Bản Văn 6,24-35
Hy Lạp |
Việt |
24 ὅτε οὖν εἶδεν ὁ ὄχλος ὅτι
Ἰησοῦς οὐκ ἔστιν ἐκεῖ οὐδὲ οἱ μαθηταὶ αὐτοῦ, ἐνέβησαν αὐτοὶ εἰς τὰ πλοιάρια
καὶ ἦλθον εἰς Καφαρναοὺμ ζητοῦντες τὸν Ἰησοῦν. 25 καὶ εὑρόντες αὐτὸν πέραν
τῆς θαλάσσης εἶπον αὐτῷ· ῥαββί, πότε ὧδε γέγονας; 26 Ἀπεκρίθη αὐτοῖς ὁ Ἰησοῦς καὶ εἶπεν· ἀμὴν ἀμὴν λέγω ὑμῖν, ζητεῖτέ με οὐχ ὅτι εἴδετε σημεῖα, ἀλλ᾽ ὅτι
ἐφάγετε ἐκ τῶν ἄρτων καὶ ἐχορτάσθητε. 27 ἐργάζεσθε μὴ τὴν βρῶσιν τὴν ἀπολλυμένην ἀλλὰ τὴν βρῶσιν
τὴν μένουσαν εἰς ζωὴν αἰώνιον, ἣν ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου ὑμῖν δώσει· τοῦτον γὰρ ὁ πατὴρ
ἐσφράγισεν ὁ θεός. 28 εἶπον οὖν πρὸς αὐτόν· τί ποιῶμεν
ἵνα ἐργαζώμεθα τὰ ἔργα τοῦ θεοῦ; 29 ἀπεκρίθη [ὁ] Ἰησοῦς καὶ εἶπεν αὐτοῖς· τοῦτό ἐστιν τὸ ἔργον τοῦ θεοῦ, ἵνα πιστεύητε
εἰς ὃν ἀπέστειλεν ἐκεῖνος. 30 Εἶπον οὖν αὐτῷ· τί οὖν ποιεῖς
σὺ σημεῖον, ἵνα ἴδωμεν καὶ πιστεύσωμέν σοι; τί
ἐργάζῃ; 31 οἱ πατέρες ἡμῶν τὸ μάννα ἔφαγον
ἐν τῇ ἐρήμῳ, καθώς ἐστιν γεγραμμένον· ἄρτον ἐκ τοῦ οὐρανοῦ
ἔδωκεν αὐτοῖς φαγεῖν. 32 εἶπεν οὖν αὐτοῖς ὁ Ἰησοῦς· ἀμὴν
ἀμὴν λέγω ὑμῖν, οὐ Μωϋσῆς δέδωκεν ὑμῖν τὸν ἄρτον ἐκ τοῦ οὐρανοῦ, ἀλλ᾽ ὁ πατήρ μου δίδωσιν ὑμῖν τὸν
ἄρτον ἐκ τοῦ οὐρανοῦ τὸν ἀληθινόν· 33 ὁ γὰρ ἄρτος τοῦ θεοῦ ἐστιν ὁ
καταβαίνων ἐκ τοῦ οὐρανοῦ καὶ ζωὴν διδοὺς τῷ κόσμῳ. 34 εἶπον οὖν πρὸς αὐτόν· κύριε, πάντοτε δὸς ἡμῖν τὸν ἄρτον τοῦτον. 35 εἶπεν αὐτοῖς ὁ Ἰησοῦς· ἐγώ
εἰμι ὁ ἄρτος τῆς ζωῆς· ὁ ἐρχόμενος πρὸς ἐμὲ
οὐ μὴ πεινάσῃ, καὶ ὁ πιστεύων εἰς ἐμὲ οὐ μὴ διψήσει πώποτε. (Jn. 6:24-35 BGT) |
24 Khi đám
đông thấy rằng Đức Giê-su không ở đó các môn đệ của Người cũng không, họ lên
thuyền và đi vào Ca-phác-nao-um tìm Đức Giê-su 25 Khi tìm thấy Người bên kia Biển Hồ, họ nói cùng Người:
“Thưa Thầy, Thầy đã ở đây khi nào vậy? 26 Đức
Giê-su trả lời với họ và nói rằng: “Amen, Amen,
tôi bảo anh chị em, anh chị em tìm tôi không
phải bởi vì anh chị em đã thấy những dấu [lạ],
nhưng bởi vì anh chị em đã ăn bánh và được no thỏa. 27 Hãy làm việc không phải vì lương thực hư nát nhưng vì lương
thực duy trì sự sống đời đời, bánh mà Con Người sẽ ban cho anh chị em, vì Chúa Cha
đã ấn định điều đó. 28 họ nói cùng Người: “chúng tôi phải làm gì để mà có thể làm
công việc của Thiên Chúa? 29 Đức
Giê-su trả lời và nói cùng họ: “đây là công việc của
Thiên Chúa, rằng anh chị em có thể tin vào Đấng mà
Người đã sai đến” 30 rồi họ
nói cùng Người: “Vậy thì Ngài làm dấu [lạ] nào
để chúng tôi có thể thấy và tin vài Ngài? Ngài làm việc
gì? 31 Tổ tiên
chúng tôi đã ăn Manna trong sa mạc, như đã được
chép rằng: “Ông ấy đã cho họ ăn bánh từ trời” 32 Đức
Giê-su nói cùng họ: “Amen, Amen, tôi bảo anh
chị em, không phải ông Mô-sê đã ban cho anh chị em bánh từ
trời, nhưng Cha của tôi ban tặng anh chị
em bánh từ trời, bánh
đích thực. 33 vì bánh của
Thiên Chúa là Đấng xuống từ trời và là Đấng ban sự sống cho thế gian. 34 họ mới nói
cùng Người: “thưa Ngài! Xin luôn luôn ban cho chúng tôi bánh ấy” 35 Đức
Giê-su nói cùng họ: “chính tôi là bánh của sự sống,
ai đến cùng tôi không thể nào đói; ai tin vào tôi sẽ không khát bao giờ |
Bối cảnh bản văn
Đoạn văn Ga
