Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy
Lạp |
Việt |
2 Καὶ μετὰ ἡμέρας ἓξ παραλαμβάνει ὁ Ἰησοῦς τὸν Πέτρον καὶ τὸν Ἰάκωβον καὶ τὸν Ἰωάννην καὶ ἀναφέρει
αὐτοὺς εἰς ὄρος ὑψηλὸν κατ᾽ ἰδίαν μόνους. καὶ μετεμορφώθη
ἔμπροσθεν αὐτῶν, 3 καὶ τὰ ἱμάτια αὐτοῦ ἐγένετο στίλβοντα λευκὰ λίαν, οἷα γναφεὺς ἐπὶ τῆς γῆς οὐ δύναται οὕτως
λευκᾶναι. 4 καὶ ὤφθη αὐτοῖς Ἠλίας σὺν Μωϋσεῖ καὶ ἦσαν
συλλαλοῦντες τῷ Ἰησοῦ. 5 καὶ ἀποκριθεὶς ὁ Πέτρος λέγει τῷ Ἰησοῦ· ῥαββί,
καλόν ἐστιν ἡμᾶς ὧδε εἶναι, καὶ ποιήσωμεν τρεῖς σκηνάς,
σοὶ μίαν καὶ Μωϋσεῖ μίαν καὶ Ἠλίᾳ μίαν. 6 οὐ γὰρ ᾔδει τί ἀποκριθῇ,
ἔκφοβοι γὰρ ἐγένοντο. 7 καὶ ἐγένετο νεφέλη ἐπισκιάζουσα αὐτοῖς, καὶ
ἐγένετο φωνὴ ἐκ τῆς νεφέλης· οὗτός ἐστιν ὁ υἱός μου ὁ ἀγαπητός, ἀκούετε αὐτοῦ. 8 καὶ ἐξάπινα περιβλεψάμενοι οὐκέτι οὐδένα εἶδον
ἀλλὰ τὸν Ἰησοῦν μόνον μεθ᾽ ἑαυτῶν. 9 Καὶ καταβαινόντων
αὐτῶν ἐκ τοῦ ὄρους διεστείλατο αὐτοῖς ἵνα μηδενὶ ἃ εἶδον διηγήσωνται, εἰ μὴ ὅταν ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου ἐκ νεκρῶν ἀναστῇ. 10 καὶ τὸν λόγον ἐκράτησαν πρὸς ἑαυτοὺς
συζητοῦντες τί ἐστιν τὸ ἐκ νεκρῶν ἀναστῆναι. (Mk. 9:2-10 BGT) |
2 và sau sáu ngày, Đức
Giêsu mang theo Phêrô, Giacôbê và Gioan và Người
mang họ lên núi cao một mình với họ. Và Người được biến
đổi hình dạng trước mặt họ. 3 và áo của Người trở
nên cực kỳ sáng, trắng
tinh, thợ làm trắng trên trần gian không thể làm trắng được như thế. 4 và ông Êlia cùng với
ông Môsê xuất hiện, và họ đang đàm đạo với Đức Giêsu, 5 Phêrô đáp trả, nói cùng Đức Giêsu: “Thầy ơi! Thật
là tốt cho chúng ta khi ở đây, chúng con sẽ làm ba
cái lều. Một cái cho Thầy một cái cho ông Môsê và một cái cho ông Êlia 6 Vì ông không biết phải đáp
trả thế nào, vì họ rất kinh hãi. 7 Có một đám mây xuất
hiện bao trùm lấy họ và một giọng nói xuất hiện từ
trong đám mây: “đây là con yêu dấu của ta, hãy
lắng nghe Người” 8 Và bất thình lình, khi nhìn quanh, họ không thấy
ai ngoại trừ một mình Đức Giêsu với họ. 9 Khi họ đang đi xuống núi, Người
ra lệnh cho họ để họ không kể cho ai về điều họ đã thấy,
ngoại trừ khi Con Người sống lại từ cõi chết. 10 và họ giữ chuyện đó và tiếp tục bàn luận giữa họ “sống lại từ cõi chết” nghĩa là gì. |
Bối cảnh bản văn: Mc 9,2-10 nằm ngay sau tuyên bố của
Đức Giêsu “có những người không nếm trải sự chết tước khi thấy triều đại Thiên
Chúa đến, đầy uy lực” (Mc 9,1) và câu hỏi về sứ vụ của ngôn sứ Êlia (9,11-12).
Nó nằm giữa 3 lần tiền báo về cuộc thương khó của Đức Giêsu. Một cách cụ thể,
Mc 9,2-10 nằm sau lời tiền báo về cuộc thương khó lần thứ nhất (Mc 8,31-33) và
trước hai lần tiền báo về cuộc khổ nạn lần thứ hai (9,30-32) và thứ ba
(10,32-34). Nó cũng nằm sau lời tuyên xưng của ông Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô” (9,29).
Đoạn Tin Mừng này nằm trong bối cảnh thương khó và vinh quang trộn lẫn nhau. Chỉ
trong vòng 3 chương (8,9,10), Đức Giêsu tuyên bố liên tục 3 lần về cuộc thương
khó của Người. Cuộc biến hình có thể được xem là khoảnh khắc vinh quang. Thế
nhưng nó cũng ẩn tàng nơi đó dấu hiệu của sự thương khó. Sự xuất hiện và đàm đạo
của Môsê và Êlia rất có thể liên quan đến biến cố mà Đức Giêsu sắp trải qua tại
Jêrusalem. Phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai ở đầu chương 8 cũng là một biểu
hiện của vinh quang (8,1-10). Hơn nữa, ở trong bối cảnh này sự tuyên xưng, sự
hiểu biết và sự lầm tưởng, sự ngu muội cũng là một đề tài nổi bật. Ngay sau lời
tuyên xưng của Phêrô là hành động ngăn cản Đức Giêsu khi Người tiền báo cuộc
thương khó lần thứ nhất. Hành động này của Phêrô khiến Đức Giêsu phải gọi ông
là: “Satan” và lệnh cho ông phải “lui lại đằng sau thầy” (Mc 8,33a). Tuyên xưng
Đức Giêsu là Đấng Mêsia là một tiến bộ của Phêrô, nhưng cách hiểu về Đấng Mêsia
của ông thì lại chỉ là “cách nghĩ của loài người” (8,33b). Cùng với cách nghĩ
mang hơi hám Satan của Phêrô là thói ham mề quyền chức của anh em Giacôbê và
Gioan, những người cùng hiện diện trong cuộc biến hình này. Lời cầu xin “được
ngồi bên hữu và bên tả của Thầy” được cất lên ngay sau khi Đức Giêsu tiền báo về
cuộc thương khó lần thứ ba (Mc 10,35-40; Mt 20,20-23). Lại nữa, sau khi Đức Giêsu
tiền báo cuộc thương khó lần thứ hai, Máccô ghi chú rằng “các ông không hiểu lời
đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người” (9,32). Đã thế, trên đường đi các
ông lại tranh cãi xem “ai là người lớn nhất” trong nhóm. Rõ ràng, Phêrô và các
môn đệ cần thêm thời gian để hiểu như thế nào là Đấng Mêsia theo kế hoạch của
Thiên Chúa. Hai phép lạ chữa lành người mù: tại Bétsaiđa (8,22-26) và tại Jêrikhô
(10,46-52; cf. Mt 20,29-34; Lc 18,35-43) là hai biểu trưng cho sự khai sáng đức
tin trong bối cảnh này. Người mù ở Bét-sai-đa đã bước hai bước trong tiến trình
được chữa lành: từ “thấy người ta, như cây cối, họ đi đi lại lại” cho đến “khỏi
hẳn” và “thấy tỏ tường mọi sự” (Mc 8,24). Người mù thành Jêrikhô thì được chính
Đức Giêsu nhận định rằng: “lòng tin của anh đã cứu anh” và anh đã đáp trả bằng
hành động “đi theo Người trên con đường Người đi” (Mc 10,52). Đây rõ ràng là điểm
sáng của đức tin. Giữa sự mờ tối, ngu muội của các môn đệ là điểm sáng đức tin
của những người khác.
