Bản Văn Ga 6,1-15
Hy Lạp | Việt |
1Μετὰ ταῦτα ἀπῆλθεν ὁ Ἰησοῦς πέραν τῆς θαλάσσης τῆς Γαλιλαίας τῆς Τιβεριάδος. 2 ἠκολούθει δὲ αὐτῷ ὄχλος πολύς, ὅτι ἐθεώρουν τὰ σημεῖα ἃ ἐποίει ἐπὶ τῶν ἀσθενούντων. 3 ἀνῆλθεν δὲ εἰς τὸ ὄρος Ἰησοῦς καὶ ἐκεῖ ἐκάθητο μετὰ τῶν μαθητῶν αὐτοῦ. 4 ἦν δὲ ἐγγὺς τὸ πάσχα, ἡ ἑορτὴ τῶν Ἰουδαίων. 5 Ἐπάρας οὖν τοὺς ὀφθαλμοὺς ὁ Ἰησοῦς καὶ θεασάμενος ὅτι πολὺς ὄχλος ἔρχεται πρὸς αὐτὸν λέγει πρὸς Φίλιππον· πόθεν ἀγοράσωμεν ἄρτους ἵνα φάγωσιν οὗτοι; 6 τοῦτο δὲ ἔλεγεν πειράζων αὐτόν· αὐτὸς γὰρ ᾔδει τί ἔμελλεν ποιεῖν. 7 ἀπεκρίθη αὐτῷ [ὁ] Φίλιππος· διακοσίων δηναρίων ἄρτοι οὐκ ἀρκοῦσιν αὐτοῖς ἵνα ἕκαστος βραχύ [τι] λάβῃ. 8 λέγει αὐτῷ εἷς ἐκ τῶν μαθητῶν αὐτοῦ, Ἀνδρέας ὁ ἀδελφὸς Σίμωνος Πέτρου· 9 ἔστιν παιδάριον ὧδε ὃς ἔχει πέντε ἄρτους κριθίνους καὶ δύο ὀψάρια· ἀλλὰ ταῦτα τί ἐστιν εἰς τοσούτους; 10 εἶπεν ὁ Ἰησοῦς· ποιήσατε τοὺς ἀνθρώπους ἀναπεσεῖν. ἦν δὲ χόρτος πολὺς ἐν τῷ τόπῳ. ἀνέπεσαν οὖν οἱ ἄνδρες τὸν ἀριθμὸν ὡς πεντακισχίλιοι. 11 ἔλαβεν οὖν τοὺς ἄρτους ὁ Ἰησοῦς καὶ εὐχαριστήσας διέδωκεν τοῖς ἀνακειμένοις ὁμοίως καὶ ἐκ τῶν ὀψαρίων ὅσον ἤθελον. 12 ὡς δὲ ἐνεπλήσθησαν, λέγει τοῖς μαθηταῖς αὐτοῦ· συναγάγετε τὰ περισσεύσαντα κλάσματα, ἵνα μή τι ἀπόληται. 13 συνήγαγον οὖν καὶ ἐγέμισαν δώδεκα κοφίνους κλασμάτων ἐκ τῶν πέντε ἄρτων τῶν κριθίνων ἃ ἐπερίσσευσαν τοῖς βεβρωκόσιν. 14 Οἱ οὖν ἄνθρωποι ἰδόντες ὃ ἐποίησεν σημεῖον ἔλεγον ὅτι οὗτός ἐστιν ἀληθῶς ὁ προφήτης ὁ ἐρχόμενος εἰς τὸν κόσμον. 15 Ἰησοῦς οὖν γνοὺς ὅτι μέλλουσιν ἔρχεσθαι καὶ ἁρπάζειν αὐτὸν ἵνα ποιήσωσιν βασιλέα, ἀνεχώρησεν πάλιν εἰς τὸ ὄρος αὐτὸς μόνος. (Jn. 6:1-15 BGT) | 1 Sau những chuyện này, Đức Giêsu đi qua phía bên kia biển Galilê của Tibêria 2 Nhưng rồi, Đám đông lớn đi theo Người bởi vì họ thường chứng kiến những dấu [lạ] Người đã vẫn làm trên những bệnh nhân. 3 Đức Giêsu đi đến núi và Người ngồi đó với các môn đệ của Người 4 Lễ Vượt Qua đã gần đến, Lễ của Người Do Thái 5 Khi ngước mắt lên, Đức Giêsu thấy đám đông lớn đến với Người, Người liền nói với Philípphê: ‘Chúng ta mua đâu ra bánh để mà họ có thể ăn?’ 6 Nhưng Người nói điều này vì Người đang thử ông ta vì Người đã biết phải làm gì. 7 Philípphê trả lời; ‘200 đenariô bánh cũng không đủ để mỗi người có thể lấy một chút 8 Một trong các môn đệ của Người, Anrê, người anh em của Simôn, nói cùng Người: 9 Ở đây có một đứa bé, có 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng những thứ ấy làm sao mà [đáp ứng cho] số nhiều như vậy. 10 Đức Giêsu nói: ‘Hãy làm cho người ta ngồi xuống. Có nhiều cỏ trong chỗ ấy. Số người đàn ông đã ngồi xuống chừng 5000 người. 11 Rồi Đức Giêsu cầm lấy bánh, sau khi tạ ơn, Người trao cho những người nằm, và cá cũng như thế, nhiều như họ đang muốn. 12 Khi họ đã no nê, Người nói cùng các môn đệ của Người: ‘Hãy thu gom lại những mẫu bánh còn thừa, để mà nó không bị hư đi.” 13 Các môn đệ thu gom và làm đầy 12 thúng những mẫu bánh từ 5 chiếc bánh lúa mạch còn dư bởi những người đã ăn. 14 Những người thấy dấu [lạ] Người đã làm nói rằng ông ta thực sự là vị ngôn sứ Đấng xuất hiện trong thế giới. 15 Vì biết họ sẽ đến bắt Người để tôn Người làm vua, nên Người lại rút lui vào núi một mình. |
Bối cảnh bản văn
Đoạn văn Ga 6,1-15 được khởi đầu bằng một cách nói
tổng quát: “Sau những sự việc này”. Cụm từ “những sự việc này” có thể ám chỉ đến trình thuật
về dấu [lạ] chữa một người bại liệt ở hồ Bếtđatha (Ga 5,1-18) và “diễn từ nói về
công việc của Chúa Con (Ga 5,19-47). Phép lạ hóa bánh ra nhiều chắc chắn nối kết và là tiền đề cho
diễn từ “Bánh Hằng Sống”
diễn ra ngay sau đó (Ga 6,16-51). Nó cũng gợi nhớ đến hình ảnh Thiên Chúa-mục tử trong Cựu Ước nhất là Thánh Vịnh 23[1], bởi
vì trong đó có hình ảnh “cỏ xanh” và “được ăn bánh no nê”. Đây là dấu [lạ]
duy nhất được cả bốn tác giả sách Tin Mừng thuật lại (Ga 1,1-15; Mt
14,13-21; Mc 6,30-44; Lc 9,10-17).[2] Vì
vậy, phép lạ này cũng cho thấy sự nối kết giữa truyền thống Gioan và Tin Mừng
Nhất Lãm. Loạt hành động “cầm
