Thursday 5 August 2021

TỪ BÁNH ĐẾN THỊT. Chú giải Tin Mừng CN XIX TN B

 Bản văn Ga 6,41-51

Hy Lạp

Việt

 41 Ἐγόγγυζον οὖν οἱ Ἰουδαῖοι περὶ αὐτοῦ ὅτι εἶπεν· ἐγώ εἰμι ὁ ἄρτος ὁ καταβὰς ἐκ τοῦ οὐρανοῦ,

 42 καὶ ἔλεγον· οὐχ οὗτός ἐστιν Ἰησοῦς ὁ υἱὸς Ἰωσήφ, οὗ ἡμεῖς οἴδαμεν τὸν πατέρα καὶ τὴν μητέρα; πῶς νῦν λέγει ὅτι ἐκ τοῦ οὐρανοῦ καταβέβηκα;

 43 ἀπεκρίθη Ἰησοῦς καὶ εἶπεν αὐτοῖς· μὴ γογγύζετε μετ᾽ ἀλλήλων.

 44 οὐδεὶς δύναται ἐλθεῖν πρός με ἐὰν μὴ ὁ πατὴρ ὁ πέμψας με ἑλκύσῃ αὐτόν, κἀγὼ ἀναστήσω αὐτὸν ἐν τῇ ἐσχάτῃ ἡμέρᾳ.

 45 ἔστιν γεγραμμένον ἐν τοῖς προφήταις· καὶ ἔσονται πάντες διδακτοὶ θεοῦ· πᾶς ὁ ἀκούσας παρὰ τοῦ πατρὸς καὶ μαθὼν ἔρχεται πρὸς ἐμέ.

 46 οὐχ ὅτι τὸν πατέρα ἑώρακέν τις εἰ μὴ ὁ ὢν παρὰ τοῦ θεοῦ, οὗτος ἑώρακεν τὸν πατέρα.

 47 Ἀμὴν ἀμὴν λέγω ὑμῖν, ὁ πιστεύων ἔχει ζωὴν αἰώνιον.

 48 Ἐγώ εἰμι ὁ ἄρτος τῆς ζωῆς.

 49  οἱ πατέρες ὑμῶν ἔφαγον ἐν τῇ ἐρήμῳ τὸ μάννα καὶ ἀπέθανον·

 50 οὗτός ἐστιν ὁ ἄρτος ὁ ἐκ τοῦ οὐρανοῦ καταβαίνων, ἵνα τις ἐξ αὐτοῦ φάγῃ καὶ μὴ ἀποθάνῃ.

 51 ἐγώ εἰμι ὁ ἄρτος ὁ ζῶν ὁ ἐκ τοῦ οὐρανοῦ καταβάς· ἐάν τις φάγῃ ἐκ τούτου τοῦ ἄρτου ζήσει εἰς τὸν αἰῶνα, καὶ ὁ ἄρτος δὲ ὃν ἐγὼ δώσω ἡ σάρξ μού ἐστιν ὑπὲρ τῆς τοῦ κόσμου ζωῆς. (Jn. 6:40-51 BGT)

41 Những người Do Thái xầm xì với nhau, vì Người [Đức Giê-su] nói rằng: ‘Chính tôi là bánh, Đấng đi xuống từ trời

42 và họ nói: ‘Người này không phải là Giê-su, con trai của ông Giuse, không phải chúng ta biết cha và mẹ của anh ta sao? sao bây giờ anh ta lại nói rằng ‘tôi đã đi xuống từ trời’?

43 Đức Giê-su mới trả lời và nói cùng họ: ‘anh chị em đừng xầm xì với nhau’

44 chẳng ai có thể đến với tôi nếu Chúa Cha, Đấng sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi sẽ phục sinh người ấy trong ngày cuối cùng [cánh chung]

45 lời đã được chép trong sách Các Ngôn Sứ: ‘tất cả sẽ được Thiên Chúa giảng dạy’. Mọi kẻ nghe và học về Cha sẽ đến cùng tôi.

46 vì không kẻ nào thấy Chúa Cha ngoại trừ người từ Chúa Cha, người này đã thấy Chúa Cha.

47 Amen, Amen tôi bảo thật anh chị em, ai tin thì có sự sống vĩnh cửu

48 Chính tôi là bánh ban sự sống

49 Cha ông của anh chị em đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết.

50 đây là bánh, Đấng từ trời đi xuống, để bất kỳ ai ăn từ Người, sẽ không thể chết.

51 tôi chính là bánh sự sống, Đấng từ trời đi xuống; nếu ai ăn bánh này sẽ sống đời đời bánh mà tôi ban tặng chính là thịt của tôi vì sự sống của thế gian

 