Cấu trúc bản văn: Mc 2,2-10 khởi đầu bằng một trạng
ngữ chỉ thời gian: “Sau sáu ngày”, và có sự thống nhất về nơi chốn, nhân vật,
cũng như cốt truyện. Nơi chốn được xác định một cách không rõ ràng. Đó là một
ngọn núi cao, còn núi tên gì, ở đâu thì không ai biết rõ. Số nhân vật là sáu,
không kể tiếng nói từ trời (có thể là Chúa Cha): Đức Giêsu, 3 môn đệ (Phêrô, Giacôbê
và Gioan), ngôn sứ Êlia, ông Môsê. Cốt truyện là cuộc biến hình của Đức Giêsu
và cuộc đàm đạo với Êlia và Môsê. Phần kết thúc của bản văn được phụng vụ Chúa
Nhật II Mùa Chay năm B chọn có phần không thỏa đáng. Đoạn Đức Giêsu biến hình
có lẽ nên kết thúc ở Mc 9,8 bởi vì Mc 9,9 đã có sự thay đổi về không gian và một
chủ đề khác được khởi xướng.[1] “Ở trên núi xuống” (9,9)
đánh dấu cho sự thay đổi về không gian, và kết thúc không gian của cuộc “biến
hình” trên núi. Và tại không gian trên núi xuống là một câu chuyện về “sự đến
trước” của ngôn sứ Êlia (Mc 9,11). Tuy
nhiên, đoạn nói về cuộc “biến hình” này có thể kết thúc ở 9,10, với một cấu
trúc khác: “Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn luận với nhau “từ cõi chết sống
lại” nghĩa là gì. Khi đó cấu trúc của bản văn Mc 9,2-10 sẽ được đóng khung (incluso)
về không gian: lên núi (9,2) và xuống núi (9,9-10). Xin đề xuất hai cấu trúc
tương đối của Mc 9,2-10 như sau. Cấu trúc I sẽ được định dạng dựa trên nội dung
của bản văn. Cấu trúc này bao gồm phần mở đầu và phần kết thúc. Phần mở đầu
(9,2ab) giới thiệu về không gian, thời gian, nhân vật. Phần kết thúc (9,9-10):
Mệnh lệnh “không kể cho ai điều đã thấy” và hạn định của mệnh lệnh này. Hạn định
này cũng là một tiền báo về sự Phục Sinh. Phần ruột của cấu trúc một là một mô
hình đồng tâm, với phần trung tâm là phản ứng của Phêrô và các môn đệ (D). Xoay
quanh đó là những biến cố song song với nhau. Cuộc biến hình (B: 2c-3)// sự trở
lại bình thường (B’: 9,8); các nhân vật đến từ trời cao (C: 9,4) // hành động từ
trời cao (C’:9,7). Cấu trúc II được định hình theo không gian được nói đến
trong bản văn. Đây cũng là một cấu trúc quy tâm. Với không gian trung tâm, nơi
cuộc biến hình diễn ra, là “trên núi” (9,2c-8). Xoay quanh không gian “tâm” này
là hai không gian đối nghịch nhau: “Lên núi”, nơi bối cảnh cuộc biến hình được
giới thiệu (9,2ab) // “xuống núi”, nơi lệnh cấm và thời hạn của lệnh cấm được
ban bố (9,9-10).
Cấu trúc I: A.Mở
đầu: Thời gian, không gian, nhân vật
(9,2ab) B. Cuộc
biến hình (2c-3) C. Người
đến từ trời cao: Êlia và Môsê (9,4) D. Phản
ứng từ đất thấp: Phêrô và các môn đệ
(9,5-6) C.’Hành
động từ trời cao: Tiếng nói từ đám
mây (9,7) B’.Trở lại bình thường (9,8) A’.Kết
thúc: Mệnh lệnh và tiền báo về sự
Phục Sinh (9,9-10) a.Lệnh cấm không được nói với ai (9,9a) b.Giới hạn:
“Trước khi con người từ cõi chết sống lại” (9,9b) a’.Tuân lệnh cấm (9,10a) b’.Bàn về giới
hạn: Ý nghĩa “từ cõi chết sống lại” (9,10b) |
Cấu trúc II: A.Lên
núi: Bối cảnh cuộc biến hình
(9,2ab) B.Trên núi: Cuộc biến hình
(9,2c-8) A’.Xuống
núi: Lệnh cấm và thời hạn của lệnh
cấm (9,9-10) |
Một số điểm chú giải
1.