6,24-35 là đoạn đầu tiên trong diễn từ “Bánh Hằng Sống” ở hội đường Ca-phác-nao-um
(Ga 6,22-66). Trong bối cảnh trực tiếp, đoạn văn này nằm ngay sau đoạn văn kể về
phép lạ Đức Giê-su đi trên mặt nước và dẫn con thuyền đang gặp sóng gió của các
môn đệ đến bến bình an. Hình ảnh này gợi nhớ đến việc “đám đông lớn” đã tuyên
xưng: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (Ga 6,14), sau khi chứng
kiến phép lạ “Hóa Bánh Ra Nhiều” (Ga 6,1-15). Ý tưởng về “vị ngôn sứ, Đấng phải
đến thế gian” lại gợi nhớ đến hình ảnh vị ngôn sứ như ông Mô-sê được nói đến
trong sách Đệ Nhị Luật: “Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như
ngươi [Mô-sê] để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy,
và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy” (Đnl
18,18). Ngôn sứ Mô-sê đã dẫn dân Ít-ra-el vượt qua Biển Sậy, cũng như Đức
Giê-su đã dẫn các môn đệ, đại diện cho dân mới vượt qua Biển Hồ. Sau khi vượt
qua “Biển Sậy”, ông Mô-sê đã cầu xin cho dân ăn Manna[1] từ trời thoải mái. Đức
Giê-su cũng đã cho “đám đông lớn” ăn bánh mì thoải mái. Tuy nhiên, Đức Giê-su
không chỉ là Mô-sê mới. Người hơn hẳn ông Mô-sê, bởi Người có khả năng ban bánh
sự sống từ trời. Người cũng chính là bánh trường sinh, bánh đích thực. Diễn từ
về “Bánh trường sinh” rõ ràng nối kết chặt chẽ với phép lạ “hóa bánh ra nhiều”
trước đó (Ga 6,1-15). Trong bối cảnh rộng hơn, chủ đề ăn Manna và ngôn sứ
Mô-sê nối kết với khoảng thời gian bốn mươi năm dân Ít-ra-el đi trong sa mạc
cho đến khi vào đất hứa. Chủ đề “sự sống đời đời” là một trong những chủ
đề rất quan trọng trong thần học Gioan. Ông là tác giả Tin Mừng nói nhiều nhất
về chủ đề này.[2]
Niềm tin là hiệu quả tốt nhất cho niềm tin vào Đức Giê-su: “Ai tin vào người
Con thì có được sự sống đời đời” (Ga 3,36; Cf. Ga 5,24; 6,47).
Cấu trúc bản
văn
Bản văn này có
thể được cấu trúc theo kiểu đối thoại giữa hai nhân vật: Đức Giê-su và đám
đông. Tuy nhiên, để nhìn thấy dễ dàng hơn nội dung của cuộc đối thoại, nó nên
được cấu trúc theo kiểu “bậc cấp của một cầu thang bộ”, trong đó, “bậc cấp” sau
được xây dựa trên “bậc cấp” trước nó. Nhờ đó, cuộc đối thoại xem ra rắc rối này
được tổ chức một cách hợp logic, mạch lạc, từ trên xuống dưới. Khởi đầu từ việc
đám đông đi tìm kiếm Đức Giê-su, vì đã được ăn bánh mì no nê (A). Đức Giê-su
cho họ thấy rằng: đó là của ăn hư nát (B) và Người giới thiệu cho họ một “công
việc” mang lại của ăn duy trì sự sống vĩnh cửu (C). Đám đông bắt đầu hứng thú về
công việc đó (D). “Công việc” đó là: “Tin vào Đấng Chúa Cha sai đến” (E). Muốn
người ta tin vào Người thì Người phải làm dấu lạ nào đó, tỷ như dấu lạ Manna
trong Cựu Ước vậy (F). Người giới thiệu cho họ bánh từ trời, bánh đích thực mà
Chúa Cha ban tặng (G). Bánh ấy chính là “Đấng đi xuống từ trời và ban tặng sự sống
cho thế gian” (H). Lời quảng cáo của Đức Giê-su đã làm cho đám đông phấn khích.
Họ muốn Người ban cho họ “bánh ấy” (I). Cuối cùng, Đức Giê-su bật mí: “Người
chính là bánh ban sự sống, bất kỳ ai đến với Người sẽ không đói và bất kỳ ai
tìn vào Người chẳng khát ba giờ” (J).
