Bản văn và dịch sát nghĩa
Việt |
Hy Lạp |
31 Khi Con của Loài Người đến trong vinh quang của Người và
tất cả các thiên sứ cùng với Người, lúc ấy, Người sẽ
ngồi trên ngai vinh quang của Người. 32 Và tất cả các dân sẽ được
triệu tập đến trước mặt Người và Người sẽ tách họ khỏi nhau, như thể mục tử
tách những con chiên khỏi những con dê. 33 Người sẽ cho những con chiên đứng bên phải của Người và những con dê ở bên trái. 34 Khi ấy nhà vua sẽ nói cùng những
người ở bên phải của Người rằng, hãy đến, những
người được chúc lành của Cha Tôi, hãy thừa hưởng
vương quốc đã được chuẩn bị cho anh em từ khởi đầu của thế giới. 35 Vì Tôi đói, anh em đã cho
tôi ăn; Tôi khát anh em đã cho tôi uống; Tôi là người lạ, anh em đã chào đón
tôi; 36 Tôi trần truồng, anh em đã
mặc cho tôi; Tôi bệnh, anh em đã chăm sóc; Tôi ở trong tù, anh em đã đến với
Tôi, 37 Bấy giờ những người công chính sẽ trả lời cho Người rằng: “Chúa ơi! Có khi nào chúng tôi thấy Ngài đói mà cho
ăn hay khát mà cho uống? 38 Có khi nào chúng tôi thấy
Ngài là người lạ mà đón tiếp hoặc trần truồng mà cho mặc? 39 Có khi nào chúng tôi thấy
Ngài bệnh hay ở trong tù mà đã đến cùng Người đâu? 40 Và đáp trả lại, nhà vua nói cùng họ: “Amen tôi nói cùng anh em, những
gì anh em làm cho một trong những người anh em bé nhỏ
nhất của Tôi, anh em đã làm cho chính tôi vậy”. 41 Rồi Người nói cùng những người bên trái. Hay đi khỏi Tôi, những người bị nguyền rủa, vào lửa vĩnh cửu, đã được chuẩn bị cho quỷ và các sứ giả của nó. 42 Vì khi Tôi đói các ngươi đã không cho Tôi
ăn; Tôi khát, các ngươi đã không cho Tôi uống; 43 Tôi là người lạ, các ngươi
đã không tiếp đón; Tôi trần truồng, các ngươi đã không mặc cho tôi; Tôi bệnh
và ở trong tù, các ngươi đã không chăm sóc. 44 Bấy giờ họ trả lời cùng
Người rằng: “Chúa ơi! Có khi nào chúng tôi thấy
Ngài đói hoặc khát, hoặc người lạ, hoặc trần truồng, hoặc bệnh, hoặc ở trong
tù mà không phục vụ Ngài đâu? 45 Người trả lời cùng họ rằng:
“Amen, Tôi nói cùng anh em, khi các ngươi không làm cho một trong những người bé nhỏ nhất này là các ngươi
đã không làm cho Tôi. 46 Và họ ra đi vào sự trừng phạt vĩnh cửu, còn những người công chính vào sự sống vĩnh cửu. |
31 Ὅταν δὲ ἔλθῃ ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου ἐν τῇ δόξῃ αὐτοῦ καὶ πάντες οἱ ἄγγελοι
μετ᾽ αὐτοῦ, τότε καθίσει ἐπὶ θρόνου δόξης αὐτοῦ· 32 καὶ συναχθήσονται ἔμπροσθεν
αὐτοῦ πάντα τὰ ἔθνη, καὶ ἀφορίσει αὐτοὺς ἀπ᾽ ἀλλήλων, ὥσπερ ὁ ποιμὴν ἀφορίζει
τὰ πρόβατα ἀπὸ τῶν ἐρίφων, 33 καὶ στήσει τὰ μὲν πρόβατα ἐκ δεξιῶν αὐτοῦ, τὰ δὲ ἐρίφια ἐξ εὐωνύμων. 34 Τότε ἐρεῖ ὁ βασιλεὺς τοῖς ἐκ δεξιῶν αὐτοῦ· δεῦτε οἱ εὐλογημένοι τοῦ πατρός μου, κληρονομήσατε τὴν ἡτοιμασμένην ὑμῖν βασιλείαν ἀπὸ
καταβολῆς κόσμου. 35 ἐπείνασα γὰρ καὶ ἐδώκατέ
μοι φαγεῖν, ἐδίψησα καὶ ἐποτίσατέ με, ξένος ἤμην καὶ συνηγάγετέ με, 36 γυμνὸς καὶ περιεβάλετέ
με, ἠσθένησα καὶ ἐπεσκέψασθέ με, ἐν φυλακῇ ἤμην καὶ ἤλθατε πρός με. 37 τότε ἀποκριθήσονται αὐτῷ
οἱ δίκαιοι λέγοντες· κύριε,
πότε σε εἴδομεν πεινῶντα καὶ ἐθρέψαμεν, ἢ διψῶντα καὶ ἐποτίσαμεν; 38 πότε δέ σε εἴδομεν ξένον
καὶ συνηγάγομεν, ἢ γυμνὸν καὶ περιεβάλομεν; 39 πότε δέ σε εἴδομεν ἀσθενοῦντα
ἢ ἐν φυλακῇ καὶ ἤλθομεν πρός σε; 40 καὶ ἀποκριθεὶς ὁ βασιλεὺς ἐρεῖ αὐτοῖς· ἀμὴν λέγω ὑμῖν, ἐφ᾽ ὅσον ἐποιήσατε
ἑνὶ τούτων τῶν ἀδελφῶν μου τῶν ἐλαχίστων, ἐμοὶ
ἐποιήσατε. 41 Τότε ἐρεῖ καὶ τοῖς ἐξ εὐωνύμων· πορεύεσθε ἀπ᾽ ἐμοῦ [οἱ] κατηραμένοι εἰς τὸ πῦρ τὸ
αἰώνιον τὸ ἡτοιμασμένον τῷ διαβόλῳ καὶ τοῖς ἀγγέλοις αὐτοῦ. 42 ἐπείνασα γὰρ καὶ οὐκ ἐδώκατέ
μοι φαγεῖν, ἐδίψησα καὶ οὐκ ἐποτίσατέ με, 43 ξένος ἤμην καὶ οὐ
συνηγάγετέ με, γυμνὸς καὶ οὐ περιεβάλετέ με, ἀσθενὴς καὶ ἐν φυλακῇ καὶ οὐκ ἐπεσκέψασθέ
με. 44 τότε ἀποκριθήσονται καὶ
αὐτοὶ λέγοντες· κύριε, πότε σε εἴδομεν πεινῶντα
ἢ διψῶντα ἢ ξένον ἢ γυμνὸν ἢ ἀσθενῆ ἢ ἐν φυλακῇ καὶ οὐ
διηκονήσαμέν σοι; 45 τότε ἀποκριθήσεται αὐτοῖς
λέγων· ἀμὴν λέγω ὑμῖν, ἐφ᾽ ὅσον οὐκ ἐποιήσατε ἑνὶ τούτων
τῶν ἐλαχίστων, οὐδὲ ἐμοὶ ἐποιήσατε. 46 καὶ ἀπελεύσονται οὗτοι
εἰς κόλασιν αἰώνιον, οἱ δὲ δίκαιοι εἰς ζωὴν αἰώνιον. (Mt 25:31-46 BGT) |
Bối cảnh phụng vụ: Chúa Nhật cuối năm phụng vụ được dành để mừng kính trọng thể Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ. Ngài là vị vua hết sức đặc biệt về phạm vi lãnh thổ, về số lượng công dân thuộc quyền Ngài và về phương cách cai trị. Phạm vi lãnh thổ của Ngài không giới hạn bởi quốc gia châu lục nào, nhưng là trên toàn thế giới. Quốc gia của Ngài không chỉ giới hạn ở dưới mặt đất nhưng còn là trên cõi trời cao. Dân chúng trong vương quốc của Ngài không bị giới hạn bởi màu da, ngôn ngữ, chủng tộc, giai cấp, địa vị xã hội, giàu hay nghèo, nhưng là tất cả mọi người. Ngài có quyền không những trên tất cả mọi người, nhưng còn trên các thiên sứ, sinh vật và cây cỏ dưới đất và trên cõi trời cao. Phương cách điều hành đất nước của ngài cũng rất khác. Tất cả đều được dựa trên tình yêu và mục đích là làm cho quốc gia đầy ắp tiếng cười và sự bình an chứ không phải giàu có sung túc về mặt vật chất. Để trở thành một vị vua như thế, chính Ngài đã phải chứng tỏ rằng Ngài đích thực là một vị vua yêu thương và đáng được yêu. Ngài đã chọn đi con đường thập giá cho đến chết chỉ vì yêu nhân loại. Chỉ bằng con đường ấy Ngài mới đích thực là vị vua mang nhãn hiệu yêu thương. Dụ ngôn này diễn tả Đức Giêsu như là một Đấng đến xét xử nhưng liền ngay sau đó 26,1-2, Đức Giêsu lại thông tin rằng Ngài sẽ bị nộp để chịu đóng đinh. Nghịch lý, nhưng lại hợp lý bởi đó chính là con đường mà vị vua yêu thương đã chọn đi cho trọn tình yêu với nhân loại.
