính từ “ὅλος” (tất cả) được đặt trước hai danh từ “Luật và Ngôn Sứ”. Người thông luật hỏi là “trong Luật”, Đức Giêsu cho thấy hai điều răn này không chỉ “lớn hơn cả” trong Luật và còn trong “Các ngôn sứ” nữa. Nghĩa là, toàn bộ Sách Thánh Cựu Ước đều phụ thuộc vào hai điều này.

Bình luận tổng quát

Những người Pharisêu, sau thất bại trong cuộc thử thách về “nộp thuế cho Kaisar”, trở lại trong vụ thử thách về “điều răn lớn”. Đây là thử thách thứ ba trong bộ ba thử thách có cấu trúc inclusio (Pharisêu: Nộp thuế cho Kaisar – Xađốc: Sự sống lại đời sau – Pharisêu: Điều răn lớn nhất). Câu hỏi về “điều răn lớn trong Luật” có thể khiến cho Đức Giêsu phải bối rối vì có quá nhiều quy định trong toàn bộ Ngũ Thư, năm cuốn sách đầu tiên của bộ Sách Thánh Do Thái. Theo thính toán của truyền thống Rabbi, có đến 613 điều răn trong Luật.[9] Tuy nhiên, Đức Giêsu không những giới thiệu cho họ một điều mà hai điều. Trong khi điều thứ nhất dường như không còn xa lạ đối với tất cả những người Do Thái, nhất là các nhà thông luật, thì điều thứ hai có lẽ làm cho các ông bất ngờ. Trong Mt 23,23, Đức Giêsu đã chỉ trích các Kinh Sư và những người Pharisêu vì họ giữ những điều nhỏ như là đóng thuế thập phân mà làm ngơ những điều quan trọng hơn là “công bằng, thương xót, và đức tin”. Đức Giêsu còn khẳng định về tầm ảnh hưởng của các điều răn này: Không chỉ “trong Luật” mà còn “toàn thể Ngôn Sứ”. Trong khi “Phải yêu Chúa, Thiên Chúa” là đòi buộc thể hiện tương quan tình yêu theo chiều dọc (người – Chúa), thì “phải yêu người thân cận” là điều không thể thiếu của tương quan chiều ngang (người – người). Tình yêu chiều dọc không thể thiếu tình yêu theo chiều ngang và ngược lại, tình yêu theo chiều ngang không thể chuẩn chỉnh được nếu không có tình yêu theo chiều dọc. Tư tưởng của tác giả thư 1 Ga là một minh họa sắc nét cho sự tương hợp giữa hai khía cạnh này của tình yêu: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu Thiên Chúa mà lại ghét người anh em của mình, kẻ ấy là kẻ nói dối trá; Vì ai không yêu người anh em mà họ nhìn thấy, thì không thể yêu Thiên Chúa, Đấng mà họ không nhìn thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ‘Ai yêu Thiên Chúa thì cũng yêu người anh em của mình”’ (1 Ga 4,20-21). Nói theo ngôn từ của Bài Giảng trên núi, Tin Mừng Mátthêu: “Nếu khi anh đang dâng của lễ trên bàn thờ, mà ở đó anh nhớ rằng người anh em của anh đang có gì đó chống lại anh, thì hãy để của lễ của anh lại trước bàn thờ và hãy đi trước hết hòa giải với người anh em của anh, rồi đến đâng của lễ của mình” (Mt 5,23-24). Các câu này là minh họa sống động cho lời dạy “không được giận người anh em của mình”, “không được chê người anh em là raqa (đồ khờ)”, và không được gọi người anh em là “đồ ngu ngốc” (Mt 5,22). Tác giả Máccô còn thêm vào cụm từ bổ túc “là điều quý hơn mọi của lễ toàn thiêu và hy lễ”, sau khi liệt kê hai điều răn (Mc 12,33). Nghi Lễ phải phát xuất từ tình yêu bằng cả con người. Mặc dù cả hai điều Đức Giêsu trích dẫn không nằm trong bản Thập Điều (Mười điều răn), nhưng nó bao hàm hai phần nền tảng của Thập Điều: Phần đầu là những điều răn liên quan đến tình yêu dành cho Thiên Chúa và phần sau là những điều răn liên quan đến cách đối xử với tha nhân.[10] Tình yêu đối với Thiên Chúa, phải mang tính tuyệt đối và bao trùm tất cả mọi khía cạnh của con người thể lý và tâm linh. Nền tảng quy chuẩn cho tình yêu với tha nhân được mô tả nơi cụm “như chính mình”. Cụm từ này giả định một mức độ yêu lý tưởng nhất, vì không ai ghét chính mình, và họ yêu bản thân họ trước hết, và ưu tiên nhất. Dĩ nhiên, cũng nên nói thêm quy chuẩn của tình yêu đối với tha nhân theo thần học Tin Mừng thứ tư trong điều răn mới là: “Như chính Đức Giêsu đã yêu” (Ga 13,34: Hãy yêu nhau như chính Thầy đã yêu anh em). Toàn bộ mọi chỉ dẫn trong toàn bộ Sách Thánh Hípri đều tùy thuộc vào hai điều răn này. Đó là Tin Mừng mà Đức Giêsu muốn giới thiệu. Tình yêu dành cho Thiên Chúa vốn được thể hiện qua những nghi lễ phụng tự, kinh nguyện và dâng hy lễ, nhưng không thể thiếu thực tế trong đời sống hằng ngày qua những hành động cụ thể đối với những người chung quanh, vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, và cũng là những người anh em chị em trong đại gia đình Thiên Chúa. Đức Giêsu gắn bó với Thiên Chúa Cha qua những giờ phút cầu nguyện thâu đêm suốt sáng, nhưng hằng ngày, Người rong ruổi khắp nơi để mang Tin Mừng cho người nghèo khổ, tội lỗi, chữa lành những người đau yếu, trao ban hồng ân của Thiên Chúa. Người muốn các người thông luật xác tín điều đó để sống và giải thích cho người khác.

Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD



[2] “There is a marked sequence between this and the last pericope, which can be obscured by the paragraph division: the Sadducees have been routed and the crowd are on Jesus’ side, so the Pharisees decide it is time to regain the initiative” [R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew (NICNT; Grand Rapids 2007) 842].

[3] A rabbinic discussion of this issue in b. Mak 24a suggests that the law may be found summarized in eleven principles in Psalm 15, in six in Isa 33:15–16, in three in Micah 6:8, in two in Isa 56:1, and in one in Amos 5:4b and in Hab 2:4b; cf. b. Ber. 63a, where Prov 3:6 is said to be a “short text on which all the essential principles of the Torah depend. It is interesting that none of these suggested summaries are taken from the Pentateuch itself; by contrast Jesus’ two key texts are both drawn from within the books of Moses.(R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 844-845).

[4] “The repetition of the term peirazō, “test” (see on v. 18 and cf. its use also in 16:1; 19:3, and the even stronger “trap” in v. 15) makes it clear that this is not simply academic debate” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew); Xem thêm về “thử thách” trong LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: ĐÁNH BẪY BẰNG LỜI. Chú giải Tin Mừng CN XXIX TN (Mt 22,15-22); Lm. Jos. PH.D. THẠCH, SVD (josephpham-horizon.blogspot.com)

[5] Sách Thánh Do Thái (24 cuốn), được chia thành ba phần: (1) Torah (Luật, hay lời dạy, Ngũ Thư); (2) Neviim (các ngôn sứ); và (3) Ketuvim (các văn phẩm). Chỉ có tác giả Luca liệt kê đầy đủ ba phần của Sách Thánh Do Thái và một lần duy nhất.

[6] Bốn chữ cái này thường được biết đến với thuật ngữ trong tiếng Hy Lạp, Τετραγράμματον (or Τετράγραμμον)”, hoặc Latinh Tetragrammaton (or Tetragram). Tiếng Hy Lạp qua nhiều thời thường được phiên âm thành Ιαω/Ιαο, Ιαβω, Ιαχω, Ιαωα, Ιεωα, Ιαεωβα, Ιεου, Ιηουα, Ιαωουεη, Ιωα, Ιαβα/Ιαβας,

[7] “The first passage Jesus cites in fact portrays the love of God as a summary of the law (Deut 6:1–7); one who loved God would fulfill the whole Torah (Deut 5:29). This passage about loving God was the central and best-known text of Judaism, the Shema” (C.S. KEENER, The Gospel of Matthew. A Socio-Rhetorical Commentary (Grand Rapids – Cambridge, 2009) 531].

[8]So in b. Sabb. 31a Hillel says: "What is hateful to you do not to your neighbor; that is the whole Torah, while the rest is commentary on it; go and learn it” (D.J. Harrington, The Gosepel of Matthew, 316).

