CHÚ GIẢI TIN MỪNG CN III MC B (Ga 2,13-25)
Bản văn và dịch sát
nghĩa
Hy Lạp |
Việt |
13 Καὶ ἐγγὺς ἦν τὸ πάσχα τῶν
Ἰουδαίων, καὶ ἀνέβη εἰς Ἱεροσόλυμα ὁ Ἰησοῦς. 14 Καὶ
εὗρεν ἐν τῷ ἱερῷ τοὺς πωλοῦντας βόας καὶ πρόβατα
καὶ περιστερὰς καὶ τοὺς κερματιστὰς καθημένους, 15 καὶ
ποιήσας φραγέλλιον ἐκ σχοινίων πάντας ἐξέβαλεν ἐκ τοῦ ἱεροῦ τά τε πρόβατα καὶ τοὺς
βόας, καὶ τῶν κολλυβιστῶν ἐξέχεεν τὸ κέρμα καὶ
τὰς τραπέζας ἀνέτρεψεν, 16 καὶ
τοῖς τὰς περιστερὰς πωλοῦσιν εἶπεν· ἄρατε ταῦτα ἐντεῦθεν, μὴ ποιεῖτε τὸν οἶκον τοῦ πατρός μου οἶκον ἐμπορίου. 17 ἐμνήσθησαν οἱ μαθηταὶ αὐτοῦ ὅτι
γεγραμμένον ἐστίν· ὁ ζῆλος τοῦ οἴκου σου καταφάγεταί
με. 18 Ἀπεκρίθησαν
οὖν οἱ Ἰουδαῖοι καὶ εἶπαν αὐτῷ· τί σημεῖον δεικνύεις ἡμῖν ὅτι ταῦτα
ποιεῖς; 19 ἀπεκρίθη
Ἰησοῦς καὶ εἶπεν αὐτοῖς· λύσατε τὸν ναὸν τοῦτον καὶ
ἐν τρισὶν ἡμέραις ἐγερῶ
αὐτόν. 20 εἶπαν
οὖν οἱ Ἰουδαῖοι· τεσσεράκοντα καὶ ἓξ ἔτεσιν οἰκοδομήθη ὁ ναὸς οὗτος, καὶ σὺ ἐν τρισὶν ἡμέραις ἐγερεῖς αὐτόν; 21 ἐκεῖνος
δὲ ἔλεγεν περὶ τοῦ ναοῦ τοῦ σώματος αὐτοῦ. 22 ὅτε
οὖν ἠγέρθη ἐκ νεκρῶν, ἐμνήσθησαν οἱ μαθηταὶ
αὐτοῦ ὅτι τοῦτο ἔλεγεν, καὶ ἐπίστευσαν τῇ γραφῇ καὶ
τῷ λόγῳ ὃν εἶπεν ὁ Ἰησοῦς. 23 Ὡς
δὲ ἦν ἐν τοῖς Ἱεροσολύμοις ἐν τῷ πάσχα ἐν τῇ ἑορτῇ, πολλοὶ
ἐπίστευσαν εἰς τὸ ὄνομα αὐτοῦ θεωροῦντες αὐτοῦ τὰ σημεῖα ἃ ἐποίει· 24 αὐτὸς
δὲ Ἰησοῦς οὐκ ἐπίστευεν αὐτὸν αὐτοῖς διὰ τὸ αὐτὸν
γινώσκειν πάντας 25 καὶ
ὅτι οὐ χρείαν εἶχεν ἵνα τις μαρτυρήσῃ περὶ τοῦ ἀνθρώπου· αὐτὸς γὰρ ἐγίνωσκεν
τί ἦν ἐν τῷ ἀνθρώπῳ. (Jn. 2:13-25 BGT) |
13 Gần đến Lễ Vượt Qua của người Do
Thái, Đức Giêsu đi lên Jêrusalem 14 Người tìm thấy trong đền thờ những người
buôn bán bò, chiên và bồ câu, và những người đổi
tiền đang ngồi. 15 Và sau khi làm một cái roi từ những
sợi dây thừng, Người trục xuất tất cả ra khỏi đền thờ,
chiên, bò và, Người đổ những đồng tiền của những
người đổi tiền và lật nhào những chiếc bàn. 16 Và Người nói cùng những người buôn bán bồ câu: “Hãy mang những thứ
này ra khỏi đây. Đừng làm cho nhà Cha tôi thành
nhà buôn bán.” 17 Các môn đệ của Người nhớ điều đã được chép rằng: “Sự nhiệt thành về nhà của Ngài thiêu đốt tôi” 18 Những người Do Thái đáp trả và nói
cùng Người: “Ông cho chúng tôi thấy dấu gì để
mà ông có thể làm những việc này?” 19 Đức Giêsu đáp trả và nói cùng họ: “Hãy phá hủy đền thờ này và tôi sẽ khôi
phục nó trong vòng 3 ngày”. 20 Rồi, những người Do Thái nói: “Đền
thờ này được xây trong 46 năm, và chính ông sẽ
hồi phục trong 3 ngày sao?” 21 Nhưng điều đó Người nói về đền thờ thân
xác của Người. 22 Rồi, sau khi Người được chỗi dậy từ
trong kẻ chết, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều này và họ tin vào điều đã được viết và lời Đức Giêsu nói. 23 Khi Người đang ở Jêrusalem vào dịp Lễ Vượt Qua và vào dịp Lễ, nhiều người tin vào danh của Người vì chứng kiến những
dấu Người làm. 24 Nhưng Đức Giêsu chính Người không tin họ
vì Người biết tất cả. 25 Người không cần có ai để làm chứng về con người, vì Người biết có
điều gì trong con người. |
Bối cảnh bản văn:
Ga 2,13-25 đặt ngay sau
trình thuật về Tiệc Cưới Cana (2,1-12) và trước cuộc thảo luận dài với ông
Nicôđêmô (3,1-21). Tại tiệc cưới Cana, Đức Giêsu đã làm một dấu lạ: hóa nước lã
thành rượu ngon. Trong dấu lạ này vai trò của Đức Maria là không hề nhỏ. Dấu lạ
này được khởi phát từ sự quan tâm và gợi ý từ Đức Maria. Dù cho phản ứng của Đức
Giêsu: “Việc đó can gì đến tôi và đến bà, người phụ nữ?” (τί ἐμοὶ καὶ σοί, γύναι;)
(Ga 2,4), Đức Maria vẫn lặng thầm tiến hành công việc của mình, bà nói cùng những
người phục vụ: “Điều Người nói với các ngươi, hãy làm theo” (2,5). Và quả thực
điều Đức Giêsu nói là: “Hãy làm đầy nước những chum chứa nước này” (6 chum) (2,7a)
và họ đã làm theo: “Họ làm đầy chúng tới phía trên” (2,7b). Đức Giêsu lại bảo họ:
“Hãy kín múc và mang đến cho người đứng đầu bồi bàn” (2,8a), và họ lại làm
theo: “Họ mang đi” (2,8b). Cuối tiến trình làm theo lời Đức Giêsu như thế, nước
đã biến thành rượu ngon. Muốn làm theo lời Đức Giêsu đương nhiên, trước tiên những
người phục vụ đã phải “làm theo” lời Đức Maria: “Người bảo gì các ngươi hãy làm
theo!” Chính lời Đức Maria đã bắt đầu hành trình này: “Họ không còn rượu nữa” (2,3).