lấy bánh, tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó” gợi nhớ đến trình thuật về sự việc Đức Giêsu
lập Bí Tích Thánh Thể (Mt 26,26-29; Mc 14,22-25; Lc 22, 14-20; 1 Cr
11,23-25), trong đó Đức Giêsu cũng “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng rồi bẻ ra
và trao cho các ông. Dĩ nhiên, phép lạ này cũng nhớ đến việc Chúa ban mana
nuôi dân Israel trong sa mạc (Xh 16, Ds 11). Việc nhắc tên hai Tông Đồ cụ thể
(Philípphê và Anrê), cho phép liên kết với những chỗ khác có tên hai người này
(Ga 12,22; Mc 3,18). Mốc thời gian “Lễ Vượt Qua” cũng là một chủ đề nối
kết với những trình thuật liên quan đến “Tiệc Vượt Qua” và Chiên Vượt
Qua (Mc 14,12-16; Mt 26,17-19; Lc 22,3-6). Chủ đề Đức Giêsu là “vị ngôn
sứ, Đấng phải đến thế gian” là một trong những chủ đền quan trọng nhất
trong các sách Tin Mừng, đặc biệt là Tin Mừng thứ tư (Ga 4,19: “Thưa ông, tôi
thấy ông là một ngôn sứ”; Ga 7,40: Ông này quả thật là một ngôn sứ”; Ga 9,17:
Anh mù đáp: ‘Người là một vị ngôn sứ”; Cf. Mt 13,57; 16,14; 21,11; 21,46; Mc
6,4.15; 8,24; Lc 4,24; 7,16). Đức Giêsu rút lui lên núi một mình (Ga 11,15) bởi
vì Người biết rằng người ta sẽ tôn Người lên làm vua, là biểu hiện cho thấy Người
“không cần người đời tôn vinh” như Người đã nói trong diễn từ “công việc của
Chúa Con” (Ga 5,41). Danh xưng “ngôn sứ” được dùng cho Đức Giêsu còn nối kết với
Cựu Ước. Sách Đệ Nhị Luật cũng nói đến việc “Đức Chúa sẽ làm nổi lên giữa anh
chị em một vị ngôn sứ như tôi [ông Mô-sê]” (Đnl 18,15).
Cấu trúc bản văn
Đoạn Ga 6,1-15 có phần khởi đầu (A) và phần kết
(A’) giới thiệu chung về không gian, thời gian và nhân vật của câu chuyện. Câu
chuyện xảy ra ở vùng Tibêria, trên núi, vào dịp gần đến Lễ Vượt Qua của Người
Do Thái. Nhân vật gồm có Đức Giêsu, các môn đệ và đám đông lớn. Nội dung trình
thuật sự kiện “hóa bánh ra nhiều” được cấu thành bởi ba thành phần, song song
và quy tâm. Có hai cặp thành phần song song với nhau: (B) Đức Giêsu đặt vấn đề
về một giải pháp cho sự đói kém của dân chúng // (B’) Dân chúng nhận ra Đức Giêsu
là một vị ngôn sứ Đấng phải đến thế gian; (C) Thái độ bi quan của các môn đệ:
không có giải pháp nào khả thi // (C) Chứng kiến một giải pháp hơn cả khả thi.
Tất cả đều xoay quanh tâm điểm là giải pháp lạ lùng của Đức Giêsu: Cầm bánh, tạ
ơn và phân phát (D).
(A) Mở đầu: Không gian, thời gian và nhân vật: Bên kia biển
hồ Galilê, thành phố Tibêria, núi; Lễ Vượt Qua của Người Do Thái; đám đông lớn;
Đức Giêsu và các môn đệ (6,1-4). (B) Vấn đề: Không có bánh (6,6-7) (C) Thái độ của các môn đệ: Không có giải pháp khả thi (6,8-9) (D) Giải pháp của Đức Giêsu: Cầm lấy, tạ ơn và phân phát (6,10-11) (C’) Kiểm chứng của các môn đệ: Bánh còn dư 12 thúng (6,12-13) (B’) Hiệu quả: Tuyên xưng Đức Giêsu là một ngôn sứ (6,14) (A’) Kết thúc: Nơi chốn;
nhân vật: Một mình Đức Giêsu rút lui lên núi (6,15) |
Một số điểm
chú giải
1.
Bên kia biển Galilê của Tibêria: Danh từ thuộc cách chỉ địa danh “của Tibêria”
cho độc giả biết rằng đây là Biển Hồ Galilêa nhưng phần gần thành phố Tibêria.
Chính vì thế mà Biển Hồ này đôi khi được gọi là Biển Tibêria (Ga 21,21). Tibêria
là một thành phố biển, được Hêrôđê Antipa xây vào năm 20 C.E. ở phía Tây
Biển Hồ Galilê. Nó là thủ đô của vùng Galilê, nơi Hêrôđê Antipa cai quản
thời bấy giờ và được đặt tên của vị hoàng đế thứ hai của Đế Quốc Rôma
(Tiberius). Nơi đây được Gioan nối kết với phép lạ hóa bánh ra nhiều: “Có những
thuyền khác đến từ Tibêria đến, gần nơi dân chúng đã được ăn bánh no nê” (Ga
6,23). Đây là dữ liệu về địa danh, cho biết rõ ràng về nơi đã diễn ra phép lạ
“hóa bánh ra nhiều”, khác với các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm vốn không nhắc đến
địa danh cụ thể. Máccô chỉ nói là nơi “hoang vắng” (sa mạc) (Mc 6,31.32.35; Mt
14,13). Khi nhắc đến địa danh này có thể Gioan muốn nói đến sự trái ngược giữa
một thành phố xa hoa giàu có và một nhóm người “thiếu bánh ăn” bên cạnh nó.
