KHÔN NGOAN VÀ KHỜ DẠI. Chú Giải Tin Mừng CN XXXII TN A (Mt 25,1-13); Lm. Jos. PH.D. THẠCH, SVD
Bản văn và dịch sát nghĩa
Việt |
Hy Lạp |
1 Nước Trời giống như mười trinh nữ,
những người cầm đèn của mình đi đón chàng rể. 2 Năm trong số họ thì khờ dại, và năm khôn ngoan.[1] 3 Những người khờ dại mang đèn của họ không mang theo dầu với họ. 4 Những người khôn ngoan mang theo dầu
trong bình cùng với đèn của họ. 5 Vì chàng rể trì hoãn, nên tất cả buồn ngủ và ngủ. 6 Có tiếng hô to vào giữa đêm: Kìa chàng rể, hãy
đi ra đón chàng. 7 Tất cả các trinh nữ đều được đánh thức và họ chuẩn bị
đèn của mình. 8 Những cô khờ dại nói cùng những cô khôn ngoan: Hãy cho chúng tôi từ dầu của
các chị vì đèn của chúng tôi đã bị tắt. 9 Những cô khôn ngoan đáp trả rằng: Chắc chắn không đủ cho chúng tôi và các chị, tốt
hơn, hãy đi đến nơi bán và hãy mua cho mình. 10 Đang khi họ khởi hành đi mua, thì chàng rể đến,
và những người đã chuẩn bị đi vào tiệc cưới với
chàng. Và cánh cửa được đóng lại. 11 Lúc sau những trinh nữ còn lại đến nói rằng : “Chúa ơi, Chúa ơi! Hãy mở cửa cho chúng tôi”. 12 Ông ta đáp trả rằng: Tôi nói thật với các ngươi, Tôi không biết các ngươi. 13 Hãy canh thức vì anh em không biết, ngày nào và giờ nào. |
1 Τότε ὁμοιωθήσεται ἡ βασιλεία
τῶν οὐρανῶν δέκα παρθένοις, αἵτινες λαβοῦσαι τὰς λαμπάδας ἑαυτῶν ἐξῆλθον εἰς ὑπάντησιν τοῦ νυμφίου. 2 πέντε δὲ ἐξ αὐτῶν
ἦσαν μωραὶ καὶ πέντε
φρόνιμοι. 3 αἱ γὰρ μωραὶ λαβοῦσαι τὰς λαμπάδας αὐτῶν οὐκ ἔλαβον μεθ᾽ ἑαυτῶν
ἔλαιον. 4 αἱ δὲ φρόνιμοι ἔλαβον ἔλαιον ἐν τοῖς ἀγγείοις μετὰ τῶν
λαμπάδων ἑαυτῶν. 5 χρονίζοντος δὲ τοῦ νυμφίου ἐνύσταξαν πᾶσαι καὶ ἐκάθευδον. 6 μέσης δὲ νυκτὸς κραυγὴ γέγονεν· ἰδοὺ ὁ νυμφίος,
ἐξέρχεσθε εἰς ἀπάντησιν [αὐτοῦ]. 7 τότε ἠγέρθησαν πᾶσαι
αἱ παρθένοι ἐκεῖναι καὶ ἐκόσμησαν τὰς
λαμπάδας ἑαυτῶν. 8 αἱ δὲ μωραὶ ταῖς φρονίμοις εἶπαν·
δότε ἡμῖν ἐκ τοῦ ἐλαίου ὑμῶν, ὅτι αἱ λαμπάδες ἡμῶν σβέννυνται. 9 ἀπεκρίθησαν δὲ αἱ φρόνιμοι
λέγουσαι· μήποτε οὐ μὴ ἀρκέσῃ ἡμῖν καὶ ὑμῖν·
πορεύεσθε μᾶλλον πρὸς τοὺς πωλοῦντας καὶ ἀγοράσατε ἑαυταῖς. 10 ἀπερχομένων δὲ αὐτῶν ἀγοράσαι ἦλθεν ὁ νυμφίος, καὶ αἱ ἕτοιμοι εἰσῆλθον μετ᾽ αὐτοῦ εἰς τοὺς γάμους καὶ ἐκλείσθη ἡ θύρα. 11 ὕστερον δὲ ἔρχονται καὶ αἱ λοιπαὶ παρθένοι λέγουσαι· κύριε κύριε, ἄνοιξον ἡμῖν. 12 ὁ δὲ ἀποκριθεὶς εἶπεν· ἀμὴν λέγω ὑμῖν, οὐκ οἶδα ὑμᾶς. 13 Γρηγορεῖτε οὖν, ὅτι οὐκ οἴδατε τὴν ἡμέραν οὐδὲ τὴν ὥραν.
