Friday 21 March 2014

TÂM SỰ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ SAMARI



Người ta thường đi lấy nước vào buổi sáng sớm hoặc chiều tối, vì lúc ấy trời mát hơn. Họ thường đi thành từng nhóm. Như vậy sẽ vui vẻ hơn, an toàn hơn và bớt mệt nhọc vì quãng đường từ làng ra giếng nước cũng khá xa và đường đi lại gập ghềnh. Tôi thì không được như vậy. Tôi vốn lẻ loi, cô độc, bị người đời khinh khi vì một quá khứ không mấy tốt đẹp. Muốn lấy nước dùng hằng ngày, tôi phải chọn một thời điểm mà tôi chắc rằng không còn người làng nào ở giếng.
Và dĩ nhiên là đi một mình, vì chẳng ai buồn đi với tôi. Đó là lý do mà tôi thường một mình lặng lẽ đi lấy nước vào lúc vắng người, vào đúng ngọ, vào giờ thứ sáu, lúc trời nắng nhất. Bước chân lặng lẽ một mình nặng trĩu với những quá khứ không mấy tốt đẹp, không một ai đón nhận. Chính trong hoàn cảnh ấy, tôi đã gặp Ngài. Thoạt tiên, tôi bỗng giật mình, ngạc nhiên sao giờ này còn có người ở ngoài giếng. Mỗi khi giờ này đã vắng tanh không một bóng người rồi cơ mà!

Lòng tôi ngập ngừng. Tôi bước chậm lại và lấy nón che mặt để tránh ánh nhìn của người ấy. Hình như không phải người trong làng mình? Không phải người làng thì đâu biết mình là ai đâu mà ngại, thôi thì việc mình mình làm. Nghĩ vậy, tôi lại mạnh dạn tiến bước. Đúng là không phải người làng mình. Hú hồn! ông ta là một người Do thái. Vậy cũng hay, vì người Do thái đâu có nói chuyện với người Sa-ma-ri. Chắc là ông ta lạc đường! có lẽ ông tình cờ đi qua đây. Thôi kệ! người Do thái đời nào chung đụng với người Sa-ma-ri đâu.

Thế nhưng tôi đã lầm. Tôi bắt đầu khám phá ra sự lầm lẫn của mình khi Ngài mở lời “xin cho tôi uống với”. Tôi giật mình, ngạc nhiên đến há hóc mồm: “Ông là người Do thái mà lại xin một người Sa-ma-ri nước uống”. Chắc lúc đó Ngài khát lắm mới phải liều mình như vậy vì người Do thái không giao thiệp với người Sa-ma-ri. Chưa kịp hết ngạc nhiên, bàng hoàng thì Ngài lại bảo tôi: “Nếu chị nhận biết ân huệ của Thiên Chúa và ai là người đang nói với chị “cho tôi uống với” thì hẳn chị đã xin người ấy và người ấy đã ban cho chị nước sự sống”. 


Lời quảng cáo của Ngài quả thực làm tôi rất tò mò: “Ai uống nước này thì sẽ lại khát, nhưng ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi sẽ ban cho người ấy sẽ làm cho nơi người ấy vọt lên sự sống đời đời.”

Ngài đã gợi lên trong lòng tôi một cơn khát và ước mong được uống nguồn nước ấy. Tôi nói cùng Ngài: “thưa Ông xin ông cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước nữa?” Nhưng rồi, Ngài bỗng làm tôi bối rối, khi bảo tôi: “Chị hãy đi gọi chồng chị rồi trở lại đây”. Câu hỏi ấy đã chạm vào quá khứ đau thương của tôi, nhưng tôi vẫn còn đủ bình thản vì tôi vẫn nghĩ rằng, Ngài chẳng biết gì về tôi, có gì đâu phải ngại. Tôi nói đại với Ngài rằng là tôi không có chồng!

Một lần nữa Ngài lại làm tôi giật mình, ngạc nhiên khi Ngài nói rằng: Ngài biết tôi nói đúng, tôi đã có năm đời chồng và người hiện ở với tôi không phải là chồng tôi. Tôi từng nghĩ rằng Ngài là một người Do thái, chẳng quan tâm gì người Sa-ma-ri; Tôi cũng đã từng nghĩ rằng Ngài không phải là người làng tôi, làm sao biết gì về tôi. Nhưng không! Tôi đã lầm, Ngài rất quan tâm tôi và biết rất rõ về tôi. Biết tất cả những uẩn khúc của cuộc đời tôi, biết nỗi đau tận đáy lòng tôi. Có lẽ Ngài không tình cờ đi ngang qua đây và dừng chân trên bờ giếng giữa trời trưa nắng gắt như thế này. Có lẽ Ngài không tình cờ đến đây, gặp tôi để chỉ xin chút nước uống. Chính niềm khao khát tình yêu mãnh liệt, niềm khát khao, mang niềm tin và ơn cứu độ cho tôi đã thúc bách Ngài đến và dừng chân nơi này.