Bối cảnh bản văn: Đây là dụ ngôn cuối cùng trong trình thuật của Tin Mừng Mátthêu và là dụ ngôn cuối trong loạt 4 dụ ngôn bàn về thời cánh chung trong Tin Mừng Mátthêu (Dụ ngôn hai người đầy tớ: 24, 45-51; Dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể: 25,1-13; Dụ ngôn những talanton: 25,14-30). Đây cũng là trình thuật cuối cùng trước trình thuật về cuộc thương khó của Đức Giêsu. Chương 26 bắt đầu bằng âm mưu chống lại Đức Giêsu (26,1-5), và tiếp sau đó là trình thuật về việc Đức Giêsu được xức dầu (26, 6-13) và cứ như thế trình thuật về thương khó được tiếp diễn. Vị trí của dụ ngôn: Cuối trình thuật về giảng dạy của Đức Giêsu và cuối trong loạt dụ ngôn nói về cánh chung, nói lên tầm quan trọng của thông điệp của dụ ngôn này đối với Tin Mừng Mátthêu. Nó có thể xem như đỉnh cao về mặc khải về cánh chung cũng như chứa đựng thông điệp Tin Mừng quan trọng của Đức Giêsu. Danh xưng “những người công chính” liên hệ đến giáo huấn trong Bài Giảng Trên Núi, nơi mà các môn đệ được mời gọi phải có sự công chính vượt trội hơn sự công chính của các Kinh Sư và những người Pharisêu” (Mt 5,20) và trước hết họ phải tìm kiếm “Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người” (Mt 6,33).
Tên gọi dụ ngôn: Dụ ngôn này thường được gọi là dụ ngôn “chiên và dê”. Tuy nhiên, dụ ngôn này hẳn không hề nói gì về chiên và dê cả. Chiên và dê chỉ được nhắc đến như là bối cảnh của một buổi tập trung, và phân chia của một người mục tử. Dụ ngôn này hoàn toàn nói về những con người với những biểu hiện cụ thể trong suốt cuộc đời họ. Mỗi người có thể gọi dụ ngôn này bằng một cái tên đẹp và hay như mình muốn. Thế nhưng, nên nhớ rằng nguyên gốc bản văn của Mátthêu, dụ ngôn này không có tên gì cả, và dù có đặt tên hay đến mấy thì cũng chỉ phản ánh được một khía cạnh nào đó của dụ ngôn này mà thôi.
Cấu trúc
Bối cảnh (31-32a): Con của
Loài Người đến trong Vinh Quang – Tất cả các dân được triệu tập Tách biệt hai nhóm (32b-33): Chiên bên phải dê bên trái Những người bên phải (34-40) Lời của nhà vua (34 -36) - Hãy đến, những người được chúc lành của Cha Tôi - Hãy thừa hưởng vương quốc đã được chuẩn bị cho anh em - Lý do: Tôi đói – đã cho tôi ăn; khát – đã cho tôi uống;
là người lạ - đã chào đón; trần truồng – đã mặc cho; bệnh – đã chăm sóc; ở
trong tù – đã đến với Tôi. Đáp trả của những người công chính (37-39) - “Chúa ơi! - Có khi nào thấy Ngài đói - cho ăn; khát – cho uống; là
người lạ - đón tiếp; trần truồng – cho mặc; bệnh hạy ở trong tù – đến cùng
Người đâu? Đáp trả của nhà vua (40) - Làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của
Tôi – làm cho chính tôi. Những người bên trái (41-45) Lời của nhà vua (41-43) - Hãy đi khỏi Tôi, những người bị nguyền rủa, - Vào lửa vĩnh cửu, đã được chuẩn bị cho quỷ và các sứ giả
của nó - Lý do: Vì khi Tôi đói – không cho ăn; khát – không cho
uống; Trần truồng – không mặc cho; người lạ - không tiếp đón; bệnh và ở trong
tù - không chăm sóc. Đáp trả của người bên trái (44) - “Chúa ơi! - Có khi nào chúng tôi thấy Ngài đói hoặc khát, hoặc người
lạ, hoặc trần truồng, hoặc bệnh, hoặc ở trong tù mà không phục vụ Ngài đâu? Đáp trả của nhà vua (45): Không làm
cho một trong những người bẻ nhỏ nhất này – không làm cho Tôi. Kết luận chung (46): Những người bên trái ra đi vào |
Một vài điểm chú giải
(1)
Con
của loài người (the Son of
Man)[1]… vua (ὁ βασιλεὺς) … Chúa (κύριε): Ba danh xưng được dùng cho cùng một nhân vật. Con của
loài người “đến trong vinh quang”, “ngồi trên ngai tòa của Người” trong 25,31,
được gọi “nhà vua” trong 25,34 và 25,40, và những người chịu xét xử đều gọi Người
là “Chúa” (25,37.44). Cách dùng hoán chuyển này cho thấy Con của loài người
cũng là Đức Vua và cũng là Chúa. Đây là ba danh xưng Kitô học quan trọng mô tả
Đức Giêsu trong ngày cánh chung. Đây là danh xưng xuất hiện trong văn chương khải
huyền của sách Đaniel. Cụ thể, Đn 7,13 nói rằng “trong thị kiến ban đêm ông thấy
có ai như Con của loài người, người đến với mây trời”. Thị kiến này cho thấy Con
của loài người đến trong vinh quang với tất cả các thiên sứ theo hầu. Con của
loài người cũng nói với Đaniel rằng “hãy hiểu rằng thị kiến đề cập đến thời
gian cuối cùng” (Đn 8,17). Như vậy, hình “như Con của loài người đến trong vinh
quang” trong dụ ngôn này có liên quan đến Con của loài người mà Đaniel đã nói đến.