(A) Đám
đông tìm Đức Giê-su vì ăn bánh mì no nê (6,24-26) (B) Bánh mì là của ăn hư nát (6,27a) (C)
Hãy làm việc vì của ăn duy trì sự sống đời đời (6,27b) (D)
Công việc của Thiên Chúa là gì? (6,28) (E)
Công việc đó là “tin vào Đấng Chúa Cha sai đến” (6,29) (F)
Dựa vào dấu lạ nào để tin? dấu lạ Manna chẳng hạn (6,30-31) (G)
Chúa Cha đang ban bánh từ trời, bánh đích thực (6,32) (H)
Đấng đi xuống từ trời và ban sự sống cho thế gian (6,33) (I)
Vậy thì, hãy ban cho chúng tôi bánh ấy hoài đi (6,34) (J)
Tôi chính là bánh ban sự sống “Ai đến với tôi, không thể đói Ai tin vào tôi chẳng bao giờ khát”
(6,35) |
1. “Đám
đông”: Đám đông này căn bản là “đám đông lớn” đã đi theo Đức Giê-su, vì đã chứng
kiến nhiều dấu lạ Đức Giê-su làm trên những người đau ốm. Và rồi họ được chứng
kiến dấu lạ “hóa bánh ra nhiều”, đã ăn bánh no nê, đã tuyên xưng Đức Giê-su là
“vị ngôn sứ Đấng phải đến thế gian”, cuối cùng họ muốn bắt Đức Giê-su mà tôn
lên làm vua. Đức Giê-su đã lánh mặt họ và đi lên núi một mình. Còn các môn đệ
cũng lên thuyền rời khỏi đám đông vào đêm hôm ấy. Đám đông này có thể đông hơn
nữa vì “có những chiếc thuyền từ Ti-bê-ri-a đến” và đám đông này đã nhập thuyền
với họ (Ga 6,23). Tuy nhiên, thật là khó để tưởng tượng rằng, có một lượng thuyền
đủ để chở đám đông hơn 5000 người đến Ca-phác-nao-um. Chính vì vậy E. Haenchen – R. Funk – U. Busse cho rằng người
thuật chuyện có lẽ không còn trong đầu đám đông lớn như thế. Họ nghĩ rằng đám
đông chừng 100 người.[3]
2. “Tìm Đức Giê-su”: Sau khi bị Đức Giê-su
bỏ rơi, vì ý định “tôn Người lên làm vua”, đám đông vẫn tiếp tục “đi tìm” Người.
Họ biết các môn đệ đi về hướng Ca-phác-nao-um nên họ lên thuyền đi về nơi ấy để
tìm Người. Quả thực, họ đã tìm gặp Người ở đó (Ga 6,25). Danh xưng của họ dành
cho Đức Giê-su cũng khá lạ lùng. Lần đầu tiên họ gọi Đức Giê-su là “Rabbi” (nghĩa
là Thầy).[4] Trong các tác giả sách Tin
Mừng, Gioan là tác giả dùng nhiều nhất danh xưng này (Ga: 8 lần; Mc: 3 lần, Mt:
4 lần; Lc: 0). Một lần nó được dùng cho Gioan Tẩy Giả (Ga 3,26), còn tất cả đều
để gọi Đức Giê-su. Hầu hết những người dùng danh xưng này đều là các môn đệ của
Đức Giê-su (Ga 1,38.49; 4,31; 9,2; 11,8). Ông Ni-cô-đê-mô cũng gọi Đức Giê-su
là Rabbi, vì ông cũng là một mộn đệ của Đức Giê-su trong thầm kín. Đám đông này
được diễn tả bằng động từ “đi theo” Đức Giê-su (Ga 6,2), và họ gọi Đức Giê-su
là Rabbi. Hai động thái này cho thấy dường như họ cũng là những môn đệ của Đức
Giê-su theo nghĩa rộng. Danh xưng Rabbi (thầy dạy) được dùng trong bối cảnh này
cũng rất ý nghĩa, bởi bì ngay sau đó Đức Giê-su sẽ dạy cho đám đông về lương thực
duy trì sự sống đời đời, và Chúa Cha là người ban tặng nó. Câu hỏi: “Thầy ở đã ở
đây khi nào vậy?” cho thấy họ quan tâm từng giây phút Người hiện diện ở một nơi
nào đó. Có thể, là họ muốn biết rằng họ đã tìm gặp Người trong khoảng thời gian
ngắn nhất hay chưa, hay là họ đã bỏ lỡ thời gian dài để tìm Người. Quan tâm đến
khoảng thời gian Đức Giê-su đã ở đó là quan tâm đến từng phút giây trong cuộc đời
Đức Giê-su.
3. “Amen,
Amen”: Trạng từ “amen” nhân đôi,
cùng với động từ “bảo”, được sử dụng hai lần trong đoạn Tin Mừng này. Cách dùng
này là đặc trưng của Tin Mừng thứ tư. Các
tác giả Tin Mừng Nhất Lãm (Mát-thêu, Mác-cô và Luca) cũng dùng nhiều lần cách
nói này, nhưng họ không nhân đôi trạng từ “amen”. Cách dùng này thường là để nói điều gì đó một
cách trịnh trọng hoặc muốn nhấn mạnh một vấn đề. “Amen” nguyên ngữ tiếng Do
Thái (אָמֵֽן) có nghĩa là thật, vững chắc, đáng tin cậy. Trong Phụng Vụ, “amen”
thường được dùng để xác nhận và đồng ý cách mạch mẽ vào cuối một lời vinh tụng
ca với ý nghĩa là: “Đúng là như vậy” (Rm 11,36); hoặc là cuối một lời cầu nguyện
tạ ơn với nghĩa là “thật là chính đáng” (1 Cr 14,16).[5] Trong đoạn Tin Mừng này, Đức
Giê-su dùng để khẳng định thực tế là đám đông tìm Đức Giê-su không phải là vì họ
đã thấy dấu lạ, nhưng vì họ đã được ăn bánh no nê. Lần thứ hai, Đức Giê-su muốn
nhấn mạnh rằng không phải ông Mô-sê đã ban cho họ bánh từ trời, nhưng chính Cha
của Đức Giê-su ban cho họ bánh đích thực bởi trời.
