Bản văn và dịch sát nghĩa
Việt |
Hy
Lạp |
1 Rồi Đức Giêsu nói cùng những đám đông và các môn đệ của
Người 2 rằng: Các Kinh Sư và những người Pharisêu ngồi trên ghế của ông Môsê. 3 Vì thế, tất cả những gì họ nói cùng anh chị em, thì anh
chị em hãy làm và hãy giữ, nhưng đừng làm theo những việc làm của họ, vì họ
nói mà không làm. 4 Họ bó những gánh nặng [khó
mang] và đặt lên vai của người ta, còn chính họ không
muốn lay động chúng bằng ngón tay của họ. 5 Họ làm tất cả công việc của họ nhằm
được người ta thấy. Họ mở rộng các hộp kinh,
kéo dài các tua áo. 6 Họ yêu thích chỗ nhất trong
các đám tiệc những chỗ nhất trong các hội đường. 7 và những lời chào hỏi
nơi chợ, được người ta gọi là rabbi. 8 Nhưng chính anh chị em không thể được gọi là rabbi, vì anh chị em chỉ có một thầy dạy, tất cả anh chị em
là những người anh em. 9 Anh chị em đừng gọi ai là cha
trên trái đất này, vì anh chị em chỉ có một Cha,
Đấng ở trên trời. 10 Đừng gọi ai, là người hướng dẫn,
vì anh chị em có một người hướng dẫn là Đấng Kitô. 11 Nhưng người lớn hơn trong
anh chị em sẽ là người phục vụ của anh chị em.
12 Ai nâng mình lên sẽ bị
hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. |
1Τότε
ὁ Ἰησοῦς ἐλάλησεν τοῖς ὄχλοις καὶ τοῖς μαθηταῖς αὐτοῦ 2 λέγων· ἐπὶ
τῆς Μωϋσέως καθέδρας ἐκάθισαν οἱ γραμματεῖς καὶ οἱ Φαρισαῖοι. 3 πάντα οὖν ὅσα ἐὰν εἴπωσιν ὑμῖν ποιήσατε
καὶ τηρεῖτε, κατὰ δὲ τὰ ἔργα αὐτῶν μὴ ποιεῖτε· λέγουσιν γὰρ καὶ οὐ ποιοῦσιν. 4 δεσμεύουσιν δὲ φορτία βαρέα [καὶ δυσβάστακτα] καὶ ἐπιτιθέασιν ἐπὶ
τοὺς ὤμους τῶν ἀνθρώπων, αὐτοὶ δὲ τῷ δακτύλῳ αὐτῶν οὐ
θέλουσιν κινῆσαι αὐτά. 5 πάντα δὲ τὰ ἔργα αὐτῶν ποιοῦσιν πρὸς τὸ θεαθῆναι τοῖς ἀνθρώποις· πλατύνουσιν γὰρ τὰ φυλακτήρια αὐτῶν καὶ μεγαλύνουσιν τὰ κράσπεδα, 6 φιλοῦσιν δὲ τὴν
πρωτοκλισίαν ἐν
τοῖς δείπνοις καὶ τὰς πρωτοκαθεδρίας ἐν ταῖς
συναγωγαῖς 7 καὶ τοὺς ἀσπασμοὺς
ἐν ταῖς ἀγοραῖς καὶ καλεῖσθαι ὑπὸ τῶν ἀνθρώπων ῥαββί. 8 Ὑμεῖς δὲ μὴ κληθῆτε ῥαββί· εἷς γάρ ἐστιν
ὑμῶν ὁ διδάσκαλος, πάντες δὲ ὑμεῖς ἀδελφοί ἐστε. 9 καὶ πατέρα
μὴ καλέσητε ὑμῶν ἐπὶ τῆς γῆς, εἷς γάρ ἐστιν ὑμῶν ὁ
πατὴρ ὁ οὐράνιος. 10 μηδὲ κληθῆτε καθηγηταί, ὅτι καθηγητὴς
ὑμῶν ἐστιν εἷς ὁ Χριστός. 11 ὁ δὲ μείζων ὑμῶν ἔσται ὑμῶν διάκονος. 12 ὅστις δὲ ὑψώσει
ἑαυτὸν ταπεινωθήσεται καὶ ὅστις ταπεινώσει ἑαυτὸν
ὑψωθήσεται. (Matt. 23:1-12 BGT) |
Bối cảnh
Đoạn Tin Mừng Mt 23,1-12 vẫn ở
trong bầu khí đối thoại, tranh luận giữa các nhóm lãnh đạo Do Thái tại
