Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy
Lạp |
Việt |
Καὶ ἐξῆλθεν ἐκεῖθεν καὶ
ἔρχεται εἰς τὴν πατρίδα αὐτοῦ, καὶ ἀκολουθοῦσιν
αὐτῷ οἱ μαθηταὶ αὐτοῦ. 2 καὶ γενομένου
σαββάτου ἤρξατο διδάσκειν ἐν τῇ συναγωγῇ,
καὶ πολλοὶ ἀκούοντες ἐξεπλήσσοντο λέγοντες·
πόθεν τούτῳ ταῦτα, καὶ τίς ἡ σοφία ἡ δοθεῖσα τούτῳ, καὶ αἱ δυνάμεις
τοιαῦται διὰ τῶν χειρῶν αὐτοῦ γινόμεναι; 3 οὐχ οὗτός ἐστιν ὁ τέκτων, ὁ υἱὸς τῆς
Μαρίας καὶ ἀδελφὸς Ἰακώβου καὶ Ἰωσῆτος καὶ Ἰούδα καὶ Σίμωνος; καὶ οὐκ εἰσὶν αἱ
ἀδελφαὶ αὐτοῦ ὧδε πρὸς ἡμᾶς; καὶ ἐσκανδαλίζοντο ἐν αὐτῷ. 4 καὶ ἔλεγεν αὐτοῖς ὁ Ἰησοῦς ὅτι οὐκ ἔστιν προφήτης ἄτιμος εἰ μὴ ἐν τῇ πατρίδι αὐτοῦ
καὶ ἐν τοῖς συγγενεῦσιν αὐτοῦ καὶ ἐν τῇ οἰκίᾳ αὐτοῦ. 5 καὶ οὐκ ἐδύνατο
ἐκεῖ ποιῆσαι οὐδεμίαν δύναμιν,
εἰ μὴ ὀλίγοις ἀρρώστοις ἐπιθεὶς τὰς χεῖρας ἐθεράπευσεν. 6 καὶ ἐθαύμαζεν διὰ τὴν ἀπιστίαν
αὐτῶν. (Mk. 6:1-6a BGT) |
1 và Người đi khỏi đó và đi
vào quê nhà của Người và các môn đệ của Người
đi theo Người. 2 vào ngày Sabát Người bắt đầu giảng
dạy trong các hội đường và nhiều người nghe kinh
ngạc nói rằng: “từ đâu những điều này cho anh ta, và làm thế nào sự thông thái được ban cho anh ta và những phép lạ như thế được làm bởi tay anh ta? 3 anh ta
không phải là người thợ mộc con của bà Maria và anh em của Gia-cô-bê va Giô-xết
và Giu-đa và Si-môn? Và những chị em của anh ta không phải ở đây với chúng ta
sao? Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giêsu
nói cùng họ rằng ngôn sứ không bị coi khinh
ngoại trừ ở trong quê nhà
của anh ấy và trong những người bà con thân
thuộc và trong nhà của anh ấy. 5 và Người
không thể làm bất kỳ một phép lạ nào khác ngoại trừ đặt tay chữa lành một vài bệnh nhân 6 và Người
ngạc nhiên vì sự
không tin của họ. |
Bối cảnh bản văn
Đoạn văn Mc
6,1-6 nằm ngay sau đoạn văn kể về hai phép lạ lồng vào nhau: (1) Phép lạ chữa
người phụ nữ bị băng huyết 12 năm (5,22-34); (2) Phép lạ phục sinh con gái ông Giaiirô
12 tuổi (5,21-24.35-43). Nếu như hai phép lạ trước đó có điểm sáng là đức
tin của cả hai nhân vật chính, nhất là của người phụ nữ bị bệnh băng huyết,
thì những phép lạ nói đến trong trình thuật này trở thành cớ vấp phạm và sự
không tin của những người đồng hương. Chủ đề về “đức tin” tiếp tục
được nhấn mạnh. Hơn nữa, khung cảnh hội đường, nối kết cả hai trình thuật.