Cả hai đều đến trong vinh quang và vào thời cuối cùng. Danh hiệu Con của loài
người trong tiếng Hy Lạp là “ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου” dịch sang Tiếng Việt là “con trai của loài người”.
Trong tiếng Do Thái, đó là một lối diễn đạt cá nhân hóa một danh từ chung chỉ
nhân loại nói chung bằng cách thêm vào cụm từ “con trai của”, diễn tả một con
trai của loài người cụ thể, một thành viên của loài người. Nghĩa của nó có thể
như là “ai đó” hay “một người bất kỳ”. Cách dùng của Đaniel 7,13-14 diễn tả một
Con của loài người đến trong đám mây, đã trở thành một vài dạng suy đoán của Do
Thái giáo và Kitô giáo sơ khai, đoán trước một tác nhân siêu nghiệm thời cánh
chung của cuộc phán xét và giải thoát mang tính thần linh. Trong Tân Ước, tác
nhân ấy gần như được đồng hóa với Đức Giêsu Phục Sinh. Thuật ngữ này xuất hiện
trong cả bốn Tin Mừng và luôn luôn phát xuất từ miệng của Đức Giêsu. Với một
ngoại lệ (Ga 5,27: υἱὸς ἀνθρώπου ἐστίν), các sách Tin Mừng luôn luôn dùng mạo từ xác định (ὁ υἱὸς
τοῦ ἀνθρώπο). Các tác giả có lẽ
muốn giới thiệu thuật ngữ này như là một nhân vật đã được biết rồi, thậm chí
trong bối cảnh, trong đó, nó chưa được đề cập trước đó. Thuật ngữ này có thể có
ám chỉ về Mêsia được nói đến trong Đaniel 7. Trong bối cảnh này, Con của loài
người có một vị thế hết sức quan trọng. Thậm chí, Ngài còn được gọi là Đức Vua
trong 25,34. Và được những người bên hữu, bên tả gọi là Chúa (25, 37.44). Ngài ở
trong một tư thế phán xét tất cả những người khác.
(2)
Trong
vinh quang của Người (ἐν τῇ δόξῃ αὐτου): Trong Sách Thánh Cựu Ước, thuộc tính “vinh quang” là
thuộc tính gắn liền với Đức Chúa. Nhiều lần Đức Chúa tự gọi rằng “vinh quang của
ta” khi nói với dân Israel. Khi ông Môsê cầu xin Thiên Chúa tỏ vinh quang của
Chúa cho ông, Đức Chúa đã trả lời: “Ta sẽ khiến vinh quang của Ta đi ngang qua
trước mặt ngươi và Ta sẽ tỏ cho ngươi biết danh Ta là Đức Chúa” (Xh 33,18-19).
Dân chúng nhìn thấy vinh quang của Đức Chúa trong đám mây khi Aharon nói với họ
(Xh 16,10). Đức Chúa cũng nói với ông Môsê rằng “anh em sẽ thấy vinh quang của Đức
Chúa” khi Đức Chúa ban Manna cho dân (Xh 16,7). “Vinh quang của Đức Chúa” ngự
trên núi Sinai và “sự xuất hiện của vinh quang của Đức Chúa như lửa cháy bừng
trên đỉnh núi” (Xh 25, 16-17). Và nhiều lần tác giả nhắc đến vinh quang của
Thiên Chúa như thế. Trong Tân Ước, tác giả Luca cũng có cùng lối diễn tả “vinh
quang Đức Chúa chiếu tỏa xung quanh” những người chăn chiên khi thiên sứ loan
báo cho họ một tin mừng trọng đại: “Một Đấng cứu độ đã sinh ra cho các ngươi
hôm nay” (Lc 2,9-11). Thánh Phaolô trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô đã diễn
tả rằng: “Chúng ta, mặt không che màn, phản chiếu vinh quang Đức Chúa như qua một
chiếc gương, chúng ta sẽ được biến đổi ngày càng giống hình ảnh ấy, ngày càng rực
rỡ hơn, nhờ tác động của Chúa là Thần Khí” (2 Cr 3,18). Trong Tin Mừng Mátthêu,
Đức Giêsu nói đến vinh quang của Con của loài người một lần khác nữa. Cuối
chương 19, trong bối cảnh ông Phêrô hỏi Đức Giêsu về phần thưởng mà các ông sẽ
hưởng khi bỏ mọi sự để theo Chúa, Đức Giêsu cho biết rằng, các ông cũng được ngồi
trên mười hai tòa, xét xử mười hai chi tộc của Israel, “khi Con của loài người
ngồi trên ngai vinh quang của Người” (Mt 19,27-30). Đoạn này cũng nói đến vinh
quang của Con của loài người trong bối cảnh xét xử. Trong dụ ngôn này, tác giả Mátthêu
nhắc đến hai lần “vinh quang của Người”: Con của loài người đến “trong vinh
quang của Người” và “ngồi trên ngai vinh quang của Người” (Mt 25,31). Cách nói
“ngồi trên ngai vinh quang” rõ ràng diễn tả vị thế của một vị vua trong ngày
thượng triều hoặc đăng quang. Ngoài ra, vào cuối chương 16, Đức Giêsu cũng nói
đến Con của loài người “sẽ đến cùng với các thiên sứ của Người trong “vinh
quang của Cha Ngài” (Mt 16,27). Vinh quang ở đây là vinh quang của Cha Ngài,
nghĩa là của Chúa Cha. Đây cũng là bối cảnh Đức Giêsu nói đến cuộc phán xét:
“Người sẽ trả lại cho mọi người theo điều họ đã làm.” Con của loài người cũng đến
với các thiên sứ của Người như trong dụ ngôn này. Hơn nữa, trong chương 24, Đức
Giêsu lại một lần nữa nhắc đến việc Con của loài người đến trong mây trời. “Họ
sẽ thấy Con của loài người đến với quyền năng và vinh quang vĩ đại” (Mt 24,30).
Tính từ “πολλοῦ” (nhiều) được đặt
sau danh từ vinh quang để làm tăng mức độ của vinh quang này. Đây cũng là lần
hiếm thấy tác giả Mátthêu dùng tính từ này đi kèm với danh từ vinh quang. Trình
thuật này được đặt trong bối cảnh của bài giảng những biến cố của thời cuối
cùng, thời cánh chung (Mt 24,1-44).