“Sau sáu ngày”[2]: Cụm trạng từ chỉ thời
gian rõ ràng là một chuyển mạch cho một trình thuật mới. Thế nhưng, “sau sáu
ngày”, tính từ thời điểm nào hay sự kiện nào thì có vẻ không rõ ràng. Trước cụm
từ chỉ thời gian này là tuyên bố củ Đức Giêsu: “Tôi bảo thật các người: trong số
những người có mặt ở đây, có kẻ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại
Thiên Chúa đến, đầy uy lực” (Mc 9,1). Phải chăng là “sau sáu ngày” tính từ thời
điểm Đức Giêsu công bố điều này. Vậy thì, “sau sáu ngày” có lẽ có ý nghĩa gì đó
nối kết với tuyên bố này. Lùi lại một chút nữa, trình thuật trước đó: Đức Giêsu
tiền báo về cuộc thương khó lần thứ nhất (8,31-33). Phêrô can ngăn Thầy mình và
bị gọi là Satan. Phải chăng “sau sáu ngày” được tính từ mốc thời gian này? Nó
cũng có vẻ hợp lý, khi lời tiền báo về cuộc thương khó được tiếp nối bởi sự “biến
hình” trong vinh quang. J. Marcus ghi nhận rằng, trong Tin Mừng Máccô những ghi
chú về thời gian rất hiếm thấy và khi có sự ghi chú này thì nó thường khá mơ hồ
(Vd: ‘trong những ngày’ nơi 1,9; 8,1; ‘ngày ấy’ nơi 4,35; hay là ‘nhiều ngày’
nơi 2,1). Chính vì thế, con số cụ thể “sáu ngày” có thể là có ý nghĩa biểu tượng
đặc biệt nào đó. Ông trích dẫn quan niệm của một số thần học gia. Philo cho rằng
số sáu là con số tượng trưng cho những vật hay chết, số bảy tượng trưng cho những
điều, vật bất tử. Origen nối kết cụm trạng ngữ này với trình thuật về sự tạo dựng
sáu ngày trong sách Sáng Thế, với đỉnh cao là ngày Sabát. Tuy nhiên, theo
Marcus bối cảnh Thánh Kinh nền tảng là việc Môsê lên núi “sau sáu ngày” (Xh
24,16).[3] Lý giải này xem ra hợp lý
trong bối cảnh chung của toàn bộ Thánh Kinh. Môsê được lệnh lên núi với Chúa để
nhận “những bia đá: luật và mệnh lệnh” của Chúa (24,12). Khung cảnh cũng có mây
và tiếng Đức Chúa gọi Môsê từ giữa đám mây (24,16). Rồi, “vinh quang Đức Chúa
xuất hiện trên đỉnh núi” (24,17). Đức Giêsu cũng lên núi “sau sáu ngày” và cũng
nhận “lời từ đám mây”, thể hiện vinh quang khi được biến hình. Foster McCurley
cho rằng trạng ngữ “sau sáu ngày” là một thành ngữ Semit[4] trong đó hành động mang
tính chất quyết định sẽ diễn ra vào ngày thứ bảy. A.Y. Collins – H.W. Attridge,
có vẻ đồng ý với nhận định này.[5]
2.
Bộ ba: Phêrô, Giacôbê
và Gioan. Trước đó, Máccô đã cho độc giả biết rằng, Đức Giêsu đã gọi bốn môn đệ
đầu tiên, gồm hai cặp anh em. Cặp Anrê – Simon và cặp Giacôbê – Gioan
(1,16-20). Thế nhưng, chẳng hiểu sao Anrê dường như bị tách ra khỏi nhóm bốn
Người. Khi liệt kê danh sách 12 Tông Đồ, khác với hai tác giả Tin Mừng Nhất Lãm
còn lại (Luca và Mátthêu), Máccô tách Anrê ra phía sau tên của Giacôbê và
Gioan.[6] Đức Giêsu dường như chỉ chọn
cho mình nhóm 3 người đặc biệt trong nhóm 12 Tông Đồ. Không ai có thể giải
thích cách rõ ràng dụng ý của Đức Giêsu. Người ta chỉ có thể thấy rằng bộ ba
này xuất hiện riêng cùng với Đức Giêsu trong những biến cố quan trọng. Nhóm này
còn xuất hiện hai lần khác nữa. Trong phép lạ “phục sinh” con gái ông trưởng hội
đường Giaia (Mc 5,21-23.35-43). Trong phép lạ này, Đức Giêsu chỉ đem theo mình
ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Trong Vườn Ghethsêmani, Đức Giêsu cũng làm tương tự
(14,33). Trong cả ba biến cố này, điểm chung có lẽ là cuộc thương khó, cái chết,
và sự phục sinh. Ba môn đệ này là vừa là chứng nhân, vừa là người theo đuổi tiến
trình này cùng với Đức Giêsu. Trong bối cảnh trực tiếp độc giả có thể liên hệ đến
nhân vật Phêrô vừa tuyên xưng “thầy là Đấng Kitô” (8,29) và cũng là người đã
ngăn cản thầy mình nói về cuộc thương khó. Hậu quả là ông bị thầy trách mắng là
“Satan” (8, 32-33). Tuy nhiên, ông cũng được Đức Giêsu gọi tên là Phêrô, nghĩa
là đá, và “trên đá này, Thầy sẽ xây hội thánh của Thầy” (Mt 16,18). Giacôbê và
Gioan là hai nhân vật xin Đức Giêsu được “ngồi bên tả và bên hữu”, ngay sau khi
Đức Giêsu tiền báo về cuộc thương khó lần thứ ba (Mc 10,35-40). Giacôbê và
Gioan được Đức Giêsu gọi là “Boanerges” (Con của thần sấm). Giacôbê là Tông Đồ
đầu tiên tử đạo thời vua Hêrôđê (Cv 12,2). Theo truyền thống, Gioan chính là
“người môn đệ Chúa yêu” trong Tin Mừng thứ tư, và ông cũng chính là tác giả của
Tin Mừng này. Trong bối cảnh trực tiếp này, ba nhân vật này chẳng có gì nổi bật,
nếu không muốn nói là hình ảnh của họ không tốt cho lắm. Tuy vậy, họ là hình ảnh
“đại diện” cho các môn đệ lúc bấy giờ.
3.
“Núi cao”: Hình
ảnh “núi cao” có thể nhằm mục đích tách riêng giữa Đức Giêsu và nhóm bộ ba Tông
Đồ như được diễn tả sau đó: “κατ᾽ ἰδίαν μόνους”. Máccô sử dụng hai tính từ kết hợp với một giới từ để
diễn tả tình trạng của Đức Giêsu và 3 môn đệ: “Bởi chính họ, một mình”. Tuy vậy
hình ảnh “núi cao” cũng gợi nhớ đến không gian của những cuộc thần hiện, nơi
Thiên Chúa tỏ mình ra cho các ngôn sứ. Cuộc thần hiện cho ông Môsê và ban giao
Ước trên núi Sinai là một ví dụ điển hình (Xh 24,12-18). Chính vì thế, Đức Giêsu
cũng lên núi và cũng có một cuộc thần hiện đã xảy ra. Ngày nay trên đỉnh núi
Tabo có một đền thờ hung vĩ gọi là Thánh Đường Biến Hình. Đền thờ này được hoàn
thành năm 1924, được xây trên một tàn tích cổ có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ
IV hoặc V và một nhà thờ khác được xây vào thế kỷ thứ 12, thời Thập Tự Chinh
(1099-1291). Đây là thánh địa được truyền thống tin rằng nơi Đức Giêsu đã biến
hình xưa kia. Tuy nhiên, nên nhớ rằng, đây không phải là ngọn núi duy nhất được
đề xuất. Từ thế kỷ thứ tư, đã có những đề xuất như là núi Hermon[7], Carmel nữa.[8] “Núi cao” là nơi diễn ra
những cuộc thần hiện, một hình thức thần linh tỏ mình ra cho dân của Người, và
nói chuyện, mạc khải cho họ những điều quan trọng. Ý nghĩa thần học của ngọn
núi được bản văn nhắm đến hơn là một vị trí địa lý cụ thể.
4.