Trình thuật trước đó đề cập đến nhân vật ông trưởng hội đường, còn trình thuật
này dùng không gian là hội đường. Nhân vật của câu chuyện trước là những
người đồng hương Do Thái nói chung, trong khi các nhân vật của câu chuyện này
là những người ở quê nhà của Đức Giêsu trong đó có bà con, thân thuộc,
họ hàng. Nhóm người trước, dù xa lạ nhưng lại tin cách kỳ lạ vào Đức
Giêsu, nhóm sau dù gần gũi nhưng lại vấp ngã vì không tin vào Người, thật
là lạ kỳ. Chủ đề “đặt tay chữa lành” (6,5) đã được nhắc đến trong câu
chuyện của ông Giaiirô. Ông đã khẩn cầu để Đức Giêsu đến, đặt tay trên con
gái của ông để nó được cứu và sống (Mc 5,23). Máccô cũng ghi lại nhiều lần
khác Đức Giêsu chữa bệnh bằng cách “đặt tay”. Người “cầm tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi nhổ
nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh mù và hỏi: ‘anh có thấy gì không?’”
(Mc 8,23); “rồi Người lại đặt tay trên mắt anh, anh trông rõ và khỏi hẳn,
anh thấy tỏ tường mọi sự” (Mc 8,25); cuối cùng Đức Giêsu trao quyền “đặt
tay chữa lành” cho các môn đệ của Người: họ có thể “đặt tay trên những người bệnh, và những người này sẽ được mạnh khỏe” (Mc 16,18). Chủ
đề “không thể làm một phép lạ nào” kết thúc loạt 4 phép lạ Đức Giêsu làm
trong những trình thuật trước đó (4,35 – 5,43). Mc 6,1-6 nằm ngay trước đoạn
6,7-13 nói về việc Đức Giêsu sai nhóm 12 đi rao giảng. Tiếp nối sứ vụ rao
giảng của Đức Giêsu ở quê nhà Nadarét không mấy thành công vì họ không tin.
Chỉ thị “hãy giũ bụi chân lại để phản đối” (6,11) những nơi không tiếp đón và
không nghe lời giảng của các môn đệ nối kết chặt chẽ với sự chối từ của dân
chúng nơi quê nhà của Đức Giêsu. Trong bối cảnh rộng hơn của Tin Mừng Máccô chủ
đề “bị người nhà chối bỏ” nhắc nhớ đến sự kiện thân nhân của Đức Giêsu “đi bắt
Người” vì họ nói rằng Người đã mất trí (Mc 3,21). Thậm chí Đức Giêsu còn
nói đến sự xung đột của người nhà trong hành trình đức tin của người Kitô hữu:
“Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng
lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết” (Mt 10,21; Mc 13,12).
Cấu trúc
Mc 6,1-6 được cấu
trúc hóa bởi 4 tiểu thành phần, và quy tâm. Tiểu phần (A) sự kinh ngạc của những
người đồng hương về sự thông thái và các phép lạ của Đức Giêsu // Sự ngạc nhiên
của Đức Giêsu vì họ không tin vào Người (A’). Tiểu phần (B) Ngôn sứ bị khinh rẽ
// Người không thể làm một phép lạ nào (B’).
Bối
cảnh: Nhân vật (Đức Giêsu và các môn đệ); không gian (quê hương, hội
đường); thời gian (ngày Sabát) (6,1-2a). (A)
Sự kinh ngạc của người đồng hương về những phép lạ (6,2b-3) (B) Nơi ngôn sứ bị khinh rẽ: Quê hương,
giữa những người họ hàng, trong nhà (6,4) (B’) Không thể làm một phép lạ nào (6,5)
(A’)
Sự ngạc nhiên của Đức Giêsu về sự không tin của họ (6,6) |
Một số điểm chú giải
1.