Jêrusalem và Đức Giêsu. Nhóm Pharisêu nổi bật với hai lần thử thách mà họ dành
cho Đức Giêsu: Có được phép nộp thuế cho Kaisar không? (Mt 22,15-22) và Điều
răn nào lớn nhất trong Luật (Mt 22,34-40). Trước đoạn văn này là câu hỏi Đức
Giêsu dành cho nhóm Pharisêu: “Đấng Kitô là con của ai?”(22,41-46). Theo họ, Đấng
Kitô là con vua Đavít, nhưng Đức Giêsu đã dẫn lời Tv 110 chứng minh rằng vua
Đavít gọi Đấng Kitô là “Chúa của tôi” (κυρίῳ μου). Chính vì thế, Đấng
Kitô không thể là con vua Đavít được. Chương 23 là chương đặc biệt của Tin Mừng
Mátthêu, vì ngôn từ Đức Giêsu dành cho nhóm Pharisêu và Kinh Sư hết sức gay gắt,
và không có một tác giả Tin Mừng nào ghi lại. 23,1-12 là đoạn văn mô tả sơ khởi
về những đặc tính của hai nhóm này.
Cấu trúc
Tổng quát: Các
Kinh Sư và Pharisêu ngồi trên ghế Mosê Hãy
làm và hãy giữ những gì họ dạy, đừng làm những theo những việc làm của họ Nhóm Kinh Sư –
Pharisêu (cc.4-7): Không nên làm Nói mà không làm bó
những gánh nặng và đặt lên vai của người ta không
muốn lay động chúng bằng một ngón tay của họ. Làm tất cả công việc của họ nhằm được
người ta thấy. mở
rộng các hộp kinh, làm dài các tua áo. Yêu thích chỗ
nhất trong các đám tiệc, những chỗ nhất trong các hội đường. những
lời chào hỏi nơi chợ, được người ta gọi là rabbi. Môn đệ và đám đông
(cc.8-11): Làm và giữ Không thể được gọi là rabbi, chỉ có một thầy dạy, tất cả là những người
anh em. Đừng
gọi ai là cha trên trái đất này, … chỉ có một Cha, Đấng ở trên trời. Đừng
gọi ai là người hướng dẫn, vì chỉ có một người hướng dẫn là Đấng Kitô. Người
lớn hơn trong anh chị em sẽ là người phục vụ của anh chị em. Kết luận (12): Ai nâng mình sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng
lên |
Một số điểm chú giải
1.
Ngồi
trên ghế Môsê: Vị thế ngồi trên ghế là vị thế của một thầy dạy. Ngồi trên
ghế Môsê là giảng dạy những điều của ông Môsê, thay cho cho ông Môsê, với uy
quyền của ông Môsê.[1] Những
điều họ dạy không có gì khác hơn là nội dung của Luật (hoặc Luật Môsê). Trước
đoạn văn này, một người thông luật từ nhóm Pharisêu đã chất vấn Đức Giêsu nhằm
thử Người về điều răn lớn nhất trong Luật. Đức Giêsu đã đưa ra một điều răn
kép, hay là hai điều răn tương tự nhau: Yêu Chúa bằng cả trái tim, bằng cả linh
hồn, và bằng cả sức lực; Yêu người thân cận như chính mình. Và Đức Giêsu khẳng
định đây là hai điều chi phối không những toàn bộ Luật mà còn Ngôn Sứ nữa.
2.
