Wednesday 6 June 2012

ĐỨC TIN VÀ LÝ TRÍ

Người Công giáo thường tự hào rằng mình có đức tin chân chính. Và họ càng hãnh diện hơn khi nhận ra rằng mình được Đức Giê-su chúc phúc: “phúc cho những ai đã không thấy mà tin” (Ga 20,29). Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Đức Giê-su và tông đồ Thomas cho thấy một cái nhìn khá phong phú về đức tin. Đức tin trong suy nghĩ của mỗi người chắc chắn là khác nhau. Có những người tin mà không cần hiểu mình tin cái gì hay Đấng mình tin là ai. Có những người thì đòi hỏi niềm tin phải được nghiệm chứng bằng khoa học, tin phải hiểu, phải hợp lý.
Đó là những quan điểm tiêu biểu của các triết gia thời Trung Cổ. Cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí là một cuộc đối thoại rất căng thẳng nhưng cũng rất ý nghĩa cho đời sống của các tín hữu. Lý trí giúp con người hiểu biết những chân lý để rồi đi đến niềm tin vào Thượng Đế hay chính niềm tin vào Thượng đế là căn nguyên của mọi hiểu biết? hay đức tín và lý trí là hai lãnh vực hoàn toàn độc lập chẳng dính dáng gì nhau hết? đó là những câu hỏi được đặt ra trong cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí. Mỗi quan niệm mỗi lập trường của mỗi triết gia hay trường phái đều có một ý nghĩa nhất định và cũng có những hạn chế của nó. Bài viết này chỉ xin được trích dẫn một số lập trường tiêu biểu về đức tin và lý trí của các triết gia thời Trung Cổ.
1.Tôi tin vì đó là điều phi lý”[1]
Đó là lập trường của giáo phụ Tertulien. Đối với triết gia Terlulien (160-240) điều gì mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe và lòng người không thể hiểu thấu thí mới đáng để tin; còn điều gì con người có thể hiểu được lý giải được thì không cần phải tin. Đức tin chắc chắn vượt lên trên sự hiểu biết. Nó hoàn toàn là vấn đề siêu nhiên. Tertulien là triết gia rất sùng bái đức tin qua mức đến nỗi chống lại triết học, chống lại lý trí. Hiểu biết ư? Rất đơn giản chỉ cần tin thôi. Đồng thời chân lý do đức tin mang lại thì chắc chắn hơn lý trí.[2] Cái lý của Ông đưa ra là: không thể dùng cái hữu hạn để tìm cái vô hạn. Từ đó Ông cho rằng các triết gia là những người lạc đạo. Đối với Ông, không có chuyện chú giải Kinh Thánh. Niềm tin ki-tô giáo phải là niềm tin tuyệt đối, đón nhận trọn vẹn mà không có một chọn lựa hay phê phán nào khác.[3] Đó là biểu hiện của một sự duy tín cực đoan. Nghĩa là niềm tin vào Thiên Chúa là đã đủ, không cần chứng minh hay giải thích: “tin bao gồm chân lý không cần chứng minh hay giải thích”.[4] Và lý trí vốn cũng không thể nào lý giải được đức tin.
Ý nghĩa: Tertulien là một con người nhiệt thành. Vì thế trước sự thách thức của một nền văn hóa ngoại giáo Ông đã có những vấn đề tranh luận rất nẩy lửa để bảo vệ đức tin. Ông có đức tin mạnh mẽ và một lối sống đơn nghèo. Ông đã chứng tỏ một niềm tin tuyệt đối không gì có thể lay chuyển được: “Tin là tin vào cái không thể đó mới là tin”. Còn những cái có thể chứng nghiệm được thì không cần phải tin nữa. Ông muốn khẳng định sự viên mãn của chân lý đức tin trước phái ngộ đạo muốn mang lại một mạc khải cao hơn mạc khải của Phúc Âm.[5] Thật vậy, một niềm tin như thế đôi khi rất có ý nghĩa khi người ta không thể lý giải những điều vượt quá sự hiểu biết của mình mà những điều ấy thì quá nhiều trong đời người.