Đi vào quê nhà của Người: Danh từ “πατρίς, ίδος” (quê hương, quê nhà) trong tiếng Hy Lạp có cùng gốc với danh từ
“người cha” (πατήρ, πατρός). Vì thế, dịch sát nghĩa từ này
là “quê cha, đất tổ”. Tin Mừng Máccô không có phần giới thiệu về thời thơ ấu của
Đức Giêsu. Vì thế, nơi Máccô độc giả không tìm thấy chi tiết Đức Giêsu sinh tại
Bếtlehem (nhà bánh) như là Mátthêu và Luca đã cho biết. Máccô chỉ cho biết Đức Giêsu
đến từ Nadarét miền Galilê (Mc 1,9). Thần ô uế trong lần gặp Đức Giêsu đầu tiên
cũng gọi Đức Giêsu là: Giêsu Nadarét. Mátthêu có tường thuật dài về Giáng Sinh
và thời thơ ấu của Đức Giêsu và ông lý giải cho độc giả biết tại sao Đức Giêsu
phải về sống ở Nadarét. Vì thế, Người được gọi là Giêsu Nadarét chứ không phải
là Giêsu Bếtlehem. Theo Mátthêu Đức Giêsu sinh tại Bếtlehem, thành của vua Đavid
nhưng bé Giêsu bị vua Hêrôđê đuổi giết nên phải cha mẹ phải mang Người qua Ai Cập
lẫn trốn. Sau khi vua Hêrôđê băng hà, cha mẹ đưa Người về lại, nhưng không về Bếtlehem
mà là Nadarét, một mặt là để tránh vua Áckhêlao, nhưng mặt khác là để ứng nghiệm
lời đã chép rằng Người sẽ được gọi là Nadaraios (Mt 2,23). Dân chúng đều quen gọi
Người là Giêsu Nadarét (Mt 21,11; 26,71; Mc 10,47). Luca cho chúng ta biết rằng
Đức Maria, thân mẫu Đức Giêsu đã nhận lời thiên sứ truyền tin ở Nadarét (Lc
1,26). Điều này chứng tỏ rằng quê nhà của Đức Maria rất có thể là Nadarét. Hơn
nữa, Giu-se cũng đến từ thị trấn Nadarét (Lc 2,4). Philípphê gọi Đức Giêsu là
“con ông Giu-se từ Nadarét” và Nathanael đã nghi vấn rằng: “Có thể có cái gì tốt
xuất phát từ Nadarét chăng?”, ngụ ý Đức Giêsu đến từ Nadarét (Ga 1,45). Như thế,
Đức Giêsu về quê nhà là về Nadarét, cũng là quê nhà của cha mẹ Người. Việc tác
giả nhắc đến danh từ “quê nhà” (τὴν πατρίδα), chứ không nói là Nadarét có ngụ ý
giới thiệu cho vấn đề được nói đến sau đó: “Ngôn sứ được vinh dự ngoại trừ ở
quê nhà của mình, giữa những người bà con, trong nhà của anh ta” (6,4).[1]
2. Vào
ngày Sabát:[2]
Ngày Sabbát [שַׁבָּ֖֣ת ] trong tiếng Do Thái gồm 3 mẫu tự giống
như 3 mẫu tự của động từ “nghỉ” [שָׁבַת֙],
chỉ khác là danh từ “ngày Sabbát” có chữ “bét” ở giữa được gấp đôi, biểu thị bằng
dấu chấm ở giữa [בָּ֖֣]. Sách sáng thế nói đến
việc Thiên Chúa tạo dựng trong sáu ngày và ngày thứ bảy, Ngài nghỉ (ngưng).
“Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày đó vì ngày đó Ngài
đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Ngài” (St 2,2-3). Sau đó, luật giữ
ngày “Sabbát” được ban cho dân Israel trong Thập Điều: “Ngươi hãy nhớ ngày Sabbát
và coi đó là ngày thành… ngày thứ bảy là ngày kính Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi. Ngày đó ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai,
con gái, tôi nam tớ nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Bởi lẽ,
trong sáu ngày Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi và muôn loài trong đó,
nhưng người đã nghỉ ngày thứ bảy” (Xh 20,8-11). Điều luật về ngày Sabbát được
diễn tả chi tiết dài hơn so với các điều còn lại. Ngày này được Đức Chúa chúc
lành và coi đó là ngày thánh. Điều luật này lại đã được sách Đệ Nhị Luật nhắc lại
một lần nữa và thêm phần lý do liên quan đến tình trạng nô lệ bên Ai Cập: “…để
tôi tớ nam nữ của ngươi được nghỉ như ngươi. Ngươi hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ
bên Ai Cập và Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền
mà đưa ngươi ra khỏi đó. Bởi vậy, Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho
ngươi phải giữ ngày Sabbát” (Đnl 5,14-15). Ngày Sabbát quả là một ngày thánh
thiêng đối với dân Israel. Đức Giêsu có thói quen “đi đến hội đường, như thói
quen của Người, trong ngày Sabbát” (Lc 4,16). Cụm từ “như thói quen” cho thấy Đức
Giêsu vẫn luôn giữ ngày Sabbát. Thói quen ấy được thể hiện trong đoạn Tin Mừng
này Mc 6,1-6 (cf. Mc 1,21.29; 3,1; Lc 4,44; 13,10).