Bối cảnh: Đoạn Văn 6,41-51 nằm trong đoạn lớn “Diễn Từ Bánh Hằng Sống” (6,22-59). Đây là loạt những bài giảng Đức Giê-su đã giảng trong hội đường Ca-phár-nao-um. Trong bối cảnh trực tiếp. Chủ đề “bánh trường sinh” là chủ đề xuyên suốt từ đoạn văn trước đó (Ga 6,35). Chủ đề “ăn Manna” cũng được nhắc lại đi kèm với chủ đề “bánh trường sinh” giống như đoạn trước và cả đoạn sau đó (6,31-32; 6,49; 6,58). Tuy nhiên, ở đoạn này Đức Giê-su nhắc đến đặc tính hạn chế của Manna: “Ăn Manna trong sa mạc nhưng đã chết”. Nguồn gốc “từ trời” và được “Chúa Cha sai” cũng là một chủ đề nổi bật trong đoạn này (6,41.42.44.51). Trước đó Đức Giê-su cũng gọi mình là “Đấng đi xuống từ trời” (6,33.38) “người Chúa Cha sai đến” (6,29.38-39). Chủ đề “tin” (6,47: ai tin thì được sống đời đời) cũng nối kết chặt chẽ với đoạn văn trước đó (6,29: Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến). Đức tin ở đoạn này mở ra cơ hội cho sự sống đời đời. Đức tin là một chủ đề quan trọng bậc nhất không những trong thần học Gioan mà cho toàn bộ thần học Tân Ước và Cựu Ước. Chủ đề “phục sinh” cũng là một chủ đề rất quan trọng. Chủ đề này được nói đến trong đoạn trước đó (6,39-40: ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết; 6:44: tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết). Dĩ nhiên, chủ để “phục sinh” không thể tách rời chủ đề “sự sống đời đời”. Sự “Phục sinh” nối kết với biến cố phục sinh của Đức Ki-tô. Đó cũng là cốt lõi của Tin Mừng mà các Tông Đồ rao giảng. Chủ đề về “thịt” (6,51: bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi) của Đức Giê-su mở đầu cho cuộc tranh luận sôi nổi ở đoạn sau (6,52: làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt của ông ta được?). “Thịt” kết hợp với “máu” để trở thành của ăn và của uống (6,55). Tin Mừng thứ tư là Tin Mừng duy nhất không có trình thuật về sự kiện Đức Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể. Tuy nhiên, Diễn Từ Bánh Hằng Sống và nhất là, kiểu nói “ăn thịt và uống máu” rõ ràng nối kết với chủ đề về “Thánh Thể” trong truyền thống Nhất Lãm và Phao-lô (Mc 14,22-25; Mt 26,26-29; Lc 22,14-20; 1 Cr 11,23-25), trong đó Đức Giê-su cũng mời gọi ăn “mình” của Người và uống “máu” của Người.

Cấu trúc: Đoạn văn có cấu trúc tổng quát gồm 3 phần chính: Phần (A) Tranh luận về nguồn gốc từ trời của chiếc bánh Giê-su // phần (A’) Đức Giê-su là bánh ban sự sống; Phần (B) “Ai tin sẽ có sự sống đời đời” chính là phần trung tâm của cấu trúc. Ngoài ra, chúng ta có thể thấy cấu trúc chi tiết của phần (A) và (A’). Phần (A) có cấu trúc đồng tâm, gồm 5 tiểu phần: Tiểu phần c. “Đức Giê-su phục sinh kẻ đến với Người” chính là trung tâm của cấu trúc; tiểu phần a. Tranh luận về nguồn gốc từ trời của chiếc bánh Giê-su // a’. Khẳng định Đức Giê-su từ Chúa Cha đến và đã thấy Người; Tiểu phần b. Không thể đến với Đức Giê-su nếu không được Chúa Cha lôi kéo // tiểu phần b’. Mọi kẻ nghe và học về Chúa Cha (được lôi kéo) đều sẽ đến với Đức Giê-su. Phần (A’) được cấu trúc bởi 3 cặp tiểu phần song song với nhau (a//a1//a2//a3; b//b1//b2//b3): a. Bánh ban sự sống // a1. Đấng từ trời đi xuống// a2. Đấng từ trời đi xuống, bánh ban sự sống (a2= a+a1)// a3. Bánh đó chính là thịt của Đức Giê-su; b. Ăn Manna và đã chết // b1. Ăn (Đấng từ trời đi xuống) sẽ không thể chết// b2. Ăn (Đấng từ trời đi xuống+ bánh ban sự sống) sẽ sống đời đời // b3. Thịt của Đức Giê-su được ban tặng vì sự sống thế gian. 

Tổng

Quát

(A) Nguồn gốc của chiếc bánh Giê-su: Từ trời (6,41-46)

(B) Ai Tin thì có sự sống vĩnh cửu (6,47)

(A’) Đức Giê-su, Bánh Hằng Sống, Đấng từ trời đi xuống (6,48-51)

 

 

(A)

a. Tranh luận về nguồn gốc “từ trời” của bánh Giê-su (6,41-42)

b. Không thể đến với Đức Giê-su nếu không được Chúa Cha lôi kéo (6,43-44a)

c. Đức Giê-su phục sinh kẻ đến với Người (6,44b)

b’. Mọi kẻ nghe và học về Chúa Cha sẽ đến cùng Đức Giê-su (6,45)

a’. Đức Giê-su từ Chúa Cha đến và đã thấy Người (6,46)

(B)

Ai tin thì có sự sống vĩnh cửu (6,47)

 

 

 

(A’)

a. Bánh ban sự sống (6,48)

b. Ăn Manna và đã chết (6,49)

a1. Đấng từ trời đi xuống (6,50a)

b1. Ai ăn sẽ không thể chết (6,50b)

a2. Đấng từ trời đi xuống, bánh ban sự sống (6,51a)

b2. Ăn thì sẽ sống đời đời (6,51b)

a3. Bánh đó là thịt của Đức Giê-su (6,51c)

b3. Ban tặng vì sự sống của thế gian (6,51d)


