Bản văn và dịch sát nghĩa
Việt |
Hy Lạp |
14 “Hệt
như một người kia,
người đi xa, gọi các
đầy tớ
của mình đến và trao
phó cho họ tài sản của ông. 15
Ông đã trao cho người này năm nén bạc, người
kia hai nén, người khác nữa một nén, cho mỗi
người theo khả năng của mình, rồi ông ra đi.
Ngay lập tức, 16
người
lãnh năm nén bạc ra đi, đầu tư (làm việc)
với chúng và đạt được năm nén khác. 17
Tương tự, người đã lãnh hai nén cũng đạt được hai nén khác. 18
Nhưng người đã lãnh một nén, đi khỏi, đào đất và chôn giấu số bạc của chủ mình. 19
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy đến và tính chuyện với họ. 20
Và người đã lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác, nói rằng: ‘Thưa ông chủ, ngài đã trao phó cho tôi năm nén bạc, nhìn này! Năm nén khác, tôi đã đạt được’. 21
Ông chủ nói cùng người ấy rằng: ‘Làm
tốt lắm! Hỡi đầy tớ tốt lành và trung
tín, trên
những việc nhỏ, ngươi đã trung tín, trên những việc
lớn ta sẽ giao cho ngươi, hãy đi
vào trong niềm vui của ông chủ ngươi’. 22
Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: ‘Thưa ông
chủ, ngài đã trao phó cho tôi hai nén bạc; Nhìn này! Hai nén khác,
tôi đã đạt được’. 23
Ông chủ nói cùng người ấy rằng: ‘Làm
tốt lắm! Hỡi đầy tớ tốt lành và trung
tín, trên những việc nhỏ, ngươi đã trung tín, trên những việc
lớn ta sẽ giao cho ngươi, ngươi hãy đi vào trong
niềm vui của ông chủ ngươi’. 24
Nhưng người đã lãnh một nén bạc đến và
nói: ‘Thưa ông chủ, vì biết rằng ngài là một người hà khắc, gặt nơi không gieo và thu nơi không vãi: 25
nên tôi khiếp sợ, đi chôn giấu nén bạc của
ngài trong đất. Nhìn này! Ngài có cái của ngài’. 26
Ông chủ đáp trả người ấy rằng: ‘Hỡi đầy tớ xấu xa và lười biếng, ngươi đã biết rằng ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, 27
thì lẽ ra ngươi phải giao bạc của ta cho các chủ ngân
hàng, và khi ta đến, ta sẽ nhận cái của ta cùng với số lời. 28
Vậy, các ngươi hãy lấy nén bạc khỏi
nó và trao cho người có mười nén.
29
Vì người có tất cả, sẽ được
cho thêm và sẽ được dư đầy, nhưng kẻ không có, thì cái mà nó có, sẽ
bị lấy đi khỏi nó. 30
Còn người đầy tớ vô dụng, các
ngươi hãy ném nó
vào chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó nó
sẽ là kẻ khóc và kẻ nghiến răng’. |
14 Ὥσπερ
γὰρ ἄνθρωπος ἀποδημῶν ἐκάλεσεν τοὺς ἰδίους δούλους
καὶ παρέδωκεν αὐτοῖς τὰ ὑπάρχοντα αὐτοῦ, 15 καὶ ᾧ μὲν ἔδωκεν
πέντε τάλαντα, ᾧ δὲ δύο, ᾧ δὲ ἕν, ἑκάστῳ κατὰ τὴν ἰδίαν δύναμιν, καὶ ἀπεδήμησεν. εὐθέως 16 πορευθεὶς ὁ τὰ πέντε
τάλαντα λαβὼν ἠργάσατο ἐν αὐτοῖς καὶ ἐκέρδησεν ἄλλα πέντε· 17 ὡσαύτως ὁ
τὰ δύο ἐκέρδησεν ἄλλα δύο. 18 ὁ δὲ τὸ ἓν λαβὼν ἀπελθὼν ὤρυξεν γῆν καὶ ἔκρυψεν τὸ ἀργύριον τοῦ κυρίου αὐτοῦ. 19 Μετὰ δὲ πολὺν χρόνον ἔρχεται ὁ
κύριος τῶν δούλων ἐκείνων καὶ συναίρει λόγον μετ᾽ αὐτῶν. 20 καὶ προσελθὼν
ὁ τὰ πέντε τάλαντα λαβὼν προσήνεγκεν ἄλλα πέντε τάλαντα λέγων· κύριε, πέντε τάλαντά μοι παρέδωκας· ἴδε ἄλλα πέντε τάλαντα
ἐκέρδησα. 21 ἔφη αὐτῷ ὁ κύριος αὐτοῦ· εὖ, δοῦλε ἀγαθὲ καὶ πιστέ, ἐπὶ ὀλίγα ἦς πιστός, ἐπὶ πολλῶν
σε καταστήσω· εἴσελθε εἰς τὴν χαρὰν τοῦ κυρίου σου. 22 Προσελθὼν [δὲ] καὶ ὁ τὰ
δύο τάλαντα εἶπεν· κύριε, δύο τάλαντά μοι παρέδωκας· ἴδε ἄλλα δύο τάλαντα
ἐκέρδησα. 23 ἔφη αὐτῷ ὁ
κύριος αὐτοῦ· εὖ, δοῦλε ἀγαθὲ καὶ πιστέ,
ἐπὶ ὀλίγα ἦς πιστός, ἐπὶ πολλῶν σε καταστήσω· εἴσελθε εἰς τὴν χαρὰν τοῦ κυρίου σου. 24 Προσελθὼν δὲ καὶ ὁ τὸ
ἓν τάλαντον εἰληφὼς εἶπεν· κύριε, ἔγνων
σε ὅτι σκληρὸς εἶ ἄνθρωπος, θερίζων ὅπου οὐκ ἔσπειρας καὶ συνάγων ὅθεν οὐ
διεσκόρπισας, 25 καὶ φοβηθεὶς
ἀπελθὼν ἔκρυψα τὸ τάλαντόν σου ἐν τῇ γῇ· ἴδε ἔχεις
τὸ σόν. 26 Ἀποκριθεὶς δὲ ὁ κύριος αὐτοῦ εἶπεν
αὐτῷ· πονηρὲ δοῦλε καὶ ὀκνηρέ, ᾔδεις ὅτι θερίζω
ὅπου οὐκ ἔσπειρα καὶ συνάγω ὅθεν οὐ διεσκόρπισα; 27 ἔδει σε οὖν βαλεῖν τὰ ἀργύριά μου
τοῖς τραπεζίταις, καὶ ἐλθὼν ἐγὼ ἐκομισάμην ἂν τὸ ἐμὸν
σὺν τόκῳ. 28 ἄρατε οὖν ἀπ᾽ αὐτοῦ τὸ τάλαντον καὶ δότε τῷ ἔχοντι τὰ δέκα
τάλαντα· 29 Τῷ γὰρ ἔχοντι παντὶ δοθήσεται καὶ
περισσευθήσεται, τοῦ δὲ μὴ ἔχοντος καὶ ὃ ἔχει ἀρθήσεται ἀπ᾽ αὐτοῦ. 30 καὶ τὸν ἀχρεῖον
δοῦλον ἐκβάλετε εἰς τὸ σκότος τὸ ἐξώτερον· ἐκεῖ ἔσται ὁ κλαυθμὸς καὶ ὁ βρυγμὸς τῶν ὀδόντων. (Matt. 25:14-30 BGT) |
Bối
cảnh
Đoạn
Tin Mừng hôm nay nằm trong bối cảnh của Chúa Nhật áp cuối của năm Phụng Vụ A.