3. Người
bắt đầu giảng dạy (ἤρξατο διδάσκειν): Đây là cụm từ đặc trưng của Máccô.
Ông là tác giả Tân Ước duy nhất dùng cụm từ này đến 4 lần. Lần thứ nhất, Đức Giêsu
“bắt đầu giảng dạy bên bờ biển hồ” (Mc 4,1). Lần thứ hai, Người “bắt đầu giảng
dạy trong hội đường” (Mc 6,2). Lần thứ ba, Người lại “bắt đầu giảng dạy” đám
đông ở bờ biển hồ. Cuối cùng, ở Xêdarê Philípphê, Người “bắt đầu dạy” các môn đệ
rằng “Con Người phải chịu nhiều đau khổ và bị loại bỏ bởi các kỳ lão và những
thượng tế và các kinh sư và bị giết, và sau 3 ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31). Đây
là một nơi giảng dạy khá quen thuộc (hội đường), thính giả cũng quá đỗi quen biết
(người cùng làng). Nội dung giảng dạy không được Máccô miêu tả. Đó có thể là
bài giảng “nhiều điều” liên quan đến “Mầu Nhiệm Nước Trời” bằng những dụ ngôn
(4,2) như Người vẫn thường làm. Đó cũng có thể là “rao giảng Tin Mừng Nước Trời”
(Mt 4,23; 9,35). Theo Luca, nội dung của lời rao giảng này là: Đức Giêsu đọc
sách ngôn sứ Isaia đoạn nói về “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu
tần phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho người nghèo khó. Người đã sai tôi đi
công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. Rồi, Đức Giêsu
thừa nhận rằng: ‘Hôm nay, đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh” quý vị vừa nghe” (Lc
4,18-21). Ngoài hội đường, Đức Giêsu còn nhiều lần giảng dạy trong đền thờ Jêrusalem
(Mc 11,17; 12,35; 14,49; Lc 19,47). Rao giảng và làm phép lạ là hai hoạt động
chính yếu của sứ vụ công khai của Đức Giêsu (Mt 4,23; Lc 5,17; Lc 6,6)
4. Nhiều
người nghe kinh ngạc: Danh từ “nhiều người nghe” được diễn tả bằng lối hiện
tại phân từ của động từ “nghe” ở số nhiều (ἀκούοντες: đang
nghe). Hiện tại phân từ này lại đi kèm với tính từ “nhiều” (πολλοὶ).
Không cụ thể ai cả, nhưng họ là một số lượng nhiều người ở quê nhà Đức Giêsu. Động
từ “kinh ngạc” được dùng ở thể bị động và thì vị hoàn (chưa hoàn thành)
(ἐξεπλήσσοντο)
diễn tả một hành động kéo dài: “Những người nghe cứ kinh ngạc hoài”. Đây
cũng là động từ và cách dùng mang đậm nét Máccô. Máccô đã sử dụng động từ này với
chủ từ số nhiều, thì vị hoàn, đến 4 lần (Mc 1,22; 6,2; 7,37; 10,26) (Mt
dùng 3 lần và Luca 2 lần). Bốn lần đều để mô tả sự kinh ngạc của dân chúng trước
lời giảng của Đức Giêsu. Người ta “kinh ngạc hoài” về lời giảng của Người vì
Người giảng dạy họ như một Đấng có uy quyền và không như các kinh sư (Mc 1,22);
người ta “kinh ngạc hoài” quá cỡ và nói với nhau rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp.