Một số điểm chú giải

1.     Những người Do Thái”: Đây là danh xưng rất đặc trưng trong Tin Mừng Gioan. Trong khi các Tin Mừng Nhất Lãm dùng rất ít danh xưng này và với nghĩa chung chung chỉ dân tộc Do Thái (Mt: 1 lần, 28,15; Mc: 2 lần, 7,3; 15,26; Lc: 3 lần, 7,3; 23,38.51), Gioan lại sử dụng vô số danh xưng này như một đối tượng tranh luậnđối nghịch với Đức Giê-su. Trong chương 6, danh xưng này được nhắc đến 3 lần. Ngoài một lần có nghĩa chung chung (6,4: lễ Vượt Qua, đại lễ của Người Do Thái), hai lần khác họ xuất hiện như đối tượng tranh luận với Đức Giê-su. (1) Sau khi Đức Giê-su nói “tôi là bánh từ trời xuống”, những Người Do-Thái liền xầm xì phản đối rằng: “ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ôn Giuse đó sao? Cha mẹ của ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: ‘tôi từ trời xuống?’” (6,42). Đây là kiểu dẫn chứng nhằm chối bỏ nguồn gốc ‘từ trời’ của Đức Giê-su. Chính dân cùng làng Na-gia-rét cũng dùng lý chứng này để phủ nhận quyền năng và sự khôn ngoan của Đức Giê-su khi Người rao giảng tại một hội đường Na-gia-rét (Mc 6,1-6; Mt 13,53-58; Lc 4,16-30). (2) Rồi sau khi Đức Giê-su nói ‘bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi’, Người Do Thái lại tranh luận sôi nổi: “làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (6,52). Đây cũng là một lý chứng nhằm bác bỏ mạc khải của Đức Giê-su về việc “thịt” của Người làm cho thế gian được sống. Không chỉ là những đối tượng tranh luận, những người Do Thái còn được tác giả Gioan nói đến như những đối thủ[1] chính yếu của Đức Giê-su: Người Do Thái chống đối Đức Giê-su vì Người hay chữa bệnh ngày Sa-bát (5,16). “Họ tìm cách giết” Đức Giê-su (5,18; 7,1); cho rằng Đức Giê-su là người bị quỷ ám (8,48.52); ném đá Đức Giê-su (10,31.33; 11,8); sai thuộc hạ đến bắt Đức Giê-su và trói lại (18,12); cuối cùng họ lên án đóng đinh Người: “đem đi, đem đi, Đóng đinh nó vào thập giá” (19,15). Sự đối nghịch của họ đối với Đức Giê-su làm cho những người khác phải lo sợ. Vì vậy, không ai dám công khai nói về Đức Giê-su vì sợ những Người Do Thái (7,13). Nghiêm trọng hơn, những người Do Thái đã đồng lòng trục xuất ra khỏi hội đường tất cả những ai tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô (9,22). Anh mù được sáng mắt trong chương 9 là một nạn nhân cụ thể cho sự trục xuất này (9,34-35). Tuy nhiên, cũng có những Người Do Thái tin vào Đức Giê-su (3,1; 8,31; 12,11).

2.     Đấng đi xuống từ trời”: Đức Giê-su nhiều lần khẳng định nguồn gốc từ trời của mình. Chỉ có Đấng từ trời đi xuống mới có thể lên trời (3,13). Đấng đến từ trời thì trên hết mọi sự (3,31). Bánh của Thiên Chúa là Đấng từ trời đi xuống và ban sự sống cho thế gian (6,33). Người từ trời đi xuống để thi hành ý của Đấng đã sai Người (6,38). Trong đoạn văn này (6,41-51), cụm trạng từ nơi chốn: “từ trời” được lặp lại 4 lần, đều để nhấn mạnh nguồn gốc của Đức Giê-su: “tôi là bánh hằng sống, Đấng đi xuống từ trời” (6,41.42.50-51). Cụm trạng từ chỉ nguồn gốc “từ trời” của Đức Giê-su được dùng nhiều nhất trong chương 6. Nó xuất hiện đến 10 trong tổng số 15 lần của toàn bộ Tin Mừng thứ tư. Chính vì thế, đây là một đề tài rất quan trọng của chương 6.

3.     Chúa Cha, Đấng sai tôi”: Đức Giê-su không chỉ là tấm bánh, nhưng hơn hết Người là một ngôi vị được Chúa Cha sai đến để thi hành “ý muốn của Chúa Cha” (6,38). Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giê-su dùng rất nhiều lần danh xưng “Đấng đã sai” (πέμψαντός) để gọi Chúa Cha[2], trong đó nhiều lần danh xưng này được gắn với danh từ “ý muốn” (τὸ θέλημα): “Ý muốn của Đấng sai tôi” (4,34; 5,30; 6,38.39). Ngoài ra, Đức Giê-su còn nhận “giáo huấn” từ “Đấng sai Người” (7,16; 14,24); Người luôn tìm vinh quang của “Đấng sai Người” (7,18); làm công việc của “Đấng sai Người” (9,4). Như thế, ngoài tương quan Cha-Con, tương quan của Đức Giê-su và Chúa Cha còn được nhấn mạnh bằng tương quan sứ vụ: Đấng sai đi – Đấng được sai đi. Đức Giê-su nói về mình như là mạc khải chính xác từ Chúa Cha, vì Người đến từ Chúa Cha. [3]