Hãy
làm và hãy giữ những gì họ dạy: Lời khuyên này cho thấy Đức Giêsu chấp nhận
uy quyền, vị thế và nội dung trong lời dạy của nhóm Kinh Sư và Pharisêu. Bởi lẽ,
đây là hai nhóm trí thức, nghiên cứu Sách Thánh Hípri rất nghiêm túc và chuyên
nghiệp. Nhiều lần họ tranh luận với Đức Giêsu về Luật, cho thấy họ hiểu biết và
quan tâm về nền tảng Luật. Họ lo ngại Đức Giêsu phá vỡ luật giữ ngày Sabát (Mt
12,1-14), làm sai lệch truyền thống của tiền nhân về luật thanh sạch và ô uế
(Mt 15,1-20; Mc 7,1-23). Vấn đề là những người này dạy nhưng lại không làm theo
những điều họ dạy. Họ chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu, hiểu biết. Thật ra, họ
có làm những điều luật nhưng theo Đức Giêsu, họ bỏ qua những điều quan trọng nhất:
“Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ qua những điều
quan trọng nhất trong Luật là công bình, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn
cứ làm mà các điều kia vẫn không được bỏ” (Mt 23,23; Lc 11,42).
3.
Bó những
gánh nặng[2]
và đặt lên vai người ta … không muốn lay động chúng bằng một ngón tay của họ:
Hình ảnh “bó những gánh nặng và đặt lên vai” là hình ảnh tượng trưng cho việc
mang vác những điều luật.[3]
Quả vậy, theo truyền thống của các rabbi Do Thái, Torah có 613 điều luật, gồm
365 điều tiêu cực cấm làm và 248 (số xương và cơ quan trong cơ thể con người)
điều tích cực phải làm. Đức Giêsu đã so sánh sức nặng của các điều Luật như là
“gánh” và “ách”, theo đó, Người giới thiệu rằng “ách” của Người êm ái và “gánh”
của Người nhẹ nhàng (Mt 11,30). Các nghị phụ của Công Đồng Jêrusalem, cùng với
Thánh Linh đã quyết định không đặt lên vai những anh em kitô hữu Antiôkia một
gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết là: “kiêng ăn đồ cúng cho ngẫu tượng,
kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm” (Cv 15,28). Cách nói “không
lay động bằng một ngón tay” diễn tả sự phủ định tuyệt đối, hoàn toàn không đụng
vào, không làm gì cả đối với những gánh nặng họ chất lênv ai người ta.
4.
Làm tất
cả nhằm được người ta thấy[4]…mở
rộng các hộp kinh, làm dài các tua áo: “Mở rộng các hộp kinh, làm dài các
tua áo” là những hình ảnh cụ thể để diễn tả ý định “làm mọi công việc để người
ta thấy”. Trong bài giảng trên núi (Mt 5 – 7), Đức Giêsu nhấn mạnh đến tính kín
đáo trong việc ăn chay, làm từ thiện, và cầu nguyện. Khi làm từ thiện “đừng thổi
kèn như những kẻ đạo đức giả thường làm trong các hội đường và trên các đường
phố để đạt được sự tán thưởng của người khác… đừng cho tay trái biết việc tay
phải đang làm” (Mt 6,2-3). Khi cầu nguyện hãy đi vào phòng trong đóng cửa lại
và cầu nguyện cùng Cha của anh em trong nơi bí ẩn (Mt 6,6). Khi ăn chay, hãy xức
dầu trên đầu và rửa mặt để người khác không nhận ra ngươi đang ăn chay ngoại trừ
một mình Cha ngươi, Đấng ở nơi bí ẩn (Mt 6,17-18). Tất cả chỉ nhắm đến sự nhìn
nhận của Cha, chứ không phải người đời. Mang hộp kinh (τὰ φυλακτήρια) và
mang các tua áo (τὰ κράσπεδα) đều là hai hành động thể hiện lòng
yêu mến Torah theo chỉ dẫn của Luật. Hộp kinh đeo trên trán chứa nội dung quan
trọng nhất của Luật được gọi là “Shema” (Hãy nghe, hỡi Israel, Chúa là Thiên
Chúa duy nhất, phải yêu Người với cả linh hồn, bằng cả trí khôn và với toàn thể
sức lực của ngươi), được ghi lại trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,4-9; 11,13-22).[5]
Thiên Chúa truyền phải lặp lại những lời ấy cho con cháu lúc ở trong nhà, cũng
như lúc đi ngoài đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Hơn nữa Thiên Chúa
truyền phải đeo hộp kinh ở giữa hai mắt (trên trán) và đeo trên hai cánh tay nữa.