[9] “Since the five books of Moses contained, by rabbinic calculation, 613 commandments, some means of assessing their relative importance would be widely appreciated.5 But to provide this must involve choosing one legal principle over others, and this carried the risk that other teachers, who might have made a different choice, could accuse their colleague of belittling the importance of some other equally scriptural principle” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 842); “Later rabbis counted up 613 commandments in the Torah-248 positive ("you shall") and 365 negative ("you shall not")” (D.J. Harrington, The Gospel of Matthew, 315).

[10] “By bringing these two texts together Jesus asserts that the one principle of love applies equally to the two main aspects of religious duty, one’s attitude to God and one’s attitude to other people. It is these two foci which provide the framework of the Decalogue, with its two “tables” covering these two aspects in turn” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 843). 

Thursday 19 October 2023

ĐÁNH BẪY BẰNG LỜI. Chú giải Tin Mừng CN XXIX TN (Mt 22,15-22); Lm. Jos. PH.D. THẠCH, SVD

Bản Văn và dịch sát nghĩa

Việt

Hy Lạp

15 Khi ấy, những người Pharisêu ra đi tham vấn để họ có thể đánh bẫy Người bằng lời.

16 Họ sai các môn đệ của họ đến với Người, cùng với những người của Hêrôđê, nói rằng: “Thưa Thầy! Chúng tôi biết rằng Thầy là chân thật dạy con đường của Thiên Chúa trong sự thật, không lo lắng về bất cứ ai vì Thầy không nhìn vào mặt người ta.

17 Vậy, hãy nói cho chúng tôi Thầy nghĩ gì, có hợp pháp để nộp thuế cho Kaisar hay không?

18 Vì biết sự xấu xa của họ, Đức Giêsu nói rằng: “Tại sao các ngươi lại thử tôi, hỡi những người đạo đức giả?

19 Hãy cho tôi xem đồng bạc thuế”. Những người này mang cho Người một đồng đênarion.

20 Người nói cùng họ rằng: “Hình ảnh và ấn ảnh này là của ai?”

21 Họ nói cùng Người: “Của Kaisar.” Rồi Người nói cùng họ: “Hãy trả cho Kaisar những điều của Kaisar, và cho Thiên Chúa, những điều của Thiên Chúa

22 Sau khi nghe, họ ngạc nhiên, và rời bỏ Người, họ ra đi.

15 Τότε πορευθέντες οἱ Φαρισαῖοι συμβούλιον ἔλαβον ὅπως αὐτὸν παγιδεύσωσιν ἐν λόγῳ.

 16 καὶ ἀποστέλλουσιν αὐτῷ τοὺς μαθητὰς αὐτῶν μετὰ τῶν Ἡρῳδιανῶν λέγοντες· διδάσκαλε, οἴδαμεν ὅτι ἀληθὴς εἶ καὶ τὴν ὁδὸν τοῦ θεοῦ ἐν ἀληθείᾳ διδάσκεις καὶ οὐ μέλει σοι περὶ οὐδενός· οὐ γὰρ βλέπεις εἰς πρόσωπον ἀνθρώπων,

 17 εἰπὲ οὖν ἡμῖν τί σοι δοκεῖ· ἔξεστιν δοῦναι κῆνσον Καίσαρι ἢ οὔ;

 18 γνοὺς δὲ ὁ Ἰησοῦς τὴν πονηρίαν αὐτῶν εἶπεν· τί με πειράζετε, ὑποκριταί;

 19 ἐπιδείξατέ μοι τὸ νόμισμα τοῦ κήνσου. οἱ δὲ προσήνεγκαν αὐτῷ δηνάριον.

 20 καὶ λέγει αὐτοῖς· τίνος ἡ εἰκὼν αὕτη καὶ ἡ ἐπιγραφή;

 21 λέγουσιν αὐτῷ· Καίσαρος. τότε λέγει αὐτοῖς· ἀπόδοτε οὖν τὰ Καίσαρος Καίσαρι καὶ τὰ τοῦ θεοῦ τῷ θεῷ.

