Tôi là ánh
sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối (12,46).
"Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối,
nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống (8,12)." Bao lâu Thầy còn ở thế
gian, Thầy là ánh sáng thế gian (9,5)."
Đó là những lời
khẳng định mà chỉ có một mình Đức Giê-su có thể có đủ tư cách để nói. Dấu lạ chữa
lành Anh mù từ thuở mới sinh trong bài Tin Mừng hôm nay là một trong những bằng
chứng xác thực rằng những gì Đức Giê-su nói hoàn toàn là sự thật. Ngài quả thực
là ánh sáng thế gian.
Dấu lạ mở mắt
cho người mù (Ga 9,1-41) là một tiến trình gồm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất: Đức
Giê-su nhổ nước miếng xuống đất trộn thành bùn rồi xức vào mắt anh mù. Giai đoạn
thứ hai: Anh mù phải làm theo chỉ dẫn của bác sĩ Giê-su. Đó là: “Hãy đến hồ
Silôam mà rửa”. Vậy, Anh ta đến, rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
Anh mù đã làm
theo đúng như lời chỉ dẫn của Đức Giê-su và anh đã nhìn thấy được. Tuy nhiên,
việc anh khỏi bệnh, được sáng mắt chỉ là bước đầu tiên của tiến trình lành bệnh
tâm linh của anh mà thôi. Cơn bệnh mà Đức Giê-su muốn chữa cho anh mù chính là
cơn bệnh mù về tâm linh. Đó là cơn bệnh có thể làm cho người ta chết đời đời chứ
không chỉ đau đớn về thể xác. Nếu như sau khi sáng mắt, anh mù không biết Đức
Giê-su là ai, không tin vào Đức Giê-su thì cơn mù về đức tin của anh vẫn còn.
Chính vì thế
mà ngay sau khi được sáng mắt anh mù liền bắt đầu hành trình tìm kiếm Chúa
Giê-su. Anh đã trải qua nhiều cuộc tranh luận để rồi từng bước nhận ra Đức
Giê-su và cuối cùng xác tín niềm tin của mình vào Người. Trong cuộc tranh luận
đầu tiên với những người hàng xóm, anh ta chỉ biết rằng một ngươi tên là Giê-su
đã mở mắt cho Anh. Trong cuộc tranh luận thứ hai với những người Pha-ri-sêu, anh đã dám quả quyết:
“Đức Giê-su là một ngôn sứ”.
Và trong cuộc
tranh luận thứ ba với cả hai nhóm: Những người Pharisêu cộng với nhóm những người
Do Thái, anh mù đã tin nhận Đức Giê-su đến từ Thiên Chúa, Ngài là Đấng Thiên
Sai. Và khi nhìn nhận gốc tích của Đức Giê-su, anh mù đã phải trả một giá rất đắt.
Đó là bị trục xuất khỏi hội đường. Một người Do thái bị trục xuất khỏi Hội đường
giống như người công giáo chúng ta bị trục xuất khỏi nhà thờ và mọi sinh hoạt của
giáo xứ. Anh ta đã chấp nhận bị loại ra khỏi những sinh hoạt tôn giáo của Do
thái để mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình về Đức Giê-su.
Khi Đức
Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có
tin vào Con Người không? "Anh đáp: "Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi
tin?" Đức Giê-su trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với
anh đây." Anh nói: "Thưa
Ngài, tôi tin." Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
Đó quả là một
kết quả như trong mơ của một tiến trình tìm kiếm Chúa. Anh mù giờ đây đã đạt đến
đỉnh điểm, đến mức ao nhất của dấu lạ chữa lành. Đó là niềm tin vào Đức Giê-su.
Anh không còn đi trong bóng tối nữa, nhưng đã nhận được ánh sáng đem lại cho
anh sự sống đời đời.
Chúa Nhật
IV Mùa Chay thường được gọi là Chúa Nhật hồng, Chúa Nhật vui. Bởi lẽ, chúng ta
đã bước qua một chặng đường dài chuẩn bị và đang tiến gần đến đại Lễ Phục Sinh.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta cùng chung vui với anh mù
từ thuở mới sinh. Trước hết, đó là niềm vui của một kẻ được sáng mắt sau bao
nhiêu năm sống trong cảnh mù lòa.
Nhưng hơn hết,
đó là niềm vui của kẻ đã gặp gỡ chính Chúa, cảm nghiệm tình thương của Chúa đối
với mình. Niềm vui của kẻ đã lãnh nhận hồng ân đức tin. Đó chính là ánh sang
đem lại sự sống đời đời. Điều này rất quan trọng và rất ý nghĩa đối với vận mạng
đời anh. Bởi lẽ, trong Tin Mừng Gioan, Tin vào Đức Giê-su thì sẽ có sự sống đời
đời: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3,16).