4.   Chúa Cha lôi kéo … Mọi kẻ nghe và học về Cha”: Động từ “kéo” (ἕλκω) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa đen là “rút” [gươm], “kéo” [lưới], “dẫn ai đến tòa”. Tuy nhiên, nghĩa biểu tượng của nó là “thu hút”, “thúc đẩy về đời tinh thần hoặc luân lý[4]. Nhìn vào cấu trúc phần (A), độc giả cũng có thể thấy tiểu phần b. Không thể đến với Đức Giê-su nếu không được Chúa Cha lôi kéo // b’. Mọi kẻ nghe và học biết về Chúa Cha đều đến với Đức Giê-su. Nghĩa là tất cả những ai nghe, và nghiên cứu về Chúa Cha cách đúng đắn, đích thực thì sẽ được Chúa Cha tác động, và thúc đẩy đến với Đức Giê-su.[5] Đức Giê-su trích sách Isaiah “Tất cả con cái của anh chị em sẽ được Thiên Chúa giảng dạy” (Is 54,13) để nói về sự lôi kéo của Chúa Cha. Những “Người Do Thái” dựa trên nguồn gốc trần thế của Đức Giê-su để phủ nhận nguồn gốc từ trời của Người. Điều này chứng tỏ rằng họ chưa nghe và học biết về Chúa Cha một cách đúng đắn, nên họ xầm xì phản đối về nguồn gốc “từ trời” của Đức Giê-su. Chúa Cha “thu hút”, “tác động”, và “thúc đẩy” người ta đến với Đức Giê-su nhưng tự do chọn lựa vẫn là của họ chứ không phải họ bị ép buộc đến với Đức Giê-su. E. Haenchen – R. Funk – U. Busse cho rằng đối với tác giả Gioan, sự quyết định về sự sống đời đời hay chết, không nằm trong quyết định của con người nhưng trong quyết định của Chúa Cha, điều vốn vượt khỏi những năng lực nhận thức của chúng ta.[6] Tuy vậy, Thiên Chúa chắc chắn muốn tất cả mọi người nhận biết Người và được cứu độ. Vì thế, quyền quyết định sống hay chết lại nằm ở nơi con người nhiều hơn.

5.   Phục sinh”: Đức Giê-su hứa sẽ “cho sống lại” tất cả những ai đến với Người. Động từ “đến với”, “đi về phía”, bao hàm một việc đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su và tin vào Người. “Những người Do Thái”, xầm xì phản đối nguồn gốc “từ trời” của Đức Giê-su, nghĩa là họ không chấp nhận giáo huấn của Người và không đến với Người. Vì thế, ngay sau đó Người mới giải thích là “không ai đến được với Người nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy”. Động từ “ἀνίστημι” (làm cho sống lại) được sử dụng nhiều nhất trong chương 6 của Tin Mừng Gioan (4 lần trong tổng thể 8 lần của toàn bộ Tin Mừng này). Đức Giê-su lặp lại 4 lần cùng một lời hứa: “Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày cuối cùng” (6,39.40.45.54). Đặc biệt trong đoạn từ 6,39-45, Đức Giê-su lặp lại đến 3 lần. Đó quả là một tần số dày đặc đến dồn dập. Mỗi lần lặp lại Đức Giê-su lại gắn với một lý do khác. (i)  Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những người mà Người đã ban cho tôi, tôi không để mất một ai, những sẽ cho họ sống lại trong ngày cuối cùng (6,39). (ii)  Tất cả những ai thấy Người Con và tin vào Người Con thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày cuối cùng (6,40). (iii) Những người đến với Đức Giê-su sẽ được cho sống lại trong ngày cuối cùng (6,44). (iv) Ai ăn thịt và uống máu của Đức Giê-su thì được sống muôn đời và được cho sống lại trong ngày cuối cùng (6,54). Nhìn vào cấu trúc của phần (A), độc giả có thể nhận thấy tiểu phần c. “Đức Giê-su phục sinh những kẻ đến với Người” chính là phần trung tâm và cốt lõi của cấu trúc. Tất cả những tiểu phần khác đều nhắm đến phần trung tâm này. Động từ “ἀνίστημι” (sống lại) cũng được dùng để chỉ sự sống lại của Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su đã dùng động từ này để tiền báo về sự phục sinh của Người: “Đừng nói cho ai những điều ấy cho đến khi Con Người sẽ được sống lại” (Mt 17,9; Mc 9,9.10); “Ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy” (Mt 20,19; Mc 8,31; 9,31; 10,34; Lc 18,31; 24,7.46). Văn Chương Do Thái thế kỷ thứ hai C.E (kỷ nguyên chung, trước Chúa Ki-tô), đã bắt đầu suy tư về sự phục sinh và sự sống đời đời. Sách Ma-ca-bê quyển thứ hai đã ghi lại lời của những chứng nhân tử đạo: “Chúng tôi chết vì luật pháp của Vua Vũ Trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2 Mcb 7,9.14; Cf. 7,36); “Ông Giu-đa quyên 2000 quan tiền và gửi về Giê-ru-sa-lem để xin dâng hy lễ tạ tội cho các chiến binh đã ngã xuống; ông làm cử chỉ tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại” (2 Mcb 12,43-44). Tuy nhiên, khi Đức Giê-su tiền báo về cuộc khổ nạn, chết và Phục Sinh của Người, các môn đệ dường như không có ấn tượng gì về sự Phục Sinh cả. Các ông chỉ thất vọng, buồn phiền về Cuộc Khổ Nạn và cái chết của Người. Chính vì vậy, sự phục sinh của Người lúc đầu luôn là biến cố gây ngạc nhiên và khó tin đối với tất cả các môn đệ (x. Mc 16,11.13.14; Lc 24,12.15.41; Ga 20,24-29). Chi sau khi gặp gỡ chính Đấng Phục Sinh rồi, các ông mới bắt đầu hiểu về những gì Đức Giê-su tiền báo trước đó. Tin Mừng Phục Sinh trở thành cốt lõi và trung tâm điểm của niềm tin và lời rao giảng của các Tông Đồ và Giáo Hội sơ khai (x. Cv 2,22-24). Thánh Phao-lô đã rao giảng rằng: “Tôi trao cho anh chị em như là điều quan trọng nhất điều tôi đã lãnh nhận rằng Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi của chúng ta đúng như lời Thánh Kinh, Người đã được mai táng, sống lại vào ngày thứ ba đúng như lời Thánh Kinh” (1 Cr 15,3-4). Thánh nhân cũng xác quyết mạnh mẽ rằng: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15,17).