Tuy nhiên, quan niệm của Ông còn nhiều hạn chế và không được Giáo Hội nhìn nhận. Lập trường duy tín của Ông có nguy cơ dẫn đến một niềm tin mù quáng. Tin nhưng không thể hiểu được điều mình tin và Đấng mình tin. Yếu tố mạc khải sẽ bị bỏ quên nếu ta không tìm hiểu. Tuy Đức Giê-su từng nói “phúc cho những ai không thấy mà tin” nhưng điều đó không có nghĩa là Ngài phủ nhận vai trò của sự hiểu biết về điều mình tin. Chúa ban cho con người khối óc để con người có thể hiểu biết về Ngài và Ngài luôn hỗ trợ họ trong công việc ấy.
Là một người cực đoan. Tertulien đã chủ trương một lối sống đạo khắc khổ nặng lề luật. Ông bị ám ảnh bởi sự lây nhiễm ngoại giáo mà ông có khuynh hướng đề cao sự đoạn tuyệt tách rời.[6] Điều này làm giảm đi hòa tính, sự sống động trong ki-tô giáo. Ki-tô giáo có luật lệ nhưng không chỉ giữ luật một cách cứng nhắc. Hơn tất cả đó là luật đức ái, tình liên đới, sự giải thoát. Quan niệm của ông có thể là tiền đề cho một lối sống đạo bổn phận, “pha-ri-sêu”, so đo tính toán thiệt hơn.
Trên nguyên tắc Ông không kết án việc thi hành các nhiệm vụ công quyền, nhưng Ông đặt ra các điều kiện mà đến nỗi trên thực tế việc thi hành chức vụ đó không thể làm được. ông cho phép ki-tô hữu hấp thụ văn hóa thế tục, nhưng không được dạy vì làm thầy dạy thì lụy vào văn hóa đó hơn học trò.[7]
2.      “Tin để hiểu và hiểu để tin”[8]
Đây chính là luận đề của thánh giáo phụ Augustine (354-430). Lý trí phụng sự đức tin và khoa học phụng sự tôn giáo. Lý luận triết học chỉ là cái bóng của đức tin mà thôi. Thế giới Kinh Thánh là nguồn mạch chắc chắn hơn là mảnh đất của lý luận. Đức tin chắc chắn hơn sự hiểu biết. điều mang lại sự hiểu biết cho con người không phải là những suy tư trừu tượng nhưng là lòng tin nơi sự kiện lịch sử về cuộc đời và cuộc tử nạn của Đức Giê-su. Sau khi trở lại đạo, những cảm nhận về Thiên Chúa, về thân phận con người làm cho thánh nhân nhận ra sứ giới hạn của lý trí và tăng cảm thức về đức tin, đức cậy vào Thiên Chúa. Kiến thức, sự hiểu biết sẽ không là gì cả nếu không phụng sự cho đức tin. Quả thực nữa cuộc đời trước của Augustine là nữa cuộc đời của hiểu biết, hưởng thụ nhưng tất cả đều vô nghĩa cho đến khi ngài cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong đời mình. Lập trường của thánh Augustine nghiêng hẳn về đức tin khi ngài phát biểu rằng: “tin để hiểu và hiểu để tin”. Đức tin luôn đi trước nhận thức. Ta có tin rồi ta mới tìm hiểu về niềm tin ấy và sự hiểu biết sẽ là phương tiện hỗ trợ cho niềm tin của ta. Nhưng căn bản là phải tin đã. Ví như trong Tin Mừng, dẫu cho Đức Giê-su có làm bao nhiêu phép lạ đi nữa thì người Do thái vẫn không tin và họ đòi một dấu lạ (Mt 16,1-4), ngay sau khi Ngài làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mc 8,1-10). Nếu như họ tin thì họ đã thấy dấu lạ nhưng vì không tin nên tất cả những gì Đức Giê-su làm chưa phải là dấu lạ.