Đâu là nền tảng của toàn bộ hành động này của Đức Maria? Đó là niềm tin. Nếu
không tin rằng Đức Giêsu có khả năng và sẽ làm điều gì đó khác lạ, Đức Maria đã
chẳng thổ lộ với Người về chuyện “họ không còn rượu”. Nếu Đức Maria không tin rằng
Đức Giêsu sẽ lưu tâm đến “lời nhắc khéo” của mình thì đã không căn dặn các người
phục vụ “điều Người bảo, hãy làm theo”. Tất cả đều dựa trên niềm tin vững chắc,
xuất sắc của Đức Maria. Và niềm tin ấy là đúng, xác đáng và có nền tảng. Đức Giêsu
đã biến nước lã thành rượu ngon. Niềm tin của Đức Maria đã dẫn đến một niềm tin
khác. Đó là niềm tin của các môn đệ. Trình thuật về Tiệc Cưới Tại Cana được kết
thúc thật đẹp: “Đây là dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu đã làm tại Cana và bày tỏ vinh
quang của Người, và các môn đệ của Người đã tin vào Người” (Ga 2,11). Niềm tin
nối kết niềm tin. Trình thuật “Thanh Tẩy đền thờ” (Ga 2,13-25) cũng được kết
thúc với cùng một sắc thái như thế: “Sau khi Người được chỗi dậy, các môn đệ nhớ
lại Người đã nói điều này và họ tin vào điều đã được viết và Lời Đức Giêsu nói”
(Ga 2,22). Hơn thế nữa, không chỉ là các môn đệ, nhưng nhiều người đã “tin vào
danh của Người khi họ thấy những dấu Người đã làm” (Ga 2,23). Đoạn 3,1-21 tiếp
theo ngay sau đoạn này là cuộc thảo luận giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô, một
người Pharisêu và một thủ lãnh Do Thái, người đã đến gặp Đức Giêsu vào ban đêm.
Trong cuộc thảo luận này, Đức Giêsu cũng đề cập đến vấn đề tin hay không tin: “Nếu
tôi nói với các ông những điều dưới đất mà các ông không tin, thì giả như tôi
nói với các ông về những chuyện trên trời làm sao các ông tin được?” (3,12). Đức
Giêsu cũng mạc khải một mầu nhiệm rất quan trọng: “Như ông Môsê đã giương cao
con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào
Người thì sẽ được sống muôn đời” (3,14). Đức Giêsu còn mặc khải nhiều điều khác
liên quan đến niềm tin: “Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được
sống muôn đời” (3,16); “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án, kẻ không
tin thì đã bị lên án rồi vì không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (3,18).
Cụm từ “tin vào danh của” ở đây rõ ràng rất giống với “tin vào danh của” nơi đoạn
Tin Mừng mà ta đang nghiên cứu (2,23). Hơn nữa, trong bối cảnh rộng hơn, mục
đích của toàn thể Tin Mừng thứ tư (Tin Mừng Gioan) là để “anh chị em tin Đức Giêsu
là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa và để anh chị em tin mà được sự sống nhờ danh Người”
(20,31). Đây là câu kết của Tin Mừng Gioan. Cụm từ “danh của Người” lại được lặp
lại vào cuối Tin Mừng. Rõ ràng đoạn (2,13-25) có nối kết rất gần gũi với đoạn
trước và sau nó, cũng như toàn thể Tin Mừng thứ tư. Có thế nói rằng, sợi chỉ đỏ
xâu toàn bộ Tin Mừng thứ tư là niềm tin vào Đức Giêsu như là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa. Chính niềm tin ấy sẽ quyết định giữa sống hay chết của một con người.
Ngoài ra, “dấu hiệu” (σημεῖον) trong câu chất vấn của người Do Thái:
“Ông lấy dấu nào để chỉ cho chúng tôi biết ông có quyền làm điều nay” (2,18);
và “những dấu hiệu Người đã làm” (τὰ σημεῖα ἃ ἐποίει) (2,23) có
sự nối kết chặt chẽ với “khởi đầu của các dấu hiệu” (dấu lạ đầu tiên) (2,11)
trong trình thuật về “tiệc cưới tại Cana”. Trong bối cảnh rộng hơn, đoạn văn
này nằm trong phần I của Tin Mừng thứ tư, được gọi là “Sách Các Dấu” (1,19 –
12,50).[1]
Các “dấu hiệu” và “tin” rõ ràng là hai chủ đề quan trọng của đoạn này. Chủ đề trỗi
dậy từ cõi chết cũng là một đề tài trọng yếu. Chủ đề này nối kết với đề tài
“tái sinh”, nhất là “con rắn đồng treo trong sa mạc” (3,14), “Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi đã tặng ban Con Một” (3,16) của chương tiếp theo. Dĩ nhiên, trong
bối cảnh rộng, nó nối kết với toàn bộ biến cố Khổ Nạn – Phục Sinh.
Cấu trúc bản văn:
Đoạn văn 2,13-25 có cấu trúc inclusio, khởi đầu và kết thúc với cùng yếu tố thời gian, nơi chốn, và nhân vật: Đức Giêsu, dịp Lễ Vượt Qua, tại Jêrusalem (2,13; 2,23). Đoạn văn cũng có thể được cấu trúc bởi hai phần, trong đó, mỗi phần đều đánh dấu bằng bối cảnh giống nhau. Sau phần bối cảnh là hành động của Đức Giêsu. Hành động này được tiếp nối bằng những phản ứng của những người chứng kiến và môn đệ của Đức Giêsu. Các phản ứng đó có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Trong Tin Mừng Gioan, độc giả thường thấy những trình thuật có cấu trúc hai phần: (I) Hành động của Đức Giêsu; (II) Tranh luận về hành động ấy. Phần A trong đoạn Tin Mừng này thuộc dạng này: (I) Đức Giêsu Thanh Tẩy đền thờ; (II) Những tranh luận về hành động này. Một ví dụ khác là trình thuật về phép lạ chữa một người đau ốm tại Bếtdatha (Ga 5,1-8). Ngay sau đó là cuộc tranh luận về việc chữa bệnh vào ngày Sabát. Phép lạ chữa lành “người mù từ thuở mới sinh” cũng thuộc cấu trúc này. Trước hết, trình thuật về người mù được chữa lành (9,1-7). Sau đó là cuộc tranh luận về phép lạ này (9,8-41). Những nhân vật chính thường thấy trong các cuộc tranh luận này là “những người Do Thái”, có thể ngụ ý là những lãnh đạo Do Thái. Phần A được định dạng bởi những yếu tố song song: (Aa) phản ứng của các môn đệ // (Aa’) phản ứng của các môn đệ; (Ab) phản ứng của những người Do Thái // (Ab’) Phản ứng của những người Do Thái; (Ac) đáp trả của Đức Giêsu // (Ac’) lý giải về đáp trả của Đức Giêsu. Phần A’ của đoạn văn này, tuy ngắn, (chỉ có 3 câu: 23-25), nhưng cũng có đủ các thành phần như phần A. Có bối cảnh, có những hành động của Đức Giêsu (c.23a); Có phản ứng của “nhiều người” (c.23b) và phản ứng của Đức Giêsu (cc.24-25). Phần A’ này cũng gồm hai yếu tố song song: (A’a) Phản ứng của “nhiều người” // (A’b) Phản ứng của Đức Giêsu.