(3) “Sẽ được triệu tập” (συναχθήσονται). Động từ triệu tập được dùng ở thì tương lai, và thể bị
động. Đây rất có thể là thể bị động thần linh, rất thường thấy, với tác nhân là
chính Thiên Chúa. Thiên Chúa chính là người đã triệu tập, hoặc qua trung gian
các thiên sứ, hoặc là chính Người triệu tập. Mt 24,31 diễn tả rằng: Con của
loài người “gửi các thiên sứ với chiếc kèn lớn, và họ sẽ quy tụ những người được
chọn từ bốn hướng, từ chân trời này đến tận chân trời kia”. Cách dùng của động
từ này cho thấy bàn tay chủ động của Thiên Chúa trong buổi triệu tập này. Đó
không phải là một buổi triệu tập ngẫu nhiên của bất kỳ ai, nhưng là buổi triệu
tập của Thiên Chúa trong bối cảnh xét xử. Tính từ “πάντα: tất cả” được đặt trước danh từ quốc gia, hay dân tộc
cho thấy rằng thành phần được triệu tập không giới hạn trong một không gian
lãnh thổ nào nhưng là tất cả, không trừ ai, và quốc gia nào (x. Is 66,18).
Trong đó, chắc chắn bao gồm tất cả các ông hoàng bà chúa, các vương giả, phú
hào, nhà quý tộc, các nguyên thủ quốc gia và hàng lê dân vô danh tiểu tốt. Tất
cả đều phải hiện diện. Không những tất cả các dân các nước, nhưng còn là tất cả
các thiên sứ trên trời đều được quy tụ theo hầu Con của loài người này. Thật
khó để mà tưởng tượng một khung cảnh như thế trên trần gian này. Ở đâu ra một
không gian như thế để chứa toàn dân trên thế giới như thế, và Đức Vua sẽ dùng hệ
thống khuếch đại âm thanh như thế nào để người ta có thể nghe Ngài nói, và Ngài
sẽ ngồi ở đâu để họ thấy. Nói chung là một cảnh tượng còn hơn trong phim nữa. Đó
là cảnh tượng của ngày cánh chung.
(4) “Người
sẽ bố trí cho những con chiên đứng bên phải Người còn những con dê đứng bên
trái Người”. Đây là kiểu phân chia mang tính sóng
đôi rất thường được sử dụng trong các trình thuật của Mátthêu. Có lẽ, độc giả
cũng chưa quên dụ ngôn “hai người đầy tớ” (một người trung thành, một người xấu,
Mt 24,45-51); Dụ ngôn “mười cô trinh nữ đi đón chàng rể” (năm cô khờ dại – năm
cô khôn ngoan, Mt 25,1-13); Dụ ngôn những talanton (hai người sinh lời – một
người chôn giấu, Mt 25,14-30). Sự phân chia này rõ ràng báo trước cho độc giả về
một viễn cảnh thông thường: sẽ có một nhóm người tốt và một nhóm người xấu. Hậu
quả là sẽ có một nhóm người được trọng thưởng và một nhóm người bị trừng phạt.
Sự phân xử này, cũng giống như cuộc phân xử trong các dụ ngôn trước, là sự phân
xử mang tính chung cuộc. Không có một sự khoan nhượng nào và hiệu lực của bản
án, thưởng – phạt là vĩnh viễn.
(5) Chiên – dê – phải – trái. Theo như nhà
chú giải Jerimias (Parables, 206) một đàn súc vật trộn lẫn được thả trên đồng
theo thói quen của người Palestine. Vào cuối ngày, mục tử sẽ tách chiên khỏi dê
vì lẽ rằng những con dê cần được giữ ấm vào ban đêm, còn những con chiên thì
thích ở ngoài trời vào ban đêm. Người ta đoán rằng bởi vì những con chiên thì
có giá trị cao hơn nên chúng được đặt ở vị trí tích cực hơn trong dụ ngôn này.[2] Tác
giả A.J. Hultgren cho rằng người ta tách những con dê ra để lấy sữa trong khi
những con chiên, họ tách ra để xén lông.[3]
Dĩ nhiên, những con chiên và những con dê tự chúng không phải là biểu trưng cho
người tốt và người xấu. K. Snodgrass cho rằng trong thời Do Thái cổ, giá trị
con chiên và con dê như nhau. Phép loại suy được xây dựng dựa trên sự phân chia
bên trái, bên phải chứ không phải dựa trên cá tính hay giá trị của những con
dê, dù cho giá trị những con chiên có phần nhỉnh hơn.[4] Tuy nhiên, phải
thừa nhận rằng, con chiên thường được dùng để phác họa hình ảnh dân Israel như
là dân Chúa trong Cựu Ước và văn chương Do Thái (Ez 34; 1 En 89-90) nhưng con
dê thì không.[5] Trong
Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu gọi chính Ngài là mục tử và những kẻ theo Ngài là
chiên của Ngài (Ga 10,14). So sánh với tác phẩm của Plato, một triết gia Hy Lạp
thời Cổ Đại, chúng ta thấy được điều tương tự về trái và phải: Rep.10,614c nói
rằng trong cuộc sống đời sau, có những quan tòa, những người gửi người công
chính đến bên phải và đến thiên đàng trong khi kẻ bất chính họ gửi xuống bên
trái; Virgil, một nhà thơ Roma Cổ, cho rằng đường dẫn đến cuộc sống đời sau
phân đôi và ngã đường bên phải là đại lộ của chúng ta đi đến Elysium (thiên
đàng, nơi hạnh phúc hoàn hảo) trong khi ngã bên trái dẫn xuống Tartarus vô thần.[6] Theo
kinh nghiệm thường ngày, những bộ phận bên phải của cơ thể thường mạnh hơn bên
trái. Ví dụ như tay phải hoặc chân phải (trừ một số trường hợp ngoại lệ). Đa số
quốc gia lái xe bên phải (trừ một số ngoại lệ). Ngày nay, người ta thường nói đến
báo chí lề phải và lề trái, để diễn tả hai luồng thông tin trái ngược nhau. Bên
phải dự báo một số phận tốt lành còn bên trái là dấu hiệu của một số phận bi
đát. Con của loài người, đấng tách hai nhóm người thành hai phía, được ví như một
mục tử. Đức Giêsu được ví như một mục tử. Trong trình thuật về Giáng Sinh, các
thượng tế và các kinh sư đã đọc lại sách Mica 5,2 để tìm ra nơi sinh của đấng
Mêsia (Mt 2,6). Mica nói đến Bếthlehem như là nơi thủ lãnh, đấng chăn dắt Israel
sẽ ra đời. Micah rõ ràng nói đến vai trò mục tử của Đức Giêsu.