“Biến đổi hình dạng”: Động từ “μετεμορφώθη” là thể thụ động, lối trình bày, thì aorist của động từ ghép
μετα-μορφόω, Nghĩa là thay đổi μόρφωσις (vẻ bề ngoài), chuyển đổi mặc lấy
hình dạng vinh quang trời cao[9]. Trong ba tác giả Tin Mừng
Nhất Lãm chỉ có Mátthêu và Máccô dùng động từ này. Theo Luca, chuyện biến hình
này xảy ta “trong khi Người cầu nguyện” và Luca dùng một tính từ (“khác”) cùng
với động từ (“trở nên”) để diễn tả sự biến đổi về dung mạo của Đức Giêsu (dung
mạo Người trở nên khác đi) (Lc 9,29). Thánh Phaolô dùng động từ này để diễn tả
sự thay đổi cùng dạng thức (theo sự hoàn thiện của Đức Kitô) của các Kitô hữu
nhờ Tin vào Đức Kitô, và nhờ Thần Khí (2 Cr 3,16-18). Trong thư gửi tín hữu
Rôma, Phaolô cũng dùng động từ này để khuyên nhủ các tín hữu “hãy biến đổi con
người anh chị em bằng cách làm mới lại tinh thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên
Chúa, cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2).
5.
“Áo Người cực kỳ trắng sáng”: Sau khi nói rằng Đức Giêsu biến đổi vẻ bề ngoài. Máccô tập
trung diễn ta cho động giả thấy Đức Giêsu biến đổi thế nào. Ông tập trung vào
chiếc áo Đức Giêsu đang mặc. Chiếc áo cũng là biểu trưng cho con người. Kiểu
như thành ngữ “y phục xứng kỳ đức”. Máccô dùng một tính từ chỉ “màu trắng” (λευκὰ) và một trạng từ chỉ “mức độ trắng”
(λίαν), cùng với động từ “chiếu sáng” (στίλβοντα) để diễn tả độ sáng của chiếc áo này.
Trạng từ “λίαν” có
nghĩa là cực kỳ, mức độ cao nhất. Áo choàng Đức Giêsu chiếu sáng với mức độ trắng
sáng cao nhất. Động từ “chiếu sáng” lại được dùng ở dạng hiện tại phân từ để diễn
tả sự kéo dài của hành động. Sự chiếu sáng này kéo dài một khoảng thời gian đủ
để các môn đệ thấy và quan sát chứ không phải vụt lên trong chốc lát. Có thể là
Đức Giêsu được chiếu sáng như thế trong suốt cuộc đàm đạo. Để nhấn mạnh thêm “độ
sáng của chiếc áo ấy”, Máccô còn dùng thêm một mệnh để theo cấu trúc phủ định:
“Không một thợ giặt nào trên thế gian có thể “làm trắng” được như vậy. Mátthêu
không có câu nhấn mạnh này. Mátthêu dùng lối so sánh nhẹ nhàng nhưng hình ảnh
so sánh cũng khá mạnh mẽ “áo choàng Người trở nên trắng như ánh sáng” (Mt
17,2c). Tuy nhiên, Mátthêu lại tập trung vào mô tả gương mặt của Đức Giêsu: “Gương
mặt Người chiếu sáng như mặt trời”. Nghĩa là, độ sáng gương mặt Đức Giêsu ở mức
cao nhất, không ai có thể nhìn thẳng vào được. Rõ ràng, các tác giả Tin Mừng muốn
tách biệt sự chiếu sáng thần linh với sự chiếu sáng bình thường của thế giới
con người.
6.
“Êlia và Môsê”:
Môsê và Êlia là hai nhân vật lẫy lừng của Cựu Ước. Môsê đại diện cho Luật. Năm
cuốn sách đầu tiên của Thánh Kinh Do Thái được gọi là Tôrah (Lời Dạy, Luật).
Năm cuốn này cũng được quy điển Kitô giáo nhận và thường gọi là Ngũ Thư, cũng xếp
đầu tiên trong bộ Cựu Ước (Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số, Đệ Nhị Luật). Theo
truyền thống, Môsê chính ta tác giả của năm cuốn sách này. Thế nhưng, trên thực
tế, đây là tổng hợp của nhiều nguồn tài liệu, nhiều tác giá, qua nhiều thời.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của Môsê trên sách Torah này và truyền thống lâu dài mà
nói đến ông thì người ta nghĩ ngay đến sách Torah này. Êlia là ngôn sứ lẫy lừng
bậc nhất của thời Cựu Ước. Ông chiến thắng lẫy lừng trong cuộc chiến chống lại 450
sư sái thần Baan trên núi Các-men (1 V 18,20-40). Ông đi bốn mươi ngày đêm tới
núi Khôrép và gặp gỡ Đức Chúa ở trên núi này (1 V 19,9-14). Ông không nếm trải
sự chết và được đem đi trên một cỗ xe bằng lửa (2 V 2,1.11). Ông có thể là đại
diện cho các ngôn sứ của thời Cựu Ước. Điều này dẫn đến cách giải thích quen
thuộc nhất của sự ghép đôi Môsê – Êlia cách chung đại diện cho toàn bộ Thánh
Kinh Cựu Ước. Môsê đại diện cho các sách Luật và Êlia đại diện cho các sách
ngôn sứ. Cách hiểu này đã xuất hiện từ thời giáo phụ Ôrigen khi ông chú giải
Tin Mừng Mt 12,38. Đức Giêsu thường hay đề cập đến “Luật và các Ngôn sứ” khi
Người nói chung về Thánh Kinh (Mt 5,17; Lc 16,16; Ga 1,45). Cách giải thích này
xem ra hợp lý và được nhiều nhà chú giải đón nhận. Tuy nhiên, theo J. Marcus,
cách hiểu này cũng có những vấn đề của nó bởi vì Môsê cũng được xem là một ngôn
sứ (Đnl 34,10). Ông ta được Philo và Josephus (hai sử gia Do Thái nổi tiếng nhất)
đề cập thường xuyên như là “ngôn sứ”. Do vậy, rất khó để xem ông ta như là đại
diện cho Luật, đối lại với các sách Ngôn sứ. Hơn nữa, Êlia là một nhân vật chứ
không phải là tác giả sách ngôn sứ. Không có sách ngôn sứ Êlia. Do vậy, cũng rất
khó để cho rằng ông biểu trưng cho sách Các Ngôn Sứ. Marcus đề xuất tính biểu
trưng của sự xuất hiện Êlia và Môsê trên núi có thể nằm ở sự liên kết tương tự
giữa núi Sinai và Khôrép, nơi cả hai cùng gặp gỡ Chúa (Xh 19-24,34; 1 V 19).