A. Bối cảnh: Đức Giêsu, Dịp Lễ Vượt Qua, Jêrusalem (2,13) Hành động của Đức Giêsu (2,14-16) (Aa) Phản ứng của các môn đệ: nhớ lại (flashback)
(2,17) (Ab)
Phản ứng của Người Do Thái: Dấu hiệu nào? (2,18) (Ac)
Đáp trả của Đức Giêsu: Dấu hiệu: Phục hồi đền thờ phá hủy (2,19) (Ab’)
Phản ứng của người Do Thái: Nghi vấn về dấu hiệu (2,20) (Ac’)
Lý giải cho sự đáp trả của Đức Giêsu: đền thờ là thân thể (2,21) (Aa’) Phản ứng của các môn đệ: Nhớ lại và Tin
(prolepsis) (2,22) A’. Bối cảnh: Đức Giêsu, Lễ Vượt Qua và Lễ (khác) (2,23a) Hành động của Đức Giêsu: Các dấu hiệu (2,23c) (A’a) Phản ứng của nhiều người: Tin (2,23b) (A’b) Phản ứng của Đức Giêsu: Không tin họ
(2,24-25) |
Một số điểm chú giải
1. “Lễ
Vượt Qua”: Trong bốn tác giả Sách Tin Mừng, chỉ có Gioan cho độc giả biết rằng
Đức Giêsu đến Jêrusalem vào ba dịp Lễ Vượt Qua trong hành trình rao giảng của
Người (x.Ga 2,13.23; 6,4; 11,55; 12,1; 13,1; 18,28.39; 19,14). Chính vì thế, theo
truyền thống, Đức Giêsu rao giảng khoảng 3 năm, và chết ở tuổi 33. Luca cho biết
Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng khi Người khoảng 30 tuổi (Lc 3,23), cùng với
3 Lễ Vượt Qua (xảy ra mỗi năm một lần), trong đó, Người bị kết án và đóng đinh
vào Lễ Vượt qua thứ ba. Các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ cho biết Đức Giêsu lên Jêrusalem
một lần, vào dịp Lễ Vượt qua trong suốt quá trình rao giảng. Tin Mừng Nhất Lãm
chỉ nhắc đến một Lễ Vượt Qua trong trình thuật về cuộc Thương Khó (Mt
26,2.17-19; Mc 14,1.12.14.16; Lc 22,1.7.28.11.13.15),[2]
và đó là lần Đức Giêsu bước vào cuộc Thương Khó. Chặng đường lên Jêrusalem là rất
quan trọng, đối với truyền thống Nhất Lãm. Thậm chí, Tin Mừng Luca còn dành cho
chặng đường lên Jêrusalem đến 10 chương (9,51 – 19,27), nghĩa là gần một nửa
Tin Mừng của Luca (24 chương). Đối với các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, Galilê là
thánh địa cho sứ vụ rao giảng và làm dấu lạ, còn Jêrusalem là tử địa nơi xảy ra
cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu. Ngoài Lễ Vượt Qua, tác giả Gioan còn đề
cập đến hai dịp Lễ khác mà các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm cũng không đề cập. Đó
là Lễ Lều (Ga 7,2) và Lễ Cung Hiến Đền Thờ (10,22). Gắn với mỗi dịp lễ là một mặc
khải quan trọng. Vào dịp Lễ Lều Đức Giêsu mạc khải về Thần Khí (Ga 7,37-39) và
dân chúng tranh luận về nguồn gốc Đấng Kitô (Ga 7,41-44). Vào dịp Lễ Cung Hiến
Đền Thờ Đức Giêsu mặc khải thần tính của Người: “Ta và Chúa Cha là một” (10,30)
và “Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (Ga 10,38).
Lễ Vượt Qua là một Đại Lễ hằng năm của Người Do Thái. Nó kỷ
niệm biến cố quan trọng: Dân đã được cứu khỏi ách nô lệ của Pharaô. Trong đêm ấy
sứ giả Chúa đã tiêu diệt tất cả các con đầu lòng của người Ai Cập. Thậm chí con
vật đầu lòng cũng bị giết. Con cái Ítrael thì được sống nhờ vào những vết máu
bôi trên cửa theo chỉ dẫn của Chúa (Xh 11,5; 12, 12-13.29). Lễ Vượt Qua trong
tiếng Hípri là “הַפָּ֑סַח” (pesah), trong tiếng
là Hy Lạp là “πάσχα” (paskha). Trong
tiếng gốc Do Thái “Pesah”, có nghĩa là “bảo vệ” hay “bỏ qua”. Lễ này, theo một
số tác giả, có nguồn gốc ban đầu liên quan đến một nghi lễ mang tính giải hạn của
những người du mục, cử hành mùa xuân. Tuy nhiên, ý kiến được chấp nhận rộng rãi
nhất liên quan đến lễ hội cổ xưa cho những giai đoạn của trăng, đặc biệt cho dịp
trăng tròn. Trên bình diện lịch sử cứu độ, Lễ này dĩ nhiên là liên kết đến sự
kiện Xuất Hành từ Ai Cập.[3] Trong Lễ Vượt Qua, một con vật hiến tế (cừu hoạc dê một tuổi)
được giết thịt vào ngày thứ 14 của tháng Nisan và được ăn vào buổi đêm, hoặc
ngay sau hoàng hôn, đánh dấu khởi đầu của ngày 15 tháng Nisan. Thánh Kinh kết hợp
việc sát tế Vượt Qua với Lễ Bánh Không men, lễ hội kéo dài bảy ngày bắt đầu vào
ngày 15 của tháng Nisan. Trong thời gian hậu Thánh Kinh, hai Lễ này được hòa nhập
thành một Lễ hội mà thôi.[4]
Lễ Vượt Qua ở đây được Gioan định sở hữu là “của Người Do
Thái”, tách biệt với Lễ Vượt Qua mang tính văn hóa của người ngoại. Đây cũng là
cách mà Gioan chuẩn bị cho việc ông sẽ mô tả những điều trái ngược đến mức tục
hóa trong dịp Lễ này, mà độc giả sẽ thấy sau đó. Gioan cũng qua đó giới thiệu
nhân vật “những người Do Thái”, những người thường là đối thủ tranh luận với Đức
Giêsu, theo Tin Mừng Gioan.[5]
2. “Trong
đền thờ”: Nói đến đền thờ, độc giả thường nhớ đến đền thờ do Salômôn xây,
khởi đi từ ý định của vua cha là vua Đavít (2Sm 7,2). Đền thờ được diễn tả cách
chi tiết trong chương 6 Sách Các Vua quyển thứ nhất. Đền thờ này sau đó bị phá
hủy hoàn toàn bởi vua Nabucôđônoxo, vua Babylon, và trở thành hoang tàn vào năm
586 (2 V 25,1). Sau đó một đền thờ khác được xây lại trên nền cũ khi vua Kyrô,
Ba Tư cho phép người Do Thái hồi hương và xây lại đền thờ, sau cuộc lưu đày
Babylon (2 Sbn 36,23; Er 1,1-4). Cuộc trở về bắt đầu vào năm 538. Đền thờ này
thường được gọi là Đền thờ thứ 2, và thường được gắn với tên của Dơrúpbabel,
lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ. Dự án xây đền thờ kéo dài đến năm 520 (Er 4).[6]
Đền thờ này sau đó bị vua Syria, Seleucid (175-164) cướp phá và đặt bàn thờ và
tượng dân ngoại, gọi là “đồ ghê tởm khốc hại” trên bàn thờ dâng Lễ toàn thiêu,
vào 15 tháng 12 năm 167 TCN (1 Mcb 1,54). Ba năm sau, anh em nhà Macabê xóa bỏ
những sự ô nhiễm và thay thế nội thất đền thờ (1 Mcb 4,36-59). Họ cũng biến đền
thờ thành pháo đài, đứng vững 3 tháng trong cuộc bao vây của Pompey năm 36 tCN.[7]
Đền thờ được nói đến trong đoạn Tin Mừng này, cũng là đền thờ thời Đức Giêsu,
được gọi là đền thờ của Hêrôđê. Công trình của Hêrôđê Cả bắt đầu từ năm 19 tCN.
Cấu trúc chính được kết thúc trong vòng 10 năm, nhưng toàn bộ công trình kéo
dài đến năm 64 sCN. Khuôn viên đền thờ được thống trị bởi pháo đài Antonia ở
góc Tây Nam, nơi cư trú của người thay quyền Rôma (Lc 13,1; Cv 21,31-35).[8]
Đền thờ này bị người Rôma phá hủy vào năm 70 sCN. Hiện tại trên nền đền thờ được
mở rộng thời vua Hêrôđê, là một đền thờ Hồi Giáo, được xây vào khoảng thế kỷ thứ
7 đến 8, với nhiều sửa chữa và tái thiết sau này. Giờ đây, nó thuộc quyền quản
lý của người Hồi Giáo. Các tín đồ Hồi Giáo tin rằng đây chính là nơi ngôn sứ Môhamét
về trời. Dưới mái vòm của đền thờ này còn một tảng đá. Các tín đồ Hồi Giáo tin
rằng vị tiên tri của họ đã về trời từ tảng đá này. Người Do Thái ngày nay vẫn đến
khu vực này để cầu nguyện, nhưng họ chỉ đứng ở chân bức tường phía Tây của đền
thờ Hồi Giáo, chứ không bước lên trên.