(6) “Vương
quốc đã dọn sẵn cho các ngươi ngay từ lúc tạo thiên lập địa”
(thành lập thế giới, khởi đầu của thế giới). Động từ đã được chuẩn bị được dùng
ở thì vị hoàn và thể bị động. Đây rất có thể là bị động thần linh. Thiên Chúa
chính là tác nhân của sự chuẩn bị này. Lời nói này của Đức Vua làm cho một số
nhà chú giải suy đoán rằng: Việc thừa kế (thừa hưởng) vương quốc mang tính tiền
định. Nghĩa là Thiên Chúa đã định trước cho ai thì người ấy đương nhiên được hưởng.
Và dường như sự tiền định này đã có ngay từ khi tạo thiên lập địa. Nếu như thế
thì sự phấn đấu, dấn thân của mỗi cá nhân cả cuộc đời không thay đổi được gì. Tuy
nhiên, sự tiền định của Thiên Chúa ở đây đúng hơn nên hiểu là sự tiền định về
vương quốc Thiên Đàng. Nghĩa là vương quốc thiên đàng vốn đã được dọn sẵn ngay
từ khi tạo thiên lập địa cho những con người có những phẩm chất được thể hiện bằng
những hành vi mà Đức Giêsu đã liệt kê, chứ không phải cho những cá nhân cố định
nào. Nó được chuẩn bị cho nhóm người phù hợp, xứng đáng được hưởng vì những
hành vi tốt lành của họ chứ không phải tiền định cho một nhóm người đặc biệt
nào từ thuở mới sinh. Công bố này của Đức Vua cũng cho thấy việc thừa hưởng
vương quốc là hồng ân của Đức Vua. Đức Vua chính là chủ thể của việc trao ban
quyền thừa hưởng vương quốc này. Động từ “thừa hưởng/ thừa kế” (κληρονομέω) tương tự như động từ dùng trong mối phúc thứ năm (Phúc cho những tử tế/
hiền lành vì họ sẽ được thừa kế/ thừa hưởng miền đất”. Động từ này ẩn chứa một
mối tương quan cha-con giữa Thiên Chúa và người thừa hưởng vương quốc. Nó có gốc
tích từ ý tưởng thừa kế/ chiếm hữu miền đất hứa của dân Israel, con Thiên Chúa,
trong Cựu Ước.
(7) “Đói…cho
ăn; khát…cho uống; người lạ… tiếp rước; trần truồng… cho mặc; bệnh… chăm sóc; ở
trong tù… thăm nom”. Có sáu cặp hành động được liệt kê theo loại song song
đối xứng, với hai hành động trong ba nhóm (1) Cho thức ăn và thức uống cho người
đói và người khát; (2) Cung cấp chổ ở cho người lạ và quần áo cho người trần
truồng; (3) Thăm viếng người bệnh và người bị tù”. Cho người đói ăn là hành động
cơ bản nhất của lòng tốt. Nó thường được nằm đầu bản liệt kê những hành động tốt
trong Thánh Kinh 9Is 58,7; G 22,7; Cn 25,21; Ed 18,7.16; Tb 1.17; 4,16).[7]
Và việc sáu cặp hành động này được đặt sau liên từ chỉ lý do (γὰρ:
bởi vì) cho thấy rõ ràng những hành động này chính là nguyên do dẫn đưa những
người bên hữu được vào Thiên Quốc. Nếu nói như thế thì chẳng phải những người
này được thừa hưởng vương quốc là do công lao của mình đó sao? Điều này xem ra
ngược lại với thần học của thánh Phaolô về ơn công chính: “Một người được công
chính không do làm những gì Lề Luật dạy nhưng nhờ tin vào Đức Kitô Giêsu” (Gl
2,16). Tuy nhiên, thánh Phaolô nói điều này trong bối cảnh nhiều người hiểu lầm
là ơn công chính có được là do công lao làm “những điều Luật dạy” của mình hơn
là một hồng ân Chúa ban. Rõ ràng, ơn công chính là hồng ân đức tin. Tuy nhiên,
không vì thế mà các tín hữu được miễn trừ thi hành những hành động tử tế với
tha nhân mỗi ngày. Chúng ta cần nối kết với thần học của thư Giacôbê để hiểu đầy
đủ hơn về chủ đề này: “Đức tin không có hành động là đức tin chết (Gc 2,17.26)…
Bạn thử thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ
hành động để cho bạn thấy thế nào là tin (Gc 2,18)… đức tin không có hành động
là vô dụng (Gc 2,20) … Sáu cặp hành động này được hiểu như là biểu trưng cho tất
cả những hành động tử tế mà những người bên hữu dành cho người khác trong suốt
cuộc đời họ. Đó là những nhu cầu hết sức căn bản của con người: Đói,
khát, trần truồng, người lạ, tù đày…Chúng biểu trưng cho tất cả nghịch cảnh của con người. Những người bên hữu làm những điều này, nghĩa là họ đã làm
hầu như tất cả những hành động tử tế mà họ có thể làm cho tha nhân. Sáu cặp
hành động này được kết với lời mời gọi phía trước: “Thừa hưởng vương quốc đã được
chuẩn bị trước ngay từ khi tạo thiên lập địa” để làm thành một mô thức hoàn hảo
của ơn cứu độ. Đó là vương quốc do Chúa chuẩn bị. Ngài chính là chủ thể của hồng
ân này. Tuy nhiên, một người không được thừa hưởng nếu người đó không muốn thừa
hưởng, bằng những biểu hiện tử tế của mình trong suốt cuộc đời họ. Văn chương
Do Thái thời sơ khai khuyên dạy rất nhiều về những hành vi bác ái. Sách Huấn Ca
dạy rằng “hãy dang tay ra với người nghèo, để những chúc lành của người có thể
được hoàn thành” (Hc 7,32). Sách Tôbia 1,16-17 liệt kê các hành động bác ái Tôbít
đã làm: Cho người đói ăn và cho người trần truồng mặc và chôn những xác chết bị
bỏ rơi. Ông Tôbít cũng khuyên con mình
là phải cho người nghèo thức ăn và cho những người trần truồng áo mặc (Tb
4,16). Văn chương Kitô giáo sơ khai cũng nói nhiều về hành động bác ái. Sách Étra
thứ tư dạy rằng: “Hãy cho người túng thiếu, bảo vệ cô nhi, mặc cho người trần
truồng, chăm sóc người mang thương tích và yếu đuối” (4 Ezra 2,20-21). Những
câu nói của Sextus 378 nói rằng: “Nếu ngươi không cho người túng thiếu khi
ngươi có thể thì ngươi cũng không thể nhận từ Đức Chúa khi ngươi túng thiếu”.[8]
Tin Mừng Mátthêu nhấn mạnh đến điều răn yêu thương (5,43-48; 19,19; 22,34-40)
và lòng thương xót (5,7; 6,2-4; 9,13; 12,7; 18,33; 23,23). Đức Giêsu cũng
khuyên người thanh niên bán của cải mình đi để cho người nghèo (Mt 19,21; Mc
10,21; Lc 18,22). Những người có những hành vi tốt lành với “những người nhỏ nhất”,
được gọi là những “người công chính”. Trong bài giảng trên núi (Mat 5 – 7), điều
kiện để được vào Nước Trời là “có sự công chính vượt trội hơn sự công chính của
các Kinh Sư và những người Pharisêu” (Mt 5,20). Những hành động tự tế cách vô vị
lợi trong đời sống thường ngày được liệt kê trong dụ ngôn cánh chung này như là
một kiểm chứng cho sự công chính được loan báo trong bài giảng trên núi.