Quy định về những tua áo, được tìm thấy trong sách Dân Số: “Phải làm các tua áo
khâu vào áo choàng của họ. Qua mọi thế hệ và cột lên đó một sợi dây đỏ tía. Vậy
các ngươi sẽ mang tua áo và khi nhìn thấy nó, các ngươi sẽ nhớ đến mọi mệnh lệnh
của Chúa mà thi hành, chứ không theo con tim và đôi mắt các ngươi mà đi làm điếm”
(Ds 15,37-39; Cf. Đnl 22,12). Con cái Israel đều phải làm như thế, và những người
lãnh đạo, thầy dạy thì càng phải làm (đeo hộp kinh và may tua áo). Vấn đề của họ
là hai hành động “mở rộng” và “làm dài thêm”. Một cách dễ hiểu khi đeo hộp kinh
càng to thì người ta càng dễ nhìn thấy, và tua áo càng dài thì càng gây chú ý với
người khác.[6] Tất
cả chỉ nhằm mục đích cho người ta nhìn thấy. Như thế, hành động vốn mang tính đạo
đức, cung kính đối với Chúa trở thành hành động tôn vinh bản thân.
5.
Yêu
thích chỗ nhất, những lời chào hỏi nơi công cộng, được gọi là rabbi: Để mở
rộng mô tả về những thói quên chệch hướng nhằm tôn vinh bản thân. Đức Giêsu tiếp
tục liệt kê những yêu thích của nhóm Pharisêu và Kinh Sư. Họ thích những chỗ nhất
tại hai nơi tập trung đông dân: Đám tiệc và hội đường. Thích “chỗ nhất” bao gồm
ao ước được hưởng những đối đãi tốt nhất về ẩm thực cũng như vinh dự cao nhất trước
mặt người khác. Khi thích chỗ nhất, họ mong ước mình được làm trung tâm của cả
trong nơi thờ phượng và nơi chiêu đãi xã hội. Khi yêu thích chỗ nhất trong hội
đường,[7]
tương tự như mang hộp kinh to, và tua áo dài, họ để Chúa qua một bên để cho bản
thân được nổi lên. Sở thích chỗ ngồi nhất trong đám tiệc, cho thấy họ lấy mình
làm trung tâm mà quên đi các thực khách khác. Khi Đức Giêsu thấy thực khách thường
chọn chỗ nhất trong đám tiệc thì dạy rằng: “Khi được mời đi ăn tiệc, đừng vào
chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người
đã mơi cả anh và nhân vật ấy phải đến nói rằng: ‘Xin anh nhường chỗ cho vị
này’. Bấy giờ anh phải xấu hổ mà đi xuống chỗ cuối (Lc 14,8-9). Những sở thích
này không chỉ ảnh hưởng đến sự xấu hổ hay vinh dự trong văn hóa và ứng xử thường
ngày, nhưng là những hành vi chối bỏ Thiên Chúa và không đón nhận tha nhân vì
quá lo trung tâm hóa chính mình. Được chào hỏi nơi công cộng và được gọi là
rabbi cũng rất đỗi bình thường đối với một thầy dạy trong xã hội Do Thái cổ
xưa. Rabbi là một tước hiệu danh dự vào thế kỷ thứ nhất.[8]
Tuy nhiên, biến những điều ấy thành sở thích là điều bất thường. Đó làm một
hình thức tìm kiếm sự tôn vinh của người khác.
6.
Không
thể được gọi là rabbi … thầy dạy: Danh xưng rabbi được Đức Giêsu đặt song
song với “thầy dạy” (ὁ διδάσκαλος). Rabbi đồng nghĩa với “thầy dạy”.