Tuần sau là Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ A, lễ Chúa Giêsu Kitô, vua vũ hoàn. Trong bối cảnh ấy chủ đề
phụng vụ dĩ nhiên là liên quan đến khoảnh khắc cuối cùng của mỗi con người. Hơn
ai hết, mỗi Kitô hữu ý thức rõ rằng mình là môn đệ của Chúa Giêsu và mình là
con Chúa và sẽ trở về với Chúa một khi chết đi. Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần
thông báo rằng Ngài sẽ trở lại (Mt 16,27; 25,31; Mc 8,31; Lc 9,26). Mỗi Chúa Nhật,
các tín hữu cũng tuyên xưng trong Kinh Tin Kính rằng: “Ngài sẽ trở lại trong
vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Tuyên xưng không ngừng như thế,
nhưng lời tuyên xưng ấy đôi khi trở thành thói quen hơn là một niềm xác tín.
Cho nên, tuyên xưng như thế nhưng các tín hữu đôi khi lại thiếu sức sống, thiếu
những hành động cụ thể hay những chuẩn bị cần thiết cho xác tín ấy. Đôi khi
gánh nặng cuộc sống thể lý, cơm áo gạo tiền, làm cho họ quên đi việc hiện thực
hóa cách sống động niềm tin này. Chính vì thế, phụng vụ Giáo Hội trong những tuần
cuối năm và đầu năm, khởi đầu bằng Chúa Nhật Mùa Vọng, luôn nhắc nhở con cái đức
tin, con cái ánh sáng về niềm xác tín về ngày trở lại của Chúa Giêsu trong vinh
quang.
Trong bối cảnh của Tin Mừng Mátthêu, Mt 25,14-30 tiếp theo dụ ngôn “mười cô
trinh nữ đi đón chàng rể” (Mt 25,1-13), và dụ ngôn “người tôi
tớ” (24, 45-51), là loạt 3 dụ ngôn nói về thời cánh chung, thời sau cùng của thế
giới, khi Đức Giêsu trở lại lần thứ hai, và cũng là lần cuối. Chủ đề của đoạn dụ
ngôn dĩ nhiên cũng như chủ đề Phụng Vụ, cũng nói về những vấn đề của thời sau hết
của nhân loại. Trong các tác giả sách Tin Mừng, chỉ có Luca chia sẻ dụ ngôn này giống như Mátthêu,
với nhiều chi tiết khác biệt sẽ nói sau.
Cấu
trúc
Bối Cảnh (4): Người đi
xa giao phó tài sản cho các đầy tớ Cách giao (15): Tùy
theo khả năng: Năm nén – hai nén – một nén Cách sử dụng
các nén bạc
(16-19): Người lãnh năm nén bạc, đầu
tư và đạt được năm nén khác Người đã lãnh hai nén, đạt được hai nén khác Người đã lãnh một nén, đi khỏi, đào đất và chôn giấu số bạc Nghiệm thu
giao phó
(19-30): Ông chủ các đầy tớ ấy đến và tính chuyện với họ Người đã lãnh năm nén: ‘Thưa ông chủ, … năm nén khác, tôi đã đạt được’ ‘Làm tốt lắm! Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, …hãy đi
vào trong niềm vui của ông chủ ngươi’ Người đã lãnh hai nén: ‘Thưa ông chủ, … hai nén khác, tôi đã đạt được’ ‘Làm tốt lắm! Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, …hãy đi
vào trong niềm vui của ông chủ ngươi’ Người đã lãnh một nén: ‘Thưa ông
chủ, ngài là một người hà khắc, …tôi khiếp sợ, đi chôn giấu nén bạc của ngài trong đất’. ‘Hỡi đầy tớ xấu
xa và lười biếng, …ngươi phải giao bạc của ta cho các chủ ngân
hàng, … nhận số lời Hãy lấy
nén bạc khỏi
nó và trao cho người có mười nén. Người đầy tớ vô dụng, … ném vào chỗ tối tăm bên ngoài, …
sẽ là kẻ khóc và kẻ nghiến răng’ |
So sánh Mt 25,14-30 và
Lc 19,12-27)
Có khác nhiều điểm khác biệt giữa hai bản văn của cả hai
tác giả tường thuật cùng một dụ ngôn.
Thứ nhất, Mátthêu bắt đầu bằng liên từ “γὰρ” (bởi vì) và
liên từ “Ωσπερ” (hệt như) cho thấy sự liên tục của dụ ngôn này với dụ ngôn “mười cô
trinh nữ đi đón chàng rể” ngay phía trước, với câu kết là: “Vì vậy, hãy coi chừng
vì các ngươi không biết ngày và giờ” (Mt 25,13). Câu kết này được Mátthêu viết
tiếp: “Vì
hệt như (Ωσπερ γὰρ), có người kia sắp đi xa liền gọi các đầy tớ của mình lại…”.