Việc Gioan giới thiệu đền thờ ở ngay lúc đầu của trình thuật
vừa cho thấy không gian của câu chuyện nhưng cũng để chuẩn bị cho Đức Giêsu mặc
khải về một sự phục hồi trong vòng ba ngày, một đền thờ bị phá hủy. Đền thờ đó là chính thân thể Người.
3.
“Chiên, bò, bồ câu”: Đây là những con vật được bán dành cho việc sát tế, dành cho những người từ
xa đến, gặp nhiều khó khăn trong việc mang lễ vật. Bồ câu là những vật sát tế
dành cho người nghèo, được nói đến trong sách Lêvi (Lv 5,7).[9] Thường
thì sân ngoài đền thờ là nơi người ta có thể buôn bán những con vật cần thiết
cho việc dâng hiến. Thế nhưng, việc Đức Giêsu phản ứng gay gắt cho thấy nó đã bị
lạm dụng quá mức và đền thờ đã bị thương mại hóa, trở thành nơi cho những kẻ
buôn trục lợi, hơn là một nơi dành cho việc thờ phượng.
4.
“Những người đổi tiền”: Sở dĩ có những người đổi tiền bởi vì người dân phải dùng tiền Shekel (đơn vị
tiền tệ Do Thái, cho đến ngày nay) để nộp thuế cho đền thờ. Mỗi người dân phải
nộp ½ đồng Shekel (tương đương với 2 derarri hoặc một didrachma) cho đền thờ mỗi
năm và thường là vào dịp Lễ Vượt Qua. Do Thái vào thời đó phải dùng tiền Roma
và tiền Attic để lưu thông trong cuộc sống thường ngày. Những đồng tiền này có
hình người ngoại nên không phù hợp cho việc nộp thuế hay dâng cúng.[10]
5.
“Trục xuất, đổ tiền, lật úp bàn”: Đây là những động từ rất mạnh được dùng để diễn tả
hành động của Đức Giêsu dành cho những người buôn. Và tùy loại người mà Đức Giêsu
dùng hành động khác nhau. Đức Giêsu chỉ lấy roi đuổi bò và chiên của những người
buôn bò, chiên. Còn đối với những người đổi tiền hai động từ được sử dụng: “Đổ”
(ἐξέχεεν) tiền và “lật úp”
bàn (ἀνέτρεψεν).
6.
“Nói cùng những người bán bồ câu”: Những người buôn bán bồ câu được Đức Giêsu đối xử
một cách nhẹ nhàng hơn. Người không trục xuất mà chỉ nói cùng họ “hãy mang
chúng ra khỏi đây”. Có lẽ vì “bồ câu” là lễ vật bán cho những người nghèo nên Đức
Giêsu có thái độ nhẹ nhàng hơn.[11]
7. “Đền thờ”, “Nhà của Cha ta” (τὸν οἶκον τοῦ πατρός μου) và “nhà buôn bán” (οἶκον ἐμπορίου): Đức Giêsu dùng lối chuyển đổi và so sánh rất
sinh động. Từ đền thờ, Người chuyển thành “nhà của Cha”, đối lại với “nhà buôn
bán” (dịch sát nghĩa là nhà của sự buôn bán). Đọc tiếng Hy Lạp mới thấy Gioan
chơi chữ trong cách diễn tả này: τὸν οἶκον
τοῦ πατρός μου οἶκον ἐμπορίου. Đền thờ được Đức Giêsu đồng hóa với nhà Cha của
Người, và sau này người thuật chuyện bật mí là chính thân thể của Người. Nhà
Cha của Người là nơi thánh rõ ràng đối ngược lại với chợ búa là nơi phàm tục.
Đó là dấu hiệu cho sự suy đồi về thái độ thờ phượng và dẫn đến đền thờ bị phá hủy
sau này. Các tác giả Nhất Lãm, Mátthêu, Luca và Máccô đều gọi là “hang trộm cướp”,
chứ không phải là “nhà buôn bán”). Tin Mừng Nhất Lãm dẫn lời kết hợp giữa Is
56,7 và Gr 7,11 để diễn tả lời nói của Đức Giêsu: “Nhà tôi được gọi là nhà cầu
nguyện cho muôn dân nước” (Is 56,7), “nhưng các ngươi đã làm nó thành hang trộm
cướp” (Gr 7,11)(Mt 21,3; Mc 11,17; Lc 19,46). Khác với Tin Mừng Nhất Lãm, ở
đây, Đức Giêsu ra lệnh cách trực tiếp: “Đừng làm nhà cha tôi thành nhà buôn
bán” (2,16). Sự trái ngược giữa hai cách dùng của từ “nhà” gợi nhớ đến Dcr
14,21b: “Và sẽ không còn người buôn trong nhà của Chúa các đạo binh vào ngày ấy”.[12]
8. “Các môn đệ nhớ lại”: Phản ứng của các môn đệ là khởi đầu cho những
bàn luận xoay quanh hành động của Đức Giêsu. Tác giả dùng kỹ thuật trong cách
hành văn kể chuyện gọi là “Analepses” hay là “flashback”.[13] Các môn đệ hồi tưởng lại điều đã được nói
trong Tv 69,10: “Lòng nhiệt thành về nhà Ngài hủy diệt tôi”. Ở Tv 69, động từ
“thiêu rụi” được chia ở thì aorist (đã thiêu rụi) trong khi đó ở Ga 2,17 động từ
này ở tương lai “sẽ thiêu rụi”. Gioan có lẽ cố gắng diễn tả rằng Thánh Vịnh này
đã nói về hành động này của Đức Giêsu. Động từ “κατεσθίω” có nghĩa là “ăn hết, tiêu thụ, cháy hêt, phá hủy”.
Các môn đệ có lẽ cũng nghĩ đến hậu quả của hành động này của Đức Giêsu. Nó có
thể dẫn Đức Giêsu đến cuộc chiến giữa sống và chết. Họ xếp Đức Giêsu ngang hàng
với những biểu tượng trong quá khứ mà sự cam kết của họ cho vinh dự của Chúa bị
trả giá bằng mạng sống của họ: Phineas, Êlia hay Matthathias (Ds 25,11; 1 V
19,10; 1 Mc 2,24-26). Hành động của Đức Giêsu sẽ dẫn đến một số phận tương tự.[14] Trên thực tế, ngay sau hành động của Đức Giêsu,
“những người Do Thái” đã lên tiếng làm khó Người.
9. “Những người Do Thái”: Trong bốn tác giả sách Tin Mừng, Gioan là tác giả đề cập đến “những người Do Thái” nhiều nhất (Mt: 5 lần; Mc: 6 lần; Lc: 3 lần; Ga: 61 lần). Trong đoạn Tin Mừng này danh xưng “những người Do thái” xuất hiện ba lần. Lần đầu tiên, danh từ này được dùng để diễn tả “những người Do Thái” nói chung, phân biệt với những người thuộc dân tộc khác: Lễ Vượt Qua của “Người Do Thái” (Ga 2,13; 11,55). Hai lần còn lại “những người Do Thái” là nhóm người cụ thể, chất vấn Đức Giêsu về quyền hành động của Người” (Ga 2,18.20). Đó có thể là hai cách dùng khác nhau của danh từ “những người Do Thái”, trong đó cách dùng sau dường như phổ biến hơn. Họ thường xuất hiện trong vị thế đối lập với Đức Giêsu. Họ phàn nàn không cho người bại liệt được chữa lành “vác chõng” vì hôm đó là ngày Sabát (Ga 5,10). Họ “bắt bớ” Đức Giêsu (Ga 5,16), rồi “tìm mọi cách để giết Người” (5,18; 7,1; 10,31; 19,7.12). Họ sẵn sàng trục xuất bất kỳ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia ra khỏi Hội Đường (Ga 9,22). Tuy nhiên, cũng nên biết rằng, không phải tất cả những người Do Thái đều phản đối Đức Giêsu. Có nhiều “Người Do Thái” tin vào Đức Giêsu (Ga 8,31; 11,15). Ngay cả bậc thầy Do Thái như Nicôđêmô cũng mến mộ Đức Giêsu. Ngoài lần đến gặp Đức Giêsu ban đêm, Ông còn là người bảo vệ Đức Giêsu trước những người Do Thái đồng hương (Ga 7,50-51). Đặc biệt hơn nữa, ông chính là người đã an táng Đức Giêsu cùng với Giuse Arimathêa (Ga 19, 39-42).