Tôi cứ ngỡ rằng Ngài là một người Do thái xa lạ, nhưng té ra Ngài lại là một ngôn sứ, là Đấng Mê-si-a, mà tôi và dân tôi đang mong đợi. Ngài đến đây để tìm tôi. Ngài đã nói cho tôi nghe về chính cuộc đời tôi, về ý định yêu thương của Thiên Chúa dành cho tôi, và tất cả những ai lâm vào cảnh đau khổ tủi nhục như tôi. Ngài đã nghe câu chuyện đời tôi, để cảm thông với tôi, để giúp tôi làm lại cuộc đời, giúp tôi thoát khỏi những nỗi mặc cảm, tự ty của một quá khứ lầm lạc. Ngài giúp cho tôi nhận ra hơi ấm tình người vẫn còn đâu đây. Vẫn còn một niềm hy vọng cho tôi.
Ngài cũng dạy tôi một cách thức thờ phượng đích thực. Không phải là nơi chốn, núi này hay Giê-ru-sa-lem, hay một nơi tráng lệ nào khác. Giờ đến, và là bây giờ, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong tinh thần và chân lý. Vì Cha tìm kiếm những kẻ thờ phượng như thế.” Vậy là không còn phân biệt người Do thái hay Sa-ma-ri, không còn phải tìm kiếm, tranh dành nhau về một nơi thờ phượng nữa. Thiên Chúa là cha của mọi người và Ngài chỉ muốn họ thờ phượng Ngài trong tinh thần và chân lý.


Tôi vui mừng khôn kể siết, vui đến độ quên đi mục đích của mình đến bờ giếng để làm gì. Tôi đã để cả vò nước lại, và một mình chạy về tay không, lòng hớn hở vui mừng. Tôi không thể hoãn niềm sung sướng của mình lại thêm một phút giây nào. Tôi muốn tất cả mọi người trong làng tôi đều biết tin vui về Đấng Ki-tô. Mọi khoảng cách, mọi sự tự ty, mặc cảm, rụt rè của tôi đối với dân làng dường như biến mất. Tôi mạnh dạn đến gặp gỡ họ và mời gọi họ: hãy đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô thì là ai nữa? ".
Rồi chính dân làng cũng được cảm nếm được niềm vui, niềm hạnh phúc như tôi. Có rất nhiều người Tin vào Ngài. Họ cũng bắt đầu yêu mến và quyến luyến Ngài đến nỗi không muốn Ngài rời xa. Và Ngài đã ở lại trong làng đến 2 ngày. Đó là một chuyện lạ lùng chưa từng có từ trước đến nay. Một bậc thầy Do thái, cùng các môn đệ của Ngài lưu lại trong ngôi làng của người Sa-ma-ri.
Đó thật sự là chuyện lạ, chuyện gây shock cho nhiều người nếu như họ chỉ xem Ngài như là một bậc thầy Do Thái. Còn chúng tôi, chúng tôi không còn thấy lạ, thấy shock nữa. Bởi lẽ, chúng tôi biết rằng Ngài là Đấng Cứu Độ thế gian. Ngài đem niềm vui đến cho tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, sinh sống trên bất cứ lãnh thổ nào. Ngài yêu thương đặc biệt những người nát tan cõi lòng như tôi và tất cả những người đau khổ trên mọi nẻo đường của cuộc sống.

Tâm sự của Người Phụ Nữ Samari, nhắc nhớ chúng ta về hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương, miệt mài đi tìm tội nhân, tìm những người con lầm lạc của mình. Cơn khát của Đức Giê-su không đơn thuần là cơn khát nước uống, nhưng là niềm khao khát mang niềm tin và ơn cứu độ đến cho con người. Ước gì trong suốt Mùa Chay này, mỗi người chúng ta luôn có một niềm khao khát “nước sự sống” mãnh liệt, để rồi mau trở về trong vòng tay Thiên Chúa tình yêu, hầu tìm lại được niềm vui, niềm hạnh phúc của người con Chúa. Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết mặc lấy tâm tình của Đức Giê-su để luôn chủ động  thăm viếng, đem niềm vui, niềm an ủi đến cho những anh chị em bất hạnh chung quanh mình. Amen!


DUY THẠCH SVD

1 comment:

  1. This comment has been removed by a blog administrator.

    ReplyDelete