(Matt. 25:1-13 BGT) |
Bối cảnh: Mt 25,
1-13 nằm trong loạt bài giảng về cánh chung (Mt 24 – 25), cũng là bài giảng cuối
cùng của Đức Giêsu theo bố trí của tác giả Mátthêu. Mệnh lệnh “hãy canh thức”
vào cuối dụ ngôn này là mệnh lệnh chính yếu cho thái độ của các tín hữu trong
ngày cánh chung. Mệnh lệnh này đã được nhắc đến trong Mt 24,42. Trước dụ ngôn
này là dụ ngôn “người đầy tớ trung tín” (Mt 24,45-51), mô tả thái độ và hành động
của một người đầy tớ trung
tín và khôn ngoan. Trong dụ ngôn “mười người phụ dâu”, yếu tố khôn ngoan và sẵn
sàng cũng được nhấn mạnh. Sau dụ ngôn “mười người phụ dâu” là hai dụ ngôn “những
yến bạc” (Mt 25,14-30) và “cuộc phán xét chung” (Mt 25,31-46). Câu chuyện “mười
trinh nữ” là dữ liệu riêng của tác giả Mátthêu. Nó nối kết với dụ ngôn “tiệc cưới
của con trai nhà vua” (Mt 22,1-14; Lc 14,15-24) vời cùng chủ đề tiệc cưới.
Cấu trúc
Câu chuyện được
cấu trúc dựa trên ba nhóm nhân vật: Chàng rể (xanh lá);
năm trinh nữ khờ dại (màu đỏ) và năm trinh nữ khôn ngoan (xanh biển). Chàng rể là nhân vật chủ chốt của câu chuyện, nhưng hai nhóm nhân vật hoạt động
chính lại là nhóm trinh nữ khờ dại và trinh nữ khôn ngoan. Danh xưng không ngoan, kéo theo hành động
khôn ngoan, trở thành người chuẩn bị, và cuối cùng đi vào tiệc cưới cùng chàng
rể. Ngược lại, đặc tính khờ dại, kéo theo hành
động khờ dại, trở thành người thiếu chuẩn bị, cuối cùng bị khóa bên ngoài cửa.
Dẫn nhập (c.1): Nước trời giống
như mười trinh nữ đi đón chàng rể Năm cô khờ dại, và năm khôn ngoan (c.2) Những cô khờ dại mang đèn không mang
theo dầu (c.3) Những cô khôn ngoan mang theo dầu
trong bình cùng với đèn (c.4) Tất cả đều buồn ngủ và ngủ
(c.5) Nửa đêm có tiếng hô to:
Kìa chàng rể, hãy đi ra đón chàng (c.6). Tất cả các trinh nữ đều được
đánh thức và chuẩn bị đèn (c.7) Những cô khờ dại: Hãy cho chúng tôi từ
dầu của các chị (c.8) Những cô khôn ngoan: Chắc chắn không
đủ cho chúng tôi và các chị (c.9) Đang khi họ đi mua, chàng rể đến (c.10a) Những người đã chuẩn bị đi vào tiệc cưới – cánh cửa được đóng lại (10b) Những trinh nữ còn lại: “Chúa ơi, Chúa ơi! Hãy mở cửa cho chúng tôi” (c.11) Tôi nói thật với các ngươi, Tôi
không biết các ngươi (c.12) Kết Luận: Hãy canh thức vì anh em
không biết, ngày nào và giờ nào (c.13) |
Một số điểm chú giải:
1.
Chàng rể: Đức Giêsu được mô tả như chàng rể cả
trong truyền thống Nhất Lãm và truyền thống Gioan. Trong câu chuyện tranh luận
về việc cần thiết phải ăn chay, Đức Giêsu đã ví mình như chàng rể: “Chẳng lẽ khách
dự tiệc cưới lại có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày
chàng rể bị mang đi, bấy giờ họ mới ăn chay” (Mt 9,15; Mc 2,19-20; Lc 5,34-35).
Ông Gioan Tẩy giả mô tả Đức Giêsu như chàng rể: “Ai cưới cô dâu, người ấy là
chú rể, còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, vui mừng hớn hở vì được
nghe tiếng của chàng” Ga 3,29). Sách Khải Huyền nhắc đến tiệc cưới cuối cùng
như là “tiệc cưới của Con Chiên” và ai được tham dự tiệc cưới này là một phúc
lành (Kh 19,9). Trong dụ ngôn này, chỉ một mình chàng rể được đề cập mà không
có cô dâu. Có thể đó là một ngụ ý về Đức Giêsu. Tác giả Mátthêu cũng nhắc đến một
tiệc cưới trong Nước Trời (Mt 8,11). Ngài không có cô dâu như một đám cưới bình
thường trong nhân loại. Hơn nữa, cuối cùng chàng rể được gọi bằng danh xưng “Chúa/
chủ” khác lạ lùng, rất có thể là cách dùng ám chỉ Đức Giêsu trong ngày cánh
chung.[2]
2.