(8) Khi
nào vậy? (πότε). Trạng từ nghi vấn về thời gian
được “những người công chính” lặp lại ba lần (25,37.38.39) dẫn đầu ba loạt hành
động, trước những tuyên dương lạ lùng của “Chúa”. Sự ngây thơ của những người
bên hữu càng tô điểm thêm vẻ đẹp của những hành vi tử tế của họ. Nghĩa là, họ đã
thể hiện những hành vi tử tế ấy một cách tự nhiên, vô vị lợi. Họ không làm bởi
vì một áp lực hay ảnh hưởng nào từ người khác. Họ đã không làm vì biết rằng đó
là những kẻ bé nhỏ nhất của Đức Vua. Họ cũng không làm chỉ bởi vì họ trông chờ
vào phần thưởng vương quốc. Những hành vi ấy chỉ xuất phát từ con tim tình yêu,
thánh thiện của họ, sự đồng cảm và lòng thương xót của họ dành cho người khác
là vô vị lợi. Chính vì thế mà họ tỏ ra ngơ ngác trước những ghi nhận của Đức
Vua.
(9) “Những
anh em bé mọn nhất của Ta” và “tất cả các nước”.
Trong những bản văn trước của Mátthêu, “những anh em bé nhỏ nhất” dường như là
những Kitô hữu (x. Mt 10,40-42; 18,6.14).[9] Tác giả A. Hultgren đề xuất
ba nghĩa: (1) Bất cứ ai cần sự trợ giúp, những người kém may mắn trong thế
gian; (2) các môn đệ của Đức Giêsu hay (3) Các người làm sứ vụ kitô giáo.[10]
Tuy nhiên, trong bối cảnh này, những người bên phải không chỉ là những Kitô hữu,
hay là những môn đệ của Chúa Kitô, nhưng là tất cả mọi người, bởi họ được chọn
ra từ tất cả các quốc gia trên thế gian chứ không riêng gì quốc gia Kitô giáo.
Danh từ “ἔθνος” không có tính từ “tất cả” thường được
Mátthêu dùng để chỉ “dân ngoại” (4,15; 6,32; 10,5.18; 21,18.21; 20,19), nhưng ở
đây nó có thể có nghĩa là các quốc gia. Nhiều học giả hiểu danh xưng này là “các
nước” (bao gồm người Do Thái), nhưng một số chuyên gia vẫn nghĩ là “dân ngoại”
hay các “quốc gia dân ngoại”[11]
Giáo Hội, như Mátthêu biết nó, được tạo nên từ những người Do Thái và dân ngoại
cùng với nhau.[12] Nó
có thể đề cập đến các Kitô hữu hoặc không Kitô hữu. Trong Bản Bảy Mươi (bản dịch
Thánh Kinh Do Thái qua tiếng Hy Lạp), danh từ này rất thường xuyên được dùng để
nói về các dân khác hơn là dân Israel (Xh 33,16; Đnl 7,7), nhưng thỉnh thoảng
nó cũng bao hàm dân Israel (Tv 48,2; Is 25,6-7).[13] Đức Vua là vua của
vũ hoàn chứ không phải chỉ là vua của Kitô giáo. “Những anh em bé mọn” là tất cả
những người túng thiếu.
Đức
vua đồng hóa chính mình với những người bé mọn nhất. Và tất cả những người bên
hữu này đều gọi Ngài là “Đức Chúa” (Lord). Danh từ “người anh em” mà Đức Vua sử
dụng cũng rất đáng chú ý. Nó làm thay đổi tương quan giữa những kẻ bé mọn và Đức
Vua cao cả. Ngài xem họ như là người nhà của mình. Ngôn ngữ gia đình được Đức Giêsu
sử dụng rất nhiều lần trong Tin Mừng Mátthêu. Danh từ “người anh em” (ἀδελφός)
được Mátthêu sử dụng 38 lần trong đó 20 lần nói đến những anh em theo nghĩa
đen. Tối thiểu 8 trong số 18 cách sử dụng ẩn dụ không có nghĩa “môn đệ” nhưng
được sử dụng khái quát theo nghĩa là người thân cận của một ai đó (Mt 5,22: Ai giận
ghét người anh em mình…; 5,47: Nếu anh chỉ chào hỏi những người anh em của
anh…; 12,48, bất kỳ ai thi hành thánh ý của Cha Ta trên trời người ấy là anh em
và chị em và mẹ tôi; 18,35: nếu anh không tha thứ cho người anh em hoặc chị em
của anh …). Đức Giêsu dạy các môn đệ gọi Thiên Chúa là cha (cha chúng con ở
trên trời). Điều đó cũng đồng nghĩa với việc Ngài muốn họ nhìn nhận tất cả mọi
người trên trái đất này đều là anh em vì họ có cùng một cha.
Danh
xưng của vị thẩm phán trong trình thuật về cuộc xét xử này được thay đổi liên tục:
Con của loài người – Đức Vua – Chúa. Ngài là Con của loài người đến trong vinh
quang với các thiên sứ theo hầu và tập họp dân cư trên toàn cõi đất lại. Ngài
là Đức Vua khi phân chia hai nhóm người bên tả bên hữu như mục tử tách chiên với
dê. Ngài cũng là Đức Vua xét xử, công bố bản án cho những kẻ bên tả và ban thưởng
cho những kẻ bên hữu. Ngài cũng là Đức vua khi đồng hóa với những người bé mọn,
Ngài xem họ như người nhà. Ngài là Chúa trong cái nhìn của những người bên hữu
và những kẻ bên tả.