22  καὶ ἀκούσαντες ἐθαύμασαν, καὶ ἀφέντες αὐτὸν ἀπῆλθαν (Matt. 22:15-21 BGT)


Bối cảnh

Máccô và Luca đặt câu chuyện này (Mc 12,13-17; Lc 20,20-25) ngay sau dụ ngôn “những người thuê vườn xấu xa tệ hại” (Mc 12,1-11; Lc 20,9-19), được kết thúc bằng phản ứng của những Thượng Tế và Kinh Sư: “Họ tìm cách giết Đức Giêsu nhưng lại sợ dân chúng” (Mc 12,12). Điều này có tính mạch lạc khi câu chuyện trong Máccô tiếp nối ý tưởng “họ cử mấy người Pharisêu và mấy người thuộc Hêrôđê đến cùng Người để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy” (Mc 12,13). Khác với Máccô và Luca, Mátthêu có thêm câu chuyện “dụ ngôn tiệc cưới” (Mt 22,1-14) trước khi trình bày câu chuyện “nộp thuế cho Kaisar” (Mt 22,15-22). Chủ đề “chối từ” vẫn được tiếp nối cách mạch lạc, vì câu chuyện về tiệc cưới có nhóm người từ chối lời mời của nhà vua, còn câu chuyện này những người Pharisêu tìm cách gài bẫy để gây bất lợi cho Đức Giêsu. Chủ đề “thử thách” với động từ “πειράζω” nhắc nhớ đến những cuộc thử thách Đức Giêsu đã chịu và đã vượt qua trong Mt 4,1-11. Ngoài ra, nhiều lần Đức Giêsu cũng bị các lãnh đạo Do Thái thử thách (Mt 16,1; 19,3). Ngay sau đoạn văn này là thử thách của nhóm Xađốc dành cho Đức Giêsu liên quan đến “sự sống lại” (Mt 22,23-33); và người thông luật Pharisêu thử thách Người về điều răn trọng nhất (Mt 22,34-40).

Cấu trúc

Mở đầu (15): Âm mưu đánh bẫy.

Bản chất Đức Giêsu: Người chân thật, dạy con đường trong sự thật (16)

Thử thách: Có hợp pháp nộp thuế cho Kaisar hay không (17)

Bản chất kẻ thử thách: Xấu xa, đạo đức giả, thử thách người khác (18)

Hóa giải thử thách (19-21): “Hãy trả cho Kaisar những điều của Kaisar,

cho Thiên Chúa, những điều của Thiên Chúa

Kết thúc (22): Âm mưu thất bại, ngạc nhiên rời đi

Một số điểm chú giải

1.     Những người Pharisêu: Là nhóm nhân vật đã xuất hiện gần câu chuyện này nhất đi kèm với nhóm các thượng tế. Họ tìm cách bắt Đức Giêsu (Mt 21,45). Trong câu chuyện này họ tham vấn nhau để đánh bẫy Đức Giêsu bằng lời. Trong chương 23, họ xuất hiện cùng với các Kinh Sư với đặc tính “giả hình” (23,13.14.15.23.25.29); Họ mù quáng (Mt 23,26). Cùng nhóm “những người Xađốc” họ đến chịu Phép Rửa và bị ông Gioan gọi là “rắn độc” (Mt 3,7). Nhóm Pharisêu tranh luận với Đức Giêsu về nhiều đề tài: Ăn uống với người thu thuế và những người tội lỗi (Mt 9,10-13); Ăn chay (9,14-17); Về giữ ngày Sabát (Mt 12,1-14); Thanh sạch (Mt 15,1-9). Sự xung đột trở nên gay gắt sau khi Đức Giêsu chữa bệnh cho người bại tay trong ngày Sabát. Những người Pharisêu tham vấn tìm cách giết Đức Giêsu (Mt 12,14). Danh xưng Pharisêu không xuất hiện trong vụ xử án Đức Giêsu. Họ chỉ xuất hiện với đề xuất cho lính canh đến gác ở mộ Đức Giêsu (Mt 27,62-66). Phải chăng họ thật sự không hiện diện trong các phiên xử án, trong cuộc thương khó? Hoặc là họ vẫn hiện diện như là các thành viên Hội Đồng Do Thái nhưng không được nêu danh? Dù thế nào đi nữa, sự xung đột giữa nhóm này với Đức Giêsu là điều quá rõ ràng.