Cảnh chờ gặp chàng rể: Đám cưới
theo phong tục Do Thái gồm có hai giai đoạn. Giai đoạn một, tạm gọi là đính
hôn. Là một cam kết hôn nhân được cha mẹ đôi bên sắp xếp. Dù là giai đoạn đính
hôn, họ đã
chính thức là vợ chồng về mặt luật pháp, và nếu người chồng bỏ vợ phải có một
giấy li dị. Đó là trường hợp của Giuse và Maria (Mt 1,18-19). Giai đoạn hai, là
đám cưới, gồm có nghi lễ và tiệc cưới, thường kéo dài bảy ngày. Sau tiệc cưới cặp
vợ chồng mới chính thức về chung sống với nhau trong một nhà. Thời cổ đại trong
văn hoá Do Thái người ta cưới chồng khá sớm. Con gái vào khoảng 12, 13 tuổi,
còn con trai vào khoảng 18 tuổi. Lễ cưới (giai đoạn hai) có thể bao gồm lễ hội
đón rước trước. Trong lễ hội đón rước có phần đón rước của cô dâu và các phụ
dâu (Tv 45,13-15; 1 Mcb 9,37) và đón rước của chú rể và những phụ rể (1 Mc 9,39;
cf. Mt 9,15, nơi mà những người con của chú rể là những phụ rể, οἱ
υἱοὶ τοῦ νυμφῶνος). Tiệc cưới thường được tổ chức tại nhà của ba mẹ chú rể
như trong dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-14; cf. Lc 14,16-24). Cảnh được mô tả
trong dụ ngôn tiệc cưới này có thể là cảnh chờ chàng rể đến và đi vào phòng tiệc
cưới. Có thể chàng rể trước đó đã đi đón cô dâu ở nhà cha mẹ cô dâu, như là
nghi thức rước dâu thường thấy trong đám cưới hiện đại. Những cô hầu gái đứng
trước phòng tiệc cưới tại nhà của cha mẹ chú rể để làm đoàn rước chú rể đi đón
dâu về vào phòng tiệc. Cô dâu
không hề được nhắc đến, vì chú rể là trung tâm và những người phụ dâu, là những người
đáng chú ý trong dụ ngôn này.[3] Có tác giả cho rằng không thể xác định
được nơi mà các trinh nữ đang chờ là nhà cô dâu hay nhà chú rể.[4] Điều
chính yếu ở đây là có cảnh chờ đợi và yếu tố sẵn sàng thể hiện qua việc có chiếc
đèn còn sáng.[5]
Cảnh đón
chàng rể này có thể có bối cảnh trong “Bài ca mừng hôn lễ quân vương”:
“Thiếu nữ thành Tia mang lễ tới, phú hào trong xứ đến cầu ân.
Đẹp lộng lẫy, này đây công chúa, mặc xiêm y dệt gấm thêu
vàng,
Phục sức huy hoàng, được dẫn tới Quân Vương, cùng các trinh nữ
theo sau hầu cận.
Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận
hoàng cung” (Tv 45,13-16).
3.
Tính từ khôn ngoan
(phronimos Mt 24,45; 25,2.4.8.9). Mátthêu dùng tính từ này nhiều hơn bất kỳ
tác giả sách Tân Ước nào. Mátthêu dùng đến 7 lần trong khi Luca dùng có 2 lần (Lc
12,42; 16,8) và cả Máccô và Gioan đều không dùng lần nào. Nó được dùng 5 lần
trong các thư của thánh Phaolô (Rm 11,25; 12,26; 1 Cr 4,10; 10,15; 2Cr 11,19). Tính từ
khôn ngoan được dùng đến 4 lần trong dụ ngôn này. Lần đầu tiên nó đi kèm với
danh từ số năm (năm người khôn ngoan), 3 lần sau được dùng như là những danh từ
với mạo từ xác định chỉ những kẻ khôn ngoan (những trinh nữ khôn ngoan). Ngoài
dụ ngôn này, Mátthêu còn dùng tính từ này 3 lần khác nữa. (1) Mt 7,24 so sánh một
người nghe lời Đức Giêsu và đem ra thực hành với một người khôn ngoan xây nhà
trên đá. Nhờ vậy, ngôi nhà được chắc chắn dù cho mưa, gió, lũ cũng không thể giật
sập được. Sự khôn ngoan của người biết nghe và thực hành Tin Mừng của Chúa. (2)
Trong Mt 10,16 Đức Giêsu dạy các môn đệ là Ngài sai các môn đệ như chiên đi vào
giữa bầy sói, cho nên các ông phải “khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ
câu”. Đó là sự khôn ngoan để phản ứng, cư xử trước những kẻ bắt bớ. (3) Mt 24,45 nói đến hai hình ảnh của hai người đầy tớ và số phận của
họ. Một người thì khôn ngoan và trung tín. Anh ta sẽ được ông chủ đặt lên coi
sóc mọi việc, mọi gia nhân trong nhà. Người kia thì xấu xa và sẽ bị ông chủ
phanh thây, quăng vào chung với những kẻ giả hình. Ở đó anh ta phải khóc lóc và
nghiến răng. Tính từ khôn ngoan rõ ràng là tính từ có tính quyết định trong dụ
ngôn này. Sự khôn ngoan của các trinh nữ ở đây được cụ thể hóa bằng việc chuẩn
bị thêm một bình dầu. Người khôn ngoan và cẩn thận luôn luôn dự trù mọi phương
án xấu nhất có thể và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ.
4.