4. “Thấy những dấu [lạ] … Ngài làm dấu lạ nào?”:
Đức Giê-su công bố một cách trịnh trọng rằng đám đông đi tìm Người không phải
vì đã thấy dấu lạ. Khẳng định này có vẻ lạ lùng, bởi tác giả đã cho biết rằng
đám đông này đi theo Đức Giê-su, vì họ đã “chứng kiến nhiều dấu lạ Đức Giê-su
làm trên các người bệnh” (Ga 6,2). Sau khi chứng kiến phép lạ Đức Giê-su làm, họ
cũng đã tuyên xưng Người là “vị ngôn sứ Đấng phải đến thế gian” (6,14). Có lẽ,
họ đã thấy dấu lạ, nhưng đã hiểu sai về vai trò của Đức Giê-su. Họ đang trông đợi
Người làm vua của họ, để giải quyết những khó khăn về lương thực cũng như vấn đề
vật chất, cùng với đời sống kinh tế chính trị đang bế tắc.[6] Việc họ hỏi Đức Giê-su rằng:
“Ngài làm được dấu lạ nào để chúng tôi thấy mà tin Ngài?” càng lạ lùng hơn. Dấu
lạ họ đã chứng kiến không phải là dấu lạ đáng tin hay sao? Hay đám đông này là
một đám đông khác, chưa từng thấy dấu lạ? Mạch văn cho thấy, đây chính là nhóm
đã ăn bánh và được no nê. Vậy thì, có thể, dấu lạ mà họ muốn nói là dấu lạ như
kiểu như ông Mô-sê đã cho cha ông họ ăn bánh từ trời. Đức Giê-su đã cho họ ăn
bánh mì no nê từ 5 chiếc bánh và 2 con cá, sao vẫn còn chưa giống với Mô-sê? Có
lẽ điều họ muốn những thứ bánh thật sự từ trời, như Manna vậy và với số lần ăn
kéo dài chứ không phải chỉ một lần.[7] Đó là lý do mà họ đi tìm Đức
Giê-su và bị Đức Giê-su nắm thóp và nhắc nhở. Đám đông cố gắng ép Đức Giê-su
vào mẫu thức Mô-sê của họ: Mô-sê ban Manna và Luật mang lại sự sống thể xác
tinh thần cho Ít-ra-el.[8] Đức Giê-su vừa là bánh được
ban, vừa là người ban bánh và Lề Luật.
5. 5. “Lương thực hư nát”: Dĩ nhiên, Đức Giê-su có thể làm dấu lạ hóa bánh nhiều lần. Thật vậy, Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại ít nhất 2 lần Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Lần thứ nhất từ năm chiếc bánh và hai con cá, Đức Giê-su đã cho hơn 5000 người ăn và còn dư 12 giỏ bánh vụn (Mc 6,34-44; Mt 14,13-21; Lc 9,10-17). Lần thứ hai Người đã cho khoảng bốn ngàn người ăn no từ bảy chiếc bánh và còn dư bảy giỏ bánh vụn (Mc 8,1-10; Mt 15,32-39). Tuy nhiên, Đức Giê-su không làm hoài những phép lạ như thế. Người không phải là giải pháp cho vấn đề cơm bánh của họ. Người không muốn họ nghĩ đến Người như là vị thần giải quyết nạn đói. Dĩ nhiên, Người không muốn họ chết đói, chết khát. Vấn đề là Người muốn họ hiểu rằng đó là thứ “bánh hư nát”. Động tính từ “hư nát” ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa: (1) Chất bánh mau hư nát; (2) Người ăn bánh ấy dù no trong chốc lát nhưng đến lúc người ấy cũng chết đi. Người không muốn họ bận tâm cả đời cho thứ bánh ấy và đến với Người cũng vì thứ bánh ấy.