Người thậm chí cho người điếc nghe được và người câm nói được” (Mc 7,37); Người
ta vô cùng “sửng sốt hoài” và nói với Người: “Vậy thì ai có thể được cứu?” Sự
kinh ngạc này xảy ra sau khi Đức Giêsu tuyên bố rằng: “Con lạc đà chui qua lổ
kim còn dễ hơn người giàu có vào nước thiên đàng” (Mc 10,25-26). Ngoài ra, Máccô
cũng dùng một động từ khác đồng nghĩa, cũng thì vị hoàn (πάντες ἐθαύμαζον),
để diễn tả sự kinh ngạc của “tất cả mọi người” sau phép lạ trừ quỷ ở Ghêrasa
(Mc 5,20). Trong cả 5 lần “kinh ngạc hoài” được nói đến có lẽ sự “kinh ngạc”
trong trình thuật này là khác biệt hơn cả. Sự khác biệt nằm ở chỗ, sau sự kinh
ngạc ấy là hàng loạt câu hỏi mang tính nghi ngờ, khinh dể chứ không phải là biểu
lộ một sự thán phục, ngưỡng mộ. Sự ngạc nhiên này, đi sóng đôi với sự ngạc
nhiên của Đức Giêsu sau đó trong cùng một trình thuật. Nhìn trong tổng thể Tin
Mừng Máccô, những người đồng hương này tiêu biểu cho những người chỉ nhận thấy
nhân tính nơi Đức Giêsu chứ không vươn tới căn tính Mêsia và thần tính Thiên
Chúa nơi Người. Cũng nên nhắc lại, Tin Mừng Máccô bắt đầu bằng câu: “khởi đầu
Tin Mừng Đức Giêsu, Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1). Nghĩa là, Máccô muốn giới
thiệu ngay từ đầu là qua Tin Mừng này, độc giả phải khám phá ra và tin rằng Đức
Giêsu là Đấng Kitô, và nhất là Con Thiên Chúa, chứ không đơn giản chỉ là anh
chàng thợ mộc, thợ nề nơi miền quê Nadarét.
5. “Những
điều này…sự thông thái…những phép lạ”: Sự thắc
mắc về nguồn gốc quyền năng của Đức Giêsu cũng là bình thường nếu nó chỉ dừng lại
ở đây. Tuy nhiên, những thắc mắc này biểu lộ tính ngờ vực khi họ đề cập đến nghề
nghiệp, mẹ cũng như tên của các anh em bà con của Người. Các câu hỏi của họ
không phải để trải lời, nhưng là để đặt nghi vấn về “năng lực” phi thường của Đức
Giêsu. Với thân phận như: “Người thợ mộc con bà Maria”, rồi anh chị em cũng ở
đây cả, chẳng có khả năng gì xuất chúng cả, thì, năng lực phi thường của Đức Giêsu
chỉ là lời đồn thổi mà thôi. Theo Máccô, Đức Giêsu là “người thợ mộc con bà
Maria”. Chi tiết này khiến người ta đồn đoán rằng Ông Giuse có lẽ đã qua đời
khá lâu vào thời điểm Đức Giêsu đi rao giảng. Chính vì thế, người ta gắn Đức Giêsu
với Mẹ Maria, chứ đúng ra phải gắn với Ông Giuse. Tuy nhiên, theo J. Marcus,
trong các nguồn Do Thái tên người cha luôn được dùng để nhận dạng người con thậm
chí khi người cha chết rồi. Baukham nghĩ rằng, danh xưng “con của Đức Maria”
phân biệt Đức Giêsu khỏi những “anh em” của Người, những người mà theo ông, là
con trai của Ông Giuse cùng người vợ trước, nhưng J. Marcus không đồng tình, vì
nếu thế thì tên của người mẹ của những “anh em” kia cũng phải được nêu ra. Có lẽ,
như Stauffer đề nghị, đây là cách những người cùng làng dùng nhằm để khinh miệt
rằng Đức Giêsu không có cha, chỉ là con của một người phụ nữ bình thường.[3] Trong
bối cảnh này, cách hiểu này có vẻ hợp lý nhất. Mátthêu và Luca, viết sau Máccô,
đã cho độc giả một cái nhìn khác. Theo Mátthêu, họ gọi Đức Giêsu là “con bác thợ”
và “mẹ của Người là Đức Maria” (13,55). Còn theo Luca họ gọi Đức Giêsu là: “Con
ông Giuse”, Luca không đề cập gì đến Đức Maria (Lc 4,22b). Trong một xã hội nam
quyền, việc Đức Giêsu gắn với tên của cha mình là chuyện bình thường. Luca và Mátthêu
xem ra muốn đính chính bản văn có phần khó hiểu của Máccô. Cũng cần biết thêm,
danh từ chỉ nghề nghiệp “τέκτων” trong tiếng Hy Lạp không chỉ có nghĩa
là “thợ mộc” mà còn là thợ xây, hoặc thợ nề, hoặc là tổng hợp các nghề này. Ông
Giuse và Đức Giêsu có lẽ làm nghề tổng hợp mộc, xây, nề, chứ không chỉ làm mộc
theo kiểu đóng bàn ghế và nghèo nàn như chúng ta từng hiểu.