Đức tin sẽ là khởi đầu và căn bản cho sự nhận thức. Augustine đưa ra hai lý chứng cho vấn đề này. Lý chứng thứ nhất: con người có lý trí nhưng không phải ai và lúc nào cũng giải quyết vấn đề bằng lý trí; các nhà khoa học dựa vào lý trí còn đại đa sống chúng ta dựa vào đức tin. Lý chứng thứ hai: lý trí con người không thể thâu tóm thế giới vô hình. Phạm vi của nó hẹp hơn đức tin. Cái gì tôi hiểu thì tôi mới tin nhưng không phải tất cả những gì tôi tin thì tôi đều hiểu cả. lý trí không kiểm soát hành vi của ý chí.[9]
Ý nghĩa: thánh Augustine đem đến cho ki-tô giáo một niềm tin thuần khiết bằng chính kinh nghiệm sống của mình và qua những tác phẩm của ngài đặc biệt là cuốn “Tự Thuật” (The Confession). Ngài đã chứng minh cho mọi người thấy không phải chính sự thông minh, uyên bác đã làm cho người ta tin nhưng là một cảm nghiệm, một tác động từ Kinh Thánh. Ngài cho thấy tầm quan trọng của việc đọc Kinh Thánh và sức biến đổi của Kinh Thánh.
Ngài đóng góp một lập trường lấy đức tin làm căn bản cho sự hiểu biết và mọi sự hiểu biết nhằm phục vụ cho đức tin. Điều đó có nghĩa là ngài xác nhận sự hiện diện của Thiên Chúa như là Đấng hướng dẫn và là cùng đích của mọi suy tư lý luận, tìm tòi của con người.
Tuy vậy, lập trường của thánh Augustine đã đóng góp ít nhiều vào việc phân biệt giữa thần quyền và thế quyền. Ngài đặt thần quyền lên đỉnh cao chót vót và coi nhẹ thế quyền. Điều đó được biểu hiện rõ trong tác phẩm “Thành Đô Thiên Quốc”. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của triết học Platon, thánh nhân coi nhẹ thân xác và coi nó như một công cụ của linh hồn. Thân xác con người thật sự tốt đẹp ngang hàng với linh hồn ngay từ buổi đầu tạo dựng. Thiên Chúa không dựng lên thân xác như nơi trú ẩn cho linh hồn hay linh hồn là nền tảng của thể xác. Cả hai là một thể thống nhất không thể tách rời và có giá trị như nhau.
Con đường nội tâm của Augustine là tốt nhưng không tuyệt đối. Bởi con đường nội tâm không phải là con đường duy nhất để lên thiên đàng. Con người sống trong lịch sử cứu độ cùng với đức cậy, sự đồng hành trong hiệp thông, cộng tác với Chúa trong những công việc thường ngày cũng là một con đường đón nhận ơn cứu độ.
Ngoài ra thánh nhân còn cho rằng ý chí con người thì tự do nhưng giới hạn trong sự tiền định của Thiên Chúa. Đây có vẻ như là một lối nhìn mang tính tiền động. Con người thật sự tự do và Thiên Chúa không giới hạn tự do ấy của con người. Ngài đóng vai trò hỗ trợ và ban ơn soi sáng. Nhưng quyết định chọn lựa vẫn là của con người.
Không thể tìm thấy Thượng Đế trong tự nhiên mà chỉ có thể tìm thấy trong bản thân con người. thật ra, Thượng đế, hay Thiên Chúa hiện diện khắp mọi nơi và mọi vật, thiên nhiên hay con người đều là dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa vậy tai sao ta không thể tìm thấy Thiên Chúa trong chính tự nhiên. Vậy tự nhiên có phải là do Chúa dựng nên không? Nó vận động nhờ đâu và nhằm mục đích gì? Chúng có liên hệ với Chúa không? Đó là những vấn nạn cho lập trường trên.
3.      “Siêu nhiên không phá đổ tự nhiên nhưng kiện toàn tự nhiên”[10]
Trong bầu khí triết học Platon và Augustine, con người dường như bàng bạc một màu sắc chán đời. Người ta khinh chê trần gian, coi thường thế giới. May thay, trong hoàn cảnh ấy có một thần học gia trung dung hơn. Thánh Thomas (1225-1274) đưa ra một nền tảng triết lý, một con đường đến với Chúa thông qua việc trân trọng trần gian, khám phá trần gian rồi vượt lên trên trần gian để kết hợp với Chúa.