6.   Ai tin thì có sự sống vĩnh cửu”: Cấu trúc tổng quát cho thấy phần (B) “Ai tin thì có sự sống đời đời” chính là trung tâm của đoạn Tin Mừng này. Tất cả những phần khác đều quy chiếu về phần trung tâm này. Vì thế, Đức Giê-su đã dùng kiểu nói long trọng, nhấn mạnh khi nói câu này: “Amen, Amen” (thật, tôi bảo thật).

(A) Nguồn gốc của chiếc bánh Giê-su: Từ trời (6,41-46)

(B) Ai Tin thì có sự sống vĩnh cửu (6,47)

(A’) Đức Giê-su, Bánh Hằng Sống, Đấng từ trời đi xuống (6,48-51)

Diễn từ “Bánh Hằng Sống” cũng được kết thúc bằng việc tuyên xưng niềm tin của Phê-rô, đại diện cho Nhóm Mười Hai: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy có những lời mang lại sự sống đời đời và chúng con đã tin rằng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (6,68-69). Nếu như Tin Mừng Nhất Lãm thường cho thấy sự quyết định của yếu tố niềm tin trong việc chữa lành bệnh tật thì Gioan lại cho thấy tính tiên quyết của niềm tin đối với sự sống đời đời của con người. Tin có thể mang lại cho người ta sự sống đời đời (Ga 3,36; 5,24). Thật vậy, trong Tin Mừng Nhất Lãm, độc giả thường nghe Đức Giê-su tuyên bố rằng: “Đức Tin của con đã cứu chữa con” (Mt 9,22; Mc 5,34; 10,52; Lc 8,48). Hay là: “Ông tin thế nào thì được như vậy” (Mt 8,10.13; 9,29; 15,28; Mc 5,36; Lc 7,50; 8,50). Tin Mừng thứ tư đã khởi đầu bằng xác tín “những ai tin vào danh Người [Ngôi Lời], thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12) và kết thúc bằng việc cho thấy mục đích của toàn bộ Tin Mừng là “để anh chị em tin Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa và để nhờ tin mà có sự sống nhờ danh Người. Trong suốt Tin Mừng, có rất nhiều lần Đức Giê-su giải thích về tầm quan trọng của niềm tin đối với sự sống con người: “Ai tin vào Người Con thì được sống đời; còn kẻ không tin vào Người Con thì sẽ không được sống” (Ga 3,36); “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5,24; Cf. 17,3).

7.   Manna”: Manna trong tiếng Do Thái là câu hỏi cái gì vây? Bởi lần đầu tiên khi con cái Ít-ra-el thấy một thứ gì đó nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ xuống mặt đất họ hỏi nhau: “Man hu” [מָ֣ן ה֔וּא]? nghĩa là cái gì đây? (Xh 16,14-15). Manna “giống như hạt ngò, màu trắng và có mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong” (Xh 16,31; Ds 11,7). Nhắc đến Manna là nhắc đến truyền thống 40 năm Thiên Chúa nuôi dân Ít-ra-el trong sa mạc trước khi vào đất hứa. Suốt bốn mươi năm họ không trồng tỉa hoặc kiếm ăn, thế mà Chúa vẫn nuôi họ bằng Manna và chim cút (x. Xh 16,35; Ds 11,6; 11,9; Đnl 8,3.16; Gs 5,12; Tv 78,24). Sở dĩ Đức Giê-su nhắc lại Manna bởi vì trước đó đám đông đã nói với Đức Giê-su rằng: “Tổ tiên chúng tôi đã ăn Manna trong sa mạc như có lời chép: ‘ông ấy đã cho họ ăn bánh từ trời” (6,31). Đức Giê-su thừa nhận điều họ nói là đúng nhưng không phải Ông Mô-sê đã cho họ ăn bánh từ trời, mà chính Cha của Đức Giê-su cho “anh chị em” ăn bánh từ trời bánh đích thực (6,32). Đức Giê-su đã mang đến ít nhất 3 sự chuyển đổi: (i) Sự chuyển đổi chủ thể ban bánh từ trời: từ Mô-sê qua Chúa Cha; (ii) Chuyển đổi về thì của động từ: từ “quá khứ” (đã ban) đến “hiện tại” (đang ban, luôn ban); (iii) Chuyển đối tượng lãnh nhận: từ “tổ tiên” đến “anh chị em”. Trong đoạn này Đức Giê-su nhắc lại sự kiện “tổ tiên” của họ đã ăn Manna và đã chết (thực tế là họ đã chết hết rồi) đối lại với bánh trường sinh mà Đức Giê-su ban. Ai ăn bánh này thì khỏi phải chết. Đức Giê-su nhắc lại lưu ý này một lần nữa ở đoạn sau: “Đây là bánh từ trời xuống không phải như bánh tổ tiên của anh chi em đã ăn và họ đã chết” đối lại với “ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (6,58).