6. “Lương
thực duy trì sự sống đời đời”: Sau khi đã cảnh giác họ về “bánh hư
nát”, Đức Giê-su bắt đầu giới thiệu cho họ về một thứ lương thực khác, lương thực
có khả năng kéo dài sự sống đến đời đời. Phận người “sinh, bệnh, lão, tử” là
chuyện bình thường. Cái chết luôn là nỗi bất hạnh lớn nhất và đáng sợ nhất của kiếp
người. Chính vì thế, giấc mơ “trường sinh bất lão”, “cải lão hoàn đồng”, luôn
là giấc mơ của biết bao nhiêu vua chúa, tỷ phú từ cổ chí kim. Tuy nhiên, chưa
có ai thoát khỏi được nỗi ám ảnh của cái chết. Đức Giê-su cũng đã dạy rằng “hỏi
có ai trong anh em, nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm dù chỉ là một gang
tay” (Mt 6,27; Lc 12,25). Các Thánh Vịnh Gia của thời Cựu Ước cũng đã cảm nhận
sâu sắc về sự ngắn ngủi của phận người: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục; mạnh
giỏi chăng là được tám mươi; mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ; cuộc đời thấm
thoát, chúng con đã khuất rồi” (Tv 90,10) hay là “kiếp phù sinh tháng ngày vắn
vỏi; tươi thắm như cỏ nội hoa đồng; một cơn gió thoảng là xong; chốn xưa mình ở
cũng không biết mình” (Tv 103 15-16). Chính vì thế, Chúa Giê-su đến mang lại
cho người ta niềm hy vọng về “sự sống đời đời”. Đó là một chủ đề rất quan trọng
trong giáo huấn của Người. Văn Chương Do Thái thế kỷ thứ hai C.E (kỷ nguyên
chung, trước Chúa Ki-tô), đã bắt đầu suy tư về sự sống đời đời. Sách Ma-ca-bê
quyển thứ hai đã ghi lại lời của những chứng nhân tử đạo: “Chúng tôi chết vì luật
pháp của Vua Vũ Trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời”
(2 Mcb 7,9; Cf. 7,36). Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại câu chuyện người thanh niên
giàu có hỏi Đức Giê-su về bí kíp để có được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Đức
Giê-su cho biết bí kíp là “giữ các điều răn” và “bán của cải, cho người nghèo,
rồi đến theo Đức Giê-su” (Mc 10,23-27; Cf. 19,23-26; Lc 18,24-27). Gioan là tác
giả ghi lại nhiều nhất những giáo huấn của Đức Giê-su liên quan đến “sự sống đời
đời”: “Ai tin vào Người Con thì có được sự sống đời đời” (Ga 3,36); “Ai nghe
tôi và tin vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời” (Ga 5,24; Cf. 6,47). Vào
cuối diễn từ “Bánh Hằng Sống”, Phê-rô sẽ lên tiếng khẳng định rằng: “Thầy mới
có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).
7. “Bánh
hằng sống mà Con Người sẽ ban … Bánh từ trời mà Chúa Cha ban”: Ở đây, Đức
Giê-su khẳng định chính Người là chủ thể ban bánh hằng sống (6,27). Sau đó, Đức
Giê-su lại nói là “Cha” của Người ban tặng “bánh từ trời” (Ga 6,33). Hai lời
nói này thoạt tiên xem ra nghịch lý với nhau, nhưng thực tế lại bổ sung cho
nhau. Đức Giê-su chính là “Bánh ban sự sống” (Ga 6,34) và Người ban chính thân
mình cho nhân loại. Có thể nói rằng Đức Giê-su vừa là bánh, vừa là chủ thể ban
bánh hằng sống. Chúa Cha ban bánh từ trời, là Đức Giê-su, Con của Người để cho
thế gian được sống. Vì thế, Chúa Cha cũng là chủ thể trao ban bánh hằng sống.
Bánh Chúa Cha ban, hay bánh Con Người ban cũng chỉ là một mà thôi. Bánh hằng sống
và bánh từ trời cũng chỉ là một bánh.
8. “Tin
vào Đấng mà Người đã sai đến”: Như đã đề cập ở trên “tin” là yếu tố quan trọng
bậc nhất, có tính quyết định vận mệnh của một con người. Nếu như Tin Mừng Nhất
Lãm thường cho thấy sự quyết định của yếu tố niềm tin trong việc chữa lành bệnh
tật thì Gioan lại cho thấy tính tiên quyết của niềm tin đối với sự sống đời đời
của con người. Tin có thể mang lại cho người ta sự sống đời đời (Ga 3,36; 5,24). Thật vậy, trong Tin Mừng Nhất Lãm, độc
giả thường nghe Đức Giê-su tuyên bố rằng: “Đức Tin của con đã cứu chữa con” (Mt
9,22; Mc 5,34; 10,52; Lc 8,48). Hay là: “Ông tin thế nào thì được như vậy” (Mt
8,10.13; 9,29; 15,28; Mc 5,36; Lc 7,50; 8,50). Tin Mừng thứ tư đã khởi đầu bằng
xác tín “những ai tin vào danh Người [Ngôi Lời], thì Người cho họ quyền trở nên
con Thiên Chúa” (Ga 1,12) và kết thúc bằng việc cho thấy mục đích của toàn bộ
Tin Mừng là “để anh chị em tin Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa và để
nhờ tin mà có sự sống nhờ danh Người. Trong suốt Tin Mừng, có rất nhiều lần Đức
Giê-su giải thích về tầm quan trọng của niềm tin đối với sự sống con người.
Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giê-su cũng nối kết “niềm tin” với “sự sống đời
đời”: Làm việc để có bánh duy trì sự sống đời đời (6,27) – Công việc đó là
“tin vào Đấng Chúa Cha đã sai đến” (6,29). Đấng ấy chính là Đức Giê-su: “Ai tin
vào tôi [Đức Giê-su” chẳng khát bao giờ.
9. “Ông
ấy đã cho họ ăn bánh từ trời”: Đây là câu được trích trong Thánh Vịnh 78:
“Người mưa Manna để họ ăn và ban cho họ bánh từ trời; Con người đã ăn bánh của
các thiên thần và Người đã gửi đến cho họ lương thực dồi dào” (Tv 78,24-25).[9] Chủ từ ngôi thứ ba số ít (Người)
của các động từ trong câu này đều là Đức Chúa. Tuy nhiên, khi đám đông trích lại,
họ có vẻ ám chỉ rằng ông Mô-sê đã cho cha ông họ ăn bánh từ trời.[10] Chính vì lẽ đó, Đức
Giê-su đã chấn chỉnh bằng một cách nói long trọng bắt đầu bằng “Amen, amen”:
“Tôi bảo thật anh chị em, không phải Ông Mô-sê đã ban cho họ bánh bởi trời”.