2.     Những người của Hêrôđê: Cụm từ Hy Lạp “τῶν Ἡρῳδιανῶν” có thể mang nghĩa là những người đang phục vụ Hêrôđê, có thể hơn, nó mang nghĩa là những người ủng hộ gia đình ông Hêrôđê. Danh xưng Hêrôđê xuất hiện dày đặc trong trình thuật Giáng Sinh của Mátthêu, đặc biệt Hêrôđê Cả là người truy đuổi Hài Nhi Giêsu (Mt 2,13-18). Tương tự, Hêrôđê Antipa chính là người đã bỏ tù và ra lệnh hành quyết ông Gioan Tẩy Giả cách oan ức (Mt 14,1-12). Theo B. Newman – P.Stine, những người thuộc Hêrôđê là những người ủng hộ con cháu của Hêrôđê với tư cách là đảng cầm quyền, và như thế ủng hộ sự cai trị của Rôma. Đối lại, những người Pharisêu là nhóm tôn giáo bảo thủ, họ chủ trương không nộp thuế cho chính quyền Rôma. Chính là một người Pharisêu tên là Xađốc đã bạn đồng hành với Juđa trong cuộc nổi dậy chống nộp thuế.[1] Có thể nói đây là hai nhóm có quan điểm đối nghịch.[2] Tác giả Máccô ghi nhận rằng sau khi chứng kiến Đức Giêsu chữa người bại tay ngay trong hội đường vào ngày sabát “nhóm Pharisêu lập tức bàn tính với nhóm Hêrôđê để tìm cách giết Đức Giêsu” (Mc 3,6). Trong Matthêu, đây là lần duy nhất những người Pharisêu đi chung với “những người của Hêrôđê”. Sự xuất hiện chung của hai nhóm đối nghịch này nhằm bao vây Đức Giêsu cả hai phía: Phía luật thuế của Rôma, và phía những người không ủng hộ nộp thuế. Như thế, đó thật sự là một vụ thử thách gay go.

3.     Chân thật, rao giảng đường lối Thiên Chúa trong sự thật, không lo lắng về ai, không nhìn vào mặt người ta[3]: Qua mô tả của nhóm môn đệ của những người Pharisêu và nhóm “thuộc Hêrôđê”, độc giả biết được Đức Giêsu là người chân thật. Cụm từ “không lo lắng về ai” (οὐ μέλει σοι περὶ οὐδενός) có lẽ diễn tả sự thẳng thắn, không lo sợ ai chi phối khi sống thật và nói thật. Thành ngữ Sêmít “không nhìn vào mặt người ta” (οὐ γὰρ βλέπεις εἰς πρόσωπον ἀνθρώπων), có thể là “không xem xét đến địa vị của người ta”, hoặc có thể là “không thiên vị ai”, dù cho địa vị của họ là gì đi nữa[4]. Mệnh để chỉ lý do được bắt đầu bằng liên từ “vì”, “vì thầy không nhìn vào mặt người ta”, có thể bổ nghĩa cho mệnh đề “thầy không bị ai chi phối” (nghĩ đen: không lo lắng về bất cứ ai). Nghĩa là, Đức Giêsu không lo sợ người ta gây bất lợi gì, cho dù người đó là ai, và ở địa vị nào. Bản tính Đức Giêsu là thật và Người thể hiện bằng cách “dạy con đường của Thiên Chúa trong sự thật” (καὶ τὴν ὁδὸν τοῦ θεοῦ ἐν ἀληθείᾳ). Động từ “dạy” ở thì hiện tại (διδάσκεις) diễn tả một sự thật hiển nhiên. Đức Giêsu luôn dạy nội dung ấy như thế, với tâm thế như vậy, dù kẻ ở trước mặt Người có là ai và ở vị thế nào. Thực tế, Người đang đối diện với hai thế lực đối lập (Pharisêu và Hêrôđê). Trong Tin Mừng Gioan Đức Giêsu tự giới thiệu mình là “con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6) và Người nói nhiều về sự thật. Khi mô tả Đức Giêsu như thế, nhóm người được sai đến không có mục đích tâng bốc Đức Giêsu, cho bằng tạo nên một tiền đề vững chắc buộc Đức Giêsu phải nói thật quan điểm trước câu hỏi mang tính gài bẫy của họ.