9. “Dấu hiệu” (σημεῖον): Ở đây có lẽ “những người Do Thái” đòi hỏi hành động nhiệt thành mang tính ngôn sứ phải được chứng thực.[15] “Dấu hiệu” là một trong những chủ đề quan trọng nhất của Tin Mừng thứ tư. Nó quan trọng đến nỗi hai chuyên gia về Tin Mừng Gioan, R. Brown và F. Moloney gọi nửa cuốn sách Tin Mừng này là “Sách các dấu hiệu” (1,19 – 12,50).[16] Danh từ này trong tiếng Hy Lạp “σημεῖον”, có nghĩa là “dấu hiệu”, “điểm đánh dấu”. Tuy nhiên, nó cũng dùng được diễn tả những sự kiện phi thường Đức Giêsu đã làm mà Gioan thường gọi là “dấu lạ”. Đọc Tin Mừng Gioan, độc giả sẽ gặp vô số các “dấu hiệu” (17 lần) và nhiều lần trong số đó độc giả có thể hiểu là “dấu lạ” (hay phép lạ). “Dấu hiệu” đầu tiên có thể hiểu là “dấu lạ” nằm trong trình thuật về tiệc cưới Cana (2,1-12), đoạn nằm ngay trước đoạn văn này. “Dấu hiệu” thứ hai cũng có thể được hiểu là “dấu lạ”, cũng xảy ra tại Cana: “Đức Giêsu chữa con của một sĩ quan cận về của nhà vua” (Ga 4,46-54). Trình thuật này kết thúc bằng kết luận: “Đây là dấu lạ thứ hai Đức Giêsu đã làm sau khi đến Galilê từ Giuđa” (Ga 4,54). Có nhiều “dấu lạ” như thế được đề cấp đến trong Tin Mừng Gioan. Đặc biệt, Tin Mừng này được kết thúc bằng những “dấu hiệu” (dấu lạ): “Đức Giêsu còn làm nhiều “dấu lạ” khác trước mặt các môn đệ, điều mà không được ghi chép lại trong sách này” vì nó quá nhiều, không có sách nào có thể chứa nỗi (Ga 20,30). Như đã đề cập trong phần bối cảnh, “những điều (những dấu lạ) đã được chép ở đây là để anh chị em tin Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa và để anh chị em tin mà được sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Có một sự nối kết giữa “đức tin” và “các dấu lạ” đã được Đức Giêsu làm và được ghi chép lại. Mục đích của “các dấu lạ” cũng như của việc “ghi chép lại các dấu lạ” là để anh chị em tin. Có thể nói rằng, “dấu lạ” trở nên vô ích nếu nó không dẫn đến đức tin. Trong đoạn Tin Mừng này danh từ “dấu hiệu” được sử dụng 2 lần. (1) Những người Do Thái đòi Đức Giêsu một “dấu lạ” để chứng minh rằng Đức Giêsu có quyền làm những việc này (2,18). Trong bối cảnh này là việc Người thanh tẩy đền thờ. (2) “Có nhiều kẻ đã tin vào danh Người nhờ chứng kiến "các dấu lạ” Người làm” (2,23). Không biết các “dấu lạ” này là gì. Có thể chúng nằm trong số “nhiều dấu lạ khác” mà Gioan đề cập vào cuối Tin Mừng của ông (Ga 20,31), hoặc là hai dấu lạ được
nói đến trước đó. Câu hỏi của “những người Do Thái” trong đoạn này cũng là câu hỏi của “đám đông” sau này: “τί οὖν ποιεῖς σὺ σημεῖο” (Ông làm dấu lạ nào?), “để chúng tôi thấy mà tin ông” (Ga 6,30). Trớ trêu thay, câu hỏi ngớ ngẩn này được đặt ra ngay sau khi Đức Giêsu làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” (Ga 6,1-14). Hình như, họ đã không xem đó là một dấu lạ. Phản ứng của “những người Do Thái” vừa đối lại và vừa tiếp nối phản ứng của các môn đệ. Đối lại vì các môn đệ đọc được dấu chỉ tích cực trong hành vi của Đức Giêsu: lòng nhiệt thành đã được Thánh Kinh báo trước, còn “những người Do Thái” thì không. Tiếp nối vì phản ứng tiêu cực của “những người Do Thái” chính là bước đầu cho “sự hủy diệt” mà Đức Giêsu phải chịu vì “sự nhiệt tâm dành cho nhà Chúa”.
10.
“Phá hủy và phục hồi”: Để đáp lại yêu cầu của “những người Do Thái”, Đức Giêsu đã tiền báo về “dấu lạ” lớn nhất, và cũng là dấu lạ cho mọi dấu lạ trong sứ vụ rao giảng và cứu độ của Người. Dấu lạ của “sự chết và Phục Sinh”. Tác giả đã sử dụng phương tiện kỹ thuật trong phương pháp thuật chuyện, gọi là “prolepses”, để báo trước một sự kiện sẽ diễn ra sau đó trong câu chuyện về Đức Giêsu.[17] Động từ được dùng để chỉ sự phá hủy ở đây là “λύω”. Động từ này trong tiếng Hy Lạp thường có nghĩa là: “Tháo cởi”, “thả tự do”. Hơn nữa, để diễn tả sự phá hủy, Gioan thường dùng động từ “ἀπόλλυμι” (Ga 10,10; 11,50). Động từ được dùng để diễn tả sự phá hủy ở đây là duy nhất trong Tin Mừng thứ tư. Đây cũng chính là động từ Đức Giêsu dùng để ra lệnh cho người ta tháo băng vải cho ông Ladarô, khi ông sống lại và ra khỏi mồ: “Tháo cởi cho anh ấy và để anh ấy đi” (Ga 11,44). Trong bối cảnh này, chẳng có gì là phá hủy cả và cũng liên quan đến sự phục sinh. Đức Giêsu đề nghị “những người Do thái” phá hủy đền thờ bằng một động từ “tháo cởi”, “thả tự do”. Khi sử dụng động từ này, có lẽ tác giả ngụ ý rằng “thân thể” Đức Giêsu không bỉ phá hủy. Người đã Phục Sinh. Chưa hết, động từ để diễn tả “sự phục hồi” (đền thờ bị phá hủy) cũng rất đáng lưu ý. Nó chẳng liên quan gì đến xây dựng cả. Đó là động từ “ἐγείρω” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “đánh thức, làm trỗi dậy,
để ý, nâng lên, đứng lên, hồi phục sức khỏe, đưa vào hiện hữu, và phục hồi”. Ngạc nhiên hơn, đây chính là động từ diễn tả “sự phục sinh, sự sống lại”. Tin Mừng Nhất Lãm đã dùng động từ này để diễn tả sự phục sinh: “Người sẽ chỗi dậy” hay “được nâng dậy” (Mt 16,21;17,9.23; 20,19; 26,32;27,64; Mc 6,14; 14,28; 16,6; Lc 9,22; 20,37). Trong đoạn Tin Mừng này, động từ “ἐγείρω” (phục hồi, làm chỗi dậy) được sử dụng đến 3 lần. Hai lần ở thể chủ động, thì tương lai liên quan đến đền thờ, diễn tả bằng đại từ “αὐτόν” (nó). Đức Giêsu khẳng định “tôi sẽ phục hồi nó” (2,19) và “những người Do Thái” hỏi: “Ông sẽ phục hồi nó sao?” (2,20). Lần thứ ba động từ này được dùng ở thể bị động và diễn tả sự phục sinh rõ ràng: “Vậy khi Người được làm cho chỗi dậy từ cõi chết, các môn đệ nhớ lại là Người đã nói điều này” (2,22). Rõ ràng Gioan dùng động từ này là rất có dụng ý nói về sự Phục Sinh của Đức Giêsu. Động từ này cũng được tác giả Tin Mừng thứ tư dùng để diễn tả sự phục sinh của Ladarô (11,38; 12,1.9.17) và sự sống lại dành cho những ai “ăn thịt và uống máu Đức Giêsu” (6,54).