Đối với thánh Thomas, đức tin và lý trí là hai lãnh vực riêng và Thiên Chúa la chủ thể của cả hai lãnh vực đó. Đức tin bao gồm cả những chân lý được nhận biết nhờ ánh sáng mạc khải mà ta không thể biết được sự hiển nhiên nội tại của nó. Thomas không chủ trương xây dựng một hệ thống triết lý hay tìm một lập trường triết lý chỉ vì triết lý. Mối bận tâm của ngài là tìm những nền tảng triết lý để làm sáng lên niềm tin. Học thuyết Thomas là sự tổng hợp của triết học Augustine và Aristotle.[11]
Đức tin không vượt qua lý trí về mặt nhận thức. Lý trí khởi đi từ những vật khả giác để lần bước lên Thiên Chúa. Lý trí cung cấp cho ta những dữ kiện tâm lý hay những giải pháp xã hội.
Thánh Thomas đã dung hòa đức tin và lý trí vì cả hai đều bắt nguồn từ Thiên Chúa nên không xung khắc nhau. Mỗi loại nhận thức đều có một vai trò cụ thể. Niềm tin giúp ta đạt tới đối tượng siêu việt còn lý trí lại vượt xa niềm tin ở chỗ soi sáng từng bước hành trình của con người nhưng lại không lại không chắc chắn đạt tới mục tiêu đích thực.
Theo Thánh Thomas có hai loại chân lý:[12]
  1. Chân lý lý tính: là loại chân lý mà con người có thể đạt đến nhờ trí tuệ của mình
  2. Chân lý siêu lý tính: là loại chân lý chỉ đạt được nhờ đức tin. Nguồn gốc của những chân lý ấy là trí tuệ Thiên Chúa. Lòng tin tôn giáo là nguồn gốc cao nhất của mọi tri thức con người. Hay nói như thánh Clement: “Tri thức và đức tin thống nhất với nhau và ưu thế nghiêng về đức tin. Không có đức tin sẽ không có tri thức và ngược lại đức tin mà không có tri thức như một nền móng mà không có gì xây lên.”
Ý nghĩa:
Như vậy, nơi lập trường thánh Thomas ta không tìm thấy sự đối chọi  hay loại trừ nào giữa đức tin và ký trí. Lập trường thánh Thomas xem ra hợp lý hơn cả và được Giáo hôi công nhận làm nền tảng cho triết lý của mình. Thần học dựa trên đức tin còn triết học dựa trên lý trí. Niềm tin vượt quá lý trí ở đối tượng và lý trí lại hơn niềm tin ở phương cách và mỗi bên đều có lãnh vực khác biệt, tự lập.[13]
Đó là một sự kết hợp hài hòa giữa tri thức và đức tin. Trời đất bao la vũ trụ còn có rất nhiều điều làm cho con người kinh ngạc. Những thứ làm cho con người kinh ngạc còn rất nhiều và con người cần phải biết kinh ngạc trước thiên nhiên. Từ những ngạc nhiên đó con người buộc phải tìm tòi hiểu biết. Tuy nhiên, sức người có hạn, trí tuệ con người vốn bất toàn, con người dù thông minh đến mấy vẫn không thể hiểu hết được những gì mình muốn hiểu. Khi đó đức tin sẽ soi sáng cho tâm hồn con người về Thiên Chúa và công trình của Ngài.
Kết luận
Các triết gia thời Trung Cổ đã không ngừng tìm tòi và biện luận tương quan giữa đức tin và lý trí. Có người cho rằng chẳng cần hiểu biết làm gì chỉ cần tin thôi là tự nhiên hiểu biết. Có lập trường cho rằng triết lý chỉ là nô lệ của thần học, thân xác chỉ là công cụ của linh hồn. Tất cả dường như vẫn chưa thõa mãn trí lòng con người. Và tốt nhất là đức ở giữa đức tin và lý trí, không ngiêng về bên nào cả để có một cái nhìn thật sự khách quan về cả hai lãnh vực đó. Đức tin quả là một ân ban của Thiên Chúa, thế nhưng Thiên Chúa lại không ban đức tin như một cái bánh bất động, bất đi bất dịch. Đức tin ấy được trao ban qua mạc khải và nuôi dưỡng nữa. đó hoàn toàn không phải là vấn đề tất định, con người có tự do đón nhân và tim tòi.