Sau mệnh đề phủ định với động từ ở thì hoàn thành (đã ban cho) (δέδωκεν), Đức Giê-su tiếp tục với một mệnh đề
khẳng định với một động từ ở thì hiện tại (ban cho) (δίδωσιν), diễn tả một sự thật luôn luôn đúng, từ
trước tới nay và đến cả tương lai. Nghĩa là không phải ông Mô-sê đã ban cho họ
bánh từ trời trong quá khứ, mà là Cha của Đức Giê-su đã và đang ban bánh từ trời.
R. Brown giải thích rằng, Manna được ban bởi Mô-sê không phải là bánh đích thực
từ trời mà Cựu Ước nói đến; nhưng là lời dạy của Đức Giê-su.[11]
10. “Bánh
đích thực từ trời” (τὸν
ἄρτον ἐκ τοῦ οὐρανοῦ τὸν ἀληθινόν): Bánh
từ trời được nói đến ở đây khác hoàn toàn với bánh từ trời trong sa mạc (Manna)
vì nó được diễn tả bằng tính từ “đích thực”, ngược
lại với “giả, dỏm”. Chính bánh đích thực này mới có khả năng duy trì sự sống đời
đời, khác với bánh hư nát như Manna hay bánh từ lúa mạch. Tính từ này cũng là một
tính từ rất đặc biệt trong Tin Mừng Gioan. Nó được dùng tất cả 3 lần, chỉ để diễn
tả Đức Giê-su và Thiên Chúa. Ngoài lần này, còn có hai lần khác nữa, một lần
cho Đức Giê-su và một lần cho Thiên Chúa: (1) Ngôi Lời là “ánh sáng thật, ánh chiếu soi mọi người, đến trong thế gian”;
“Đây là sự sống đời đời, rằng họ biết Thiên Chúa duy nhất chân thật và Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Người đã sai đến”
(Ga 17,3). Kiểu nói “bánh đích thực” cũng rất giống với kiểu nói “mục tử tốt
lành” (ὁ ποιμὴν ὁ καλὸς) (Ga
10,11.14).
11. “Đấng
xuống từ trời … Đấng ban sự sống cho thế gian”: Ga 6,31 thường được chuyển
ngữ là “vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh
đem lại sự sống cho thế gian” (CGKPV); “Vì bánh của Thiên Chúa là sự
gì bởi trời xuống và ban sự sống cho thế gian” (NTT). Các bản dịch
Anh, Pháp, Ý chọn cách chuyển ngữ 2 danh động từ (V-ing) của động từ “đi xuống”
và “trao ban” + mạo từ xác định là: “Đấng đi xuống từ trời” và “Đấng
ban sự sống cho thế gian”[12] (chứ không phải là “bánh”).
Cách chuyển ngữ này xem ra hợp lý hơn, vì bánh không thể là chủ ngữ của
động từ “đi xuống” và “trao ban” sự sống được. Đấng ấy chính là Đức Giê-su, Người
từ trời đi xuống và ban sự sống cho thế gian.
12. “Chính
tôi là bánh ban sự sống”: Đức Giê-su dùng lối nói nhấn mạnh “ego eimi” (tôi
là) cho lời khẳng định này. Theo nguyên ngữ tiếng Hy Lạp là “bánh của sự sống”.
Danh từ thuộc cách “của sự sống” có thể hiểu theo hai cách: (1) Bánh = sự sống,
giống như Đức Giê-su đã mạc khải: “Ta là đường là sự thật và là sự sống” (Ga
14,6); (2) Sự sống chính là đối tượng được Đức Giê-su (=bánh) trao ban. Bánh
này chính là bánh “duy trì sự sống đời đời” mà Đức Giê-su mời gọi đám đông làm
việc để đạt được, đối lại với bánh hư nát, mà họ đang tìm kiếm. Sự sống đời đời
cũng là sự sống trong Vương Quốc Thiên Chúa.[13]
13. “Ai
đến cùng tôi không thể nào đói; ai tin vào tôi sẽ không khát bao giờ”: Đây
là một bảo đảm hấp dẫn cho mọi độc giả. Tuy nhiên, đây chắc chắn không phải là
bảo đảm của sự no đủ về cơm ăn, nước uống thể lý. Đức Giê-su đã cho họ ăn bánh
mì no nê, nhưng rồi họ lại đói trong ngày hôm sau và đã tiếp tục chạy theo Người.
Họ đã đến với Người và gặp Người nhưng liệu có hết đói hay không, khi họ chỉ
tìm bánh mì chứ không phải tìm chính Người. Nói về cơn khát, tác giả Gioan đã kể
một câu chuyện rất sống động để nói về cơn khát của Đức Giê-su và của người phụ
nữ Samaria (Ga 4,1-42). Câu chuyện khởi đầu bằng việc Đức Giê-su khát nước và dừng
lại bên bờ giếng Gia-cóp. Người hỏi xin người phụ nữ Samaria chút nước uống.