2.
Nhưng rồi đám đông lớn cứ đi theo Người: Ghi chú về nhân vật “đám đông lớn” (6,2) cứ
đi theo Đức Giêsu nhằm chuẩn bị cho chi tiết số người “ngồi xuống” là 5000 người
đàn ông (6,10). Lý do những người này đi theo Đức Giêsu được diễn tả rất rõ
ràng: “Vì họ đã từng chứng kiến những dấu lạ Người làm cho các bệnh nhân”. Cả ba
động từ “đi theo”, “thấy” (chứng kiến” và “làm” đều được
Gioan cận thận dùng ở thì “vị hoàn”, diễn tả một sự kéo dài của hành động.
Nghĩa là họ đã thấy nhiều lần, vì Đức Giêsu cũng đã làm nhiều dấu [lạ] chữa
lành bệnh tật và họ cứ “đi theo” Chúa hoài. Cụ thể là có hai dấu [lạ] chữa bệnh
được ghi lại trước trình thuật này: (i) Chữa lành con của một sĩ quan cận vệ của
nhà vua (Ga 4,46-54); (ii) Chữa lành một người bại liệt 38 năm ở hồ nước Bếtđatha.
Đám đông đã biết đến Đức Giêsu như một người làm những “dấu lạ” chữa lành các bệnh
nhân.
3.
Đức Giêsu đi đến ngọn núi và Người ngồi đó: Đức Giêsu đến thành phố Tibêria nhưng Người
không vào trong thành phố mà Người đi ra ngoại ô thành phố, nơi có núi đồi. Ngọn
núi ở đây được xác định bởi một mạo từ xác định (τὸ). Có lẽ đó là một ngọn núi ở ngoại ô Tibêria, mà
ai cũng biết nên Gioan dùng mạo từ xác định. Cũng cần biết thêm, danh từ “ὄρος” trong tiếng Hy Lạp vừa có nghĩa là
núi, cũng vừa có nghĩa là “đồi” hoặc “cao nguyên”. Có thể Đức
Giêsu lên một ngọn đồi gần thành phố Tibêria. Rất khó để nói chính xác đó là
núi nào hay đồi nào.[3]
Tuy nhiên, kiểu nói “lên núi và ngồi xuống với các môn đệ” làm cho độc
giả nhớ đến câu khởi đầu bối cảnh Bài Giảng Trên Núi do Tin Mừng Mátthêu
ghi lại: “Khi thấy đám đông, Người lên núi, và sau khi Người ngồi xuống, các
môn đệ của Người đến gần bên” (Mt 5,1). Tư thế “ngồi” là tư thế của
một người thầy giảng dạy.[4] Giảng
dạy trên “núi” cũng gợi nhớ đến hình ảnh của ông Môsê, người chuyển giao
Lề Luật của Chúa cho dân ở trên núi Sinai. Gioan không nói gì đến việc Đức Giêsu
có giảng dạy điều gì hay không. Tuy nhiên, ngồi ở trên núi, cùng với các môn đệ,
có lẽ ngụ ý một buổi giảng dạy. Máccô nói rõ bối cảnh của phép lạ hóa bánh ra
nhiều lần thứ nhất là “thấy đám đông lớn, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương vì họ
như những con chiên không có mục tử và Người giảng dạy họ nhiều điều” (Mc
6,34).
4.
“Lễ Vượt Qua”:[5]
Trong bốn tác giả sách
Tin Mừng, chỉ có Gioan cho độc giả biết rằng Đức Giêsu đến Jêrusalem vào ba
dịp Lễ Vượt Qua trong hành trình rao giảng của Người (Ga 2,13.23; 6,4; 11,55;
12,1; 13,1; 18,28.39; 19,14). Chính vì thế mà theo truyền thống, Đức Giêsu rao
giảng khoảng 3 năm, và chết ở tuổi 33. Luca cho biết Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ
rao giảng khi Người khoảng 30 tuổi (Lc 3,23), cùng với 3 Lễ Vượt Qua
(xảy ra mỗi năm một lần), trong đó, Người bị kết án và đóng đinh vào Lễ Vượt
Qua thứ ba. Các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ cho biết Đức Giêsu lên Jêrusalem một lần,
vào dịp Lễ Vượt qua trong suốt quá trình rao giảng. Tin Mừng Nhất Lãm chỉ nhắc
đến một Lễ Vượt Qua trong trình thuật về cuộc Thương Khó (Mt 26,2.17-19; Mc
14,1.12.14.16; Lc 22,1.7.28.11.13.15),[6] và
đó là lần Đức Giêsu bước vào cuộc Thương Khó – Chịu Chết đóng đinh. Chặng đường
lên Jêrusalem là rất quan trọng. Thậm chí, Tin Mừng Luca còn dành cho chặng đường
lên Jêrusalem đến 10 chương (9,51 – 19,27), nghĩa là gần một nửa Tin Mừng của
Luca (24 chương). Đối với các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, Galilê là thánh địa
cho sứ vụ rao giảng và làm dấu lạ, còn Jêrusalem là tử địa nơi xảy ra cuộc Tử Nạn
và Phục Sinh của Đức Giêsu.
Lễ Vượt Qua là một Đại Lễ hằng năm của Người Do
Thái. Nó kỷ niệm biến cố quan trọng: Dân đã được cứu khỏi ách nô lệ của Pharaô.
Trong đêm ấy, sứ thần Chúa đã tiêu diệt tất cả các con đầu lòng của người Ai Cập.