Cách hiểu này nối kết với những hy vọng mang tính cánh chung. Theo những lời
ngôn sứ Malakhia (4,5-6), ngôn sứ Êlia sẽ trở lại vào thời cánh chung và báo
trước sự đến của đấng Mêsiah. Chính vì thế mà Gioan Tẩy Giả, người dọn đường được
đồng hóa với Êlia. Môsê thỉnh thoảng cũng được nối kết với Đấng cánh chung, như
là mẫu hình cho Đấng cứu độ cánh chung, như thể là “ngôn sứ như Môsê” (Đnl
18,15.18). Môsê đã hứa cùng dân Ítrael rằng: “Từ giữa anh chị em, trong số các
anh chị em của anh chị em, Đức Chúa của anh chị em sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ
như tôi để giúp anh chị em; anh chị em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18,15; cf. Đnl
18,18).[10] Trong cấu trúc của đoạn
này (xem phần cấu trúc), sự xuất hiện của căp đôi Môsê – Êlia này sẽ song đôi với
sự xuất hiện của “đám mây” và “tiếng từ trời”. Sự xuất hiện sau như là tổng kết
và chứng nhận cho sự xuất hiện trước. Cũng là đến từ trời, nhưng rõ ràng, tiếng
nói từ trời có thế giá hơn Môsê và Êlia. Sẽ có người thắc mắc là tại sao Êlia lại
được nhắc tên trước Môsê, trong khi Môsê rõ ràng là có thế giá hơn Êlia? Heil
giải thích rằng trong cấu trúc “X cùng với Y” (Êlia cùng với Môsê), được Máccô
sử dụng, Y luôn là biểu tượng nổi bật hơn. Ông đưa ra hai ví dụ “những người
xung quanh Người cùng với nhóm 12” (Mc 4,10) và “đám đông cùng với các môn đệ”.[11]
7.
“Đàm đạo với”:
Nội dung cuộc đàm đạo không hề được nói đến. Nhưng mà theo bối cảnh của trình
thuật về biến cố này (được trình bày phía trên, bối cảnh về thương khó), cuộc
đàm đạo này rất có thể liên quan đến biến cố thương khó và Phục Sinh của Đức Giêsu.
J.R. Donahue – D.J. Harrington cho rằng Êlia và Môsê đều là hai hình ảnh mang
tính ngôn sứ, những người chịu đau khổ vì trung thành với Chúa.[12] Có lẽ chính vì thế mà họ
hiện diện trong bối cảnh này để nói với Đức Giêsu về biến cố đau khổ mà Người sắp
trải nghiệm. Trong bối cảnh trực tiếp, tiếp theo sau đoạn văn này, khi trả lời
về chất vấn về sự “đến trước” của Êlia, Đức Giêsu sẽ ám chỉ đến số phận đau khổ
của ngôn sứ Êlia (Mc 9,10-11). Qua cách diễn tả “có lời chép rằng Con Người phải
chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê” … “ông Êlia đã đến và họ đã đối xử với ông
theo ý họ muốn”, Đức Giêsu muốn ám chỉ đến cái chết của Gioan Tẩy Giả, người được
xem là Êlia, đến để dọn đường cho Đấng Mêsia.
8.
“Dựng ba cái lều”: Động từ dùng để diễn tả phản ứng của Phêrô khá lạ lùng. Bản dịch Việt
Ngữ và Anh Ngữ dường như bỏ qua động từ đầu tiên Máccô dùng để diễn tả hành động
của Phêrô. Đó là động từ “trả lời”, dùng ở dạng phân từ, thì aorist, thể bị động
(ἀποκριθεὶς). Bản
Pháp Ngữ dịch là “intervenant” (can thiệp, xen vào) và bản Ý ngữ dịch là
“Prendendo la parola” (cất lời). Rất khó để dịch là “trả lời” trong bối cảnh
này, thế nhưng có thể dịch là “để đáp trả”. Nghĩa là “để đáp lại, đưa ra phản ứng”
trước biến cố, cảnh tượng đang xảy ra. R. France nói rằng “Lời của Phêrô không
phải là câu trả lời cho cho bất cứ lời nào đã được nói trước, nhưng cho toàn bộ
cảnh tượng gây bối rối, trong đó các ông cảm thấy chính mình hoảng sợ.”[13] Trong nỗi sợ hãi của ông
cũng như các môn đệ Phêrô, nói nhưng không biết mình đang nói gì. Khó có thể
tìm thấy được sự chuẩn mực trong một câu nói phát xuất từ miệng của một người
đang sợ hãi. Tuy vậy, lời nói bộc phát trong cơn sợ hãi lại có giá trị cao về
tính chân thật vì nó phát xuất từ tiềm thức nào đó của con người. Sự phấn khích
của Phêrô có thể không khó để hiểu. Trước cảnh tượng huy hoàng của thầy mình,
cũng như sự xuất hiện của hai đại diện của thời Cựu Ước, ông có cảm giác sung
sướng, lâng lâng không muốn họ rời đi.
9.
Ba cái lều: Lều
trong thời Cựu Ước, trong văn hóa dân du mục là biểu trưng cho một sự ấm êm, định
cư, trú ngụ. Ba người, dĩ nhiên là phải dựng 3 cái lều. Lều cũng nhắc độc giả đến
nơi Chúa Ngự. Lều Hội Ngộ chính là nơi mà Hòm Bia Giao Ước hiện diện trong gian
cực thánh, đó là trung tâm hiến tế (Lv 1,5; 3,2) và gặp gỡ của dân Ítrael trong
thời Xuất Hành. Mây bao phủ Lều Hội Ngộ và vinh quang Thiên Chúa bao phủ lên
Hòm Bia (Xh 40,34). Đó là nơi Thiên Chúa “gọi và nói với Môsê” (Lv 1,1). Thánh
Gioan khi diễn tả mầu nhiệm nhập thể đã nói rằng: “Thiên Chúa đã trở nên xác
phàm và cắm lều (ἐσκήνωσεν) giữa chúng ta” (Ga 1,14). Muốn cất lều cho 3 nhân vật, Phêrô
một cách vô thức gợi lại hình ảnh Xuất Hành khi Chúa đồng hành cùng dân và nơi
nào họ dừng chân, họ đều cất Lều Hội Ngộ ở giữa (Ds 10), và lều của các chi tộc
được bố trí chung quanh (Ds 2,1 – 3,39). A.Y. Collins – H.W. Attridge ghi chú rằng
trong thời cổ đại, cuộc thần hiện của một vị thần thường được kết hợp với một nền
tảng cho một việc thờ cúng hay với việc cử hành một lễ hội. Đề xuất của Phêrô
liên quan đến việc dựng ba cái lều là có thể hiểu được. Phêrô có thể đã đề xuất
những sự thờ phượng dành cho ba vị thần linh xuất hiện nơi đó.[14] Theo cấu trúc của bản
văn, phản ứng của Phêrô và các môn đệ là phần trung tâm, đối lại với hai sự xuất
hiện của các nhân vật từ trời cao. Phêrô và hai môn đệ kia “kinh hãi” (ἔκφοβοι). Đây là tính từ được dùng một lần
duy nhất trong các sách Tin Mừng và chỉ có Máccô dùng ở trong bối cảnh này để
diễn tả cảm xúc của ba môn đệ. Mátthêu và Luca không ghi lại cảm xúc này. Mệnh
đề “ông không biết trả lời thế nào” gợi nhớ đến bối cảnh trong vườn Ghetsemani,
nơi Đức Giêsu bắt gặp các môn đệ đang ngủ khi Người trở lại lần thứ hai. Họ
cũng “không biết phải trả lời sao với Người” (14,40).[15] Đây cũng là một trong những
chi tiết liên kết biến cố biến hình với cuộc thương khó.