11.
“Bốn mươi sáu năm” … “Trong vòng ba ngày”: Đây là hai con số với hai cách dùng khác nhau. 46 năm là con số thực để diễn tả khoảng thời gian vua Hêrôđê Cả tái thiết và mở rộng đền thờ Jêrusalem.[18] Con số ba ngày rõ ràng là một con số biểu tượng. Dẫu rằng Đức Giêsu có khả năng phục hồi một đền thờ bị phá hủy trong vòng ba ngày, hay thậm chí một ngày, cách nói “trong vòng 3 ngày” rõ ràng ám chỉ khoảng thời gian Đức Giêsu tiền báo về cái chết và được đặt trong huyệt đá thật sự của mình. Đây là khoảng thời gian được lặp đi lặp lại trong Tin Mừng Nhất Lãm để nói về thời điểm từ chết đến Phục Sinh của Đức Giêsu (Mt 17,23; 20,19; 27,63; Mc 8,31; 9,31; 10,34; Lc 18,33; 24,7; 24,46). Nên nhớ rằng, Tin Mừng Gioan không ghi lại 3 lần Đức Giêsu tiền báo về cuộc Thương Khó và Phục Sinh, trong đó cụm trạng ngữ chỉ thời gian luôn xuất hiện “sau ba ngày” hoặc là “ngày thứ ba”, luôn gắn liền với mệnh đề “Người sẽ chỗi dậy”. Tuy nhiên, bù lại tường thuật về việc “thanh tẩy đền thờ” của Gioan lại dài hơn hết. Nó bao gồm cả phần phản ứng của các môn đệ và phản ứng của “những người Do Thái”. Qua đó, Đức Giêsu tiền báo về cuộc “Thương Khó và Phục Sinh” không riêng gì cho các môn đệ nhưng cho cả “những người Do Thái”. Tin Mừng Máccô và Mátthêu, tuy không ghi lại toàn bộ cuộc đối đáp giữa Đức Giêsu và “những người Do Thái liên quan đến “sự phá hủy và phục hồi đền thờ”, nhưng lại đề cập đến chi tiết này hai lần trong trình thuật về “Thương Khó”: (1) Nhiều người đưa lời chứng gian tố cáo Người: “Chúng tôi nghe hắn nói: ‘Tôi sẽ phá hủy đền thờ làm bằng tay và sẽ xây lại một đền thờ không làm bằng tay, trong vòng ba ngày” (Mc 14,58; Mt 26,61); (2) Những người qua lại lắc đầu mỉa mai Đức Giêsu: “Ngươi là kẻ phá đền thờ và xây lại trong ba ngày, hãy cứu lấy ngươi và hãy xuống khỏi thập giá” ( Mc 15,29-30; Mt 27,40).
12. “Thân thể Người”: Trong trình thuật này, người thuật chuyện (người kể câu chuyện này) rất toàn tri (omniscient). Nghĩa là anh ta biết rất nhiều chuyện và đọc được suy nghĩ của nhân vật Giêsu. Nói theo kiểu của J. Ska, “anh ta gần giống với Thiên Chúa”.[19] Nhờ câu bật mí của anh ta mà độc giả hiểu được rõ ràng ý của Đức Giêsu: “Đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”. Những nhân vật trong câu chuyện không biết điều này. Phần Ac’ song song và giải thích cho ý tưởng “đền thờ” trong Ac (xem cấu trúc): “Hãy phá hủy đền thờ này// đền thờ là thân thể Người”. Nghĩa là, Đức Giêsu muốn nói rằng: “Cứ giết ta đi, trong vòng ba ngày, ta sẽ sống lại”.
13. “Khi Người chỗi dậy từ cõi chết”: Một lần nữa, với kỹ thuật “prolepses” và nhờ sự toàn tri của người thuật chuyện mà độc giả biết ngay từ đầu kết cục của toàn bộ câu chuyện: “Đức Giêsu đã sống lại”. Mạc khải này không khác gì ba lần tiền báo về “Khổ Nạn và Phục Sinh” trong Tin Mừng Nhất Lãm. Đây là mặc khải quan trọng nhất, có tính chất sống còn, là niềm hy vọng và là nền tảng cho niềm tin của bất cứ Kitô hữu nào.
14. “Họ tin vào Thánh Kinh và tin vào lời Đức Giêsu đã nói”: Người thuật chuyện còn thêm một bật mí quan trọng: Đức tin của các môn đệ có được nhờ việc đối chiếu mầu nhiệm Phục Sinh với lời tiền báo của Đức Giêsu. Tin vào “Thánh Kinh” có nghĩa rất rộng. Trong tiếng Hy Lạp cụm từ “τῇ γραφῇ” có nghĩa là “điều đã được viết”. Hầu hết các bản dịch đều dịch là Thánh Kinh (viết hoa)[20]. Theo R. Brown, Thánh Kinh ở đây không rõ là muốn nói về toàn bộ Thánh Kinh Cựu Ước hay là một đoạn đặc biệt cụ thể như là Tv 16,10: “Vì Chúa chẳng để mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” hay Tv 69,9: “Chính sự nhiệt thành cho nhà của Ngài thiêu rụi con”.[21] Trong tường thuật về biến cố Phục Sinh, Gioan (người môn đệ Chúa yêu) và Phêrô được cho rằng “trước đó họ chưa hiểu Thánh Kinh rằng: Người phải chỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20,9). Theo C. Barret, Gioan có thể ngụ ý toàn bộ Thánh Kinh Cựu Ước cách chung tiền báo về sự vinh thắng của Đấng Mêsia.[22] “Lời Đức Giêsu đã nói” trong bối cảnh này là lời tiền báo về biến cố Khổ Nạn – Phục Sinh. Tuy nhiên, lời này cũng có thể là toàn bộ những gì Đức Giêsu đã dạy trong suốt hành trình rao giảng.