Thậm chí con vật đầu lòng cũng bị giết. Con cái Israel thì được sống nhờ vào những
vết máu bôi trên cửa theo chỉ dẫn của Chúa (Xh 11,5; 12, 12-13.29). Lễ Vượt Qua
trong tiếng Do Thái là “הַפָּ֑סַח” (pesah),
trong tiếng là Hy Lạp là “πάσχα” (paskha). Trong tiếng gốc Do Thái “Pesah”, có
nghĩa là “bảo vệ” hay “bỏ qua”. Theo một số tác giả, Lễ này, có nguồn gốc
ban đầu liên quan đến một nghi lễ mang tính giải hạn của những người du mục, cử
hành mùa xuân. Tuy nhiên, ý kiến được chấp nhận rộng rãi nhất liên quan đến lễ
hội cổ xưa cho những giai đoạn của trăng, đặc biệt cho dịp trăng tròn. Và trên
bình diện lịch sử, Lễ này dĩ nhiên là liên kết đến sự kiện Xuất Hành từ Ai Cập.[7] Trong
Lễ Vượt Qua, một con vật hiến tế (cừu hoặc dê một tuổi) được giết thịt vào
ngày thứ 14 của tháng Nisan và được ăn vào buổi đêm, hoặc ngay sau hoàng
hôn, đánh dấu khởi đầu của ngày 15 tháng Nisan. Thánh Kinh kết hợp việc sát
tế Vượt Qua với Lễ Bánh Không men, lễ hội kéo dài bảy ngày bắt đầu vào ngày
15 của tháng Nisan. Trong thời gian hậu Thánh Kinh, hai lễ này được hòa nhập
thành một lễ hội mà thôi.[8]
Nhắc đến thời điểm “gần đến Lễ Vượt Qua”, tác giả
có lẽ không phải muốn nói đến thời gian lịch sử cụ thể của biến cố, nhưng là thời
gian thần học. Biến cố Vượt Qua được nhắc đến trong bối cảnh “dấu [lạ] hóa bánh
ra nhiều nối kết với Lễ Vượt Qua cuối cùng, trong đó Đức Giêsu lập Bí Tích
Thánh Thể, biến Mình Người thành của ăn và Máu Người thành của uống nuôi
linh hồn các tín hữu. Cũng xin biết thêm là Tin Mừng Gioan, là Tin Mừng duy
nhất không có trình thuật về việc lập Bí Tích Thánh Thể. Thay vào đó, Gioan lại
là tác giả duy nhất tường thuật lại hành động rửa chân trong đêm Tiệc Ly. Ông
cũng là tác giả duy nhất nhắc đến Lễ Vượt Qua trong trình thuật phép lạ “hóa
bánh ra nhiều” và cũng là tác giả duy nhất ghi lại diễn từ “diễn từ Bánh Hằng Sống”
(6,22-66).
5.
Philípphê và Anrê: Philípphê
và Anrê: Trong danh sách 12 tông đồ của Tin Mừng Máccô, tên Philípphê được
đặt ngay sau tên Anrê (Mc 3,18: … rồi đến các ông Anrê, Philípphê, Batôlômêô…).
Máccô đặt bộ ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan vào đầu danh sách, sau đó mới đến
Anrê và Philípphê và các môn đệ khác.[9] Mátthêu
xếp tên của Anrê ngay sau tên Phêrô và Philípphê sau tên của hai anh em Giacôbê
và Gioan. Luca cũng liệt kê tương tự Mátthêu. Tin Mừng Gioan không nói đến danh
sách 12 Tông Đồ. Theo tác giả, Anrê và một môn đệ vô danh là hai môn đệ của
Gioan Tẩy Giả. Họ đã nghe Gioan Tẩy Giả giới thiệu về Đức Giêsu : “Đây
là Chiên Thiên Chúa”. Rồi, họ đã “đến, xem chỗ Người ở và ở lại” với Đức Giêsu
một ngày (Ga 1,39). Chính Anrê, sau khi trở về từ chỗ Đức Giêsu ở đã giới thiệu
và dẫn em mình là Phêrô đến với Đức Giêsu (1,41-42). Tiếp theo sau đó, Đức Giêsu
gặp và gọi ông Philípphê: “Anh hãy theo tôi” (1,43). Theo Gioan, hình
như Philípphê được gọi trước cả Giacôbê và Gioan. Theo Tin Mừng Nhất Lãm, Đức
Giêsu gọi liền hai cặp anh em: Phêrô – Anrê, rồi Giacôbê – Gioan (Mt
4,18-22 ; Lc 5,1-11 ; Mc 1,16-20).[10] Philípphê
được giới thiệu là ở Bếtsaiđa, cùng quê với hai anh em Phêrô và Anrê. Đây là dữ
liệu của riêng tác giả Tin Mừng thứ tư. Theo Tin Mừng Nhất Lãm, Phêrô có một
ngôi nhà ở Ca-phác-na-um, một thành phố ngay bên bờ, đầu hồ Galilê, phía Bắc
(Mc 1,29-31 ; Mt 8,14-15 ; Lc 4,38-39). Theo Mátthêu và Luca, Bếtsaiđa
là một trong những thành phố bị Đức Giêsu nguyền rủa, vì không đã không sám hối
(Mt 11,21; Lc 10,13-15). Đây cũng là thành phố Đức Giêsu lánh vào sau phép lạ “hóa
bánh ra nhiều” (Mc 6,45 ; Lc 9,10) và chữa lành một người mù (Mc 8,22-26).
Sự xuất hiện sóng đôi của Philípphê và Anrê trong Tin Mừng Gioan được
ghi lại ít nhất 2 lần. (i) Ga 6,1-15: Philípphê được Đức Giêsu tham vấn
về cách thức mua bánh cho “đám đông lớn”; Anrê giới thiệu em bé có 5 chiếc bánh
và 2 con cá. (ii) Ga 12,20-26: Những người Hy Lạp đến gặp ông Philípphê để xin
gặp Đức Giêsu; Ông Philípphê nói ông Anrê và hai ông đến thưa với Đức Giêsu. Việc
Philípphê đi nói với Anrê có thể giải thích ở góc độ thân thích: hai người là đồng
hương. Tuy nhiên, lý do quan trọng hơn có thể là vì Anrê là môn đệ đầu tiên được
gọi. Thế giá của Anrê, có thể là cao hơn Phêrô, vì ông được gọi trước và là người
giới thiệu Phêrô cho Đức Giêsu. R. Brown tin rằng Philípphê và Anrê là những
Tông Đồ được coi trọng hơn ở miền Tiểu Á, mà Tin Mừng Gioan được viết
cho những tín hữu ở vùng Tiểu Á. Chính vì vậy, hai Tông Đồ này được đề cập cách
cụ thể để Tin Mừng đi vào lòng các tin hữu dễ dàng hơn.[11]
6.