10. “Tiếng từ trong đám mây”: “Tiếng từ trong đám mây” (ἐγένετο φωνὴ ἐκ τῆς νεφέλης) trong bối cảnh này không khỏi gợi
nhớ đến “tiếng từ trời” (Mc 1,11) trong biến cố Đức Giêsu chịu Phép Rửa tại
song Giođan. Rất có thể tiếng này là từ Chúa Cha. Đây là lần thứ hai cũng là lần
cuối cùng Máccô ghi nhận tiếng nói “từ trong đám mây” hay “từ trời”. Mây rõ
ràng là biểu tượng của sự hiện diện thần linh. Trong Xh 40,34-38, một đám mây
bao phủ quanh Lều Hội Ngộ, nơi đầy với vinh quang của Đức Chúa. Vào lúc cung hiến
đền thờ tại Jêrusalem “một đám mây lấp đầy nhà của Đức Chúa (1 V 8,10-11).[16] Đám mây dĩ nhiên là biểu
hiện của mô thức thần hiện trong truyền thống Cựu Ước (Xh 13,21-22; 33,9-10).
R. France cho rằng những âm hưởng ở đây diễn tả một cách cụ thể những trình thuật
tại núi Sinai: đám mây xuất hiện (Xh 19,6; 24,15-16) và tiếng của Chúa nói từ
trong đám mây (Xh 19,9; 24,16; 24,18 – 25,1). Xh 19,9 rất tương tự bối cảnh Biến
Hình này khi Đức Chúa dặn Môsê rằng: “Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây dày đặc,
để dân chúng có thể nghe khi ta nói với người mà tín thác vào ngươi từ nay về
sau”.[17] Ở đây, có lời nói từ đám
mây và có lời căn dặn “hãy vâng nghe lời Người”.
11. “Đây là con yêu dấu của ta”: Dù là “Tiếng từ trời” trong biến cố
chịu Phép Rửa hay là “tiếng từ trong đám mây” trong biến cố biến hình, câu giới
thiệu về Đức Giêsu là như nhau, “đây là con yêu dấu của ta”. Trong bối cảnh
Phép Rửa, “tiếng từ trời” nói trực tiếp với Đức Giêsu, giữa cái nhìn và lắng
tai của dân chúng. Tiếng ấy dùng đại từ ngôi thứ hai (con, you) để gọi Đức Giêsu.
Trong bối cảnh Biến Hình, “tiếng từ đám mây” giới thiệu với các môn đệ hiện diện
về Đức Giêsu. Đại từ được dùng ở đây là đại từ chỉ định (đây là, this is). Lời
giới thiệu này nối kết Mc 1,11 và Mc 9,7 vì chúng đồng hóa Đức Giêsu như là Con
Thiên Chúa vào đầu sứ vụ tại Galilê và đầu hành trình lên Jêrusalem. Cả hai đều
hướng đến lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng khi Đức Giêsu trút hơi thở
trên thập giá: “quả thật người đàn ông này là Con Thiên Chúa” (15,39).[18] Lời tuyên xưng này là câu
kết mãn nguyện cho mạc khải của Tin Mừng Máccô. Máccô khởi đầu Tin Mừng bằng
cách giới thiệu trực tiếp Đức Giêsu là Con Thiên Chúa: “khởi đầu của Tin Mừng Của
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1). Chúng ta thấy có sự tiến triển trong
sự mạc khác thần tính của Đức Giêsu trong Tin Mừng Máccô. Đặc tính “Con Thiên
Chúa” được mạc khải cách tiệm tiến. Từ lối nói trực tiếp với Đức Giêsu, đến nói
với nhóm “bộ ba môn đệ”, đến lời tuyên xưng của một người ngoài nhóm các môn đệ
và cũng ngoài Do Thái nữa, một người lính Rô-ma. Danh hiệu “Con yêu dấu” được
dùng 3 lần trong Tin Mừng Máccô. Hai lần dành cho Đức Giêsu (Mc 1,11 và Mc 9,7)
và một lần Đức Giêsu dùng để kể dụ ngôn “tá điền sát nhân” (Mc 12,1-12), trong
đó “người con yêu” của người chủ vườn nho được sai đến cuối cùng để thu hoa lợi
từ vườn nho, nhưng anh ta đã bị bắt, bị giết và bị quăng ra khỏi vườn nho. Kết
thúc dụ ngôn ấy, Máccô ghi chú: “họ tìm cách giết Đức Giêsu, nhưng lại sợ dân
chúng” (12,12). Rõ ràng, có sự nối kết giữa “người con yêu” và số phận bi đát của
cậu: bị bắt, giết, quăng ra ngoài. Đó là hình ảnh và số phận của “người con
yêu”, Giêsu. Hình ảnh “Người con yêu” cũng khiến người ta nhớ đến câu chuyện
Abraham “bị” Chúa mời gọi dâng chính con một của mình làm hy lễ. Trong tường
thuật ấy, I-xa-ác cũng được Chúa gọi là “người con yêu quý” của Abraham: “Hãy
mang người con trai, người yêu dấu, người mà người yêu nhất” (λαβὲ τὸν υἱόν σου τὸν ἀγαπητόν ὃν ἠγάπησας) (St 22,2).[19]
12. “Hãy lắng nghe Người”: Đây là mệnh lệnh, lời mời gọi của “tiếng
từ đám mây”. Khác với Mc 1,11 sau khi tuyên bố “con là con yêu của ta” tiếng từ
trời tiếp tục “nơi con ta hài lòng”, ở đây, “tiếng từ đám mây” dùng ở mệnh lệnh
cách, ngôi thứ hai số nhiều: “các ngươi, hãy nghe người”. Động từ được dùng là
“lắng nghe” (listening) chứ không phải là “nghe” (hearing). Động từ này bao hàm
cả sự vâng lời, và làm theo chỉ dẫn của người “con yêu dấu” này. Bản dịch Việt
ngữ có thêm chữ “lời”: “hãy vâng nghe lời Người” (CGKPV), trong khi các bản dịch
Pháp Ngữ, Ý Ngữ và Anh Ngữ chỉ dùng đại từ ngôi thứ ba số ít (Người, anh ấy,
him).[20] Các bản dịch này sát với
bản văn gốc tiếng Hy Lạp hơn (ἀκούετε αὐτοῦ). “Lắng nghe Người” có nghĩa rộng hơn. Nó không giới
hạn trong “lời” giảng của Đức Giêsu mà thôi, nhưng còn là các hành vi, cử chỉ của
Người. Nói chung, phải xem cả con người Đức Giêsu như là gương mẫu. Trong bối cảnh
này, điều mà các môn đệ phải “vâng nghe” là biến cố thương khó và Phục Sinh mà
Đức Giêsu đã và đang tiền báo đến ba lần. Trong bối cảnh của toàn Tin Mừng, các
môn đệ phải “vâng nghe” toàn bộ giáo huấn của Đức Giêsu, toàn bộ hành động của
Người, và nhất là cái chết và sự Phục Sinh của Người. Mệnh lệnh “Hãy vâng nghe
Người” âm vang lời hứa của Môsê với dân bên bờ sông Gio-đan: “Đức Chúa sẽ cho
xuất hiện trong dân của anh chị em một vị ngôn sứ giống như tôi, anh chị em sẽ
nghe vị ngôn sứ ấy” (Đnl 18,15).[21] Đức Giêsu dĩ nhiên hơn cả
một vị ngôn sứ, bởi vì Người là “con yêu dấu” của Chúa Cha.