Tuy nhiên, sau đó Người lại quảng cáo về “nước sự sống” mà Người có thể ban, nếu
Người phụ nữ “nhận ra món quà của Thiên Chúa” và hỏi xin Người. Đức Giê-su quảng
bá về tính năng đặc biệt của nước sự sống rằng: “Ai uống nước tôi ban, sẽ không
bao giờ khát nữa; và nước tôi ban cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt
lên, mang lại sự sống đời đời” (Ga 9,14). Câu chuyện kết thúc bằng việc người
phụ nữ rao giảng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô và rất nhiều người Samaria tin vào Đức
Giê-su (9,39-41). Cả Đức Giê-su và cả người phụ nữ không ai cần uống nước giếng
nữa. “Uống nước Đức Giê-su ban cho” trong bối cảnh này có thể là nghe, đón nhận
giáo huấn của Đức Giê-su và tin vào Người. Đây chính là cơ sở khá rõ cho lời khẳng
định của Đức Giê-su: “Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”. Quyền năng của Lời
Chúa mang lại cho con người một sự nuôi dưỡng về mặt tinh thần đã được sách Đệ
Nhị Luật nói đến và đã được Đức Giê-su trích dẫn để chống lại cám dỗ của ma quỷ:
“Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ bởi những lời từ miệng của
Thiên Chúa” (Đnl 8,3; Mt 4,4; Lc 4,4).[14] Sau này, vào lúc bế mạc
tuần Lễ Lều Đức Giê- su đứng trong đền thờ và kêu lớn tiếng rằng: “Ai khát, hãy
đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Thánh Kinh đã nói: Từ lòng
Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. Người thuật chuyện ghi chú rằng:
“Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận”
(Ga 7,37-38).
Bình luận tổng quát
Sau phép lạ hóa
bánh ra nhiều chiều hôm ấy, và sự biến mất cách lạ lùng của Đức Giê-su. Đám
đông vẫn còn nuôi mộng tìm kiếm vị vua Mê-si-a đem lại cơm no, áo ấm mà không
phải làm lụng vất vả. Đức Giê-su thương họ như mục tử thương đàn chiên đói khổ
của mình và Người thực sự làm cho họ no thỏa. Tuy nhiên, Người không muốn cả đời
họ chỉ tất bật với chuyện áo cơm để rồi cũng chết. Cơm bánh thể lý cần thiết để
người ta có thể nuôi sống bản thân, thế nhưng những thứ đó chỉ là phương tiện
chứ không phải là cùng đích. Vậy, cùng đích là gì? Đó chính là sự sống đời đời.
“Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì?
Hoặc người ta sẽ lấy mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26). Ai mới có sự sống đời đời
và có khả năng ban tặng cho con người sự sống đời đời? Thưa! Chỉ có một mình
Thiên Chúa là Đấng hằng hữu và hằng sống. Muốn có sự sống đời đời thì phải làm
việc để đạt được nó. Công việc đó là “tin vào Đấng Chúa Cha đã sai đến”. Chính
Chúa Cha đã ban tặng bánh sự sống, là chính Con của Người. Đức Giê-su chính là
Đấng từ trời xuống và Đấng ban sự sống cho thế gian. Ai đến với Người sẽ không
bao giờ đói, ai tin vào Người sẽ chẳng khát bao giờ. Đức Ki-tô chính là đối tượng
và lẽ sống mang lại sự sống đời đời cho tất cả những ai tin theo Người. Khi con
người lấy Người làm tâm điểm cho mọi suy nghĩ, lời nói và hành động trong cuộc
đời họ, thì chứng tỏ rằng họ đang sống và sống mãi, ngay cả sau khi họ tắt thở
rồi.
Đấng Đáng Kính F.X
Nguyễn Văn Thuận, cựu chủ tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình, người giảng tĩnh tâm
cho Đức Giáo Hoàng và toàn giáo triều Rô-ma vào năm 2000, cựu tù nhân của chế độ
CS, đã có kinh nghiệm thật sâu sắc về sự phân biệt giữa Chúa và công việc của
Chúa. Ngài vốn là một con người năng động, một vị Giám Mục trẻ đang hăng
say với biết bao nhiêu hoạt động mục vụ phát triển giáo phận: Kinh lý giáo phận,
huấn luyện nam nữ tu sỹ, giáo dân, thanh niên, kiến thiết thánh đường, cư xá
sinh viên, mở các thí điểm truyền giáo… Tuy nhiên, ngài được thuyên chuyển về
TGP. Sài Gòn một tuần trước biến cố 30-04-1975. Rồi ba tháng sau (15-08-1975)
ngài bị bắt, nhốt tù từ trại này qua trại khác suốt 13 năm. Nhiều lúc, ngài bị
đau khổ dày vò, và tự hỏi tại sao đang lúc tuổi 48, trưởng thành và khỏe mạnh,
có kinh nghiệm mục vụ sau 8 năm làm Giám Mục, lại phải vào phòng biệt giam, xa
giáo phận đến 1700 km. Rồi trong một đêm thanh vắng, ngài bỗng nghe từ đáy lòng
tiếng nhắc nhở: “Tại sao con quẫn trí, hoang mang như thế làm gì? Con phải
biết phân biệt giữa Chúa và công việc của Chúa”. Những công việc mục vụ con
làm “đều là những việc tốt lành, là việc của Chúa nhưng không phải là Chúa. Nếu
Chúa muốn con trao tất cả vào tay Ngài, con hãy làm ngay và tin tưởng vào
Ngài.”[15] Chính tiếng nói của Chúa
trong sâu thẳm nội tâm ấy đã giúp vị Hồng Y đáng kính nhận ra điều quan trọng
và cốt thiết nhất của cuộc đời mình. Đó là tìm Chúa, gặp Chúa và sống với Chúa.