Chuyện kể rằng!
Có một chàng
sinh một sinh viên mới ra trường đến xin việc ở một công ty bảo hiểm. Người tuyển
dụng thấy chàng trai trả lời phỏng vấn không đạt tiêu tuẩn nên bèn hỏi chàng
trai thêm một câu: “Em có Đạo không?” Anh chàng hăng hái nói: “Dạ không! Em được
học ở trường rằng tôn giáo là thuốc phiện mê dân. Ba má em dặn không được theo
tôn giáo nào, để sau này còn phấn đấu...”
Người tuyển dụng
mỉm cười khi nghe anh chàng hăng hái “phát biểu”. Nghe xong, Ông nhẹ nhàng nói:
“Này em, tôi thấy em thiếu một số điều kiện nên hỏi em câu ấy. Công ty này đánh
giá cao người có tôn giáo (theo Đạo nào cũng được). Và theo bảng chấm điểm, nếu
ai có tôn giáo và thực hành tôn giáo thì được cộng 100 điểm phỏng vấn (khoảng
6%). Và để chứng minh ông cho anh chàng xem bảng qui tắc chấm điểm.
Lúc bấy giờ, anh
chàng lúng túng và nói: “Dạ nãy giờ em nói theo bài học thôi, chứ ở nhà em bà
nội em luôn dạy con người cần có tôn giáo”. Dĩ nhiên, câu nói ấy chỉ tô đậm
thêm sự giả dối và yếu kém của chàng sinh viên mà thôi.
Là người công giáo, hầu hết mỗi người chúng ta không phải
trải qua tiến trình tìm kiếm đức tin như anh mù. Tuy nhiên, giống với anh mù chúng
ta cũng phải trả lời cho những chất vấn của người khác về đức tin của mình bằng
lời nói cũng như bằng đời sống chứng nhân của mình.
Câu trả lời bảo vệ đức tin của chúng ta được đặt trên nền
tảng của những cảm nghiệm của chúng ta về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình.
nếu như cho đến bây giờ, sau bao nhiêu năm theo Chúa mà chúng ta vẫn chưa cảm
nghiệm được những hồng ân mà Chúa đã ghi dấu trên cuộc đời chúng ta. Chúng ta
vẫn chưa dám xác tín rằng Chúa chính là lẽ sống của đời mình thì chúng ta khó
mà có được một câu trả lời về Thiên Chúa của mình một cách tích cực được.
Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ephêxô
hôm nay đã dạy chúng ta rằng: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong
Chúa anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh
sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. Anh em
hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa.
Sống trong một quốc gia có nền chính trị vô thần, học đường
và các công sở dường như vắng bóng Thiên Chúa. Người Công giáo chúng ta chỉ là
một thiểu số trong số đông những người vô thần. Chúng ta có trách nhiệm phải
trả lời cho tất cả mọi người về đức tin của mình, phải cho thế giới thấy được
sự tốt lành của đạo Chúa và niềm hạnh phúc của một người con Chúa.
Tuy nhiên, thực tế, áp lực, sức ảnh hưởng, tác động của một
xã hội vô thần dễ làm cho người ki-tô hữu hoảng sợ và đóng khung, cất giữ niềm
tin của mình vào trong khuôn viên xã nhà thờ. Thiên Chúa của chúng ta bị nhốt
lại trong khuôn viên giáo xứ. Để rồi, khi bước ra đời, nhiều người ki-tô hữu
cũng không khác gì những người khác. Họ cũng chanh chua, đanh đá, cũng buôn
gian, bán lận; cũng tranh giành lợi lộc, bất chấp thủ đoạn; cũng sống ít kỷ
thiếu lòng quảng đại sẽ chia…
Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta chung
vui với anh mù từ thuở mới sinh không những vì hồng ân sáng mắt nhưng trên hết
là hồng ân đón nhận chính Đức Ki-tô là ánh sáng đem lại sự sống đời đời. Đồng
thời cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta một đời sống của con cái sự sáng. Hồng ân
đức tin không thể chỉ là một kho tàng chôn dấu, nhưng phải là một hồng ân sự
sống. Đức tin không hành động thì quả là đức tin chết. Đức tin cân chính luôn cần
một sự xác tín, làm chứng và biểu hiện bằng những hành động bác ái, lương thiện, công
chính và sự thật. có như thế thì các tín hữu mới mong đạt được niềm vui trọn
vẹn như niềm vui của anh mù từ thuở mới sinh.
Duy Thạch SVD
No comments:
Post a Comment