Câu khởi đầu này của Mátthêu cho thấy sự nối kết rất gần gũi giữa dụ ngôn này với
dụ ngôn “mười trinh nữ đi đón chàng rể” (Mt 25,1-13). Nó hoặc là minh họa cho dụ
ngôn, làm rõ thêm dụ ngôn trước đó, hoặc củng cố cho dụ ngôn trước đó.[1]
Bản dịch Anh ngữ
ESV còn dịch liên từ (γὰρ)
như là một liên từ chỉ sự kết quả (for): “vì thế” trong khi bản dịch Pháp Ngữ
(TOB), bản dịch Ý ngữ (CEI) và bản dịch Việt ngữ (CGKPV) đều dịch là “quả thế”
(infatti, En effet). Khác với Matthêu, Luca đặt dụ ngôn này (Lc 19,11-27) ngay sau tường thuật về việc Chúa Giêsu viếng
thăm nhà ông Dakêu. Và lý do mà Luca đưa ra, bối cảnh cụ thể mà Chúa Giêsu kể dụ ngôn này
là vì Chúa Giêsu lúc đó đang tiến gần đến Jêrusalem và nhiều người nghĩ rằng
Vương quốc Thiên Chúa sẽ đến ngay lập tức, nên “Chúa Giêsu mới kể cho họ nghe dụ
ngôn này” (Lc 19,11). Cũng nên nhắc lại rằng Tin Mừng Luca, tường thuật về chặng
đường đức Giêsu lên Jêrusalem dài nhất trong tất cả các sách
Tin Mừng. Thánh Luca dành đến mười
chương để tường thuật hành trình này (9,51 – 19, 44). Dụ ngôn mười nén bạc của
Luca được đặt ở giao điểm giữa đoạn cuối của cuộc hành trình này và tường thuật
về sự kiện Chúa Giêsu tiến vào Jêrusalem. Mátthêu đặt dụ ngôn này
vào trong loạt những bài giảng về thời cánh chung sau khi Ngài đã vào Jêrusalem
vinh quang.
Thứ hai, tác giả Mátthêu chỉ nói là “một người kia sắp đi
xa, liền gọi đầy tớ mình lại chia…”, không cụ thể là ai và đi đâu để làm gì. Trong khi đó Luca
xác định khá rõ địa vị của người này. Ông ta là một người đàn ông quý tộc (εὐγενὴς). Và lý do cũng rất cụ thể là ông này đi xa để lãnh nhận
vương quyền và sẽ trở về (Lc 19,12).
Thứ ba, trong Luca, số người mà ông ta gọi đến để trao nén bạc là mười đầy tớ
và số tiền mà ông đưa cho họ chung chung là mười người lãnh nhận mười mna
(μνᾶ).[2]
Nhưng sau đó, tác giả Luca
lại chỉ đề cập đến ba người báo cáo về số tiền mà chủ giao mà thôi. Người
thứ nhất đạt được mười minas và người thứ hai năm minas. Người thứ nhất được
khen là “làm tốt lắm, đầy tớ tốt lành, vì ngươi đã trung thành trong việc nhỏ,
hãy cai trị mười thành”.
Người thứ hai chỉ được bảo là “ngươi sẽ cai trị trên năm thành (Lc 19,15-19). Mátthêu xem ra chặt chẽ hơn khi nói rằng
ông chủ trao cho ba người đầy tớ mỗi người một số lượng khác nhau. Người
lãnh năm talanton[3]
người lãnh hai talanton và người khác nữa lãnh một talenton. Mátthêu còn nói rõ là mỗi người tùy theo
khả năng của họ, chứ không phải ai cũng như ai.
Thứ tư, theo tác giả Luca, ông này ra lệnh cho mười đầy tớ của mình là “hãy lấy
số tiền này đầu tư cho đến khi tôi trở về” (Lc 19,13). Tác giả Mátthêu không ghi lại mệnh lệnh này. Thay vào đó, ông cho
thấy hành động cụ thể của ba người đầy tớ. Trong đó, người thứ nhất đã lấy năm
talanton đi làm ăn kinh doanh ngay lập tức và đã sinh lời được năm talenton
khác. Người đã lãnh hai talanton cũng sinh lời được hai talanton khác. Còn người
thứ ba, người nhận một talanton thì đem đi đào đất và chôn giấu.
Thứ năm, phần thưởng mà ông chủ dành cho các đầy tớ biết
sinh lời cũng khác nhau giữa hai phiên bản của Luca và Mátthêu. Trong khi, các
đầy tớ của Luca được trao quyền lãnh đạo trên số thành tương ứng mới số mnas mà
họ sinh lời. Các đầy tớ của Mátthêu được lời hứa là sẽ được trao nhiều (vốn)
hơn và được mời gọi là hãy vào hưởng niềm vui của ông
chủ.
Thứ sáu, tác giả Luca tường thuật chi tiết những người công dân của ông
ghét ông nên sai một phái đoàn đến sau ông để nói rằng “chúng tôi không muốn rằng
ông này làm vua chúng tôi.” (Lc 19,14). Đây là chi tiết không hề tồn tại trong
tường thuật của Mátthêu. Chi tiết này cùng với chi tiết “người đàn ông quý phái
đi xa để lãnh nhận vương quyền” (Lc 19,11) và chi tiết “giết chết những người
dân” (Lc 19,27) theo trình thuật của thánh Luca được sử gia Josephus liên tưởng
đến sự kiện lịch sử liên quan đến Archelaus. Số là, sau khi vua Hêrôđê Cả băng
hà, Archelaus cùng đoàn tùy tùng của mình đã đến Roma để thuyết phục hoàng đế Kaisar chấp nhận cho ông ta làm kế thừa vua cha. Trong khi
đó một phái đoàn năm mươi người Do thái từ Israel, hợp với tám ngàn người Do
Thái tại Rôma,
đã đến trước Kaisar
để tranh luận nguy cơ làm vua của Archelaus. Theo những bản văn của Josephus,
Archelaus đã giết chết 3000 người Do Thái gây rối trước khi đến Roma
(Josephus, J.W. 2.1-38, 80-111; Ant. 17.208-49, 299-320).
Thứ bảy, Luca kết thúc dụ ngôn của mình với việc ông chủ
ra lệnh giết chết những kẻ không muốn
ông làm vua (Lc 19,27). Mátthêu kết thúc một cách hợp lý hơn: Người đầy tớ vô dụng đã bị tống ra ngoài nơi tối tăm, và ở đó anh
sẽ là người khóc lóc và nghiến
răng (Mt 25,30). Đây là kết luận mang tính cánh chung
trong các câu chuyện của Mátthêu.
Một vài điểm chú giải
1.