Đối lại với ưa thích được gọi là rabbi của các Kinh Sư và những người Pharisêu,
đám đông và các môn đệ được khuyên là không nên được gọi là rabbi. Danh xưng
“thầy dạy” có mạo từ xác định có thể ngụ ý là chính Đức Giêsu. Nhiều lần trong
Tin Mừng Mátthêu, Đức Giêsu được gọi bằng danh xưng này (Mt 9,11; 10,25; 17,24;
26,18). Trong Tin Mừng Mátthêu chỉ có một mình Juđa Ítcariốt gọi Đức Giêsu là ‘rabbi”,
trong đó có một lần ông ta gọi Đức Giêsu là rabbi trước nụ hôn trao nộp (Mt
26,25.49). Rõ ràng, danh xưng này khi đi ra khỏi cửa miệng Juđa không mang nghĩa tích cực nêu không muốn
nói là hoàn toàn tiêu cực.
7.
Những
người anh em: Tương quan của các thành viên trong cộng đoàn là tương quan
“anh em”, không phải là thầy – trò.[9]
Họ là “những người anh em/ chị em” của nhau (ἀδελφοί). Danh xưng “người anh em” được các
thành viên trong cộng đoàn Mátthêu gọi nhau: “Nếu người anh em của ngươi phạm tội
hãy đi sửa lỗi cho anh ta giữa ngươi và một mình nó” (Mt 18,15); “Nếu người anh
em của con phạm tội chống lại con, con phải tha mấy lần?” (Mt 18,21); “Khi
ngươi đang dâng của lễ trước bàn thờ và nhớ đến người anh em của người đang có
gì đó chống lại ngươi” (Mt 5,23).
8.
Cha
trên trái đất này, … cha trên trời: Tương tự như danh xưng “thầy dạy” danh
xưng “người Cha, Đấng ở trên trời” cũng có mạo từ xác định, ám chỉ đến Thiên
Chúa. Trong bài giảng trên núi, danh xưng “Cha trên trời” được sử dụng nhiều lần
với tính từ sở hữu ngôi thứ hai (của anh em, 5,48; 6,4.6.8.14.15.18.26.32;
7,11) và ngôi thứ nhất “của chúng tôi”. Đức Giêsu cũng gọi Thiên Chúa là “cha
trên trời” (Mt 11,26.27; 15,13; 16,17; 18,35). Người không gọi ai dưới đất này
là cha. Trong câu chuyện Đức Giêsu ở lại trong đền thờ (Lc 2,41-52), Đức Maria
đã nói cùng Đức Giêsu, nhấn mạnh đến danh xưng cha của ông Giuse rằng: “Cha của
con và ta đã lo lắng tìm con” (Lc 2,48), nhưng Đức Giêsu chỉ đáp lại bằng cách
gọi cha mẹ bằng đại từ ngôi thứ hai số nhiều “Sao các người lại tìm con”. Người
nhấn mạnh đến vị thế của người Cha trên trời: “Các người không biết rằng con phải
bận tâm đến những công việc của Cha con hay sao? (Lc 2,49). Theo T. France, tước
hiệu “cha” trong Do Thái giáo được dùng cho một thầy giáo có uy quyền được minh
họa bằng tựa đề của bộ tuyển tập Mishnah, gọi là “Abot” “Những người cha”, một
bộ sưu tập những câu nói của các giáo viên đáng kính xưa và nay.[10]
9.
Người
hướng dẫn, … Đấng Kitô: Danh xưng “người hướng dẫn” (người dẫn đường) cũng
có nghĩa là thầy dạy, giáo viên, giáo sư, gia sư. Một số tác giả cho rằng câu
nói này diễn tả lại câu 8 (nói vê thầy dạy) để nhấn mạnh hoặc diễn giải, nhưng
một số khác lại xem đây như là một sự mở rộng để bao hàm một tước hiệu danh dự cụ
thể của người Hy Lạp.[11]
Đức Giêsu đề cập đến Đấng Kitô như là “người dẫn đường” duy nhất. Cách nói này
có thể làm cho người ta liên tưởng đến khẳng định của Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan:
“Ta là con đường là sự thật và là sự sống, không ai có thể đến được với Cha mà
không qua Ta” (Ga 14,6). Đấng Kitô, con đường đích thực, người dẫn đường sáng
suốt, đối lại với nhóm Kinh Sư và những người Pharisêu, những kẻ dẫn đường mù
quáng được nói đến trong nhiều lần trong 23,16.17.19.24. Những người Kitô hữu
sơ khai được gọi bằng danh xưng “những người thuộc về con đường” (τῆς ὁδοῦ ὄντας)
(Cv 9,2; 22,4; 24,14). Danh xưng này ám chỉ Đức Kitô là con đường và những ai
theo Người được gọi là “những người thuộc về con đường”. Các môn đệ của Đức
Giêsu là những người bỏ hết mọi sự để “đi theo” (ἀκολουθέω Mt 4,20.25) Người. Đức Giêsu là người dẫn đường
của họ. Đức Giêsu là thầy dạy khi Người giảng dạy họ qua các bài giảng và cách
sống. Người là người dẫn đường khi Người dẫn họ đến Thiên Chúa Cha.