200 đenariô… 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá: Hai môn đệ đưa ra hai dữ liệu khác nhau. Philípphê
vì được hỏi là: “Bằng cách nào chúng ta có thể mua bánh để họ ăn?”, nên câu trả
lời của ông liên quan đến số tiền mua. Đây là số tiền khá lớn đủ để Philípphê
diễn tả sự bất lực, không thể: Đến 200 đenariô cũng không đủ cho mỗi người
một tý. Đenariô là đơn vị tiền tệ của Roma thời bấy giờ. 1 đenariô bằng một
ngày lương của một công nhân bình thường (x. Mt 20,2). 200 đenariô bằng 200
ngày lương của một người làm công. Sau khi Philípphê thể hiện sự thất vọng, Anrê
quan sát thấy có một cậu bé mang theo 5 chiếc bánh và hai con cá. Đây lại
là một số lượng quá ít so với 5000 người đàn ông: “Nhưng số ấy thì thấm vào đâu
so với số người nhiều như thế”. Cả hai môn đệ đều cho thấy cho “đám đông lớn”
ăn là một nhiệm vụ bất khả thi. Máccô ghi lại đề xuất của các môn đệ: “Xin Thầy
cho dân chúng về, để họ vào các làng chung quanh mà mua thức ăn” (Mc 6,36; Mt
14,15; Lc 9,12). Hình ảnh cậu bé chia sẻ 5 chiếc bánh và 2 con cá là hình ảnh
riêng của Gioan vì trong truyền thống Nhất Lãm, dường như số bánh và cá này là
của các môn đệ: “Ở đây chúng con chỉ có vọn vẹn 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mt
14,17; Mc 6,38; Lc 9,13).
7.
“Hãy làm cho người ta ngồi xuống”: Động
từ “ana-pipto” (ἀνα-πίπτω[12]) có nghĩa đen là “ngã về phía sau”,
trong đó “pipto” là ngã. Động từ này thường được dùng để diễn tả sự ổn định vị
trí để chuẩn bị cho một bữa ăn (Mc 6,40; Lc 11,37; Ga 13,12.25). Cách chuyển ngữ
“hãy cho người ta ngồi xuống” hay là “hãy cho người ta nằm xuống” vẫn không diễn
tả chính xác nghĩa của động từ này. Có lẽ đó là một tư thế nằm tựa (nửa nằm
nửa ngồi) để dùng bữa, theo phong tục của người Do thái. Người ta không nằm
dài như lúc ngủ, nhưng họ cũng không ngồi ăn như hầu hết con người ngày nay.
Người môn đệ “được Đức Giêsu yêu mến” được diễn tả là nằm tựa vào ngực Đức Giêsu
trong bữa Tiệc Ly (Ga 13,25). Các môn đệ nhận lệnh ổn định dân chúng trong tư
thế vào bàn ăn để chuẩn bị cho việc dùng bữa. Họ chắc chắn cũng rất ngạc nhiên,
vì mệnh lệnh này của Đức Giêsu, bởi vì chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thì dùng
bữa sao đủ. Luca còn ghi lại kỹ càng hơn chỉ thị của Đức Giêsu: “Hãy bảo
họ nằm thành từng nhóm khoảng 50 người một” (Lc 9,14). Nhóm này ở trong
trình thuật của Máccô có số lượng khác nhau: “Chỗ thì một trăm chỗ thì năm
mươi” (Mc 6,39).
8.
Có nhiều cỏ trong chỗ ấy: Chi tiết này có vẻ thừa nhưng lại không thừa. Tác giả Gioan dường như muốn
gợi cho độc giả nhớ đến hình ảnh “đồng cỏ xanh” được nói đến trong Thánh
Vịnh 23: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ”. Hình ảnh đồng
cỏ xanh gợi nhớ đến sự chăm sóc tốt lành của Thiên Chúa-mục tử dành cho đàn
chiên của mình. Nhóm 5000 người đàn ông nằm trên đồng cỏ xanh như đàn chiên
đang được mục tử Giêsu nuôi dưỡng.
9.
Số người đàn ông đã nằm xuống chừng 5000 người: Ghi chú về số lượng này cho thấy sự hài hòa với
chi tiết giới thiệu nhân vật trong phần bối cảnh: “Đám đông lớn đi theo
Đức Giêsu”. Đám đông ấy lớn cỡ nào? Lớn tới mức “5000 người đàn ông” (Ga 6,10;
Mc 6,44). Mátthêu còn thêm vào mệnh đề “không tính đàn bà và trẻ em”. Dĩ nhiên
rồi, chẳng lẽ số người đi theo Đức Giêsu chỉ toàn đàn ông thôi sao. Chắc chắn
phải có đàn bà và và trẻ em nữa. Thường thì số lượng đàn bà và trẻ con phải nhiều
hơn số người đàn ông. Vậy thì, số lượng người của “đám đông lớn” hôm ấy phải
trên 10 ngàn người.
10.
Cầm lấy bánh, tạ ơn, phân phát: Những động từ: cầm lấy, tạ ơn rồi phân phát kết hợp với dữ
liệu về thời gian “gần đến Lễ Vượt Qua” rõ ràng gợi nhớ đến trình thuật
Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể. Đức Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể vào dịp
Lễ Vượt Qua cuối cùng trong hành trình dương thế của Người. Trong Bữa Tiệc Ly:
“Người cầm lấy bánh, sau khi đã dâng lời tạ ơn, Người bẻ ra
và trao cho các môn đệ và nói: ‘Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em”
(Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Động từ “Eukharisteo” (εὐ-χαριστέω)[13]
có nghĩa là “tạ ơn”. Chính vì
thế Bí Tích Thánh Thể còn được gọi là “Hy tế Tạ Ơn”.[14]
Tiếng Anh gọi Bí Tích Thánh Thể là “Eucharist” (Tiếng Pháp: Eucharistie; Tiếng
Ý: Eucaristia). Như vậy, phép lạ hóa bánh ra nhiều là tiền thân của Bí Tích
Thánh Thể. Việc Đức Giêsu ban bánh mì cho dân chúng ăn no nê báo trước việc
Người sẽ ban chính Mình Người để trở thành của ăn, và Máu Người để trở thành của
uống nuôi dưỡng linh hồn người tín hữu.[15]
11.