Chúa ở mọi nơi, thông suốt mọi sự và yêu mến trọn tình. Chẳng ai ngờ chính
trong ngục tù tăm tối ấy, Đấng Đáng Kính lại gặp gỡ Chúa một cách thân mật và gần
gũi hơn cả. Có ai ngờ ở nơi mất tự do thân xác nhất, lại là nơi nội tâm của
ngài được giải thoát hơn cả. Thật kinh ngạc là ở trong một nơi dễ mất niềm hy vọng
nhất, ngài lại trở thành chứng nhân của niềm hy vọng. Đức Hồng Y đã trở thành
người Việt Nam đầu tiên và có thể là duy nhất đứng đầu Ủy Ban Công Lý và Hòa
Bình và là vị giảng thuyết cho kỳ tĩnh tâm Mùa Chay của Đức Giáo Hoàng và cả
giáo triều Rô-ma. Tất cả đều đến từ kinh nghiệm của một cựu tù nhân gặp gỡ Chúa
cách thân mật trong nơi lao tù. Vị Hồng Y khả kính đã cho chúng ta thấy rằng: ở
trong bất cứ một hoàn cảnh nghiệt ngã nào, người ta vẫn có thể tìm thấy Chúa. Sự
tìm kiếm Đức Ki-tô đích thực là sự tìm kiếm Đấng ban bánh trường sinh, và cũng
là Đấng ban sự sống. Sự gặp gỡ Đấng ban sự sống một cách đích thực giúp cho người
ta lột xác và sống có sức sống hơn, ý nghĩa hơn, có lợi ích hơn cho người khác
và cho cả xã hội loài người. Ông trùm kinh doanh Steve Jobs đã từng nói rằng:
“Tôi không quan tâm tới việc trở thành một người giàu có nhất trong nghĩa địa…
nói rằng chúng ta đã làm điều gì đó tuyệt vời trước khi đi ngủ vào mỗi buổi tối…
đó mới là điều quan trọng đối với tôi”. Điều gì là tuyệt vời nhất mỗi ngày trước
khi đi ngủ của mỗi người ki-tô hữu, nếu không phải là những suy nghĩ, lời nói,
hành động hay nghĩa cử yêu thương dành cho tha nhân, đồng loại? Mỗi ngày qua đi
với những điều tuyệt vời là mỗi ngày đáng sống của đời sống vĩnh hằng.
Joseph Phạm Duy
Thạch, SVD
[1] Manna trong tiếng Do Thái
là câu hỏi cái gì vây? Bởi lần đầu tiên khi con cái Ít-ra-el thấy một thứ gì đó
nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ xuống mặt đất họ hỏi nhau: “Man
hu” [מָ֣ן ה֔וּא]?
nghĩa là cái gì đây? (Xh 16,14-15).
[2] Ga 3,36; 4,14; 5,24.39;
6,47.68; 10,28; 12,25.50; 17,2.3; Mt 19,16; Mc 10,17; Lc 10,25; 18,18.
[3] E. Haenchen – R.W. Funk – U. Busse,
John: a commentary on the Gospel of John
(Hermeneia; Philadelphia 1984) 281.
[4] R. Brown cho rằng: “Danh
xưng này phản ánh thái độ chung chung về phía Đức Giê-su như một người thầy, vì
trong trình thuật của Gioan, Đức Giê-su không dạy điều gì trước phép lạ hóa
bành ra nhiều [R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes (AYB; New
Haven – London 2008) XXIX, 261].
[5] Analytical Lexiconof
Greek New Testament (ed. T. Friberg – B. Friberg – N.F. Miller) (Victoria
2000) “Amen”: A Concise Hebrew and Aramaic Lexicon of the Old Testament
(ed. W.L. Holladay) (Grand Rapids 1971) “אָמֵֽן”.
[6] R. Brown giải thích rằng
chủ nghĩa nhiệt thành nơi 6,14-15 được đặt nền tảng trên sự nhìn thấy mang tính
thể lý của khía cạnh lạ lùng của dấu lạ, nhưng không có một sự nhìn thấy thực sự
về việc dấu lạ nói lên điều gì về Đức Giê-su. Đám đông cần Đức Giê-su giải
thích nhiều hơn về tương quan giữa dấu lạ và sự sống. (R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes, 264).
[7] Theo R. Brown, chúng ta có
bằng chứng trong những văn bản Do Thái trễ hơn về một niềm mong đợi phổ biến rằng
vào những ngày cuối cùng Thiên Chúa lại ban Manna – một niềm hy vọng nối kết với
một niềm hy vọng về một cuộc Xuất Hành thứ hai. (R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII),
265; G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 91).
[8] F.J Moloney, The Gospel
of John (SP; Collegeville 2005) IV, 212.
[9] Xem thêm Xh 16,4.15; Kn
16,20.
[10] Có thể quan thời đó, người
ta đã chú giải đoạn văn này là chính Mô-sê đã cho dân ăn bánh từ trời. Vì thế Đức
Giê-su phải sửa lại là không phải là Ông Mô-sê, động từ ngôi thứ ba só ít đó muốn
nói là Thiên Chúa [G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 91].
[11] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII), 262.
[12] “Car le pain de Dieu,
c’est celui qui descend du ciel et qui donne la vie au monde” (TOB); “For the
bread of God is he who comes down from heaven and gives live to the world”
(ESV); “In fatti il pane di Dio è colui che discende dal Cielo e dà la vita al
mondo” (CEI)
[14] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII), 266.
[15] F.X Nguyễn Văn Thuận, Năm
Chiếc Bánh và Hai Con Cá (Reichstett 1997) 12-13.
No comments:
Post a Comment