10. Người lớn hơn trong anh chị em sẽ là người phục vụ: Đức Giêsu tóm kết sự trái ngược giữa sở thích được người ta nhìn nhận, tôn trọng, lấy mình làm trung tâm của nhóm Kinh Sư và Pharisêu và sự khiêm hạ, lấy Đức Kitô, lấy Cha trên trời làm trung tâm của các môn đệ. Khi hướng lòng về Cha trên trời, xem tất cả mọi người là anh em, thì kẻ làm lớn sẽ trở thành người phục vụ người khác. Đây chính là giáo huấn nền tảng của các Tông Đồ Đức Giêsu. Trong bối cảnh hai môn đệ Gioan và Giacôbê yêu cầu được ngồi vị trí bên phải, bên trái của Chúa, trong vương quốc của Người, và các môn đệ khác cũng vào vòng tranh chấp, Đức Giêsu đã dạy họ rằng: “Ai muốn là lớn hơn trong số anh em, phải là người phục vụ, ai muốn là người đứng đầu phải là nô lệ của anh em” (Mt 20,26-27). Mẫu gương để các môn đệ đối chiếu là cung cách của Con Người: “Con Người không đến để được phục vụ nhưng để phục vụ và trao ban mạng sống vì giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,25). Đức Giêsu còn khẳng định rằng Người ở giữa các môn đệ như là một người phục vụ (Lc 22,27). Sở dĩ Đức Giêsu ở trong tư thế là “người tôi tớ”, “người phục vụ” vì Người là người lớn hơn, được mọi người gọi là “thầy”, là “Chúa”. Người khiêm nhường cúi xuống “rửa chân” cho những người anh em môn đệ của mình. Vị trí “lớn” trong quan niệm của Đức Kitô không phải để được tôn vinh và tìm lợi ích cho ban thân nhưng là để tôn vinh và mưu cầu lợi ích cho người khác. Tầm mức lớn, hay vị trí trung tâm trong xã hội không phải là một sự nhìn nhận về địa vị và danh vọng mà người ta phải thèm muốn, nhưng chỉ là một, cơ hội và phương tiện để người ta dùng để phục vụ người khác. Trong cộng đoàn của Đức Giêsu, trong gia đình Thiên Chúa, người lơn hơn, người mạnh hơn, về thể lý, cũng như tinh thần, là người phục vụ người khác, nâng người khác lên, chứ không phải đè bẹp. Đó là nền tảng của nền văn mình Kitô giáo. Đó là một trật tự đảo ngược trật tự trong thế giáo động vật: Con vật mạnh, con khỏe, con dữ nhất, có thể ăn thịt, chiến thắng con khác, trở thành chúa tể và tiếp tục tồn tại. Con vật yếu hơn, bị con mạnh hơn đuổi giết và diệt vong.