Người
kia đi xa (ἄνθρωπος ἀποδημῶν): Ý
tưởng một người kia (một ông chủ vắng mặt) trong dụ ngôn này nhằm làm nổi bật cốt
truyện trong đó trách nhiệm của người đầy tớ được đặt nặng. Rõ ràng Mátthêu
không muốn nói gì đến mục đích đi xa của ông này và thậm chí danh tánh, địa vị
của ông cũng không được đề cập đến. Chi tiết cần thiết nhất mà
độc giả cần biết đến là ông ta “đi xa” (apodemeo). Ông chủ đi xa có nghĩa là
trách nhiệm trông nhà, trông cửa thuộc về các đầy tớ. Và ông chủ vắng bóng càng
cho thấy mức độ trưởng thành và trung tín của một người đầy tớ. Có những người
đầy tớ chỉ trung thành giả tạo khi có mặt ông chủ. Còn những người đầy tớ đích
thực, thì họ tôn trọng chính bản thân và nhân phẩm đầy tớ của mình. Họ có lòng
tự trọng, và luôn có tinh thần trách nhiệm cao nhất dù có ông chủ ở đó hay
không. Người Việt nam có câu: “Chủ vắng nhà gà vọc niêu tôm/ gà mọc đuôi tôm”. Một khi chủ vắng mặt thì những cái xấu xa, tính
vô trách nhiệm của một đầy tớ rất dễ phơi bày. Mc
14,34-36 cũng nói đến một ông chủ đi xa và giao nhà, giao việc cho các đầy tớ,
mỗi người mỗi việc và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. Rõ ràng, chi tiết
một người kia đi xa rất quan trọng trong dụ ngôn này. Nó để lại không gian hành
động và trách nhiệm của các đầy tớ. Ông chủ của Mátthêu tín thác tài sản mình
trong tay các đầy tớ và chờ đợi một kết quả tích cực.
Ý tưởng “một người đi xa” xuất hiện trong câu chuyện cánh chung với nhiều hình ảnh
khác nhau: Ông chủ vắng mặt trong dụ
ngôn “người đầy tớ trung tín hay thất tín” (Mt 24,45-51; Lc 12,42-46); Chàng rể
trì hoãn đến (Mt 25,1-13); “Con Người đến trong vinh quang” (Mt 2531-46).
Mátthêu nhấn mạnh đến việc không ai biết ngày đến của Con Người (24,36.42.44.50;
25,13) và tác giả cũng làm nổi bật chủ đề “canh chừng, khôn ngoan và trung
thành”.
2.
Trao cho họ tài sản
của mình (τὰ ὑπάρχοντα). Danh từ
được dịch là tài sản trong dụ ngôn này cũng rất đáng chú ý. Trong ngôn ngữ gốc
Hy Lạp, đây là một động từ dạng phân từ
(participle), được dùng như một danh từ có mạo từ xác định đi trước. Nó phát xuất
từ động từ “ὑπάρχω” có nghĩa là tồn tại, hiện diện, là…giống như động từ
eimi. Như vậy, cái mà ông chủ trao cho đầy tớ có thể là một tài sản bình thường
như tiền bạc, đất đai, nhà cửa, nhưng cũng có thế quý giá hơn nữa, là chính bản
thân ông, chính sự hiện hữu, sự tồn tại của ông. Danh từ tài sản này gợi nhớ đến
Mt 24,7, nơi mà ông chủ cũng hứa trao toàn bộ tài sản của mình cho đầy tớ thông
minh và trung thành coi sóc. Trong câu chuyện của Tôbia, ông Tôbít để lại những
nén bạc cho Gabael ở Media và hai mươi năm sau, ông nói cùng con trai là Tôbia
về số tiền trao phó. Phần còn lại của cuốn sách là về hành trình của Tôbia để lấy
lại số tiền (Tb 1,14; 4,20-21; 5,3). Số tiền được trả lại với dấu đóng chứng tỏ
sự nguyên vẹn (Tb 9,5). Rõ ràng trong trường hợp này, đây là số tiền được trao
phó với mục đích giữ gìn chứ không phải đầu tư.[4]
3.
Trao
talenton… mỗi người theo khả năng của mình. Không biết ngẫu nhiên hay hữu ý, trong ngôn ngữ hiện đại
đơn vị tiền tệ này được dịch là talent (tiếng Anh, tiếng
Pháp), “talenta” (Latin), “talent” (Ý), cũng có nghĩa là tài năng tự nhiên.[5]
Có
thể diễn giải là ông chủ trao
tài năng
cho các đầy tớ… tùy theo khả năng
của mỗi người. Món quà tài năng
này được trao không phải như nhau cho tất cả mọi người nhưng mỗi người tùy theo
khả năng sử dụng nó để sinh lời. Thật hợp lý, khả năng mỗi con người không giống
nhau. Ông chủ chắc chắn biết rõ điều ấy và trao số lượng talanton đúng với khả
năng của mỗi người.[6] Nếu trao
thiếu thì người đầy tớ ấy không phát huy hết khả năng của mình. Còn nếu trao dư thì người đầy
tớ sẽ không dùng hết đâm ra uổng phí. Thánh Phaolô có những ý tưởng tương tự
như thế. Thư Rm
12,3-8 “nói về mức độ đức tin mà Chúa trao gửi cho anh ta” và “món quà khác
nhau theo ân sủng đã được ban cho chúng ta”. Ep 4,7-8 và 1 Pt 4,10 đề cập đến việc
khi mỗi người đã lãnh nhận một món quà, hãy tận dụng nó vì nhau, như là những
người phục vụ ân sủng muôn hình vạn trạng của Chúa”.
4.
Lập
tức… ra đi… làm việc… và đạt được (kiếm được). Ba động từ liên tục được sử dụng cùng với trạng từ chỉ mức
độ nhanh chóng, gấp rút, dồn dập của người đầy tớ thứ nhất, người được trao
năm nén, cho thấy sự nhiệt thành, trách nhiệm và chịu
thương chịu khó của người đầy tớ này.[7]
Trạng từ “tương tự như thế” (ὡσαύτως) đặt ngay trước biểu hiện của người đầy tớ thứ hai, người
nhận được hai talanton. Tuy tác giả không lặp lại những động từ dày đặc và trạng
từ chỉ tính gấp rút trong hành động của người thứ nhất nhưng trạng từ “tương tự
như thế” đã thay thế cho tất cả các cách diễn tả ấy. Nghĩa là cả hai người đầy
tớ này đều trung thành, trách nhiệm, nhiệt thành cách gấp rút, nhanh nhất có thể
để làm cho những talanton mà chủ ban cho mình được sinh lời gấp đôi. Và họ đã
thành công.
5.
Hành
động của người thứ ba, người đã nhận được một talenton. Liên từ “nhưng” (δὲ)
được đặt đầu câu báo hiệu một sự trái ngược giữa hành động của người thứ ba so
với hai người trước. Anh đi
khỏi, đào đất, chôn số bạc của chủ anh ta. Anh cũng có ba hành động
nhưng không được bắt đầu bằng trạng từ vội vã. Giả định rằng anh ta cứ bình
chân, không lấy gì làm vội vã trong các hành động của mình. Và những hành động
của anh ta đều mang tính tiêu cực. Đào đất và chôn bạc. Trong Luca, người đầy
tớ này giấu mina trong vải. Động
từ “đi khỏi, rời khỏi” (ἀπελθὼν),
khởi đầu cho loạt hành động của anh khác so với hành động “lên đường, đi tới” (πορευθεὶς)
của hai người trước đó. Chôn
giấu bạc dưới đất là một thói quen của người thời xưa. Nếu
anh ta đào đất
và chôn giấu số bạc của mình thì đó là chuyện bình thường. Ngạn ngữ
xưa có câu: “Tiền bạc chỉ được canh giữ bằng cách chôn dưới đất”. Theo như
Jeremias (Parables, 61), chôn tiền được xem như bảo đảm tốt nhất để chống trộm.