8.   Sẽ không thể chết…sẽ sống đời đời”: Cấu trúc phần (A’) cho thấy hai loạt tiểu đề song song và tiến triển theo bậc cấp: (i) bánh ban sự sống – Đấng từ trời xuống – Đấng từ trời xuống + bánh ban sự sống – thịt của Đức Giê-su; (ii) Ăn Manna và đã chết – Ăn sẽ không chết – Ăn thì sẽ sống đời đời – Ban tặng vì sự sống cho thế gian. “Không thể chết” song song với “sống đời đời” và đối lại với “đã chết”. Ăn “Manna” đối lại với ăn “bánh ban sự sống từ trời xuống”.

a. Bánh ban sự sống (6,48)

b. Ăn Manna và đã chết (6,49)

a1. Đấng từ trời đi xuống (6,50a)

b1. Ai ăn sẽ không thể chết (6,50b)

a2. Đấng từ trời đi xuống, bánh ban sự sống (6,51a)

b2. Ăn thì sẽ sống đời đời (6,51b)

a3. Bánh đó là thịt của Đức Giê-su (6,51c)

b3. Ban tặng vì sự sống của thế gian (6,51d)

         Cái chết mà Đức Giê-su muốn nói về những người ăn Manna là cái chết về thể lý vì họ đã ăn “lương thực” hư nát. Sự “không chết” mà Đức Giê-su muốn nói là “sự sống lại”. Sự sống đời đời không có nghĩa là không trải qua cái chết về thể lý nhưng là sự phục sinh sau khi đã chết. Chính Đức Giê-su cũng đã trải qua cái chết. Người phục sinh La-da-rô (Ga 11,11-43); Con gái ông trưởng hội đường Giai-i-rô (Mc 5,35-43); Con trai bà góa thành Nain (Lc 7,11-17), nhưng rồi tất cả những người này cũng đều đã chết. Tuy nhiên, cái chết đó sẽ không vĩnh cửu. Nếu họ “đến với Đức Giê-su”; ăn “bánh sự sống từ trời”, Đức Giê-su sẽ phục sinh họ và họ lại được sống mãi. Sự “không chết”, “sống đời đời” của những người tin vào Đức Giê-su còn được hiểu theo nghĩa thiêng liêng. Nghĩa là, một nguời đến với Đức Giê-su, tin vào Người và sống thể hiện niềm tin rất sống động qua cuộc đời yêu thương và phục vụ, người ấy sẽ không bao giờ chết. Hình ảnh của anh/chị ta vẫn tồn tại mãi trong lòng mọi người. Sự sống đời đời không chờ cho đến khi “bên kia nấm mồ” nhưng nó diễn ra ở đây và bây giờ trong sự gặp gỡ với Đức Giê-su và thông điệp Tin Mừng của Người.[7] Tuy nhiên, sự sống đời đời thật sự không thể tách rời khỏi sự phục sinh (6,44). Sự phục sinh chính là cơ sở cho sự sống đời đời. Trước đó, Đức Giê-su đã mạc khải rằng: “Giờ đã đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ đều nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó: ai đã làm điều lành thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,28-29).

9.  Bánh sự sống”: Có hai cách thức để hiểu bánh sự sống. (i) Mạc khải thần linh được trao ban qua và trong Đức Giê-su. Cách hiểu dựa trên cách giải thích Manna như là lời Chúa, hay hướng dẫn của Chúa trong truyền thống Do Thái. Phê-rô có lẽ ủng hộ cách hiểu này khi ông nói rằng: “bỏ thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (6,68). Lời ban sự sống đời đời tương đương với bánh ban sự sống. (ii) Bánh ban sự sống như là bánh Thánh Thể. Trong 6,51-58 Đức Giê-su đã nói đến “thịt” và “máu” người một cách cụ thể: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi vì sự sống của thế gian” (6,51); “thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống” (6,55). Đây chính là những hình ảnh về Bí Tích Thánh Thể chứ không còn là lời dạy hay là mạc khải thần linh nữa. Các nhà chú giải trong thời hiện đại phân biệt những cách hiểu như sau: (a) Toàn bộ thảo luận (6,35-58) nói đến sự mạc khải trong và qua Đức Giê-su. (b) Chỉ có phần đầu tiên (6,35-50) có chủ đề về khôn ngoan, nhưng trong phần sau (6,51-58), bánh đề cập đến thịt Thánh Thể của Đức Giê-su. (c) Toàn bộ thảo luận (6,35-58) nói về Bánh Thánh Thể. (d) Bánh sự sống đề cập đến cả mạc khải và thịt Thánh Thể của Đức Giê-su xuyên suốt từ 6,35 đến 6,58. R. Brown nghiêng về chọn lựa (b).[8]