Tính từ khờ dại, ngu ngốc
(moros). Tính từ này được thánh Mátthêu sử dụng ít hơn (6 lần) so với tính từ
khôn ngoan (7 lần). Ngoài 3 lần trong dụ ngôn này (ít hơn khôn ngoan 1 lần), Mátthêu
cũng sử dụng tính từ này thêm 3 lần nữa. Trong Mt 5,22 “sự ngu ngốc” được xem
như là hình thức chống lại người khác ở mức độ nghiêm trọng nhất (Đức Giêsu liệt
kê theo thứ tự 1. Ai giận anh em mình… 2. Ai mắng chửi anh em mình… 3. Ai nói (với
anh em mình) là “đồ ngốc”). Hình phạt dành cho kẻ mắng anh em mình là “đồ ngốc”
cũng là hình phạt cao nhất: “Đáng bị lửa
hỏa ngục thiêu đốt” trong khi hình phạt dành cho hai sự xúc phạm đầu tiên lần
lượt chỉ là: “đáng bị xét xử” và “đáng bị đưa ra tòa”. Trong Mt 7,26 đối lại với
những người nghe lời Đức Giêsu và đem ra thực hành - những người được ví như
người khôn xây nhà trên đá - những kẻ nghe lời Đức Giêsu nhưng không đem ra thực
hành thì được ví như người ngu dại xây nhà trên cát. Nhà của họ sẽ bị sụp đổ
tan tành trước những trận mưa, lũ và gió bão. Trong Mt 23,17 Đức Giêsu dùng
tính từ này cùng với tính từ mù quáng để lên án những Kinh Sư và người Pharisêu,
là những kẻ dẫn đường mù quáng, vì họ cho rằng người ta có thể thề bằng đền thờ
mà không bị trói buộc, trong khi thờ bằng vàng trong đền thờ thì bị trói buộc. Đức
Giêsu cho rằng vàng trong đền thờ thì không quan trọng bằng đền thờ là nơi làm
cho vàng được thánh hiến.
Trong dụ ngôn này, đặc tính
“ngu ngốc” được thể hiện ở chỗ “mang đèn, mà không mang theo dầu”. Thế giới
hiện đại, pin dự phòng là một trong những phương tiện không thể thiếu trong những
chuyến đi xa. Sự khôn ngoan, chuẩn bị giúp cho đương sự không phải bị động,
lúng túng và nhiều khi bế tắc trong nhiều tình huống cấp bách. Tình huống
lúng túng, bị động, phụ thuộc vào người khác của các cô trinh nữ khờ dại trong
dụ ngôn này là một ví dụ điển hình. Người ta có thể vay mượn từ người khác, hoặc
xin xỏ từ người khác, nhưng người khác không bị bắt buộc phải giúp bất cứ ai hỏi
xin mình. Trong trường hợp này những trinh nữ khôn ngoan đã trả lời là “không đủ
cho cả các chị và cả chúng em”. Những cô trinh nữ khờ dại trở nên lúng túng bị
động vì họ đã không chuẩn bị. Họ có thể đi mua, và thực tế họ đã đi mua, và mua
được dầu nhưng có mua được cũng không có tác dụng gì nữa. Chàng rể đã vào phòng
tiệc cưới và cửa đã đóng lại. Nhiệm vụ đi đón chàng rể của họ đã thất bại thảm
hại. Họ phải đón chàng rể chứ không phải chàng rể đón họ. Khi chàng rể vào tiệc cưới rồi thì đèn đầy dầu vừa được mua thêm không
còn tác dụng nữa.
5.
Tính từ sẵn sàng
(hetoimos 24,44; 25,10). Đây là một tính từ đặc trưng của Tin Mừng Mátthêu.
Tính từ này có nghĩa là được chuẩn bị, hay là sẵn sàng. Trong bối cảnh này nó
được dùng như danh từ có mạo từ xác định: Những kẻ đã chuẩn bị, những kẻ đã sẵn
sàng, theo chàng rể vào tiệc cưới. Tính từ này xuất hiện 3 lần khác nữa trong
Tin Mừng Mátthêu. Trong một dụ ngôn về Nước Trời cũng liên quan đến tiệc cưới
(22, 4.8), tiệc cưới, cỗ bàn được ông chủ thông báo với thực khách là đã “được
chuẩn bị”, “đã sẵn sàng”, nhưng nhiều thực khách đã không sẵn lòng đến dự. Mt
24,44 là một lời mời gọi mang tính cảnh báo “hãy sẵn sàng” vì Con Người sẽ đến vào ngày
và giờ chúng ta không ngờ. Những người sẵn sàng trong dụ ngôn này đồng hóa với những người “những
trinh nữ khôn ngoan” họ đã mang theo dầu trong bình, đã thức dậy và chuẩn bị
đèn khi nghe tiếng hô.[6]
6.
Động từ trì hoãn (chronizo)[7] được
dùng hai lần trong Tin Mừng Mátthêu (Mt 24,48; 25,5). Mt 24,48 nói đến việc người
đầy tớ có suy nghĩ rằng chủ anh ta trì hoãn, chưa đến, nên anh ta cứ mặc sức
đánh đập các đầy tớ đồng môn và ăn uống say xỉn. Chàng rể trong dụ ngôn này cũng trì hoãn,
không đến đúng giờ nên các trinh nữ mệt và ngủ thiếp đi. Hành động trì hoãn này có hai tác dụng: (1) Tính bất ngờ và (2) Cơ
hội để kiểm chứng sự tốt xấu của các đầy tớ (hay là các trinh nữ trong dụ ngôn
này) qua sự chuẩn bị chu đáo và sẵn sàng của họ. Động từ này rất quen thuộc với
những ai di chuyển bằng tàu hay máy bay trong thời hiện đại. “Delay” (trì hoãn)
là điều chẳng ai muốn nhưng hành khách chẳng thể làm được gì ngoài việc sẵn
sàng và chờ đợi.[8]
7.