Ai chốn giấu tiền thì thoát khỏi trách nhiệm pháp lý, trong khi đó
ai gói tiền ký thác trong vải thì chịu trách nhiệm cho việc mất.[8]
Trong
Mt 13,44, Đức Giêsu đề cập đến một kho tàng được chôn trong ruộng, diễn tả một
truyền thống cất giấu tài sản của người xưa. Tuy nhiên, đây không phải số bạc được trao để cất
giữ.[9]
Rõ ràng là anh này không hiểu rõ ý chủ của mình. Nếu chủ đưa bạc cho anh chỉ để
cất giấu thì không cần chia talanton từng người tùy theo khả
năng của mình. Ông chủ chắc chắn cũng có kho để cất giấu tài sản của mình, không cần trao cho từng người đầy tớ mỗi người
một số lượng khác nhau như thế.
6.
Sau
một thời gian dài (πολὺν
χρόνον). Đây là kiểu nói thể hiện sự
trì hoãn, tương tự như chúng ta đã gặp trong những dụ ngôn trước Mt 24,48 và
25,5. Đây rất có thể là thời gian giữa lúc Chúa Giêsu lên trời và trở lại trong
vinh quang.[10] Nó kết
hợp
với hình ảnh “người đàn ông đi
xa” trong phần đầu tiên của dụ ngôn để làm thành một hành trình của người chủ: Ra đi và trở lại sau một thời gian dài. Đây là thời
gian có đủ để các đầy tớ sinh lời theo đúng khả năng và số vốn mà Chúa trao
phó.
7.
Đầy
tớ tốt lành và trung thành: Cả hai người đầy tớ đầu tiên cùng được ông chủ khen với
cùng những loại phẩm tính: “Tốt lành
và trung thành” (ἀγαθὲ καὶ πιστέ). Cả hai đều được khen là “làm tốt lắm” (εὖ).
Cả hai anh tốt lành và trung thành trong cách thức sinh lời gấp đôi, kịp lúc
trước khi chủ trở về. “Trung tín” là một phẩm tính của Thiên
Chúa (1 Cr 10,13; 2 Tx 3,3; 2 Tm 2,13; Hr 10,23; 11,11). Một mình Thiên Chúa là
Đấng “tốt lành” (Mt 19,17).
8.
Trên những việc nhỏ, ngươi trung
tín, trên những việc lớn, Ta sẽ trao trách nhiệm:
Cả hai người đầy tớ “người đạt được 5 nén khác” và “người đạt được hai nén
khác” đều được hứa hẹn về một trách nhiệm lớn hơn. Trách nhiệm này được dựa
trên sự “trung tín” (πιστός). Sự trung tín/ trung thành được
nhấn mạnh. Đức Giêsu đã từng nhận định rằng: “Ai trung tín trong việc nhỏ hơn,
thì trong việc lớn cũng trung tín; ai trong việc nhỏ hơn bất chính thì trong việc
lớn cũng bất chính” (Lc 16,10). Nhận định này được đặt trong bối cảnh cách thức
sử dụng tiền của bất chính. Người đạt được năm nén còn được trao thêm cho một
nén được lấy từ người “chôn giấu số bạc” của ông chủ (25,28). Trước đó, Đức
Giêsu cũng đề cập đến hình ảnh người “đầy tớ trung tín và khôn ngoan” (Mt
24,45). Đó là người “cấp phát lương thực đúng thời cho các tôi tớ” và được ông
chủ trao trách nhiệm trên tất cả tài sản của ông (24,47).
9.
Hãy vào trong niềm vui của chủ anh. Cùng với lời khen và lời hứa được giao nhiều hơn là một đối đãi hết sức hậu
hỷ: “Hãy vào trong niềm vui của ông chủ ngươi”. Đó có thể là lời mời gọi vào dự tiệc Mêsia trong thời cánh
chung.
Nên nhớ thân phận của họ là những đầy tớ. Được đi vào trong niềm vui của ông chủ
là một thay đổi về tình trạng, thân phận của họ.[11] Cũng như năm cô trinh nữ khôn ngoan, nhờ đã sẵn đèn dầu, được vào dự tiệc cưới với chàng rể, hai người đầy tớ tốt lành và trung thành cũng được vào hưởng niềm vui của chủ các
anh. Lời mời gọi này không có trong bản dụ ngôn của Luca. Bản tiếng Việt
(CGKPV), bản tiếng Pháp (TOB) và bản tiếng Ý (CEI) đều dịch có ý rằng “hãy vào
và hưởng niềm vui của chủ anh”. Trong khi đó bản nguyên ngữ tiếng Hy Lạp thì chỉ
nói là “hãy vào bên trong (εἰς, vào trong) niềm vui của chủ anh”. “Vào bên trong” có thể ngụ ý là chia sẻ chung niềm vui với chủ của anh. Anh được hòa vào trong
niềm vui của chủ anh, được chung phần với chủ. Đó là niềm vinh dự của người tôi
tớ vì tôi tớ thường dù có làm gì thì cũng là việc bổn phận. Từ đi vào (εἰσέρχομαι) cộng với giới từ bên trong (εἰς) được dùng ở đây
giống y chang như động từ và giới từ được dùng trong dụ ngôn mười người trinh nữ
cầm đèn đi đón chàng rể. Năm cô trinh nữ khôn ngoan, những người đã sẵn sàng di
vào bên trong phòng tiệc cùng với chàng rể (Mt 25,10). Đây là lối diễn tả chung cuộc của buổi tiệc cánh chung. Thuật
ngữ “niềm vui” torng tiếng Aram là thường có nghĩa là “bữa tiệc” hay “tiệc cưới”,
trong thế giới Hy Lạp “niềm vui” diễn tả “ăn tiệc” với ông chủ.[12]
Sự đi vào bên trong niềm vui của chủ không phải là trong
chốc lát nhưng là kéo dài vĩnh viễn. Có người bên trong được chung vui thì chắc
chắn cũng có những kẻ bên ngoài buồn bã. Đó là năm cô trinh nữ khờ dại hay là
người tôi tớ thứ ba trong dụ ngôn này.