Khi họ đã no nê: Động
từ “em-pim-ple-mi” (ἐμ-πίμπλημι)[16] có nghĩa là “làm đầy” hoặc “thỏa mãn”, diễn tả một
tình trạng no đủ, thoa thê của “đám đông lớn”.
12.
12 thúng những mẫu bánh thừa: Mệnh lệnh thu gom được Đức Giêsu đưa ra cùng với mục đích là “để khỏi hư
đi”. Mệnh lệnh này cho thấy Đức Giêsu quan tâm đến việc giáo dục các môn đệ
cũng như dân chúng, biết tôn trọng những gì Chúa ban cho mình. Không được
phí phạm những thức ăn còn dùng được. 12 thúng bánh vụn còn thừa là con số ngược
lại với những thái độ thất vọng của cả Anrê và Philípphê lúc khởi đầu. Có thể
nói rằng: Tưởng là không thể nhưng lại có thể như không tưởng. 200 đenariô
cũng không đủ cho mỗi người một tý và 5 chiếc bánh và 2 con cá thì thấm
vào đâu với số lượng người đông như thế. Ai ngờ, chỉ số bánh vụn còn dư đã lên
đến 12 giỏ.
13.
Ông ta thực sự là một ngôn sứ, Đấng phải đến: Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu
được gọi là một ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian. Ý tưởng này của dân chúng có
thể ám chỉ đến lời hứa rằng Thiên Chúa “sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ông
Môsê được nói đến trong sách Đệ Nhị Luật” (Đnl 18,15).[17] Tin
Mừng thứ tư cho thấy nhiều nhân vật tuyên xưng Đức Giêsu là một ngôn sứ. Người
phụ nữ Samari đã xác nhận: “Tôi thấy ông là một vị ngôn sứ” (Ga 4,19). Dân
chúng cũng nhìn nhận “ông này thật là vị ngôn sứ” (Ga 7,40). Anh mù được
sáng mắt cũng nghĩ người làm cho anh sáng mắt là một “vị ngôn sứ” (Ga 9,17;
Mt 16,14; 21,11.46). Tuy nhiên, một vị ngôn sứ làm phép lạ hóa bánh ra nhiều có
lẽ gợi nhớ đến hình ảnh ngôn sứ Êlisa. Ông đã làm phép lạ cho cả tram
người ăn từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Tiểu đồng của
ông đã nghi ngờ và nói rằng: “Có bằng này, sao con có thể phá cho cả tram người
ăn”. Êlisa đã trả lời: “Cứ phát cho họ ăn vì Chúa đã phán: ‘Họ sẽ ăn mà vẫn còn
dư’. Và quả thực đã xảy ra như lời ngôn sứ nói (x. 2 V 4,42-44). Ngoài ra, Êlisa
còn một lần làm phép lạ “hóa dầu ra nhiều” để giúp một bà góa, có hai
con nhỏ bị bắt làm nô lệ, vì bà thiếu nợ (x. 2 V 4,1-7). Thành thật mà nói, nhận
ra Người là “một vị ngôn sứ” chưa phải là đỉnh cao của sự nhận biết. Đó chỉ là
khởi điểm và họ cần phải vươn đến căn tính Kitô và Con Thiên Chúa của Đức Giêsu.
Tin Mừng Gioan khởi đầu bằng việc giới thiệu “Ngôi Lời là Thiên Chúa”
(Ga 1,1) và kết thúc bằng việc nêu lên mục đích của toàn bộ Tin Mừng là:
“Để anh chị em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa và để nhờ
tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20,31). Ngay trước câu kết thúc,
thánh Tôma đã tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy
Thiên Chúa của con” (Ga 20,28). Đây là cái kết hoàn hảo cho Tin Mừng thứ tư: Khởi
đầu bằng lời giới thiệu Ngôi Lời là Thiên Chúa và kết thúc bằng việc một Tông Đồ
tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa.
14.
Tôn Người làm vua: Đức
Giêsu có thân phận đế vương. Người là vị vua được dân Do Thái bao đời mong chờ.
Người xuất thân từ dòng dõi vua Đavid và được hạ sinh tại Bếtlehem, quê hương của
vua Đavid. Chính vì thế, ngay từ lúc lọt lòng, Người đã bị vua Hêrôđê đuổi giết
trong thân phận là một “vị vua mới sinh của Người Do Thái” (Mt 2,2). Các sách
Tin Mừng ghi lại rất nhiều dữ liệu về thân phận đế vương của Đức Giêsu. Khi Đức
Giêsu trừ quỷ cho một người vừa mù lại vừa câm, dân chúng đã sửng sốt và nói rằng:
“Ông này chẳng phải là con vua Đavid sao?” (Mt 12,23). Người phụ nữ dân ngoại
Canaan vẫn gọi Người là con vua Đavid: “Lạy Ngài là con vua Đavid, xin rủ lòng
thương tôi! Đứa con gái của tôi bị quỷ ám khổ sở lắm” (Mt 15,22). Hai ngưởi mù
thành Jêrikhô cũng gọi Người là con vua Đavid (Mt 20,30-31; Mc 10,48; Lc 18,38).
Người đã vào thành trong một cuộc đón rước long trọng với tiếng hô vang: “Hoan
hô con vua Đavid! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô trên các tầng
trời” (Mt 21,9; Mc 11,9-10; Lc 19,38). Theo Luca, dân chúng gọi Đức Giêsu là
vua một cách trực tiếp: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình
an trên trời và vinh quang Chúa trên các tầng trời” (Lc 19,38). Sự việc xảy ra
như thế nhằm ứng nghiệm lời ngôn sứ về biến cố nhập thành của vị vua: “Hãy báo
cho thiếu nữ Sion, này Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên
lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Mt 21,5; Ga 12,15). Trước
câu chất vấn của Tổng trấn Philatô, quan chức cao nhất của đế quốc Rôma trên đất
nước Do Thái, “Ông là vua dân Do Thái sao?”, Đức Giêsu đã xác nhận: “Chính ông
nói đó” (Mt 27,11; Mc 15,2; Lc 23,3; Ga 18,37a). Tác giả Gioan còn ghi thêm lời
giải thích sứ vụ “làm vua” của Đức Giêsu: “Tôi sinh ra và đến thế gian nhằm mục
đích này: để làm chứng cho sự thật, ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga
18,37b). Điều này phù hợp với mạc khải của Đức Giêsu về căn tính của Người: “Tôi
là con đường, là sự thật và là sự sống, không ai có thể đến với Chúa Cha mà
không qua tôi” (Ga 14,16). Tất cả những dữ liệu này để cho thấy Đức Giêsu chính
là vị vua Mêsia, Đấng mà dân Do Thái đang mong chờ. Tuy nhiên, Người lại không
phải là vị vua mang lại quyền lực chính trị và sung túc về vật chất như họ mong
muốn. Họ muốn tôn vinh Người như là vị vua cơm bánh và chữa bệnh, nhưng Người lại
rút lui lên núi một mình. Không chỉ có dân chúng lầm tưởng, mà chính các môn đệ
của Người cũng đã lầm tưởng về cách thức hành động của Mêsia-Vương Đế Giêsu.