Kiểu mẫu hai nhóm người: Trong
Tin Mừng Mátthêu, người ta thường
thấy kiểu kể chuyện đặt song hành hai nhóm người. Nhóm này khôn – nhóm kia dại,
nhóm này sẵn sàng – nhóm kia không, nhóm này vào – nhóm kia ở ngoài, nhóm này bị
chối từ – nhóm kia được đón nhận, nhóm này chung vui – nhóm kia buồn bã, thất vọng.
Mt 7,13-20 cũng nói đến hai nhóm: Nhóm này chọn cửa rộng – nhóm kia chọn cửa hẹp;
dẫn đến nhóm này được cứu và nhóm kia bị diệt vong; một nhóm cây tốt sinh quả tốt và
nhóm cây xấu sinh quả sâu. Đặc biệt Mt 7,24-27 nói đến việc một nhóm người nghe
và thực hành lời Chúa, được ví như người khôn xây nhà trên đá và dù cho mưa,
lũ, gió cũng không làm sập được; nhóm khác nghe lời Đức Giêsu mà không thực
hành thì giống như người ngu xây nhà trên cát, khi mưa, lũ, gió đến nó sẽ sụp đổ
tan tành. Mt 22,1-14 nói
đến hai nhóm khách được mời đến dự tiệc cưới con trai của nhà vua. Nhóm được ưu
tiên mời trước lại là nhóm không được dự tiệc cưới, trong khi đó nhóm được mời
bất ngờ lại có cơ hội được chung vui tiệc cưới. Mt 24,45-51 nói
đến hai đầy tớ, một đầy tớ trung thành và khôn ngoan người sẽ được ông chủ đặt
lên coi sóc mọi việc trong nhà và một đầy tớ xấu, sẽ bị ông chủ phanh thây, quẳng
vào với những tên giả hình và nơi đó anh ta phải khóc lóc nghiến răng. Mt
24,40-41 nhấn mạnh đến việc một người được đem đi còn người kia bị bỏ lại. Cấu trúc diễn ta
hai nhóm người rất phổ biến trong Tin Mừng Mátthêu và nó diễn tả một cách sống
động giữa hai sự chọn lựa và dẫn đến hai kết quả trái ngược nhau. Sự phân biệt giữa hai nhóm người này
trở nên khắc nghiệt trong bối cảnh cánh chung, vì nó là tình trạng vĩnh viễn, ảnh
hưởng đến vận mệnh vĩnh cửu của đời người. Người ở trong và kẻ ở ngoài với hai
tình trạng hạnh phúc – đau khổ khác biệt. Trong khi người ở trong chung vui hưởng
nếm bữa tiệc, kẻ ở ngoài thành kẻ khóc lóc và nghiến răng.[9]
8.
Cửa đóng … không biết các ngươi là ai: Cánh cửa thể
lý của phòng tiệc đóng lại, nhốt những trinh nữ khờ dại bên ngoài hình ảnh của
hình phạt dành cho sự thiếu sẵn sàng của họ. Điều chính yếu không phải là tình
trạng “khóa cửa” nhưng là sự “không nhận biết” của ông chủ. Cánh cửa phòng tiệc
có thể không luôn luôn đóng trong suốt bữa tiệc,[10]
nhưng không được chàng rể nhận biết thì không thể đi vào phòng tiệc. Đây là một
dụ ngôn về Nước Trời (Nước Trời giống như…), nên việc được vào tiệc cưới ám chỉ
đến việc được vào Nước Trời, và ở ngoài tiệc cưới đồng nghĩa với ở ngoài Nước
Trời. Những người Đức Giêsu sẽ tuyên bố là “không biết”, có thể là những người
chỉ tuyên xưng Người ngoài miệng, nhưng lại không thi hành lời Người giảng, thậm
chí làm những điều xấu xa (Mt 7,21-23; Lc 13,25-27). Hơn nữa, trong Mt 7,24-27
diễn tả về hai hình ảnh đối lập “người khôn” – “kẻ dại”. Người nghe lời Đức
Giêsu nói được ví như người khôn xây nhà trên đá, không bao giờ sụp đổ bởi tác
động của những hiểm họa thiên nhiên. Kẻ nghe lời Đức Giêsu nói và không mang ra
thực hành được ví như “kẻ dại” xây nhà trên cát, sẽ sớm sụp đổ trước tác động của
thiên tai. Như thế, tình trạng không sẵn sàng, đèn không có dầu, tắt ngúm, có
thể là tình trạng của những người không làm theo lời Đức Giêsu dạy, mà làm những
điều xấu xa, bất chính.
9.
Đèn (đuốc) tắt: Hình ảnh “đèn bị tắt” được suy đoán là không đủ dầu. Hình ảnh
những trinh nữ khờ dại “không mang theo dầu” được đề cập lúc đầu là để chuẩn bị
cho tình huống này. Cả hai nhóm đều ngủ, và có lẽ đèn của cả hai nhóm đều tắt,
nhưng chỉ có những người khôn ngoan có dầu để tiếp tục thắp sáng đèn của mình.