15. “Đức Giêsu không tin họ”… “Người biết tất cả”… “Người biết điều gì trong lòng con người”
Cc. 23-25 được xem là đoạn chuyển tiếp nối những người đáp trả cho dấu lạ của Đức Giêsu 2,1-22 với niềm tin chưa tròn của Nicôđêmô trong 3,1-10. Đáp trả của Đức Giêsu đối với những người tin vào Người dựa trên kiến thức của Người về tính cách của họ. Khi đề cập đến kiến thức của Đức Giêsu về đặc tính của con người, Gioan khẳng định thần tính của Người.[23] Đức Giêsu không cần ai làm chứng cho Người về con người vì Người đã sở hữu kiến thức mà con người thiếu.[24] Động từ “không tin” của Đức Giêsu dùng ở thì vị hoàn (chưa hoàn thành) diễn tả một hành động kéo dài. Cách diễn tả phản thân “Người, Đức Giêsu chính người không tin họ” (αὐτὸς δὲ Ἰησοῦς οὐκ ἐπίστευεν αὐτὸν αὐτοῖς) là duy nhất trong toàn bộ Tân Ước. Danh xưng Giêsu đi kèm với hai đại từ nhấn mạnh (một làm chủ từ, một làm túc từ) là cách dùng khá lạ thường. Hai động từ dùng diễn tả kiến thức của Đức Giêsu được dùng ở thì hiện tại, diễn tả một thực tiễn (“Người biết tất cả”) và thì “vị hoàn”, diễn tả hành động kéo dài (người đã và đang biết “điều gì trong lòng con người”). G. Beasley – Murray cho rằng 2,23-25 là phần giới thiệu cho câu chuyện về cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô (3,1-10). Theo ông, việc Đức Giêsu “không tin họ” là phản ứng của Người trước một niềm tin không hoàn hảo của những người tin vào Đức Giêsu chỉ vì “các dấu lạ”. Niềm tin như thế không phải không chân thật nhưng nó chỉ là bước đầu tiên để đi về phía Đức Giêsu. Nó chưa thấy Người trong ý nghĩa thật sự của Người.[25] Niềm tin của các môn đệ sau khi Đức Giêsu sống lại, bao hàm cả biến cố Khổ Nạn, mới là niềm tin trọn vẹn, xác thực.
Bình Luận
Phụng Vụ tuần I Mùa Chay đưa chúng ta vào sa mạc với Đức Giêsu. Phụng vụ Tuần II Mùa Chay đưa chúng ta lên “núi cao” với Người. Phụng Vụ tuần này dẫn chúng ta vào đền thờ với Chúa. Đền thờ là vốn nơi Chúa ngự, là nơi thánh thiêng dành cho việc tế lễ. Từ thời vua Giôsiyah đền thờ Jêrusalem trở thành trung tâm tế lễ duy nhất của toàn lãnh thổ It-ra-en. Vua Giôsiyah đã tìm thấy “Sách Giao Ước” trong nhà của Đức Chúa (2 V 23,2) và đã bắt đầu cuộc cải cách, tập trung mọi sự thờ phượng quanh đền thờ trung tâm là đền thờ Jêrusalem. Ông ta cho phá hủy tất cả những “nơi cao” (2 V 23,8) và các tượng “Asêra”, (tượng gỗ nữ thần ngoại) ông đốt cháy hết (2 V 23,6). Đền thờ Jêrusalem từ đó trở thành nơi duy nhất dân Ítrael trẩy hội hằng năm đặc biệt vào dịp Lễ Vượt Qua để dâng hy tế lên Đức Chúa (x. Lc 2,41). Đây cũng là dịp họ dâng cúng và nộp thuế cho đền thờ. Việc người ta cung cấp những con vật dùng để sát tế, hay dịch vụ đổi tiền, vào dịp Lễ Vượt Qua là chuyện hết sức bình thường thuở xưa. Bởi lẽ, hầu hết dân chúng di chuyển từ xa đến và hầu hết đi bộ, hoặc khá lắm là đi bằng lừa, ngựa. Chính vì thế mà việc mang theo lễ vật là rất bất tiện. Việc đổi tiền, những đồng tiền ngoại quốc có hình các hoàng đế, hoặc biểu tượng dân ngoại, thành những đồng Shekel để nộp thuế hoặc dâng cúng, cũng là nhu cầu căn bản. Thế nhưng, có lẽ, những nhu cầu căn bản ấy đã leo thang, và bị lạm dụng. Đền thờ, có lẽ là sân ngoài đền thờ, đã trở thành trung tâm thương mại đầy những con vật và chuyện bán mua, không còn không khí linh thiêng vốn phải có nữa. Sự kiện Đức Giêsu “thanh tẩy đền thờ” là một sự kiện tìm thấy sự đồng thuận cả 4 tác giả sách Tin Mừng. Chỉ có điều khác biệt là Tin Mừng Gioan đặt nó vào ngay đầu Tin Mừng (chương 2), ngay lần đầu tiên Đức Giêsu đặt chân đến đền thờ trong sứ vụ công khai. Trong khi đó, Tin Mừng Nhất Lãm đều nhất trí đặt sự kiện này ngay trước biến cố Thương Khó – Phục Sinh. Ai đúng ai sai về mặt lịch sử? Rất khó có thể xác định chắc chắn. Nhiều chuyên gia (J. Weiss, Lagrange, McNeil, Brooke, J.A.T. Robinson, V. Taylor) nghĩ rằng chọn lựa của Gioan có phần hợp lý hơn. Họ lý giải rằng, theo truyền thống Nhất Lãm, Đức Giêsu chỉ có một chuyến lên Jêrusalem, chuyến đi ngay trước cái chết của Chúa; và vì đền thờ ở Jêrusalem nên họ không có chọn lựa nào khác là phải đặt trình thuật “thanh tẩy đền thờ” ngay trước trình thuật “Thương Khó – Phục Sinh”. Gioan tường thuật nhiều chuyến lên Jêrusalem (3 chuyến) nên ông tự do hơn trong việc chọn lựa vị trí của sự kiện “thanh tẩy đền thờ”. Do vậy, vị trí của câu chuyện “thanh tẩy đền thờ” của Gioan hợp với thời gian lịch sử hơn. Tuy nhiên, cũng có nhiều học giả khác (Bernard, Hoskyns, Dodd, Barett, Lightfoot) chấp nhận thứ tự thời gian của các tác giả Nhất Lãm. Họ lý giải rằng hành động gay gắt của Đức Giêsu đối với nền thờ phượng tại đền thờ, đã đụng chạm mạnh với giới chức tôn giáo Do Thái và dẫn đến cái chết của Người. Đặt trình thuật “thanh tẩy đền thờ” vào ngay trước Thương Khó – Phục Sinh là hợp lý.[26] Chọn lựa và giải thích nào xem ra cũng khá hợp lý và cũng được nhiều người chấp nhận.