Người là một vị vua tình yêu. Vương miện của Người là vòng gai nhọn và ngai tòa
của Người là thập giá. Vị Vua-Mêsia kiểu như thế đã làm cho các môn đệ thực sự
hoảng sơ, hoảng loạn trong một lúc, nhưng lại mang đến cho các ông một sự bình
an đích thực và ơn cứu độ muôn đời.
Bình luận tổng quát
Vào một ngày đẹp trời bên bờ Hồ Galilê, bên cạnh một
thành phố biển giàu có, sung túc Tibêria, có một đám đông lớn, nghèo nàn đi
theo một thầy giảng, bởi họ đã từng chứng kiến nhiều phép lạ Người đã làm. Đức Giêsu
ngồi đó, trên núi, trong tư thế giảng dạy họ. Có lẽ Người đã giảng dạy họ nhiều
điều như thường lệ. Tuy nhiên, hôm nay Người đặc biệt quan tâm đến cái đói của
những con người này. Người đã có sẵn ý định cho họ ăn. Dầu vậy, Người lại muốn
thử lòng các môn đệ xem các ông nghĩ gì, sau khi đã chứng kiến nhiều phép lạ chữa
lành mà Người đã làm. Người chưa từng làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Chính vì
thế, khi Người hỏi Philípphê về phương cách làm sao có thể mua đủ bánh cho đám
đông lớn ăn. Philípphê đã nói một cách thẳng thắn: 200 đenariô cũng không đủ
cho một người một chút bánh. Có tiền bằng 200 ngày công cũng không thể giải quyết
được vấn nạn này. Chung quy lại, trong đầu ông nghĩ là không có cách nào hết.
Thêm vào đó, môn đệ Anrê cũng tỏ ra bi quan không kém. Với 5 chiếc bánh và 2
con cá của cậu bé, thì cũng chẳng thấm vào đâu với số lượng hơn mười ngàn người.
Ấy vậy mà, Đức Giêsu lại ra lệnh: “Hãy sắp xếp cho họ ở trong tư thế dùng bữa”.
Sao có thể được chứ? Có gì đâu mà dùng bữa? Đám cỏ xanh rì vào mùa xuân gợi lên
một bữa ăn no nê cho đàn chiên được chăm sóc bởi Thiên Chúa mục tử. Mục tử Giêsu
cũng sẽ có cách để nuôi đám đông đàn chiên của Người. Chỉ những hành động giản
đơn: “Cầm lấy bánh, tạ ơn rồi phân phát” mà đám đông hơn 10.000 người được ăn
bao nhiêu tùy thích. Không những thế, số bánh vụn còn dư lại lên đến 12 thúng đầy.
Những chuyện không thể theo suy nghĩ của các môn đệ, lại trở nên có thể một
cách dễ dàng đối với Đức Giêsu. Sau dấu lạ ấy dân chúng đã cảm nhận được nơi
Người phẩm chất, tư cách của vị ngôn sứ. Có lẽ trong đầu họ đã hình dung về
hình ảnh ngôn sứ Êlisê, người đã từng làm cho bánh và dầu hóa nhiều trong Cựu Ước.
Nhất là, họ nghĩ đến lời hứa rằng Chúa sẽ ban cho họ “một vị ngôn sứ như ông Môsê”
(Đnl 18,18), người đã từng cho dân chúng ăn manna trong sa mạc. Hơn thế nữa, họ
còn muốn tôn Người lên làm vua của họ, một vị vua có thể chữa bệnh và ban cơm
bánh. Đó là một vị vua trong mơ của đám đông ấy. Tuy nhiên, Người đã rút lui khỏi
họ và lên núi một mình. Bởi lẽ, Người không muốn họ đặt hy vọng nơi Người chỉ
vì đói cơm, thiếu áo, hay cuộc sống đau khổ với nhiều bệnh tật. Hình ảnh Lễ
Vượt Qua sắp đến gợi nhớ đến việc Chúa giải thoát và cứu dân Người khỏi ách
nô lệ Ai Cập.[18]
Nó cũng hướng đám đông dân chúng cũng như các độc giả đến một thứ bánh đích thực.
Đó chính là Mình và Máu Đức Giêsu, là lương thực thường tồn và là bánh ban sự sống
đời đời cho con người. Bí Tích Thánh Thể được thiết lập trong dịp Lễ Vượt Qua
cuối cùng, cũng chính là dấu chứng cuộc Thương Khó – Tử nạn của Đức Giêsu. Nhận
biết Người là vị ngôn sứ hay làm phép lạ chưa đủ. Mong muốn Người là vị vua
mang lại bảo đảm về vật chất và ổn định về chính trị vẫn chưa đủ. Họ phải vươn
đến niềm tin nơi một Đấng Mêsia-hoàng đế, yêu cho đến chết và chết trên thập
giá, Đấng dẫn họ vào vương quốc Thiên Đàng bằng con đường thập giá, chứ không
phải chỉ là no nê cơm bánh.
Trớ trêu thay, xã hội chúng ta đang sống luôn tồn
tại một thực tế trái chiều: “Người ăn không hết kẻ lần không ra”. Có những nơi
giàu có “ăn sung mặc sướng” thì cũng có những nơi nghèo nàn khổ sở, đến nỗi “cơm
không đủ no, áo không đủ ấm”. Có những nhà giàu có đến nứt tường đổ vách, thì
cũng cò những gia đình kiếm cơm từng ngày, nhà không có tường để đổ. Có những
người dư ăn đến nứt thịt căng da, cũng có những người óm đói gầy guộc. Có biết
bao người béo phì thì cũng có biết bao người suy dinh dưỡng. Tình hình đại dịch
bùng phát với lệnh phong tỏa gắt gao, Sài Gòn chìm trong sự thiếu thốn đủ điều.