Hình ảnh người thiếu dầu dự phòng trong bối cảnh trực tiếp có thể hiểu như là
hình ảnh một đầy tớ xấu xa, nghĩ trong lòng rằng: “Ông chủ của tôi (ὁ κύριος) trì hoãn, và bắt đầu đánh đập các đồng
đầy tớ, ăn và uống đến say sưa” (Mt 24,48-49). Đó cũng có thể là hình ảnh của
người đầy tớ “xấu xa và biếng nhác”, không làm lợi từ nén bạc của ông chủ giao
cho mà đem chôn giấu nó dưới đất (Mt 25,24-28). Trong bối cảnh xa hơn, tác giả
Hare đề xuất cách hiểu dầu như là những công việc tốt lành, không làm những điều
xấu (Mt 5,19); tình yêu dành cho kẻ thù (5,44), tình yêu dành cho người đồng bạn
(24,12), sự tha thứ cho người khác (18,21-35); đức tin thật sự (21,21), lòng trung
thành với Đức Giêsu (10,32), tình yêu dành Thiên Chúa (22,37).[11]
10.
Động từ diễn tả sự cảnh báo cao độ: Hãy
canh chừng, coi chừng[12]
(gregoreo Mt 24,42-43; 25,13; 26,38.41 trong vườn cây dầu). Chúng ta gặp thấy động
từ này trong Mt 24,42-43. Trong Mt 24,42 Đức Giêsu cảnh báo là “hãy coi chừng vì
anh em không biết Chúa của anh em đến ngày nào”. Đây cũng là động từ được Đức Giêsu
dùng để cảnh báo các môn đệ trong vườn cây Dầu (Mt 26,38.41). Họ đã không nghe
lời cảnh báo của Đức Giêsu. Họ ngủ li bì trong giờ khắc quyết định, khi Đức
Giêsu phải cầu nguyện, lo lắng đến đổ mồ hôi máu. Dĩ nhiên, đây không chỉ nói về
giấc ngủ về thể lý nhưng là giấc ngủ về phương diện thiêng liêng. Họ thiếu sự cầu
nguyện, niềm tin, lòng can đảm, tín thác và trung thành với Chúa. Và rõ ràng cuối
cùng họ đã sa ngã. Họ chạy tán loạn, mỗi người mỗi ngã, mạnh ai nấy chạy bỏ
lại thầy bơ vơ một mình. Lời cảnh báo chốt lại dụ ngôn này là: “Hãy canh thức vì anh em không biết
ngày nào giờ nào” (Mt 25,13). Lời cảnh báo này cũng xuất hiện dày đặc
trong bài giảng cánh chung trong Tin Mừng Mátthêu (Mt 24,36.42.44.50). Như vậy, nó rất quan
trọng, buộc những người đọc Tin Mừng Chúa phải quan tâm lưu ý nằm lòng, nếu
không hậu quả sẽ khó lường. Việc chàng rể đến vào lúc nửa đêm là một “bất ngờ” không tưởng, vì chẳng
có ai ngờ chàng rể lại đến muộn như thế.[13]
Người có thể canh chừng, có thể ứng phó trong tình huống bất ngờ như thế, chứng
tỏ là người luôn sẵn sàng trong mọi lúc.
Bình Luận Tổng Quát
Dụ ngôn mười
trinh nữ đi đón chàng rể nằm trong bối cảnh những bài giảng về thời cánh chung
(thời cuối cùng) của Tin Mừng Mátthêu (ch.24 – 25). Đây là một trong những dụ
ngôn chỉ có trong Tin Mừng Mátthêu mà thôi.[14]
Có nhiều nhà chú giải cho rằng dụ ngôn theo nguyên gốc có thể nói về Tiệc Cưới
Nước Trời trong đó Đức Giêsu là chàng rể, chính là Thiên Chúa đến viếng thăm
dân Người và mời gọi họ vào tiệc vui với Ngài. Đối tượng người nghe lúc Đức
Giêsu giảng dạy có thể là những người đồng hương Do Thái. Đó cũng là một khả
thi. Tuy nhiên, theo cách bố trí của Tin Mừng Mátthêu thì dụ ngôn này rất có thể
là nói về thời cánh chung, thời Đức Giêsu đến lần thứ hai để phán xét và ban
thưởng luận phạt những người có công và kẻ có tội. Và đối tượng mà dụ ngôn nhắm
đến là tất cả mọi người tin trên toàn thế giới qua mọi thời đại. Dụ ngôn phân
rõ ranh giới giữa hai nhóm trinh nữ có cùng nhiệm vụ và cùng vị trí thế nhưng sự
chu đáo, sự khôn ngoan thì quá sức khác biệt. Năm người khôn ngoan biết chuẩn bị
cho mình phương án dự phòng để họ có thể xoay xở trong tình huống khó khăn. Ngược lại,
năm người khờ dại thì rõ ràng thiếu sự tiên liệu và không lo lắng cho đủ. Và hậu
quả là như ông bà ta thường nói: “Người không biết lo xa, ắt sẽ buồn gần”. Kết
quả đã cho thấy những người có phương án dự phòng cách khôn ngoan thì luôn có
khả năng thành công trong mọi việc. Còn kẻ thiếu khôn ngoan, không biết lo lắng, nguy cơ thất bại luôn
rình chờ. Trong đời, có những may mắn thế nhưng không có nhiều và không phải
lúc nào cũng gặp may được. Người khôn ngoan tự tạo ra sự chắc chắn cho mình chứ
không phải cứ trông vào may mắn hay cậy dựa vào người khác. Trên đường đời luôn
có những người tốt, thế nhưng, không phải lúc nào gặp khó khăn thì cũng có người
tốt để cậy nhờ. Sự từ chối của những cô khôn ngoan không hẳn là sự ích kỷ,
nhưng là không đủ cho cả hai, dầu của họ chỉ đủ dùng cho nhiệm vụ của họ. Dầu
dùng cho ngày cánh chung được tích góp, chuẩn bị bằng cả cuộc đời của mỗi tín hữu
chứ không phải là mua, hay xin xỏ trong chốc lát. Quả thế, những hành động yêu
thương, bác ái; những cử chỉ thân thiện, tử tế với bạn hữu; những hy sinh của bản
thân; những gọt giũa cho
giống hình ảnh Thiên Chúa… tất cả những hoa trái ấy (dầu đèn của đức tin) mỗi
cá nhân tự sinh ra mỗi người trong cuộc đời họ, không thể vay mượn của ai được.