6. Anh
chị em của Đức Giêsu: Phải hiểu thế nào về những người “anh chị em” của Đức
Giêsu. Theo J.R. Donahue – D.J. Harrington, có 3 cách hiểu. (i) họ là anh em ruột
của Ông Giuse và Mẹ Maria. Cách hiểu này được chấp nhận trong giáo hội cổ xưa bởi
Hegesippus (tk.2), Tertulian (160-220) và Helvidius (tk.4). Ngày nay, quan điểm
này được nhiều học giả ngoài Công Giáo đón nhận và gần đây hai tác giả Công
Giáo cũng chấp nhận (R. Pesch và J.P. Meier). (ii) họ là những người con riêng
của Ông Giuse với đời vợ trước. (iii) quan điểm của thánh Giêrônimô là họ là
“anh em họ” của Đức Giêsu, có lẽ là con của chị của Đức Maria. Hai quan điểm
sau được hầu hết các học giả Công Giáo Rôma đón nhận và nhiều học giả ngoài
Công Giáo cũng chấp nhận.[4]
7. “Bị
vấp ngã vì Người”: Trong tiếng Hy Lạp động từ “gây vấp ngã”
(eskandalizonto) có nghĩa gốc là “cục đá ngáng đường gây vấp ngã” (skandalou)
như đã được nói đến trong sách Ngôn sứ Isaia: “Người sẽ là một thánh điện, và một
hòn đá làm cho vấp, một tảng đá làm cho sẩy chân đối với hai nhà Israel, một dò
lưới và một cạm bẫy đối với người dân Jêrusalem” (Is 8,14).[5] Động từ “gây vấp ngã” lại được dùng ở thể bị động,
thì vị hoàn (ἐσκανδαλίζοντο), diễn tả một hành động chưa chấm dứt: “Họ cứ bị vấp
ngã vì Người hoài”. Đức Giêsu không tạo ra nguyên cớ cho họ bị vấp ngã. Chính
suy nghĩ của họ về thân phận của Đức Giêsu làm cho họ vấp ngã. Sự vấp ngã này
không có hồi kết nếu họ không thay đổi cách nghĩ của mình.
8. Ngôn
sứ: Đức Giêsu được hiểu như là “một vị ngôn sứ”[6]
theo kiểu Người mạc khải ý định của Thiên Chúa và đưa dân trở về đường ngay nẻo
chính. Trong bối cảnh trực tiếp, Người đang “giảng” thông điệp Thiên Chúa cho
dân chúng. Môsê là ngôn sứ đầu tiên và vĩ đại bậc nhất trong lịch sử dân Israel.
Đức Chúa hứa với dân Israel rằng: “Ta sẽ làm nổi lên cho họ một vị ngôn sứ giống
như ngươi (Môsê), ta sẽ đặt lời của ta trên miệng người này và anh ta sẽ nói với
họ mọi thứ ta truyền cho anh ta” (Đnl 18,18). Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ được
nói đến trong bối cảnh này. Người nói những lời Người nghe được từ Chúa Cha:
“Tôi không tự mình nói ra nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh
cho tôi phải nói” (Ga 12,19); “Các lời Thầy nói vói anh em, thầy không tự mình
nói ra, nhưng là Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của
mình” (Ga 14,10). Một vị ngôn sứ đích thực không chỉ “truyền tải sứ điệp của
Chúa” nhưng nhất là chịu bách hại và chịu chết vì sứ mạng ấy. Ngôn sứ Êlia đã bị
hoàng hậu I-sa-bel đuổi giết, phải lang thang trong sa mạc, và ông mệt mỏi cầu
xin cùng Đức Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! bây giờ xin Ngài lấy mạng sống của
con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1 V 19,4). Gioan Tẩy Giả, hình ảnh
của Êlia (Mc 9,13), đã chết như trong thân phận vị ngôn sứ dọn đường cho Đức Giêsu.