Khác với truyền thống Nhất Lãm, trình thuật “thanh tẩy đền thờ” của Gioan được tiếp nối bằng những nhận định và chất vấn của nhóm các môn đệ và nhóm “những người Do Thái”. Những phản ứng của họ cùng với lời giải thích của người thuật chuyện toàn tri, độc giả có thể khám phá ra nhiều chân lý đức tin rất quan trọng. Trước khi nói đến những phản ứng của nhóm các môn đệ và “những người Do Thái” cũng phải nói đến quan điểm của Đức Giêsu về đền thờ Jêrusalem. Đối với Đức Giêsu, đền thờ là “nhà Cha” của Người, nhưng nay nó đã và đang trở thành “nhà buôn bán”. Nhà Cha trở thành nhà con buôn. Nơi cầu nguyện trở thành nơi mua bán, đổi chác. Đó là lý do khiến Người phải hành động cách mạnh mẽ. Trước hành động của Người, các môn đệ phản ứng một cách tích cực. Qua lời giải thích của người thuật chuyện, độc giả có thể nhìn thấu suy nghĩ của các môn đệ. Họ nhìn thấy lòng nhiệt thành vì Nhà Chúa nơi thầy của mình. Và họ cũng cảm giác rằng sự nhiệt tâm này sẽ giết chết Đức Giêsu. Suy nghĩ của họ không phải là vẩn vơ nhưng được đặt trên nền tảng Thánh Kinh. Cụ thể là Thánh Vịnh 69 câu 10. Suy nghĩ nền tảng của họ lập tức tiếp nối bởi phản ứng của nhóm “những người Do Thái”, nhóm đối thủ chính của Đức Giêsu trong Tin Mừng thứ tư. “Những người Do Thái” đòi Đức Giêsu chứng mình quyền hành động của Người qua một “dấu hiệu”. Để đáp trả cho yêu cầu của “những người Do Thái”, Đức Giêsu đã mặc khải một “dấu lạ” lớn nhất, là nguồn gốc và cùng đích cho mọi dấu lạ: Đó là sự Phục Sinh. Không giống Tin Mừng Nhất Lãm, trong Tin Mừng Gioan, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã nói về sự Phục Sinh qua hình ảnh “đền thờ được phục hồi”. Để đi đến sự Phục Sinh dĩ nhiên, Người phải đi vào cuộc khổ nạn và bị giết chết: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi”. Động từ “tháo cởi, để tự do” được sử dụng thay vì một động từ chuẩn hơn về mặt ngôn ngữ để diễn tả sự phá hủy. Có lẽ, tác giả Gioan hay chính Đức Giêsu ngụ ý rằng “thân thể Đức Giêsu” thực tế không bị phá hủy, Người đã chết, và đã Phục Sinh. Lời tiền báo của Đức Giêsu đã đúng từng chữ khi “những người Do Thái” tìm cách “bắt bớ” (Ga 5,16), rồi tìm cách hơn nữa, tìm cơ hội để “giết” (Ga 5,18; 7,1) Đức Giêsu. Họ lấy đá ném Người (Ga 10,31). Cuối cùng, họ “kết án” Người bản án tử vì cho rằng Người xưng mình là “Con Thiên Chúa” (Ga 19,7). Và chính họ đã la to: “Đem đi,
đem đi, đóng đinh nó đi” (Ga 19,15). Người đã phục hồi đền thờ đã bị phá hủy là chính thân thể Người trong vòng ba ngày. Thực tế, không một đền thờ nào đã bị phá hủy và được phục hồi bởi Đức Giêsu nhưng Người đã bị giết và đã sống lại (Ga 20,1-19). Lời ghi chú của Người thuật chuyện đã giúp độc giả hiểu tất cả “đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người” (Ga 2,21). Người thuật chuyện còn cho biết thêm về đỉnh điểm của niềm tin của các môn đệ: “Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Thánh Kinh và tin vào lời Đức Giêsu đã nói” (Ga 2,21). Theo thần học của Gioan, tin có nghĩa là có sự sống. Đức Giêsu đã mặc khải rằng: “Ai tin Ta sẽ không bao giờ chết” (Ga 11,26), “Chính Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin ta thì dù có chết cũng sẽ sống” (Ga 11,25). Tin và được sống cũng là câu kết của Tin Mừng thư tư. Tin và được sống nhờ danh Đức Giêsu là mục đích của toàn bộ “dấu lạ” được ghi chép trong Tin Mừng này (Ga 20,30-31). Có “nhiều người” đã tin nhờ chứng kiến những “dấu lạ” Đức Giêsu đã làm, nhưng chính Đức Giêsu, trong thâm tâm, Người không tin họ, bởi có lẽ Người biết rằng niềm tin nhờ thấy “dấu lạ” thì mong manh và không chắc chắn. Họ cần phải vươn đến niềm tin của người trải qua “dấu lạ” cả thể. Nghĩa là trải qua cuộc “Thương Khó” với Người. Giống như các môn đệ, họ đã trải qua tiến trình ấy, và “nhớ lại”, cho nên niềm tin của họ là thực sự và hoàn thiện hơn niềm tin của “nhiều người”.
Câu chuyện bắt đầu bằng việc “thanh tẩy đền thờ” và kết thúc bằng niềm tin vào “Thánh Kinh” và “lời của Đức Giêsu”. Trung tâm của câu chuyện là mặc khải về mầu nhiệm “tử nạn và Phục Sinh”. Đức Giêsu muốn chuyển đổi một nền thờ phượng dựa trên đền thờ vật chất, vốn đã bị lạm dụng và biến tướng, đến một sự thờ phượng đúng nghĩa hơn. Đó là thờ phượng trong đền thờ là “thân thể Người”, một thân thể “ngã xuống”, rồi “đứng lên” để đem lại cho các tín hữu một niềm tin và niềm hy vọng đời đời. Đức Giêsu cũng chính là “nhà của Cha Người” vì Chúa Cha ở trong Người và Người ở trong Chúa Cha (Ga 10,38), Người và Cha Người “là một” (Ga 10,30). Một nền thờ phượng lấy Đức Giêsu là trung tâm mới là một nền thờ phượng đúng nghĩa và kết thúc có hậu. Đó là sự sống đời đời viên mãn.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD.
[1]
R.E. Brown, The Gospel and Epistles of John. A Concise Commentary
(Collegeville 1988) 16.
[2] Luca cho biết là Hằng Năm Đức Giêsu đều lên Jêrusalem,
trong bối cảnh Luca trình bày sự kiện Đức Giêsu “bị lạc” cha mẹ, ở lại trong đền
thờ, ngồi giữa “các thầy dạy, vừa nghe họ vừa đặt câu hỏi” (Lc 2,41-49). Tuy vậy,
đây là thời gian Đức Giêsu còn ở với cha mẹ tại Nadarét. Chúng ta cũng có thể
phỏng đoán rằng, Đức Giêsu vẫn tiếp tục thói quen ấy, mỗi năm lên Jêrusalem một
lần vào dịp Lễ Vượt Qua, như những người Do Thái đạo đức. Thế nhưng, Gioan có
điểm nhấn về 3 lần Lễ Vượt Qua, trong khi các Tin Mừng Nhất Lãm thì không đề cập.
[3] L. Koehler, et al., The Hebrew and Aramaic lexicon of the Old Testament,
947-948
[4]
Xem B.M. Bokser, The Anchor Bible Dictionary (D.N. Freedman et Al. eds.)
(New York – London – Toronto – Syned – Auckland 1992) VI Si-Z, “Unleavened
Bread and Passover, Feast of.”,755-765; G.R. Beasley-Murray,
John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 37.
[5]
C.K. Barrett, The Gospel According to St. John. An Introduction with
Commentary and Notes on Greek Text (Philadelphia 1978) 197.
[6]
J.B. Green (ed.), Dictionary of Jesus and the Gospels (Downers Grove
2013) “Temple”, 939-940.
[7] C.
Brown (ed.), Dictionary of New Testament (Grand Rapids 1981) III Pri-Z,
“Temple”, 788.
[8]
Ibid, 788-789.
[9] R.E. Brown,
The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes (AYB; New
Haven – London 2008) XXIX, 115.
[10] Ibid.
[11]
Ibid.
[13]
J.-L. Ska, Our Father Has Told Us. An Introduction to the Analysis of
Hebrew Narratives (Roma 1990) 8.
[14] F.J.
Moloney, The Gospel of John, 77.
[15]
F.J. Moloney, The Gospel of John, 81.
[16] R.E. Brown,
The Gospel according to John (I–XII),
XXIX, cxxxviii; R.E. Brown, The Gospel and Epistles of John, 24; F.J.
Moloney, The Gospel of John, 23.
[17] J.-L.
Ska, Our Father Has Told Us, 8.
[18]
Theo sử gia Josephus, việc tái thiết đền thờ bắt đầu từ năm thứ 18 triều vua
Hêrôđê Cả (20/19 tCN) và kéo dài đến Lễ Vượt Qua năm 28 sCN (R. E. Brown, The
Gospel according to John, 116; C.K. Barrett, The Gospel According to St.
John, 200).
[19] J.-L.
Ska, Our Father Has Told Us, 44.
[20] Thánh Kinh (CGKPV); “the Scripture”
(ESV); “la Scrittura” (CEI); l’Ecriture (TOB).
[21]
R. E. Brown, The Gospel according to John, 116.
[22]
C.K. Barrett, The Gospel According to St. John,201.
[24]
C.K. Barrett, The Gospel According to St. John, 202.
[26]
R. E. Brown, The Gospel according to John, 117. Đó chỉ là một chút trích
dẫn về tranh luận của các chuyên gia Thánh Kinh để độc giả thấy rằng, Thánh
Kinh là Lời Chúa và vẫn là một mầu nhiệm. Nó có những đề bí ẩn của nó, không dễ
gì giải thích dứt khoát, rõ ràng một lần.
No comments:
Post a Comment