Sự trì hoãn và xuất hiện cách bất
ngờ (nửa đêm) của
chàng rể đã làm cho các trinh nữ giật mình. Và dẫu vậy thì những kẻ đã có sự
chuẩn bị chu đáo vẫn có thể trở tay kịp. Còn những kẻ thiếu sự tiên liệu thì trở
tay không kịp. Lời cảnh báo của Đức Giêsu “hãy coi chừng” cùng với lý do là
“không biết giờ nào, ngày nào”, được lặp đi lặp lại nhiều lần cho thấy tầm quan
trọng của nó đối với đời người. Đó không đơn giản chỉ là bài học cho sự thành
công của những công việc đời thường. Nhưng là, chọn lựa sống còn của con người
cả đời này và đời sau nữa. Chàng rể là Đức Giêsu đến lần cuối và những ai được
vào tiệc cưới với Ngài là vào vĩnh viễn, còn những ai bị đứng ngoài là đứng
ngoài thiên thu vạn đại. Tất cả đều phụ thuộc vào chọn lựa và sống mỗi ngày của
chúng ta. Việc có thể vào Nước
Trời không phải là một chọn lựa nhất thời. Như kiểu các trinh nữ khờ dại, thấy
chàng rể đến thì mới lật đật đi mua dầu. Đó là thái độ của những kẻ toan tính nhất
thời. Đời sống kitô hữu phải là những chọn lựa và chiến đấu liên lỷ, không phải
là một toan tính vào giờ chót của cuộc đời mình. Dĩ nhiên, Chúa ban ơn cứu độ
cho nhiều người vào giờ chót như kẻ trộm lành chẳng hạn. Tuy nhiên, đó là giây
phút gặp gỡ và quay về thật sự, chứ không phải anh ta toan tính rằng cả đời
mình cứ làm ác, sống thoải mái, phạm đủ thứ tội đi rồi đến gần cuối đời quay trở
về là vừa. Đó là toan tính của những kẻ bất chính và những người khờ dại. Vì
Chúa đến bất ngờ, chẳng có ai làm chủ được mạng sống của mình và quyết định được
giờ chết của mình. Những trinh nữ khôn ngoan chuẩn bị mọi sự chu đáo để làm
tròn sứ mạng đón rước chàng rể và được phần thưởng là chung vui với chàng rể.
Những người tín hữu phải có sự chuẩn bị hơn thế nữa bởi lẽ người họ chờ đón
không chỉ là chàng rể của một buổi tiệc cưới nhưng là người cha yêu thương của
họ. Phần thưởng của họ không chỉ là một buổi tiệc cưới với những món ăn ngon và
niềm vui trong một đêm
(hoặc là bảy ngày bày đêm theo truyền thống tiệc cưới của người Do Thái), nhưng
là niềm vui, sự hạnh phúc viên mãn đến tròn kiếp sau. Người kitô hữu khôn
ngoan, luôn sống đẹp tình Chúa tình người, cư xử tử tế và đúng mực trong mọi việc
với mọi người thì không cần quan tâm ngày giờ nào Chúa đến, vì thực tế Chúa
đang ở trong tâm và trong từng hành động của họ rồi.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] ‘Wise’
and ‘foolish’ do not refer to intellectual capacities. It is rather that one
group makes the right and prudent decision, the other the wrong and imprudent
decision. This reminds one of 7:24–7, where response to the words of Jesus
reveals one to be either wise or foolish [W.D. DAVIES – D.C. ALLISON, A critical and exegetical commentary on the
Gospel according to Saint Matthew (ICC; London – New York 2004) III, 396].
[2] On
the double vocative, ‘Lord, Lord’, which reveals that the foolish virgins
belong to the Christian community and that the bridegroom is the Son of man,
see 1, p. 712. Obviously the words are inappropriate when spoken to the groom:
our story has ‘been swallowed up by the reality to which it points’ (W.D. DAVIES
– D.C. ALLISON, the Gospel according to
Saint Matthew, 400).
[3] A.J.
Hultgren, The Parable of Jesus. A Commentary (Grand Rapids – Cambridge
2000) 170-171; “”Although details differ from one village to the next,
traditional Palestinian village weddings in recent centuries climax with women
torchbearers leading the bride to the bridegroom’s home, and the torchbearers
going out to meet the groom and his male friends (Jeremias 1972: 173).