Vị ngôn sứ Giêsu rồi cũng trải qua cuộc bách hại tàn khốc và bị giết chết để
hoàn tất sứ vụ ngôn sứ của mình. Trong bối cảnh này, sự khinh miệt của những
người cùng làng chính là dấu hiệu cho sự phán đối, bách hại và giết chết ngôn sứ
Giêsu của những lãnh đạo Do Thái với sự hùa theo của dân chúng. Trong cùng trình
thuật, Luca cho thấy rõ hơn sự nguy hại mạng sống của vị ngôn sứ. Vào cuối cuộc
viếng thăm và rao giảng này “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy,
lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi, để xô Người xuống vực.
Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,28-30). Ngôn sứ Isaiah có một mô tả sống
động, nghiệt ngã về số phận người tôi trung đau khổ: “Bị ngược đãi, người cam
chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đưa đi làm thịt như cừu câm nín
khi bị xén long, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7). Đức Giêsu đã bị chối từ
ngay từ lúc sinh ra: Phải sinh ra ngoài lề xã hội, trong chuồng bò lừa. Tiếp
theo sau đó Người bị vua Hêrôđê đuổi giết phải trốn sang Ai Cập. Đến cuối cùng,
Người cũng bị hãm hại và bị giết chết.
9. “Bị
coi khinh” (nghĩa đen: không được coi trọng, không có vinh dự): Tính từ “ἄτιμος”
trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “không tôn trọng” hay “khinh thường”. Cấu trúc
được Máccô dùng mang tính nhấn mạnh: một trạng từ phủ định đặt đầu câu “không”
(οὐκ)
+ một tính từ mang nghĩa phủ định “không coi trọng” (ἄτιμος) + một mệnh
đề bắt đầu bằng cụm liên từ phủ định “ngoại trừ” (εἰ μὴ). Cả Máccô
và Mátthêu đều dùng tính từ “không coi trọng” (ἄτιμος) để mô tả số phận của
một vị ngôn sứ. Luca nói mạnh hơn khi dùng một tính từ bất định mang nghĩa phủ
định “không một ai” (οὐδεὶς) đặt đầu mệnh đề cộng vối một tính từ có
nghĩa là “có thể chấp nhận” (δεκτός): “không một vị ngôn sứ nào có thể được
chấp nhận tại quê nhà của mình” (Lc 4,24). Nghĩa là tất cả các ngôn sứ đều bị
chối từ tại quê hương của mình dù cho họ có nổi tiếng và được chào đón ở những
nơi khác. Quả vậy, Đức Giêsu nổi tiếng về giảng dạy cũng như làm phép lạ và được
dân chúng chào đón khắp nơi trong miền Galilê và vùng lân cận (Mc 1,22; Mc
1,28: Danh Người được đồn ra khắp các vùng lân cận miền Galilê; Mc 7,37; Lc
4,14). Tuy nhiên, Người lại thất sủng tại chính làng quê của mình.
10. “ngoại
trừ ở trong quê nhà …trong những người bà con thân thuộc …trong nhà”: Giới
từ “trong, giữa” được lặp lại ba lần (trong…trong…trong) trong loạt cụm trạng
ngữ chỉ nơi chốn làm tăng thêm sự nặng nề của thực tế này: “Ở quê nhà, ở giữa
những bà con thân thuộc, ở trong nhà”. Đức Giêsu giới hạn từng thành phần từ xa
đến gần, từ ít thân thuộc hơn đến ruột thịt của mình: quê nhà – người bà con –
anh chị em trong nhà. Như đã nói trên trong phần “bối cảnh”. Thực tế của sự
khinh dễ này đã từng xảy ra khi người nhà của Giêsu “đi bắt Người” vì họ nói rằng
Người đã mất trí (Mc 3,21). Trong phần nói về số phận hẩm hiu của các Kitô hữu,
Đức Giêsu đã cảnh báo rằng: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết;
cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết”
(Mt 10,21; Mc 13,12). Thêm nữa, theo Luca, khi khẳng định rằng: “Không một ngôn
sứ nào có thể được chấp nhận tại quê hương”, Đức Giêsu đưa ra hai dẫn chứng cụ
thể. (i) Trong thời hạn hán suốt 3 năm sáu tháng, khiến đói kém dữ dội nhưng Êlia
chỉ được sai đến với một bà góa thành Sarépta, miền Xiđôn. Rồi, (ii) Êlisa chỉ
được sai đến với Naaman người Syria (Lc 4,25-27).