(10) “Những
con chiên” = “những người bên phải” = “Những kẻ được chúc phúc”= “những người
công chính” >< “Những con dê” = “những người bên trái” = “những kẻ bị
nguyền rủa”. Những người bên hữu được gọi bằng hai danh xưng
trong khi đó những kẻ bên tả chỉ có một danh xưng mà thôi. Đối lại với danh
xưng “những người được chúc phúc” là danh xưng “những kẻ bị nguyền rủa”. Trong
khi danh động từ thể bị động, “những kẻ được chúc phúc” (οἱ εὐλογημένοι),
ngụ ý tác nhân thần linh là Thiên Chúa, cụm giới từ “của Cha Tôi” (τοῦ
πατρός μου) định hình tương quan giữa “những người bên phải” với
“Cha”. Họ là của “Cha” hay họ thuộc về Cha. Tương tự, danh động từ ở thể bị động
“những người bị nguyền rủa” (οἱ κατηραμένοι)
cũng ngụ ý tác nhân thần linh là Thiên Chúa. Những người này không có tương
quan với “Cha”, nhưng có tương quan với “quỷ” vì nơi chốn mà họ đi vào là “nơi
được chuẩn bị cho quỷ và các sứ giả của nó” (τὸ ἡτοιμασμένον τῷ διαβόλῳ
καὶ τοῖς ἀγγέλοις αὐτοῦ). Những người bên trái có thể được hiểu
là “các sứ giả của quỷ”. Đức Vua chắc chắn không muốn chúc dữ cho ai. Danh xưng
“những người công chính” được lặp lại 2 lần trong dụ ngôn này, trong khi nhóm người
bên tả chỉ được nhắc đến bằng đại từ ngôi thứ ba. Những quan sát về mặt từ ngữ
và cách dùng từ cho thấy sự vượt trội, ưu thế của những người bên hữu. Tính từ “công
chính” được dùng như danh từ với mạo từ xác định, số nhiều đứng trước được Mátthêu
sử dụng năm lần, hai trong năm lần đó được dùng trong dụ ngôn này. Những người
công chính trong dụ ngôn này xem ra được định nghĩa bởi hai đặc tính nổi bật. Đặc
tính thứ nhất là “được Cha chúc phúc”. Đặc tính thứ hai là có tình yêu và lòng
trắc ẩn với “những người anh em bé mọn.” Những hành vi bác ái của họ, thể hiện
một cách tự nhiên, được chuẩn nhận từ Đức Vua. Trong Mt 13,17, những người công
chính được đặt cạnh những ngôn sứ với ước muốn được nghe lời giảng của Đức
Giêsu mà không được nghe. Cũng trong chương 13, những người công chính được cho
là sẽ chiếu sáng như mặt trời trong vương quốc của Cha của họ (Mt 13:43). Cũng
trong bối cảnh những lời giảng về cánh chung, qua dụ ngôn cỏ lùng, Đức Giêsu nhắc
đến ân thưởng này của những người công chính.
(11)
“Hình phạt vô tận” và “sự sống đời
đời”. Hai hình ảnh trái ngược mô tả hai tình trạng đời đời của “họ” (những
người nguyền rủa) và “những người được chúc phúc”. Đó là phần đóng lại cho phần
khởi đầu của bản án dành cho cả hai nhóm người. Khởi đầu dành cho “những người
bên phải”: “Hãy lại đây, những người được chúc phúc của Cha Tôi! Hãy thừa hưởng
vương quốc đã được chuẩn bị cho anh em (25,34) … Kết cục: những người công
chính ra đi vào sự sống vĩnh cửu” (25,46); Khởi đầu dành cho “những người bên
trái”: “Hãy đi khỏi Tôi, những kẻ bị nguyền rủa, vào lửa đời đời đã được chuẩn
bị cho quỷ và các sứ giả của nó (25,41)… Kết cục: Họ ra đi vào sự trừng phạt
muôn đời” (25,46). Tính từ thời gian “αἰώνιος” (muôn đời, vô
tận, muôn kiếp) được sử dụng kèm với bản án. Phần thưởng sự sống đời đời đối lại
với hình phạt muôn kiếp. Đây là lối diễn tả của thời cánh chung. Một khi Đức
Vua đã kết án thì bản án này vĩnh viễn không thể thay đổi. Nó giống như hoàn cảnh
của mười cô trinh nữ trong dụ ngôn trước đó (Mt 25,1-13). Năm cô khờ dại có gõ
cửa bao nhiều lần thì cửa vẫn không mở. Số phận của ba người đầy tớ trong dụ
ngôn những talanton cũng tương tự như thế (Mt 25,14-30). Người đầy tớ biếng
nhác và xấu xa thì trở thành “kẻ khóc lóc và nghiến răng”. Những bản án ấy là
vĩnh viễn không thay đổi được. Điều đó vừa cho thấy tính cách khắc nghiệt của bản
án nếu ai đó bị trừng phạt vừa diễn tả niềm vui khôn cùng, vô tận của những người
được thừa hưởng vương quốc.
“Những người bên phải”: Khởi
đầu: “Hãy lại đây, những người được chúc phúc của Cha Tôi! Hãy thừa hưởng
vương quốc đã được chuẩn bị cho anh em (25,34) Kết
cục: Những người công chính ra đi vào sự sống vĩnh cửu” (25,46) “Những người bên trái”: Khởi
đầu: “Hỡi những kẻ bị nguyền rủa! Hãy đi vào lửa đời đời đã được chuẩn bị cho
quỷ và các sứ giả của nó (25,41) Kết
cục: Họ ra đi vào sự trừng phạt muôn đời (25,46) |
Bình
Luận Tổng Quát
Dụ
ngôn “những con chiên và và những con dê” hay là “trình thuật về cuộc phán xét”
một lần nữa cho thấy kiểu hành văn song đôi trong Tin Mừng Mátthêu. Theo mô thức
của kiểu hành văn này, sẽ có một nhóm bên phải, bên của những con chiên, và sẽ
có một nhóm bên trái, bên của những con dê. Sự phân chia này đã bộc lộ ngay từ
đầu hai tính cách và dẫn đến hai số phận khác biệt, đối lập giữa hai nhóm người.
Khung cảnh của buổi triệu tập cuối cùng thật hùng tráng. Tất cả các dân, các nước,
mọi thành phần dân chúng không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, giai cấp,
giàu nghèo đều được mời gọi tham dự. Không chỉ là tất cả các thần dân dưới đất
nhưng còn là toàn bộ các thiên sứ trên cõi trời cao. Chủ trì của buổi phân xử
này là Con của loài người, Đức Vua, là Đức Chúa. Không ai khác chính là Đức Kitô
Phục Sinh, Đấng đã được ban toàn quyền trên trời dưới đất. Ngài đến, dĩ nhiên
không phải để trừng phạt, hay nói đúng hơn Ngài chắc hẳn không muốn trừng phạt
ai. Ngài đến để tìm và cứu những gì đã mất (Mt 15,24; 18,14; Lc 15,1-32). Trong
buổi cánh chung, chắc hẳn rằng nhà vua muốn tất cả, hoặc ít ra đa số thần dân ấy
thuộc về nhóm bên hữu. Vương quốc đã được chuẩn bị ngay từ khởi đầu cho tất cả
mọi thần dân, tất cả đều được mời gọi. Tuy vậy, tiếc thay không phải tất cả mọi
người đều muốn vào, muốn thừa hưởng. Không phải tất cả đều nỗ lực hết sức để
qua cửa hẹp mà vào. Chính vì thế mới có những người bên tả và những kẻ bên hữu;
có những người được Cha chúc phúc, và những kẻ bị nguyền rủa. Hồng ân chúc phúc
dĩ nhiên là thuộc thẩm quyền của Đức Vua. Tài sản thừa kế vương quốc là món quà
nhưng không của Người. Vậy nhưng, điều đó không loại trừ trách nhiệm, thiện chí
muốn vào của các thần dân. Đức Vua quan sát và ghi nhận tất cả những hành động
tử tế mà từng người dân của Ngài dành cho những anh em bé mọn. Nhờ vậy mà Ngài
có thể điểm mặt chỉ tên từng người từng việc một cách rành mạch chính xác. Có
những việc lành, đôi khi chính đương sự không còn nhớ đến nữa, nhưng Đức Vua
thì không. Ngài ghi nhớ tất cả. Những người bên hữu đã bày tỏ tình yêu và lòng
thương xót dành cho những người lâm cảnh cơ hàn, nghịch cảnh. Đó là những kẻ
đói cơm, thiếu nước, không mảnh vải che thân, không cửa không nhà, bệnh tật, tù
đày… những hành vi này tượng trưng và bao quát hết tất cả những hành động tử tế
cho tất cả những mảnh đời bất hạnh mà Đức Vua không muốn kể hết vì chúng quá
nhiều. Đó là những người “anh em” của Chúa, người nhà của Chúa. Họ, những người
bên hữu làm những điều ấy với tất cả tình yêu và vô vị lợi. Thậm chí họ quên
đi, và ngây thơ, ngỡ ngàng trước sự nhắc nhớ của Đức Vua. Ngược lại với những
người bên hữu, những người bên tả đã dửng dưng với những mảnh đời bất hạnh đi
qua cuộc đời họ. Họ đã chẳng mảy may nghĩ đến và ra tay cứu giúp. Họ đã không
thấy Đức Vua đói, không thấy Đức Vua khát, không thấy Đức Vua trần truồng,
không gặp Đức Vua là người lạ, là đau bệnh, và không biết Đức Vua ở tù, vì nếu
thế thì họ đã lập tức ra tay cứu giúp vì họ mong mỏi Đức Vua sẽ đáp trả họ, sẽ
mang ơn họ. Nếu như sự giải thích, vẻ ngây ngô của những người bên hữu càng tô
đẹp tính cách vô vị lợi trong những việc lành của họ thì sự giải thích của những
người bên tả càng tô đậm tính vị lợi trong suy nghĩ của họ. Làm cho “một trong
những anh em bé mọn này” chính là làm cho Đức Vua và không làm cho “một trong
những người bé mọn này” là không làm cho Đức Vua.