13. “Sống lại từ cõi chết”: Đoạn 9,9-10
có cấu trúc rất chặt chẽ (xem phần cấu trúc). Lệnh cấm đi song đôi với việc
tuân theo lệnh cấm và giới hạn lệnh cấm cũng song song với việc các môn đệ bàn
thảo về giới hạn ấy. Đức Giêsu hoàn toàn im lặng từ đầu cho đến bây giờ. Điều
Người mở miệng nói với các môn đệ lại là một lệnh cấm triệt để. Họ phải giữ kín
điều vừa thấy. Lệnh cấm “không được nói cho ai” rất thường thấy trong Tin Mừng Máccô.
Lệnh này xuất hiện lần đầu tiên dành cho quỷ trong Hội Đường Ca-phác-na-um (1,25).
Sau đó Đức Giêsu lại “cấm quỷ nói vì chúng biết Người” (1,34). Người cũng
nghiêm cấm gay gắt người bệnh phong được chữa lành: “không được nói với bất kỳ
ai về bất cứ điều g” (1,42). Ở đây Đức Giêsu ra lệnh cấm các môn đệ tiết lộ điều
họ đã chứng kiến. Họ chỉ thấy vinh quang của Đức Giêsu, nhưng không nghe được
cuộc thảo luận giữa Đức Giêsu cùng với Êlia và Môsê. Cuộc thảo luận đó rất có
thể là cuộc thảo luận về cuộc thương khó Người sắp bước vào. Luca nói rất rõ về
cuộc thảo luận này: “họ nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Jêrusalem”
(Lc 9,31). Luca còn ghi chú thêm: “Phêrô và đồng bạn đang ngủ mê mệt” (9,32).
Giấc ngủ mê mệt này rõ ràng kéo dài mãi cho đến trong Vườn Cây Dầu. Điều mà Phêrô
và các bạn đồng môn thấy là đúng, và tốt, nhưng không trọn vẹn. Họ đã không
nghe được điều rất quan trọng mà Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại đến ba lần trong bối
cảnh rộng của đoạn Tin Mừng này (xem phần bối cảnh bản văn). Lệnh cấm lần này của
Đức Giêsu khác các lần khác là vì nó có giới hạn: “trừ khi Con Người từ cõi chết
sống lại” (Mc 9,9). Đây là một mạc khải hết sức quan trọng. Nó đề cập đến mầu
nhiệm cốt yếu trong hành trình cứu độ của Đức Giêsu. Chờ cho đến khi “Con người
chỗi dậy từ cõi chết” nghĩa là chờ cho đến khi Đức Giêsu đi đến bước cuối cùng
của hành trình Thương Khó – Phục Sinh. Đến lúc đó các môn đệ chắc chắn cũng đã
nhìn thấy hành trình khổ nạn của Chúa, chứ không chỉ nhìn thấy ánh vinh quang
như trong cảnh Biến Hình. Cuộc biến hình trọn vẹn là cuộc biến hình trên đồi
Golgotha. Sau cuộc biến hình trên đồi sọ (sự phục sinh) Phêrô và các môn đệ mới
được và nhất thiết phải công bố cho mọi người.
14. “Tiếp tục bàn luận”: Đoạn Tin Mừng được đóng lại bằng
hành trình xuống núi của các môn đệ cùng với Đức Giêsu. Đó là hành trình trở về
với đời thường, tiếp tục hành trình lên Jêrusalem. Bỏ lại những hình ảnh vinh
quang trên “núi cao”, các môn đệ mang theo mình thắc mắc “chỗi dậy từ cõi chết”
nghĩa là gì. Thắc mắc này được diễn tả bằng động từ chia ở dạng hiện tại phân từ,
số nhiều “họ đang bàn luận” (συζητοῦντες). Các môn đệ vẫn tiếp tục bàn luận,
tìm hiểu về mầu nhiệm này không những suốt chặng đường xuống núi mà còn suốt chặng
đường lên Jêrusalem, mãi cho đến sau khi Đức Giêsu Phục Sinh.
Bình luận
Tiếp theo sau cuộc hành trình chịu
cám dỗ của Đức Giêsu trong sa mạc (CN I MC), Phụng vụ Chúa Nhật II Mùa Chay năm
B, dẫn đưa các Kitô hữu lên núi với Chúa Giêsu. Mốc thời gian của cuộc hành
trình này được xác định là “sau sáu ngày”. “Sau sáu ngày” đó cũng rất có thể là
khoảng thời gian sau khi Đức Giêsu tiền báo về Cuộc Thương Khó lần thứ nhất và Phêrô
đã phản ứng dữ dội (Mc 8, 31-32). Là khoảng thời gian sau khi Đức Giêsu dạy các
môn đệ về mầu nhiệm thập giá: “ai muốn theo tôi hãy từ bỏ mình, vác thập giá của
mình hằng ngày mà theo” (8,34). Núi đó là núi nào thì không ai rõ. Máccô chỉ
cho độc giả biết rằng đó là một ngọn “núi cao”. Theo truyền thống, đó là núi Tabo,
Hermon, hoặc Cácmen. Núi cao là hình ảnh biểu tượng cho những cuộc thần hiện.
Đó là nơi Thiên Chúa gặp các vị ngôn sứ và qua họ Người sẽ nói với dân Người.