4.     Thử thách … đánh bẫy: Âm mưu ban đầu là của riêng nhóm những người Pharisêu, những người “thuộc Hêrôđê” chỉ là phương tiện, có thể nói như vậy. Những người Pharisêu đã “đi bàn tính với nhau” (nghĩa đen, đi lấy lời tư vấn). Mục đích là “để đánh bẫy Người trong lời nói” (ὅπως αὐτὸν παγιδεύσωσιν ἐν λόγῳ). Cụm giới từ “trong lời nói” (ἐν λόγῳ) có chức năng như phương tiện. Họ dùng lời của họ để “đánh bẫy” Đức Giêsu, hoặc họ đánh bẫy Đức Giêsu qua câu trả lời của Người. Phương thức đánh bẫy bằng lời là câu hỏi: “Có hợp pháp nộp thuế cho Kaisar không?” Hành động “đánh bẫy” được Đức Giêsu diễn tả là “thử thách”: Tại sao lại thử thách tôi (τί με πειράζετε). Đây chính là hành động của “kẻ cám dỗ”/ “quỷ” (ὁ πειράζων/ ὁ διάβολος) trong trình thuật “Đức Giêsu chịu cám dỗ” (Mt 4,1-11), nơi mà “kẻ cám dỗ” đã giăng ba cái bẫy để thử thách Đức Giêsu nhưng Người chiến thắng hoàn toàn. Nhóm lãnh đạo Do Thái nhiều lần thử thách (cám dỗ) Đức Giêsu: Nhóm Pharisêu và Xađốc thử Người, bằng cách đòi Người một dấu từ trời (Mt 16,1); Nhóm Pharisêu thử Đức Giêsu về luật li dị (Mt 19,13); nhóm những người thông luật thử Người về điều răn trọng nhất (Mt 22,35). Có thể, đây là những hình thức thử thách khác nhau nhằm nối dài cơn thử thách của quỷ lúc Đức Giêsu khai mạc sứ vụ.

5.     Xấu xa, đạo đức giả: Đức Giêsu bộc lộ tri thức siêu nhiên khi Người biết rõ, nhìn rõ những âm mưu bên trong của nhóm Pharisêu và những môn đệ của họ.[5] Đối lại với bản tính “chân thật” của Đức Giêsu, luôn dạy đường lối Chúa với sự thật là bản tính xấu xa của những người Pharisêu. Đức Giêsu nói câu này trực tiếp với các môn đệ của những người Pharisêu, và gián tiếp với những người Pharisêu. Những người “thuộc Hêrôđê” có lẽ không phải là đối tượng mà Đức Giêsu nhắm đến, vì dường như họ chỉ là phương tiện của nhóm Pharisêu. Danh xưng “kẻ đạo đức giả” (ὑποκριταί), theo nghĩa chặt là một diễn viên trên sân khấu ngày xưa, được Tân Ước dùng để mô tả những người “giả hình”, “giả bộ” (không thật). Người này giống như các diễn viên trên sân khấu đóng nhiều vai, mang nhiều mặt nạ khác nhau (ngày xưa chủ yếu là hóa trang bằng mặt nạ). Người ta chỉ thấy họ qua các vai diễn, qua các khuôn mặt mà không biết, không rõ, gương mặt thật của họ là như thế nào. Đặc tính “xấu xa” mô tả bản tính “kẻ đạo đức giả”. Thực chất, những lời của họ nói từ đầu đến cuối là không thật, vì mục đích của họ ngay từ đầu đã xấu xa và không thật. “Kẻ đạo đức giả” là danh xưng Đức Giêsu của Mátthêu dùng thường xuyên cho những người Pharisêu. Đặc biệt trong chương 23, Không chỉ là những người Pharisêu mà các Kinh Sư cũng bị gọi là “kẻ giả hình”. Đây cũng là danh xưng đặc nét của Tin Mừng Mátthêu. Có đến mười một lần Mátthêu dùng danh xưng này ở hô cách (Mt 6,2.5.16; 15,7; 22,18; 23.13.15.23.25.27.29; Luca: 2 lần 12,56; 13,15, và các tác giả khác: không dùng).

6.     Nộp thuế cho Kaisar: Sau khi Rôma áp đặt quyền cai trị trên Juđêa vào năm 6 CE, họ áp đặt một loại thuế gọi là thuế thân. Những người Do Thái yêu nước đã có nhiều phản ứng dữ dội đến nỗi dẫn đến một cuộc nổi dậy do Juđa lãnh đạo. Cuộc nổi dậy đó là cảm hứng và tiền thân cho phong trào “nhiệt thành” sau này.[6] Việc nộp thuế như thế là điều kiện để được sống bình an như là một chủ thể của đế quốc Rôma, và thực hiện các quyền liên quan đến thân phận đó. Thuế thân được áp dụng cho đàn ông, phụ nữ và nô lệ từ 12, 14 tuổi đến 65 tuổi. Thuế được đóng bằng tiền Rôma. Mt 22,19 cho thấy rằng, tiền thuế là một đồng denari = tiền công một ngày (Mt 20,2).[7] Vào thời của Đức Giêsu, đồng denari mang hình ảnh của hoàng đế Tibêriô và ấn ảnh tiếng Latinh “Tiberius Caesar Divi Augusti Filius Augustus Pontifex Maximus” (Tiberius Kaisar, con trai của thần Augusttô, thượng tế Augustô”). Cả hai tước hiệu “Con trai thần Augustô” và “thượng tế Augustô” đều xúc phạm đến lòng đạo đức của người Do Thái.[8] Tibêriô cai trị với vị thế là hoàng đế giữa năm 14 – 37 CE.