10.  Thịt của tôi”: Đức Giê-su đi một vòng dài để giới thiệu về “thịt” của mình. Bắt đầu bằng lời gợi ý đám đông hãy làm việc không vì của ăn hư nát nhưng vì của ăn mang lại sự sống trường sinh (6,27), đến “bánh Thiên Chúa ban là Đấng từ trời đi xuống, mang lại sự sống cho thế gian” (6,32), rồi “chính tôi là bánh trường sinh” (6,35.48), bánh từ trời xuống (6,50), bánh hằng sống từ trời xuống (6,51a) và cuối cùng bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi (6,51b). Như đã đề cập trong phần bối cảnh. Khi Đức Giê-su nói đến việc “ăn thịt” kết hợp với “uống máu” trong đoạn sau (6,53), Người muốn nói đến Bí Tích Thánh Thể được lập bằng cái chết và máu của Người.[9] Người Do Thái tưởng rằng Đức Giê-su nói đến “thịt” theo nghĩa đen, nên họ hoảng sợ thắc mắc: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt của ông ta được” (6,52).

11.  Vì sự sống của thế gian”: “Thế gian” là một hạn từ đặc biệt trong Tin Mừng thứ tư. Nó xuất hiện 78 lần trong Tin Mừng này. Thế gian được dùng với nhiều nghĩa khác nhau: Thế gian vũ trụ, thế gian trái đất, thế gian nhân loại, thế gian chưa tin và thế gian thù ghét.[10] Trong bối cảnh này, thế gian có thể được hiểu như là tất cả mọi người (thế gian nhân loại). Không gian trao ban của “thịt” Đức Giê-su được mở rộng ra cho tất cả mọi người trong thế gian. Tất cả mọi người đều có thể lãnh nhận chiếc bánh mà Đức Giê-su ban và cũng là chính thân thể Người để được sống đời đời. Hạn từ thế gian hòa hợp với cách nói “bất kỳ ai ăn” (bánh hằng sống từ trời) (τις φάγῃ) (6,51), hay “bất kỳ ai tin” (ὁ πιστεύων) (6,47).

Bình luận chung

Đoạn Tin Mừng Ga 6,41-51 xoay quanh trục trung tâm “Bất cứ ai tin thì sẽ sống đời đời” (B: 6,47). Muốn biết tin ai, tin cái gì và phải thể hiện niềm tin như thế nào thì phải quan sát phần trước và phần sau của phần trung tâm này.

Ở phần trước độc giả sẽ tìm thấy một đoạn văn minh chứng về nguồn gốc “từ trời của Đức Giê-su”. Người đã khẳng định Người chính là bánh, Đấng đi xuống từ trời. Khẳng định này dĩ nhiên là không thể lọt tai những người Do Thái được. Có thể họ cho rằng Đức Giê-su đang khoác lác, bởi vì họ biết quá rõ về nguồn gốc trần thế của Người. Đó là anh chàng Giê-su, con của ông Giuse. Họ biết rõ cha mẹ của Người. Đây cũng chính là lý luận chính yếu để cho dân làng Na-gia-rét không chấp nhận giáo huấn khôn ngoan và những dấu lạ của Đức Giê-su. Lý do cho sự từ chối của những người Do Thái về nguồn gốc của Người là vì họ không được Chúa Cha “lôi kéo”. Điều này vừa cho thấy thẩm quyền mạc khải của Chúa Cha, vừa cho thấy trách nhiệm của những người Do Thái. Theo Đức Giê-su, những kẻ nghe, và nghiên cứu, học hỏi về Thiên Chúa đều đến với Đức Giê-su. Thiên Chúa đã soi sáng, thúc đẩy họ đến cùng với Đức Giê-su, họ không thể đến cùng Đức Giê-su. “Không thể đến cùng” trong bối cảnh này là họ không thể đón nhận nguồn gốc “từ trời” của Đức Giê-su. Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Người đến từ Chúa Cha và đã nhìn thấy Chúa Cha (6,46). Như vậy, điều mà những người Do Thái và độc giả qua mọi thời phải tin trong phần trước này là: Tin rằng Đức Giê-su đến từ Thiên Chúa và từ trời. Niềm tin đó được thể hiện bằng hành động “đến cùng” Đức Giê-su. Không thể “đến cùng” Đức Giê-su, đồng nghĩa với việc không thể đón nhận được ơn phục sinh vào “ngày cuối cùng” do Đức Giê-su ban tặng: “Tôi sẽ phục sinh anh/chị ta trong ngày cuối cùng” (6,44b). Đây chính là trung tâm điểm của phần mạc khải về nguồn gốc từ trời của Đức Giê-su. Ai “đến cùng” Đức Giê-su, nghĩa là đón nhận Người là Con Thiên Chúa thì được Người cho sống lại trong ngày cuối cùng. Phần trung tâm của đoạn trên (A: 6,41-46) nói về sự mầu nhiệm phục sinh nối kết chặt chẽ và là tiền đề cho phần trung tâm của toàn bản văn (B: 6,47), nói về sự sống đời đời. Không thể có sự sống đời đời nếu không có sự phục sinh. Không thể có sự phục sinh nếu như không “đến với” Đức Giê-su.