Đó là trường hợp thần hiện của Chúa với Môsê trên núi Sinai trong hành trình Xuất
Hành. Đó là trường hợp gặp gỡ Chúa của ngôn sứ Êlia trên núi Khôrép sau khi ông
hành trình 40 ngày đêm để chạy trốn hoàng hậu Isabel. Những cảnh tượng mây trời
bao phủ cũng là một yếu tố rõ nét của những cuộc thần hiện. Sự Xuất hiện của Môsê
và Êlia từ trời cao. Đây là hai vị ngôn sứ thời Cựu Ước đã từng hiện diện trong
những cuộc thần hiện thời Cựu Ước. Sự xuất hiện của tiếng nói “từ đám mây” càng
âm vang, tô đậm khung cảnh của một cuộc thần hiện. Họ đến để bàn luận với Đức Giêsu
về “cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành tại Jêrusalem”. Đức Giêsu đã tiền
báo về mầu nhiệm này, và Người còn báo lại đến hai lần nữa. Ba lần, một mật độ
dày đặc trong 3 chương liên tiếp của Tin Mừng Máccô (8,9,10), vẫn không làm cho
các môn đệ lưu ý và hiểu được. Cuộc biến hình chắc hẳn là một sự chuẩn bị cho cả
Đức Giêsu và các môn đệ trên hành trình lên Jêrusalem. “Núi cao” có thể có giá
trị biểu tượng như là đỉnh cao, chóp đỉnh của Tin Mừng Máccô. “Núi cao” cũng là
điểm mốc, mấu chốt giữa hai giai đoạn trong hành trình dương thế của Đức Giêsu:
“hành trình sứ vụ tại Galilê và cuộc Vượt Qua tại Jêrusalem. Đoạn Mc 9,2-10 như
là cầu nối quan trọng giữa hai biến cố này.[22] “Núi cao” là nơi các môn
đệ nhìn thấy vinh quang rạng ngời của Đức Giêsu. Là nơi mà Đức Giêsu được giới
thiệu cách long trọng là “Con yêu dấu”; cũng là nơi các môn đệ lãnh nhận mệnh lệnh
“hãy vâng nghe Người” (Đức Giêsu). Ngay lập tức điều mà Đức Giêsu muốn các môn
đệ phải nghe là: “Không được nói với ai về điều họ đã thấy” (9,9). Tuy nhiên, lệnh
cấm ấy lại không đóng lại vĩnh viễn, nhưng được mở ra thênh thang một khi “Con
Người từ cõi chết chỗi dậy”. Các môn đệ phải tạm thời quên chuyện vinh quang ấy.
Và quả thật việc chứng kiến vinh quang biến hình ấy, không giúp cho các môn đệ
đủ sức để đồng hành cùng Đức Giêsu trên hành trình thập giá. Tuy nhiên, họ được
mời gọi tiếp tục suy niệm, học hỏi về mầu nhiệm “chỗi dậy từ cõi chết” trên
hành trình theo Chúa. Điều căn bản mà họ phải nhớ là: Đức Giêsu chính là người
“con yêu dấu” và họ phải “vâng nghe Người” trong mọi sự: lời Người dạy, việc
Người làm, đau khổ thập giá Người trải qua, và vinh quang Phục Sinh Người sẽ đạt
đến. Các môn đệ không được công bố “vinh quang Biến Hình”, cũng không được dừng
lại trên “núi cao” nơi họ thấy tốt vì có “Chúa biến hình” và “Môsê và Êlia”. Họ
được mời gọi phải lắng nghe cuộc đàm đạo giữa Giêsu, Môsê và Êlia. Họ phải chia
sẻ và đi vào nội dung của cuộc đàm đạo ấy. Đó là cuộc thương khó của Đức Giêsu.
Theo Chúa rồi sẽ đến vinh quang, nhưng vinh quang đích thực của cuộc đời theo
Chúa là vinh quang trên “Núi Sọ”, chứ không phải vinh quang trên “núi cao”, nơi
Chúa biến hình”.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] J.R. Donahue – D.J.
Harrington chọn kết thúc bản văn này ở 9,13, nghĩa là thêm 3 câu nữa [J.R.
Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2005)
267].
[2] Nên nhớ rằng đây là khoảng
thời gian mà cả Mác-cô và Mát-thêu đều đồng ý (Mt 17,1), nhưng Luca thì khác.
Theo Luca, không phải “sau sáu ngày” mà khoảng chừng “sau tám ngày” (Lc 9,28).
[3] J. Marcus, Mark 1-8. A
New Translation with Introduction and Commentary (AYBC; New Haven – London
2008) 27A, 613.
[4] Sê-mít dùng để gọi nhóm
người, nền văn hóa, ngôn ngữ (Ả Rập, Do Thái, Samari, Assiria…). Nó phát xuất từ
tiếng Do Thái Sêm (שם). Sêm là một trong những người con của
ông Nô-e được nói đến trong sách Sáng Thế, đặc biệt là đoạn nói về Lụt Hồng Thủy
(St 6 – 9).
[5] A.Y.
Collins – H.W. Attridge, Mark. A Commentary on the Gospel of Mark
(Hermeneia; Minneapolis 2007)
[6] Có một điều khá ngạc nhiên
là: Trong danh sách 12 Tông Đồ theo thánh Máccô, Anrê được xếp sau Simon,
Giacôbê và Gioan (Mc 3,16-18). Sách Công Vụ Tông Đồ cũng đặt Anrê sau như là
Máccô (Cv 1,13). Theo Mátthêu, Simon, người được gọi là Phêrô, Anrê, anh em của
ông, Giacôbê, con của ông Dêbêđê, và Gioan, người anh em của ông (Mt 10,2). Thứ
tự 4 người Tông Đồ đầu tiên trong danh sách của Luca cũng tương tự như Mátthêu:
Simon, Anrê, Giacôbê, Gioan. Theo Tin Mừng Gioan, Anrê thậm chí được đến và xem
nơi Chúa ở trước Phêrô. Chính ông đã giới thiệu Đức Giêsu cho người anh em của
mình là Phêrô (Ga 1,35-42). Trong trình thuật Đức Giêsu tiền báo về sự sụp đổ của
đền thờ, Máccô cũng là tác giả Tin Mừng Nhất Lãm duy nhất gom Anrê với bộ ba
này vào nhóm bốn người đặt câu hỏi với Đức Giêsu: “Xin Thầy nói cho chúng con
biết bao giờ các sự việc ấy xảy ra, và khi tất cả đến hồi chung cục thì cò điềm
gì báo trước?” (Mc 13,4). Luca chỉ dùng đại từ ngôi thứ ba số nhiều “họ”, còn
Mátthêu dùng danh từ chung “các môn đệ” (Mt 24,1-3; Lc 21,5-6).
[7] D. Mangum
(ed.), Lexham Context Commentary: New Testament
(LCC; Bellingham 2020) Mk 9:1-8.
[8] J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark, 268.
[9] W. Arndt, et al., A Greek-English lexicon of the New Testament and
other early Christian literature (Chicago 2000) 639.
[10] J.
Marcus, Mark 1-8. A New Translation with Introduction and Commentary
(AYBC; New Haven – London 2008) 633.
[11]
J.P. Heil, “A Note on ‘Elijah with Moses’ in Mark 9,4.” Bib 80 (1999) 115.
[12] J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark, 269.
[13] R.T. France, The Gospel of Mark: a commentary on the Greek text
(NIGTC; Grand Rapids 2002) 353.
[14] A.Y. Collins – H.W.
Attridge, Mark, 418-419.
[15] J. Marcus, Mark 1-8,
633.
[16] J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark, 270.
[17] R.T.
France, The Gospel of Mark, 355.
[18] J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark, 271.
[19]C.A. Evans, Mark
8:27-16:20 (WBC; Dallas 2002) 34B, 38.
[20] Écoutez-le (TOB); listen to him (ESV); ascoltatelo (CEI).
[21] R.T. France, The Gospel of Mark, 355.
[22] C.A. Evans, Mark
8:27-16:20, 38.
No comments:
Post a Comment