7.     Của Kaisar … của Thiên Chúa: Đức Giêsu bị đặt trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Người không thể ủng hộ việc đóng thuế thân, vì những người Do Thái không thích chuyện ấy, đại diện là nhóm Pharisêu, đặc biệt là nhóm nhiệt thành và Người cũng không thể nói ngược lại, vì nếu thế Người sẽ cổ võ phong trào chống lại chính sách của đế quốc Rôma mà nhóm “thuộc về Hêrôđê” đang ủng hộ. Đức Giêsu chọn lựa giải pháp trung dung. Về mặt chính trị, phải trả cho Kaisar những gì thuộc về Kaisar, nhưng về mặt tôn giáo, việc nộp thuế cho đế quốc chẳng ảnh hưởng gì đến bổn phận đối với Thiên Chúa. Có thể vừa là một công dân tròn trách nhiệm vừa là tôi tớ trung thành với Thiên Chúa.[9] Câu trả lời của Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở mức độ được phép hay không được phép nộp thuế, nhưng còn đi xa hơn khi Người nhấn mạnh bổn phận đối với Thiên Chúa. Đức Giêsu vừa nối kết vừa phân biệt giữa con người xã hội và con người tôn giáo.[10] Người không phủ nhận bổn phận xã hội, nhưng nhấn mạnh thêm bổn phận với Thiên Chúa. Cụm động từ “trả lại cho Thiên Chúa” (“ἀποδίδωμι”) gợi nhớ đến cụm động từ “trả lại hoa trái” trong dụ ngôn “những người thuê vườn xấu xa tệ hại” (Mt 21,33-43). Những người thuê vườn xấu xa tệ hại không nộp hoa trái cho ông chủ, nên sẽ bị tiêu diệt và vườn nho lại được trao cho những người khác biết nộp hoa trái đúng mùa. Tin Mừng Luca ghi lại lời tố cáo của Hội Đồng Do Thái dành cho Đức Giêsu trước mặt quan Philatô: “Người này xách động dân chúng tôi và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Kaisar” (Lc 23,2). Lời tố cáo này xem ra chỉ là lời vu khống vì theo câu chuyện này, Đức Giêsu không hề ngăn cản dân chúng nộp thuế.

Bình luận tổng quát

Trong Mt 22,15-22, Đức Giêsu tiếp tục bị giáo quyền Do Thái tấn công trong những ngày giảng dạy ở Jêrusalem. Nhóm người tấn công cụ thể ở đây là những người Pharisêu. Họ đã tham vấn nhau và bày mưu tính kế trước khi gửi các môn đệ đến với Đức Giêsu. Sự xuất hiện của nhóm “những người của Hêrôđê” cho thấy sự sắp xếp chu đáo của họ trong vụ gài bẫy Đức Giêsu. Cả hai nhóm đều có mặt, một nhóm đại diện cho những người Do Thái bảo thủ, rất khó chấp nhận nộp thuế thân cho người Rôma; Nhóm kia đại diện cho những người tùng phục ủng hộ chính sách Rôma hoàn toàn. Dù có trả lời thế nào trước câu hỏi: “Có hợp luật để nộp thuế thân cho Kaisar không?” Đức Giêsu cũng sẽ dính bẫy. Đối diện với mưu đồ bất chính của những kẻ xấu xa, được gọi là “những kẻ đạo đức giả”, Đức Giêsu không lảng tránh. Thay vì trả lời câu hỏi “có hoặc không”, Người cho họ thấy một thực tế rằng họ đang bị Rôma đô hộ và đồng tiền họ đang xài rõ ràng mang hình ảnh và ấn ảnh Rôma. Đức Giêsu không có đồng tiền ấy trong khi họ luôn có trong mình. Thế thì, cho đến khi nào họ thoát khỏi tình trạng này, họ vẫn phải “trả chao Kaisar” những gì thuộc về “Kaisar”.[11] Điều quan trọng là vượt ra khỏi mọi cơ cấu thống trị về mặt chính trị xã hội, họ phải nhận biết Đấng thống trị tối cao là Thiên Chúa, và họ phải phụng sự Người. Trong bối cảnh của sự xung đột giữa hai nhóm người: Những người được xem là ưu tuyển và nhóm những người vốn bị xem là kém hơn, câu chuyện này càng cho thấy sự thúc đẩy những người yếu thế hơn để họ biết nắm lấy vận mệnh đời mình mà vươn lên Thiên Chúa, là vua tối cao của toàn cõi vũ hoàn.

Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD.



[1] R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew (NICNT; Grand Rapids 2007) 831.

[2] “The Herodians were supporters of the descendants of Herod as the ruling party, and as such would have been in favor of Roman rule. On the other hand, the Pharisees were the conservative religious element, and they would have found it distasteful to be compelled to support the Roman government by their contributions. This then depicts the dilemma in which the Pharisees hope to snare Jesus. To say that one should not pay taxes to the Romans would put him at odds with the civil authorities, while he would have lost favor with the people if he had advocated the payment of taxes to the Roman authorities” [B.M. Newman – P.C. Stine, A handbook on the Gospel of Matthew (UBS; New York 1992) 683]; “The introduction of the Herodian party makes the question a pointed one. The Herodians were supporters of the family of Herod the Great, ruling only by favor of the occupying Roman authority. Anxious to maintain the status quo, the Herodians would certainly have supported the payment of taxes to Rome where the patriotic Pharisees emphatically would not [W.F. Albright, & C.S. Mann, Matthew. Introduction, translation, and notes (New Haven – London 2008) 272]; “Herodians were partisans of the Herodian dynasty, who held their power by Rome’s favor and hoped for the full restoration of Herodian authority (cf. Simon 1967: 86)” [C.S. KEENER, The Gospel of Matthew. A Socio-Rhetorical Commentary (Grand Rapids – Cambridge 2009) 524].

[3] “Their estimate of Jesus does, however, correspond well with what we have seen of his style of teaching, unafraid to speak his mind and to challenge accepted traditions. They therefore assume that Jesus prides himself on his independence, and so plan to use it to lead him into a politically sensitive pronouncement” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 382).

[4] “You do not regard the position of men translates the Semitic idiom: “you do not look into the face of men.” A literal translation may imply guilt or shame on Jesus’ part, whereas the real emphasis is upon the impartiality with which Jesus treats people, regardless of their status (AT “you are impartial”). GeCL connects this clause with the previous one: “... influenced by people, no matter how important they are.” Some translators will make this a new sentence: “You don’t care whether someone is important or not” or “It does not matter to you whether someone is an important person or not” (B.M. Newman – P.C. Stine, A handbook on the Gospel of Matthew, 683).

[5] “In saying that Jesus “recognized” their intention Matthew perhaps intends us to think of his supernatural knowledge of people’s thoughts, but the sycophantic nature of their question was in itself enough to betray their insincerity” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 833).

[6] “The poll tax had been among the taxes imposed on Judea following the imposition of direct Roman rule in AD 6, not long before, and had been fiercely resented by patriotic Jews, resulting in a serious revolt led by Judas (Josephus, War 2.117–118; Ant. 18.4–10). That revolt was the inspiration for the later Zealot movement which led to the war of independence beginning in AD 66 and so to the fall of Jerusalem and the destruction of its temple in AD 70 (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 829, 832).

[7] D. Harrington, The Gospel of Matthew (SP 1; Collegeville 1997) 310.

[8] “The coin related directly to pagan Roman religion and to the imperial cult in the east: the side bearing his image also included a superscription, namely, “TI. CAESAR DIVI AVG.F.AVGVSTVS”—“Tiberius Caesar, son of the Divine Augustus”; the other side bore a feminine image (perhaps of the Empress Livia personified as the goddess Roma) and read “PONTIF. MAXIM,” referring to the high priest of Roman religion” (C.S. KEENER, The Gospel of Matthew, 525); R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 833;

[9] “Jesus asserts that this is not necessarily so: it is possible to pay one’s dues both to the emperor and to God, to be both a dutiful citizen and a loyal servant of God” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 830).

[10] Neither the image nor the superscription on coins in common usage could prevent Jewish people’s single-minded devotion to God, nor did the coin have this effect (.S. KEENER, The Gospel of Matthew, 525).

[11] “And Jesus apparently did not have one—but they did, and in the holy precincts of the temple at that! Well then, if they were using the emperor’s (idolatrous) coinage they could hardly object to paying his tax” (Ibid.).