11. Ai nâng mình sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình
xuống sẽ được nâng lên: Hai động từ bị động “bị hạ xuống” và “được nâng lên”
rất có thể là bị động thần linh, với tác nhân là Thiên Chúa. “Người nâng mình
lên” trong bối cảnh này có thể tượng trưng cho hai nhóm người cụ thể là Kinh Sư
và Pharisêu: làm mọi sự để cho người ta thấy, mở rộng hộp kinh, nới dài tua áo,
thích được chào hỏi nơi công cộng, được gọi là rabbi, chỗ nhất trong hội đường
và đám tiệc. Thuật ngữ này cũng có thể áp dụng cho bất cứ ai có hành động và sở
thích tôn vinh mình giống như họ. Tương tự, “Người hạ mình xuống” tượng trưng
cho các môn đệ, hay bất cứ ai theo lời dạy của Đức Giêsu: Không để mình được gọi
là rabbi, không gọi ai dưới đất là cha, không gọi ai dưới đất là người hướng dẫn,
sẵn sàng làm người phục vụ cho người khác. Trong bài giảng dành cho đời sống cộng
đoàn (Mt 18), Đức Giêsu dạy các môn đệ rằng “Ai hạ mình xuống như đứa trẻ là
người lớn nhất trong Nước Trời” (Mt 18,4). Trong lời tán tụng “Magnificat” Đức
Maria đã tung hô rằng: “Người chức vụ cao, Chúa truất khỏi ngai vàng nhưng nâng
lên những kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52).
Chú giải tổng quát
Sau khi chịu những
thử thách của nhóm Pharisêu, giờ đây Đức Giêsu hướng dẫn các môn đệ bằng cách
mô tả những thói quen không tốt của nhóm người này, cùng với nhóm những Kinh Sư.[12]
Đức Giêsu không ngần ngại nhìn nhận tư cách giảng dạy và những nội dung giảng dạy
của những nhóm lãnh đạo tôn giáo này. Cụ thể, Người khuyên các môn đệ và đám
đông hãy làm những gì những người này giảng dạy khi ngồi trên ghế của Môsê. Điều
mà họ cần phải tránh là quên đừng làm theo các việc làm của họ, vì lời nói của
họ không đi đôi với hành động. Những mô tả của Đức Giêsu cho thấy dường như họ
đi ngược lại với trọng tâm của Luật là kính mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn và
hết sức lực”. Họ chỉ yêu thương bản thân mình và tìm vinh danh cho mình. Những
việc đạo đức như “đeo hộp kinh” hay “mang những tua áo” vốn là những hành vi hướng
về Torah và chính Chúa, lại bị họ lợi dụng để người ta nhìn thấy. Nơi hội đường
vốn là nơi thờ phượng với Thiên Chúa là trung tâm, họ lại ưa thích chỗ nhất để
phô trương chính mình. Nơi đám tiệc là nơi thể hiện tình thương yêu huynh đệ, lòng
tôn trọng người khác, nhưng họ lại muốn thể hiện mình là người quan trọng nhất.
Những sở thích được gọi là rabbi, được chào hỏi nơi phố chợ cũng bộc lộ thói
hám danh hão huyền.
Đối lại với những
người Pharisêu và Kinh Sư, các môn đệ và đám đông được mời gọi sống tinh thần
khiêm hạ và phục vụ, qua việc lấy Chúa làm trung tâm và lấy tha nhân làm điểm tựa.
Họ không ham thích được gọi là rabbi, cũng không tôn vinh ai bằng cách gọi họ
là “cha” hay là “người hướng dẫn”. Đức Giêsu chính là người thầy duy nhất và
người hướng dẫn duy nhất là Đấng Kitô. Cũng như Đức Giêsu, danh hiệu cao quý “cha”
được họ dành cho Cha trên trời. Họ không tìm vinh quang cho mình, không tôn
vinh lẫn nhau, nhưng người làm lớn hơn phải là người phục vụ. Họ hiện diện giữa
người khác như một người phục vụ, giống cung cách của Đức Giêsu, Đấng không đến
để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống vì muôn người. Một khi
biết tìm vinh danh cho Chúa, biết gọi Đức Giêsu là thầy, gọi Đấng Kitô là người
hướng dẫn và gọi Thiên Chúa là Cha trên trời, gọi người khác là “những người anh
em”, các Kitô hữu tìm thấy chính mình hạnh phúc trong tư thế một người phục vụ.
Trong các giáo
huấn của mình về vấn đề người di cư, và đặc biệt là trong thông điệp “Fratelli
tutti” Đức Giáo Hoàng Phanxicô không ngừng cảnh tỉnh mọi người trước thảm họa của
một nền văn hóa “loại trừ người khác” và réo gọi xây dựng một nền văn minh “chào
đón/ đón nhận người khác”. Đó thật sự là nền tảng của nền văn minh kitô giáo có
cội nguồn trong thông điệp Tin Mừng của chính Đức Giêsu cho muôn ngàn thế hệ.