“Cái bụng” của dân nghèo, và của cả dân giàu đang bị đánh tơi tả vì thiếu thốn
những thực phẩm cần thiết. Tuy nhiên, nhiều “tấm lòng” của những con người hảo
tâm vẫn bùng phát không thua gì virus Corona. Cùng với loại virus Corona độc hại
đang làm suy yếu và giết chết con người, người ta bỗng thấy một loại vi khuẩn
“tình thương” đang âm thầm chăm sóc và cứu sống con người. Chính trong hoàn cảnh
bi đát nhất của phận người, bản năng của tình người, tình huynh đệ phổ quát bỗng
chỗi dậy một cách mạnh mẽ khủng khiếp. Bên cạnh bản năng thú vật của những người
chỉ biết nhắm đến lợi lộc của cá nhân, của doanh nghiệp để tăng giá, trục lợi
trên nỗi khổ của những con người cùng khổ trong cơn đại dịch, người ta lại tìm
thấy những bản năng con người dám bỏ đi tất cả những lợi lộc và cả thời gian, sức
khỏe để mang đến những nhu yếu phẩm 0 đồng cho những người thiếu thốn. “Tình
yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm những ai yêu thương thì đều được Thiên Chúa
sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên
Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4,7-8.16). Bản năng tình người, tình
nhân loại chính là món quà quý giá nhất, đỉnh nhất, “chất” nhất mà Thiên Chúa
đã phú bẩm cho con người. Tuy vậy, tiếc thay, nhiều người trong nhiều lúc lại
quên yêu thương và đánh mất món quà ấy một cách quá dễ dàng. Đức Giêsu đã chạnh
lòng thương những người đói cơm thiếu bánh. Người đã làm phép lạ cho bánh hóa
nhiều tức thì. Phép lạ đó khởi đi từ sự rộng rãi chia sẻ của một cậu bé vô
danh. Bí quyết phép lạ đó có lẽ Người vẫn gửi lại trong nhân gian, trong lòng mỗi
người. Đó là, mỗi khi con người, đặc biệt là những người no đủ biết nhìn thấy
cái đói, cái rách nơi những người người thân, người hàng xóm, bạn hữu, và đồng
loại. Tình yêu ấy phải được đặt nền tảng và truy nguồn lên tận Thiên Chúa, Đấng
đã chết vì yêu nhân loại, không so đo, tính toán thiệt hơn.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] “Chúa là mục tử chăn dắt
tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì
Trên đồng cỏ xanh tươi, Người
cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành”
Và bổ sức cho tôi. Người dẫn
tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự Người” (Tv 23,1-3).
[2] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes (AYB; New
Haven – London 2008) XXIX, 236.
[3]
R. Brown claims that “There is
no way of localizing it, although tradition associates it with the northwest
shore of the lake and a hill called “the Mount of the Beatitudes.” (R.E. Brown,
The Gospel
according to John, 232).
[4] E. Haenchen – R.W. Funk– U. Busse,
John. A Commentary on the Gospel of John (Hermeneia; Philadelphia 1984)
271.
[5] Xem thêm về “Lễ Vượt Qua”,
Dictionary of Jesus and the Gospels, 273.
[6] Luca cho biết là Hằng Năm
Đức Giêsu đều lên Jêrusalem, trong bối cảnh Luca trình bày sự kiện Đức Giêsu “bị
lạc” cha mẹ, ở lại trong đền thờ, ngồi giữa “các thầy dạy, vừa nghe họ vừa đặt
câu hỏi” (Lc 2,41-49). Tuy vậy, đây là thời gian Đức Giêsu còn ở với cha mẹ tại
Nadarét. Chúng ta cũng có thể phỏng đoán rằng, Đức Giêsu vẫn tiếp tục thói quen
ấy, mỗi năm lên Jêrusalem một lần, như những người Do Thái đạo Đức. Thế nhưng,
Gioan có điểm nhấn về 3 lần Lễ Vượt qua, trong khi các Tin Mừng Nhất Lãm thì
không đề cập.
[7] L. Koehler, et al., The Hebrew and Aramaic lexicon of the Old Testament,
947-948
[8] Xem B.M. Bokser, The
Anchor Dictionary (D.N. Freedman et Al. eds.) (New York – London – Tornto –
Syned – Auckland 1992) VI Si-Z, “Unleavened Bread and Passover, Feast
of.”,755-765; G.R.
Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 37.
[9] Danh sách 12 Tông đồ theo
Tin Mừng Nhất Lãm. Mát-thêu: “đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến
ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an,
em của ông; ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông Tô-ma và ông
Mát-thêu người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông Ta-đê-ô; ông
Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Người”
(10,2-4) ; Mác-cô: “Si-môn là Phê-rô, rồi có ông Gia-cô-bê con ông
Dê-bê-đê, và ông Gio-an em ông Gia-cô-bê -Người đặt tên cho hai ông là
Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi, rồi đến các ông An-rê,
Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Ta-đê-ô,
Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là chính kẻ nộp Người”
(3,16-19); Luca: “đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông
An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em
của ông; ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông Tô-ma và ông Mát-thêu
người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông Ta-đê-ô; ông Si-môn
thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Người”
(6,2-4).
[10] Luca không nhắc đến tên
An-rê trong nhóm các môn đệ đầu tiên, và câu chuyện Đức Giê-su gọi Phê-rô –
Gio-cô-bê – Gioan cũng thú vị và kịch tính hơn hai tác giả còn lại.
[11] R.E. Brown, The Gospel according to John, 246.
[12] M. Zerwick – M. Grosvenor,
A grammatical
analysis of the Greek New Testament (Rome 1974) 303.
[13] ibid.
[14] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII),
234
[15] Về những đặc tính của Bí
Tích Thánh Thể trong trình thuật này xem thêm R.E.
Brown, The Gospel according to John, 246-247.
[16] M. Zerwick –
M. Grosvenor, Greek New
Testament (Rome
1974) 303.
[18]F.J. Moloney, “John”, The
Paulist Biblical Commentary (Ed. J.E.A. Chiu et al.) (New York 2018) 1137.
No comments:
Post a Comment