10.
Người đầy tớ lười
biếng… xấu xa… và vô dụng. Anh đầy tớ này có một
lý giải khá suôn sẻ và hợp lý và không làm hao hụt số vốn mà chủ giao. Tuy vậy,
lối lý giải ấy không thuyết phục được ông chủ. Như đã nói trên, trong khi hai
người đầy tớ trước đã hiểu được ý chủ và dấn thân sinh lời gấp đôi ngay lập
tức, người đầy tớ này lừng khừng, không hiểu, và chỉ làm theo suy
nghĩ của anh. Đầy tớ thì phải làm theo ý chủ, đoán ý chủ mà làm. Đầy tớ này được
chủ kết luận là lười biếng[13],
bởi anh ta đã không làm gì trong suốt thời gian dài chủ đi vắng. Đối nghịch lại
với hai phẩm tính tốt mà ông chủ dành cho hai người tôi tớ trước (tốt lành và trung thành) là hai tật xấu dành cho người đầy tớ thứ
ba: Xấu xa và biếng nhác. Anh bị cho là xấu xa có thể là do anh đã
nghĩ sai về chủ của anh, hoặc anh đã lấy ý anh làm ý chủ. Còn có ý trách vì ông
chủ như thế nên anh ta làm như vậy. Vì ông chủ hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu
nơi không vãi nên anh ta mới đâm sợ và đi chôn giấu số bạc. Nói cách khác anh quy trách nhiệm cho lỗi lầm của anh là vì tính cách của chủ anh, chứ không phải do
anh lười biếng. Rõ ràng một đầy tớ không biết ý chủ, lấy ý mình làm ý chủ, lười
biếng, không làm gì trong suốt thời gian dài, là một đầy tớ vô dụng, hết xài. Nếu sự tốt lành
và trung thành của hai đầy tớ trước được đánh giá dựa trên số bạc mà họ đã đạt
được, thì sự xấu xa và lười biếng của người thứ ba được đánh giá dựa trên sự
không “đạt được” của anh.[14]
Người đầy tớ thứ ba không được ông chủ trao cho trách nhiệm trên “việc lớn hơn”
như hai đầy tớ trước, Hơn nữa, anh còn bị lấy đi số bạc được trao phó và nhất
là bị trừng phạt nghiêm khắc.
11.
“Hãy ném tên đầy tớ vô dụng ra bên ngoài
vào trong nơi tối tăm.”[15]
Trái ngược với số phận dành cho những đầy tớ tài giỏi và trung thành: Được mời
vào bên trong niềm vui của ông chủ, ngưới đầy tớ biếng nhác, xấu xa và vô dụng bị quăng vào nơi tối
tăm
bên ngoài. Như đã nói trên, có người bên trong thì sẽ có
kẻ bên ngoài.[16] Đó là cấu
trúc dụ ngôn của Mátthêu. Có năm cô trinh nữ khôn ngoan, thì có năm cô khờ dại. Những người vào bên trong được mời
“hãy vào”, trong
khi những người ra bên ngoài thì bị “quăng”. Quăng, ném là động
từ dành cho một sự vật chứ không dành cho một con người. Quăng, ném giả định một
sự túm lấy, trói lại rồi mới quăng đi. Anh ta vô dụng nên bị quăng đi như một đồ
vật phế thải. Những người tốt và trung thành thì
đi vào niềm vui của chủ, còn tên đầy tớ vô dụng thì đi vào nơi tối tăm. “Vào nơi
tối tăm bên ngoài” diễn tả sự phán xét chung cuộc.[17]
Hình phạt của tên đầy tớ vô dụng còn được diễn tả một cách chi tiết rùng rợn
hơn: Kẻ
khóc lóc và kẻ nghiến răng. Bản dịch Việt Ngữ (CGKPV) là: “Ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến
răng”. Cách dịch này diễn tả hành động nhưng không gột tả hết được ý nghĩa của
bản văn. Bản văn gốc Hy
Lạp không dùng động từ khóc lóc và nghiến răng mà dùng hẳn động
từ eimi (là) cùng với hai danh từ với mạo từ xác định: kẻ khóc lóc và kẻ nghiến
răng
(ὁ
κλαυθμὸς καὶ ὁ βρυγμὸς τῶν ὀδόντων). Anh ta sẽ biến thành kẻ khóc lóc và kẻ nghiến răng. Từ nay anh ta được gọi là
“kẻ khóc lóc” và “kẻ nghiến răng”. Cùng lúc anh ta làm hai hành động và không
phải một khoảng
thời gian nhất định, nhưng suốt đời. Nó bao trùm cả
số phận, tình trạng, cho suốt phần đời còn lại của anh. Cũng như thế, những đầy
tớ chung vui với chủ là vui suốt cả phần đời còn lại của họ. Đó là cách thức diễn
tả một tình trạng chung cuộc của thời cánh chung. Lối diễn tả hình phạt khóc
lóc và nghiến răng được Mátthêu sử dụng nhiều lần khác. Trong Mt 8,12 Đức Giêsu cảnh báo rằng thiên hạ sẽ từ đông tây đến dự tiệc với
Abraham, Isaac và Giacóp trong Nước Trời, còn con cái vương quốc thì bị quăng
ra ngoài nơi tối tăm và sẽ trở thành kẻ khóc lóc và kẻ nghiến răng. Luca không đề cập
đến hình phạt dành cho người thứ ba nhưng chỉ có lệnh “giết” dành cho các công
dân nổi loạn (19,27).
12.
“Người đã có tất cả thì sẽ được cho thêm và sẽ có dư tràn, còn kẻ không có
thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.”[18]
Đây là câu giải thích cho bối cảnh cụ thể, khi người đã có mười talanton đã được
cho thêm một talanton nữa. Điều này hiện thực hóa lời hứa của ông chủ ở 25,21
dành cho người đầy tớ tài giỏi và trung thành vì anh đã trung thành trên số ít
được giao. Nó
cũng lý giải cho việc người đầy tớ biếng nhác có ít nhất
(chỉ có một đồng), thì đã bị lấy đi. Tiếng Việt rất lợi thế trong việc truyền tải
hai động từ bị động trong câu này. Trong khi động từ cho thêm được dịch ở thể bị
động là “được cho thêm” với một ý nghĩa tích cực, động từ lấy đi, tước đi ở thể
bị động được dịch là “bị lấy mất” với ngụ ý rất tiêu cực. Cách dịch này trong tiêng Anh, tiếng Ý hay tiếng Pháp, không hề thấy rõ. Thể bị động trong các động từ
này được gọi là bị động thần linh. Có nghĩa là Chúa chính là tác nhân của các
hành động này. Chúa sẽ “ban thêm” cho kẻ đã có nhiều và Chúa sẽ “lấy đi” cái
đang có của kẻ có ít. Đó cũng là hình phạt dành cho những kẻ làm gương mù,
gương xấu và phá luật (Mt 13,12), rồi hình phạt dành cho kẻ đầy tớ xấu xa, chè
chén say sưa đánh đập tôi trai tớ gái (Mt 24,51). Luca cũng nói đến cùng hình
phạt dành cho quân làm điều bất chính (Lc 13,28).