"Vì thế, không ai có thể bị loại bỏ do xuất xứ của mình, càng không thể do những đặc quyền của những người khác, là những người sở tại với cơ hội lớn hơn nhiều. Các giới hạn và ranh giới của mỗi nước không thể can dự vào đây. Cũng như không thể chấp nhận rằng một số người có ít quyền hơn do sự kiện họ là phụ nữ, thì cũng không thể chấp nhận rằng chỉ do sinh quán hay trú quán của một số người mà họ có ít cơ hội hơn để có một đời sống phát triển và có phẩm giá" (FT số 121)
Lm. Jos. Phạm
Duy Thạch, SVD
[1] “Since E. L. Sukenik claimed to have found such a seat at the front of the synagogues at Hammath-Tiberias and Chorazin, this expression has been taken literally. However, the archaeological evidence is slim and late. In Jesus' and Matthew's day, most synagogues were probably not structures dedicated to a single purpose. Thus “Moses' seat” is best understood as a common metaphor for the teaching and ruling authority of the scrib” [D.J. Harrington, The Gospel of Matthew (SP 1; Collegeville 1997) 320]; “Given that cultural norm it is likely that to “sit on Moses’ chair” is simply a figurative expression (cf. our professorial “chair”) for teaching with an authority derived from Moses. Moses himself gave Israel the basic law, but ever since then it had been necessary for other teachers to expound and apply it, and those who did so with due authority “sat on Moses’ chair” [R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew (NICNT; Grand Rapids 2007) 859].
[2]
“The imagery of the scribes “tying up” these loads before placing them on
people’s shoulders is perhaps intended to allude to the extensive hermeneutical
study and debate which have gone into formulating the scribal rules; see for example the introductory comments on 12:1–14 concerning the sabbath
regulations” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 861).
[3] “It is likely that the "burdens" refer to the
Pharisaic/rabbinic application of priestly purity laws to everyday life and to
their stress on tithing and Sabbath observance. The Pharisaic program for the
reform of Jewish life differed from that of Jesus and the Matthean community” (D.J. Harrington, The
Gospel of Matthew, 320).
[4]
their religious practices were designed to win the approval of other people
rather than that of God (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 861).
[5] “Rabbinic practice was to inscribe these passages on
parchment, enclose them in leather boxes, and strap them to the forehead and
arm during morning prayer. The boxes are called phylacteries. This passage is
the earliest use of that term, which can also refer to amulets. Hence Matthew's
use of the term may be polemical. The discovery of leather phylacteries at
Qumran makes it probable that "phylacteries" here refers to the same
religious article. Rabbinic tradition usually refers to them as tefillin” (D.J. Harrington, The
Gospel of Matthew, 320-321).
[6]
“In biblical times they were worn on the ordinary outer garment, as Jesus
himself did (9:20; 14:36); it is only in subsequent Judaism that the ṭallît, the fringed shawl worn
especially for prayer, has developed. The fringes too were intended as
spiritual visual aids (Num 15:39), but to increase their length was an obvious
way to draw people’s attention to one’s piety” (R.T. FRANCE, The
Gospel of Matthew, 862).
[7]
Remains of early Jewish synagogue buildings include some individual stone seats which presumably stood in front of the benches where other worshipers sat and
were for the leading members, among whom the scribes and Pharisees would expect
to be (Ibid.).
[8]
D.J. Harrington, The Gospel of Matthew, 321.
[9]
“Here we might have expected “fellow-disciples” as the correlative to
“teacher.” But “brothers and sisters” is apparently for Jesus a way of
expressing equality; it is not for
one brother to be set above the others” (R.T. FRANCE, The
Gospel of Matthew, 863).
[10]
Ibid.
[11]
W.D. DAVIES – D.C. ALLISON, A critical
and exegetical commentary on the Gospel according to Saint Matthew (ICC;
London – New York 2004) III, 278.
[12] “While he
criticizes the opponents of the Matthean community, he also offers advice to
Christians on how to behave in an appropriate way” (D.J. Harrington, The Gospel of Matthew, 320).
No comments:
Post a Comment