“ Chính đức tin, theo ki-tô giáo cũng là một sự tra hỏi một cố gắng trong tìm chân lý không phải là một sự tin vờ thấy quấy một sự chấp nhận không suy tư và vô ý thức.”[14] Công Đồng Vat. II dạy rằng: Chân lý mà người ta đạt được do suy luận triết lý và chân lý mạc khải không bao giờ hỗn đồng với nhau. Chân lý nọ không làm cho chân lý kia dư thừa. chân lý mạc khải đương nhiên không phải là đỉnh cảo của sự hiểu biết của con người. người ta không thể hiểu biết những biến cố lịch sử cho sâu xa nếu không tin nhận Thiên Chúa hoạt động trong đó. Đức tin là một sự tập luyện tư tưởng. Lý trí con người không bị tiêu diệt cũng không bị hạ gục khi công nhận nội dung của đức tin. Nội dung này luôn được chấp nhận bằng một lựa chọn tự do và có ý thức.[15]
Tiến sĩ Collons trong tác phẩm “Ngôn Ngữ Của Chúa” đã đặt ra giả thiết như sau: “Trong một xã hội tiến bộ khoa học kỹ thuật phát triển vượt bậc như ngày hôm nay, liệu niềm tin vào Thiên Chúa có bi xem như là mê tín và nên chấm dứt? hoặc chúng ta có quay lưng lại với khoa học vì nó là mối đe dọa cho đức tin, quay lưng lại với tất cả những hiểu biết và áp dụng tự nhiên vào loại bỏ khổ đau và làm cho nhân loại tốt đẹp hơn?”
Và Ông đã kết luận như sau: “Cả hai sự chọn lựa trên đều rất nguy hiểm. lý do: cả hai đều phủ nhận sự thật và làm giảm sự cao quý của con người. Cả hai đều sẽ hủy diệt tương lai chúng ta và cả hai đều không cần thiết. chúa của Kinh Thánh cũng chính là Chúa của vũ trụ. Sự sáng tạo của Ngài là kỳ diệu, đẹp đẽ, đáng kính nể và nó không thể xung đột với chính bản thân nó.[16] Do vậy, một thái độ dung hòa cả hai lập trường là thái độ dễ chấp nhận và phù hợp nhất.


[1] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch sử triết học Tây phương, tập II, thời Thượng cổ (HVĐM, 1998), tr.34.
[2] Ibid., tr.32.
[3] Ibid., tr. 31.
[4] Xc. Doãn Chính & Đinh Ngọc Thạch, Triết học Trung Cổ Tây Âu (Hà nội:Thanh niên, 2003), tr.57.
[5] Xc. Jacques Liebaert, bản việt ngữ Giáo Phụ, tập I (Đại chủng Viện Giuse), tr. 127.
[6] Ibid., tr.124.
[7] Ibid., tr.124.
[8] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, sđd., tr.47-48.
[9] Xc. Doãn Chính & Đinh Ngọc Thạch, sđd., tr.79.
[10] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, sđd., tr.195.
[11] Ibid., tr.194-195.
[12] Hà Thiên Sơn, Lịch Sử Triết học (TpHCM: Trẻ, 1999), tr.208.
[13] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, sđd., tr.196.
[14] Xc. Thiện Cẩm, Ki-tô giáo với các tôn giáo khác (Sài Gòn: Đa Minh Thiện Bản, 1970), tr.68.
[15] Xc. Gioan Phaolô II, Thông điệp đức tin và lý trí, 1999.
[16] Xc. Francis S.Colins, Bản Việt ngữ Ngôn Ngữ Của Chúa (Hà Nội: Lao động, 2007), tr.257-258.

No comments:

Post a Comment