Bình luận tổng quát
Dụ ngôn “những talanton” nằm trong loạt ba dụ ngôn nói về thời cánh chung của Mátthêu:
dụ ngôn “hai đầy tớ” (Mt 24,45-51); Dụ ngôn “mười
người trinh nữ đi đón chàng rể” (Mt 25,1-13); và dụ ngôn “những talanton” (Mt 25,14-30). Dụ ngôn “những
talanton” của Mátthêu có cấu kết chặt chẽ và mạch lạc hơn dụ ngôn
có cùng chủ đề của Lc 19,11-27. Dụ ngôn gồm có 3 phần. (1) Ông chủ đi xa và trao talanton (Mt 25,14-15);
(2) Hành động của ba người đầy tớ (25,16-18); (3) Báo cáo của ba đầy tớ, kéo theo phần thưởng và hình phạt (25,19-30). Việc
ông chủ đi xa diễn tả một khoảng
thời gian vắng bóng của ông chủ, đồng nghĩa với việc ông trao lại cho các đầy tớ
không gian và thời gian tự do thể hiện trách nhiệm của mình. Và khoảng thời
gian ông chủ đi vắng được diễn tả là rất lâu. Các đầy tớ được giả định có đủ thời
gian phát huy tài năng của mình. Hơn thế nữa, ông còn trao cho họ những
talanton phù hợp theo khả năng của mình. Ông biết rõ khả năng từng người và
trao đúng số lượng cần thiết, không hơn không kém. Người tôi tớ khôn ngoan, nhiệt
thành và trách nhiệm sẽ tận dụng thời gian ngay lập tức, nhanh nhất có thể để đầu
tư sinh lời. Quả thật, hai đầy tớ đầu tiên đã làm như thế và đã làm rất hiệu quả.
Mỗi người đều sinh lời được gấp đôi. Còn người đầy tớ thứ ba thì lười biếng, lừng
khừng, không muốn đầu tư, không muốn làm việc. Anh ta đã chôn dấu talanton của
chủ và dự định sẵn một phương án để đối phó với ông chủ. Mọi chuyện xảy ra đúng
như logic của nó. Những người nhiệt tâm và siêng năng đã được ông chủ khen thưởng
như những đầy tớ tài năng và trung thành. Ngoài những mỹ từ ca tụng đức hạnh
này, ông chủ còn hứa là sẽ trao thêm vốn liếng và cơ hội cho những đầy tớ này nữa.
Bằng chứng cụ thể là ông đã trao thêm cho người có mười talanton một nén nữa. Hơn
nữa họ còn được mời gọi cách long trọng là “vào niềm vui của chủ anh”. Đó là một
phần thưởng được đồng bàn, được chia sẻ được đồng hưởng niềm vui và sự sung túc
của chủ. Người tôi tớ thiếu nhiệt thành, lừng khừng bị mắng nhiếc bằng những từ
thậm tệ: xấu xa và biếng nhác. Anh bị tước lấy talenton mà anh đang có, bị công
bố là kẻ vô dụng, hết xài. Ngoài ra, anh còn bị tống ra ngoài nơi tối tăm. Hơn
nữa, anh phải trở thành người khóc lóc và nghiến răng trọn kiếp. Đức Giêsu sẽ
trở lại trong ngày tận thế. Khoảng thời gian trước khi Ngài trở lại được ví như
khoảng thời gian ông chủ vắng bóng, đi xa. Ngài trao cho mỗi tín hữu thời gian
và cơ hội để họ hoàn thiện đời mình. Cái mà Thiên Chúa trao cho mỗi người tín hữu,
những talanton mà người trao gửi vào tay từng người là chính sự sống, sự hiện hữu
của người. Ngài trao cho họ hình ảnh của Ngài, hơi thở của Ngài, cùng với những
ân sủng cần thiết để con người có thể trở nên hoàn thiện như chính chính Chúa
là Đấng hoàn thiện. Lời mời gọi nên hoàn thiện phải luôn được thể hiện ngay lập
tức, gấp rút và từng phút giây. Mỗi người không những phải tự sửa đổi nhưng
thói hư tật xấu nơi mình mà còn phải hướng đến kẻ khác với con tim yêu thương,
thể hiện bằng những hành động tử tế đối với đồng loại, đặc biệt là với những
người yếu đuối, nghèo hèn. Sự hoàn thiện bản thân của con người còn phải được
thể hiện qua thái độ sống trách nhiệm với vũ trụ, với thế giới, với tài nguyên
thiên nhiên và môi trường mà Thiên Chúa, Tạo Hóa đã ban tặng và trao cho mỗi
người trách nhiệm trông nom giữ gìn ngay từ khởi thủy. Lời mời gọi “hãy nên hoàn hảo như Cha anh em trên trời là đấng hoàn hảo” được thánh Mátthêu đặt vào cuối chương 5 (5,48). Đây là
chương đầu tiên của Bài Giảng Trên Núi (Mt 5 – 7). Và chương 5 được khởi đầu bằng tám mối
phúc thật, trong đó những lời chúc phúc được đảo ngược dành cho những kẻ khó
nghèo về tinh thần; những người hiền lành; những người sầu khổ; những người
khao khát sống cuộc đời công chính; những người thương xót người khác; những
người có trái tim tinh
tuyền; những người xây dựng hòa bình; những người bị
bách hại vì lẽ công chính. Và lời mời gọi khó khăn nhất cuối chương 5, cũng là
điều kiện để mỗi tín hữu chứng tỏ mình là con của Cha trên trời, là “hãy yêu mến
kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ anh em” (Mt 5,44-45). Đời người được
ví như thời gian ông chủ đi xa, như Thiên Chúa vắng bóng. Ngài nhường lại không
gian, thời gian và trao cho mỗi người những tài năng theo đúng khả năng của mỗi
người. Thời điểm ông chủ trở về, lúc Chúa đến, là giờ chết của mỗi người, hay
là ngày tận thế. Sự phán xét vào lúc ấy là chung cục không thể thay đổi gì nữa.
Người được mời gọi vào hưởng niềm vui của chủ và kẻ bị quăng ra ngoài nơi tối
tăm và trở thành kẻ khóc lóc và nghiến răng. Tất cả ranh giới này là vĩnh viễn.