Dụ
ngôn chiên và dê hay là trình thuật về buổi phân xử là trình thuật cuối cùng
trong loạt bài giảng nói về thời cánh chung. Nó vừa đúc kết, vừa giải thích và
hoàn trọn những thông điệp gợi mở trong những dụ ngôn phía trước. Nếu như trong
dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể (Mt 25,1-13), người ta vẫn thắc mắc về chất
dầu mà năm cô trinh nữ khôn ngoan đã mang theo là gì? Và trong dụ ngôn những
talanton (Mt 25,14-30) người ta cũng lại thắc mắc những talanton mà hai người đầy
tớ đầu tiên đã sinh lời (một người sinh lời được năm talanton và một người sinh
lời được hai talanton khác) là gì? Thì trong dụ ngôn chiên và dê người ta có thể
tìm thấy câu trả lời. Chất dầu và những talanton lời ấy chính là tình yêu và lòng
thương xót được thể hiện mỗi ngày trong cuộc đời mỗi người. Đó là chất dầu giúp
đèn của những trinh nữ khôn ngoan luôn cháy sáng để đón chàng rể và theo chàng
vào phòng tiệc cưới. Đó cũng là những talanton lời giúp cho hai người đầy tớ đầu
tiên được trao phó nhiều hơn và được mời đi vào trong niềm vui của ông chủ.
Trình thuật cuối cùng không còn nói đến những ẩn dụ sự vật như dầu, đèn hay
talanton (nén bạc) nhưng nói đến những mối tương quan của những con người bằng
xương bằng thịt. Những đối tượng của lòng thương xót không phải ai xa lạ mà
chính là “những người anh em bé nhỏ của” Chúa. Phần thưởng của những người được
chúc phúc không chỉ là chung vui tiệc cưới nhưng là sự sống vĩnh cửu. Hình phạt
dành cho những kẻ bị chúc dữ là hình phạt vĩnh cửu. Nó bao hàm cả việc trở
thành những kẻ “khóc lóc và nghiến răng” vĩnh cửu, không thay đổi được. Cần lưu
ý rằng, tuy tình yêu và lòng thương xót dành cho những người cùng khổ được xem
như là những tiêu chí trọng yếu trong cuộc phân xử cánh chung, nhưng đó không
phải là tất cả. Nó không thể bao trùm và miễn trừ cho việc thực thi tất cả các
giáo huấn khác của Đức Giêsu trong toàn bộ Tin Mừng Mátthêu, cũng như các Tin Mừng
khác. Còn đó những giá trị Tin Mừng như là Bát Phúc, Hiến Chương Nước Trời, đức
tin, sự hoán cải, sự bao dung, tha thứ, lối sống khó nghèo…. mà những kẻ muốn
hoàn thiện như Cha trên trời phải theo đuổi mỗi ngày. Những giá trị Tin Mừng
các tín hữu phải theo đuổi mỗi ngày là cả cuốn Thánh Kinh chứ không chỉ là đoạn
Tin Mừng về cuộc phán xét ở Mt 25,31-46.
Những
lời nhắc nhở của Đức Giêsu về thời cánh chung là rất rõ ràng và quyết liệt. Chủ
ý của Phụng Vụ Giáo Hội trong ngày cuối cùng của năm Phụng Vụ cũng rất rành mạch.
Vấn đề còn lại là sự chọn lựa và đáp trả của mỗi cá nhân. Sẽ đến lúc mỗi người
phải đối diện với Chúa và phải trả lời về tất cả những hành vi lớn nhỏ trong cuộc
đời mình. Hình phạt muôn kiếp hay sự sống vĩnh cửu phụ thuộc vào chọn lựa và dấn
thân của mỗi người ngày hôm nay.
Lm.
Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] See G. W. E. NICKELSBURG, The
Anchor Bible Dictionary, “Son of Man”.
[2] D. J. Harington, The Gospel
of Matthew (SP 1; Collegeville 1991) 356.
[3] “Familiar scenes
of the Middle East, ancient and modern, are brought forth. Sheep and goats are
often herded together. But they must be separated when goats are milked and
sheep are sheared” [A.J Hultgen, The
Parables of Jesus. A Commentary (Grand Rapids – Cambridge 2000) 311].
[4] K.R. Snodgrass, Stories with
Intent. A Comprehensive Guide to the Parables of Jesus (Grand Rapids 2008)
422.
[5] K.R. Snodgrass, Stories with
Intent, 421.
[6]
W. D. Davies – D.C. Allison, A Critical and Exegetical Commentary on the
Gospel According to Saint Matthew (London - New York 2004) 424.
[7] A.J Hultgen, The Parables of Jesus, 315.
[8]
K.R. Snodgrass, Stories
with Intent, 419.
[9] D. J. Harington, The Gospel
of Matthew (SP 1; Collegeville 1991) 357.
[10] A.J Hultgen, The Parables of Jesus, 317.
[11] A.J Hultgen, The Parables of Jesus, 312.
[12] A.J Hultgen, The Parables of Jesus, 314.
[13] K.R. Snodgrass, Stories with
Intent, 424.
No comments:
Post a Comment