Presumably the bridesmaids wait outside the bride’s home for his coming, to
escort her en route to his home (Argyle 1963: 189; cf. Safrai 1974/76b: 758;
pace Fenton 1977: 396; Meier 1980: 295) [C.S. KEENER, The Gospel of Matthew. A Socio-Rhetorical Commentary (Grand Rapids
– Cambridge 2009) 596.].
[4] The παρθένοι, “virgins” (used elsewhere
in Matthew only in 1:23), here understood in the general sense of unmarried
maidens attending the bride, coming out in the night with their torches to meet
the bridegroom probably reflects actual historical practice (pace Bornkamm; see Jeremias, Parables
of Jesus, 171–174, who also refers to similar practices in modern
Palestine; cf. Argyle, and the detailed discussion in Granqvist) rather than
being a story with artificial details concocted for the purpose of teaching.
All the same, it is difficult to know precisely where the bridesmaids were
(i.e., at the home of the bride, or her family, or that of the bridegroom?) [D.A.
Hagner, Matthew 14-28 (WBC
33B; Dallas 2002) 728]; “About nightfall the procession would begin and the bride would be
escorted to the groom’s house by an entourage with torches or lanterns. The groom would go out to receive the bride and
bring her into his home where blessings and celebration would last as long as
seven days. In some texts bride and
groom are both accompanied by an entourage through the streets on the way to
where the festivities will be held. It was a religious duty of those observing
to join in the celebration. If Greco-Roman sources are used and if Palestinian customs are
assumed to be similar, which is not unreasonable, the groom is understood as
bringing his bride back to his (or his parents’) house after obsesrving a banquet at
the home of the bride. The virgins then wait in the home of the groom. This is an attractive explanation and would
make good sense of the text, but certainty does not exist about where they are
and exactly what is described” [K.R. Snodgrass, Stories with Intent. Acomprehensive
Guide to the Parable of Jesus (Grand Rapids 2018) 392].
[5] “The most important thing is
that the bridegroom’s appearance is a sign for the festivities to begin. The
parable is not unrealistic. It is sufficiently within the bounds of what is
known that, even if it presents unusual circumstances, it works, and its
warning to be ready is clear” (K.R. Snodgrass, Stories with Intent, 394).
[6]
“Some scholars have suggested that the torches could burn only fifteen minutes
before being rewrapped with more oiled cloth (e.g., France 1985: 351;
Witherington 1984: 43)” (C.S. KEENER, The
Gospel of Matthew, 597).
[7]
“but grooms’ delays were common enough that they should have anticipated it;
this provides clear warning that the parousia might be delayed—perhaps for
Jesus’ first disciples who expected the kingdom to appear immediately, and
surely for those who were disappointed at Jesus’ nonreturn at the temple’s
demise in 70” (Ibid.)
[8] “One cannot delete the delay
as a secondary or unimportant feature. The parable is framed on the fact of the
delay, and without the delay there is no parable. A delay is required for the
lampsto go out and for time for the young women to go to sleep. It is the delay
that demonstrates the wisdom or foolishness of the participants” (K.R.
Snodgrass, Stories with Intent, 396).
[9]
“The closing of the door is another element in the story which seems out of
place in the open hospitality and conviviality of a village wedding; late
arrival is not normally an issue in oriental society, certainly not penalized
in such a dramatic fashion. But this has become, like so many of the other
parables, a story of insiders and outsiders, of the saved and the lost, and the
closing of the door symbolizes that final division at the last judgment, as we
have seen it in 13:30, 48; 21:31, 41; 22:8–10, 13.56 If Matthew this
time refrains from speaking of “the darkness outside” and “weeping and gnashing
of teeth” (as he did in connection with the other feasts in 8:12; 22:13), he
has made the same point unmistakably clear in the pathetic picture of the silly
girls futilely calling outside a closed door.” [R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew (NICNT; Grand
Rapids 2007) 949-950].
[10]
“The host or groom excludes the foolish virgins as a punishment, not merely
because the bolt on the door was cumbersome (cf. Meier 1980: 296).212
Doors could be bolted or barred shut (e.g., Aristoph. Wasps 154–55), but the door would hardly be locked throughout the
feast, which lasted seven days” (C.S. KEENER, The Gospel of Matthew 598).
[11] W.D.
DAVIES – D.C. ALLISON, the Gospel
according to Saint Matthew, 397.
[12] “Watching
is not a passive activity, merely watching for an event to occur, but a
metaphor for readiness and faithful fulfillment of the Christian calling”
(K.R.
Snodgrass, Stories with Intent, 397).
[13]
“A torchlight procession would of course be after dark, but might be expected
to be before the middle of the night. The parable thus illustrates both the
fact that the time of the parousia is
unknown, and may not be as soon as people might expect, and also its sudden,
unexpected nature when it does come, the middle of the night being the time
when people are at their least alert” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 949).
[14]
Những dụ ngôn còn lại chỉ có trong Matthew mà thôi là: dụ ngôn cỏ lùng
(13,24-30.36-43); dụ ngôn kho tàng và ngọc quý (13,44.52); dụ ngôn người tôi tớ
không biết tha thứ (18,23-35), dụ ngôn những người nông dân làm vườn nho
(20,1-16); dụ ngôn hai người con (21, 28-32) và dụ ngôn sự phán xét của các quốc
gia (25,31-46).
No comments:
Post a Comment