Phụng vụ Lời Chúa vào cuối năm phụng vụ mời gọi mỗi người rà soát lại túi của
mình xem mình đã sinh lời được những gì và đánh mất những gì và cần phải làm thêm
gì nữa để hoàn thiện mỗi ngày. Chắc chắn rằng, lời mời gọi này, Chúa Giêsu đã mời
gọi hơn 2000 năm và còn mời gọi, nhắc nhở chúng ta mỗi ngày chứ không chỉ là cuối
năm phụng vụ. Vấn đề là các tín hữu của Ngài có để tâm và nhiệt tâm hay không
mà thôi.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch SVD
[1] “Hōsper
gar (“For it is just like,” v. 14) should not be understood so
that the parable is seen merely as an explanation of v. 13 and the idea of
being alert. More likely it illustrates the broader themes of the whole section,
as its parallels with 24:45-51 attest”
[K.R. Snodgrass, Stories with Intent.
A comprehensive Guide to the Parables of Jesus (Grand Rapids 2018) 404]; “Its
sequel lacks that specific identification, but the opening phrase, hōsper gar, literally “for just as”,
indicates that the same subject is under discussion” [R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew (NICNT; Grand
Rapids 2007) 953].
[2] Mna (μνᾶ,
μνᾶς) là một đơn vị tiền tệ trong tiếng Hy Lạp. Theo Friberg,
nó có giá trị tương đương 60 drachmas, hay là 1/60 talenton. Trong Tân Ước, nó
có giá trị tương đương với 100 shekels. Danker còn nói thêm là nó có thể mua được
20-100 con bò tùy theo thời giá.
[3] Khác với Luca, Mátthêu dùng đơn vị talenton (τάλαντον). Theo Friberg thì một talenton có giá trị cân nặng bằng 26-28 kilogram
hay tương đương với 3000 shekels Do thái. 5 talenton xấp xỉ bằng 30.000 đồng Rôma. 2 talenton, xấp xỉ 12.000 đồng Rôma.
[4] K.R. Snodgrass, Stories with Intent, 400.
[5] “The definition we know of “talent” referring to human
ability was derived from this parable, and, even though people interpreted
“talent” in connection with ability much earlier, this use of the word did not
emerge until the fifteenth century. For modern readers this meaning is at least
distracting and potentially misleading. A talent in the ancient world was a
monetary weight of approximately 60 to 90 pounds depending on the metal in
question, the value of a talent was equivalent to 6000 days’ wages for a day
laborer (roughly twenty years’ work), so the man given five talents was given
an enormous sum” (K.R.
Snodgrass, Stories with Intent, 405).
[6] “Because Luke’s figures for the
money are probably more accurate and he says that each received the same
amount, Matthew may here make a special point in noting that the master gave
“each according to his ability”—he already knew which slaves would be most
industrious, but expected all to show some
industry” [C.S. KEENER, The Gospel of
Matthew. A Socio-Rhetorical Commentary (Grand Rapids – Cambridge) 600]; “The
principle of different levels of responsibility depending on the slaves’
individual ability hints at the parable’s intended application” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 953).
[7] “The first slave’s eagerness—he
“went straight off and …” (see p. 933, n. 19)—is a model for enthusiastic
discipleship. He and his first colleague achieve spectacular results (100%
profit), but clearly there was a risk involved, which their other colleague was
unwilling to face” (R.T. FRANCE, The
Gospel of Matthew, 954).
[9] “In that case, burying the money is appropriate, but the
money in the parable is not left for safekeeping. The assumption, which all
would recognize, is that the servants are to use the money to create profit, or
“to each according to his ability” in Matt 25:15 would make no sense. Other
options with regard to the third servant will be treated below. Luke 19:13b
only makes explicit what everyone would assume” (K.R. Snodgrass, Stories with Intent, 408).
[10] This warning applies to all
disciples, but perhaps most severely to church leaders: “A Christian leader who
does not lead is damned” (Meier 1980: 300). That the householder is on a
journey and will return unexpectedly may imply a possible “delay” of the
parousia, although it is clearer in Luke (“far” country—Lk 19:12). “Settling
accounts” again becomes a figure for the time of judgment (cf 18:23) (C.S. KEENER,
The Gospel of Matthew, 600); R.T. FRANCE,
The Gospel of Matthew, 954.
[11] “But along with the added
responsibility goes a significant change of status, the new relationship of
sharing the master’s happiness” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 955).
[12] “Although Matthew may know that
the Aramaic word translated into Greek as “joy” can also mean “feast” or
“wedding feast” (Jeremias 1972: 60n.42; Gundry 1982: 506), purely Greek-speaking
readers would lose very little: the term “joy” can connote banqueting with the
master (cf. 25:10), and the context of the preceding parable supports this
interpretation” (C.S. KEENER, The Gospel
of Matthew, 600).
[13] ὀκνηρός tính từ này thường được dịch là lười biếng
(CGKPV) nhưng nó cũng có một nghĩa khác đó là chần chừ, do dự, ngại, sợ. Cách
hiểu này xem ra hợp lý hơn theo cách ngụy biện của tên đầy tớ này. Nhưng nó lại
không đúng với sự thật là anh ta biếng nhác.
[14] “Temples, including the
Jerusalem temple, functioned as banks, and moneylenders were also
common elsewhere in the Gentile world. Most people lacked capital, but those
who had it could multiply their investment fivefold or even tenfold (Lk
19:16–18); doubling one’s investment (Mt 25:20, 22) might be regarded as a
reasonable minimum return to expect in the ancient economy (Derrett 1970: 24,
though citing here Hammurabi; cf. Hock 1988: 140)” (C.S. KEENER, The Gospel of Matthew, 601).
[15] “Casting into outer darkness is mentioned elsewhere only in
Matt 8:12 and 22:13 and means separation from everything good, specifically God” (K.R.
Snodgrass, Stories with Intent,
410-411).
[16] “There is thus a fundamental
division between good and bad disciples, between the saved and the lost, and
the language of ultimate judgment is deployed again to warn the reader to take
the parable’s message seriously. What ultimately condemned this disciple, and
made him unready to meet his Lord at the parousia,
was the fact that he had proved to be “useless” for the kingdom of heaven” (R.T.
FRANCE, The Gospel of Matthew,
566-567).
[17] D. J. Harington, The Gospel of Matthew, 353.
[18] “the same proverbial saying
which was used of the progressive enlightenment of the disciples in 13:12 (see
comments there) now underlines the theme that success breeds further success,
while failure is further compounded” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 956).
No comments:
Post a Comment