Phần sau (A’: 48-51) cũng sẽ xoay chủ đề bánh, nguồn gốc từ trời và sự sống đời đời. Đức Giê-su tiếp tục mạc khải Người là bánh ban sự sống và là Đấng từ trời đi xuống. Ai ăn bánh này thì không phải chết nhưng được sống đời đời. Bánh này vượt trổi hơn Manna, bởi vì tổ tiên của những người Do Thái đã ăn Manna và đã chết (6,49). Đức Giê-su cuối cùng đã cụ thể hóa chất liệu của chiếc bánh. Đó chính là thịt của Người. Dĩ nhiên, đây là lối nói ẩn dụ ám chỉ đến Bí tích Thánh Thể. Tuy nhiên, Bí tích này là Giao Ước mới được lập bằng cái chết và máu của Đức Giê-su. Đức Giê-su ban chính thân mình Người cho tất cả mọi người (thế gian) được sống.[11] Như vậy, ở phần sau này, những người Do Thái và các tín hữu phải tin rằng Đức Giê-su chính là bánh đem lại sự sống trường sinh và bánh đó chính là thịt của Người. Họ được mời gọi ăn “thịt” của Người để nuôi sống thân mình.

Cho đến lúc này, diễn từ Bánh Hằng Sống đã mạc khải cách tiệm tiến căn tính của chiếc bánh hằng sống: “Của ăn đem lại sự sống đời đời” (6,27) – Đức Giê-su chính là bánh hằng sống từ trời xuống, ai đến với Người không hề đói, ai tin vào Người chẳng khát bao giờ (6,33) – bánh mà Đức Giê-su ban tặng chính là thịt của Người vì sự sống của thế gian (6,51).

Thánh Lễ ngày nay bao gồm hai phần trong đoạn Tin Mừng này. Thứ nhất các tín hữu đến với Đức Giê-su, qua Lời Chúa, lời Của Đức Giê-su trong Tin Mừng họ nhận ra Người là Con Thiên Chúa, đến từ trời cao. Phần thứ hai, qua việc tham dự vào Hy Tế Thập Giá của Đức Giê-su, họ tiếp tục tin rằng Thánh Thể chính là bánh, mình, thịt Đức Giê-su mang lại cho họ sự sống mỗi ngày và nhất là sự sống đời đời. Cuối cùng họ được hiệp thông với Đức Giê-su qua việc rước Mình Máu thánh của Người. Đó chính là nguồn sức sống tâm linh cho họ đời này và đời sau nữa. Bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể trong Thánh Lễ chính là biểu trưng cho bàn tiệc trên thiên quốc, giống như ngôn sứ Isaiah đã báo trước (Is 65, 11-13) và Đức Giê-su cũng nhắc lại: “Từ phương đông, phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời” (Mt 8,11; Cf. Mt 26,29).[12]

Joseph Phạm Duy Thạch, SVD

 



[1] Về đề tài “Người Do Thái như là đối thủ của Đức Giê-su”, xem thêm, Giu-se Lê Minh Thông, Chú Giải Tin Mừng Gio-an Tập 1. Ga 1,1 – 2,22 (Ha Noi 2021) 101; Anton Hoàng Phúc, “Tìm Hiểu ‘Người Do Thái’ trong Ga 17,1-13” (Tìm hiểu “Người Do-thái” trong Ga 7,1-13 (gpbuichu.org)) (truy cập 04/08/2021)

[2] 4,34; 5,23.24.30.37; 6,38.39.44; 7,16.18.28.33; 8,16.18.26.29; 9,4; 12,44.45.49; 13,20.24; 15,21; 16,5.

[3] J. Moloney, “John”, The Paulist Biblical Commentary (ed. J.E.A. Chiu) (New York 2018) 1139.

[4] Analytical Lexicon of Greek New Testament (ed. T. Friberg – B. Friberg – N.F. Miller) (Victoria 2000) “ἕλκω”.

[5] Theo R.Brown động từ kéo trong truyền thống Rabbi có nghĩa là ‘bring them nigh to the Torah,’ để làm cho họ thành những người chia sẻ đầy đủ hơn kiến thức của Thiên Chúa. Đối với Gioan điều làm cho người ta thành những người chia sẻ sự hiểu biết về Thiên Chúa là được kéo gần hơn với Đức Giê-su [R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII): Introduction, translation, and notes (AYB; New Haven – London 2008) XXIX, 271].

[6] E. Haenchen – R.W. Funk – U. Busse, John. A commentary on the Gospel of John (Hermeneia; Philadelphia 1984) 293.

[7] Ibid.

[8] R.E. Brown, The Gospel according to John I-XII. Translated with an Introduction and notes (AYB; New York 1966) 272.

[9] J. Moloney, “John”, The Paulist Biblical Commentary, 1139.

[10] Về hạn từ “thế gian”, xem thêm Giuse Lê Minh Thông, “Thế gian (kosmos) là gì, là ai?” (Tin Mừng Gio-an, Évangile de Jean, Gospel of John: Thế gian (kosmos) là gì, là ai? (TM Gio-an) (leminhthongtinmunggioan.blogspot.com)) (truy cập 04/08/2021).

[11] G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 93.

[12] R.E. Brown, The Gospel according to John I-XII. Translated with an Introduction and notes (AYB; New York 1966) 273.

No comments:

Post a Comment