11. “không
thể làm bất kỳ một phép lạ nào ngoại trừ đặt tay chữa lành một vài bệnh nhân”:
Máccô đã sử dụng kỹ thuật “chơi chữ” trong ngôn ngữ Hy Lạp: “Người không có
thể làm không một điều có thể nào” (οὐκ ἐδύνατο
ἐκεῖ ποιῆσαι οὐδεμίαν δύναμιν). “Điều có
thể” trong bối cảnh này có thể hiểu là năng lực đặc biệt, hay phép lạ. Mệnh đề
tiếp theo mới gây bối rối cho độc giả vì hai mệnh đề xem như mâu thuẫn nhau. Nếu
như không thể làm bất cứ một phép lạ nào sao lại còn có thể “đặt tay và chữa lành
một vài bệnh nhân”. Có thể hiểu theo 2 cách. (1) Máccô ngụ ý nói rằng, ở nơi
khác, Đức Giêsu có thể làm rất nhiều phép lạ như trừ quỷ và chữa lành nhiều bệnh
nhân: “Đức Giêsu chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ
nhưng không cho quỷ nói vì quỷ biết Người là ai” (Mc 1,34). Tuy nhiên, ở nơi
quê nhà, Người chỉ có thể chữa lành một vài bệnh nhân, không có phép lạ nào
khác hơn. Nếu thế, tốt hơn, Máccô không nên dùng tính từ “không có bất kỳ” (οὐδεμίαν)
trong câu này. (2) Máccô muốn chứng tỏ rằng năng lực phi thường của Đức Giêsu vẫn
còn, nhưng những người không tin sẽ không lãnh nhận được nó. Mátthêu và Luca nhận
ra sự khó hiểu trong cách nói của Máccô, nên dường như hai ông có sự đính chính
bản văn của Máccô, làm cho câu văn dễ hiểu hơn. Mátthêu nói rằng: “Người không
làm nhiều phép lạ (δυνάμεις πολλὰς) tại đó vì họ không tin”
(13,58). Luca không có một nhận xét tương tự nào về việc Đức Giêsu làm hay
không làm phép lạ tại đó. Theo Luca, để đáp lại nghi vấn của dân làng Đức Giêsu
đã dùng câu tục ngữ: “Hẳn các ông muốn nói với tôi về câu tục ngữ: “Thầy lang
ơi hãy chữa lấy mình, tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm ở Caphácnaum,
ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương ông xem nào”. Sau đó Đức Giêsu khẳng định:
“Tôi nói cho các ông hay, không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương của
mình”. Xem ra, theo Luca, Đức Giêsu không làm một phép lạ nào tại đây.
12. Người kinh ngạc (ἐθαύμαζεν): Đối lại với sự “kinh ngạc” của những người cùng làng về khả năng của Đức Giêsu là sự “kinh ngạc” của Đức Giêsu về sự “không tin” của họ. Động từ “kinh ngạc” ở đây cũng được dùng ở thì vị hoàn (chưa hoàn thành), diễn tả một hành động kéo dài chưa chấm dứt: “Người cứ kinh ngạc hoài” về sự không tin của họ. “Sự không tin” chính là chủ đề chính trong đoạn này, cũng như trong bối cảnh chung của trình thuật về những những phép lạ (Mc 4,35 – 5,43). Mc 4,35-41 đề cập đến tình trạng “chưa có Đức tin” của các môn đệ, khi có Đức Giêsu bên cạnh nhưng họ vẫn hoảng sợ trước sự dữ tợn của sóng gió của biển hồ Galilê. Mc 5,1-20 là một hành trình đức tin của một người ngoại bị đạo binh quỷ ám ở Ghêrasa. Anh ta được Đức Giêsu trừ quỷ và cuối cùng “ra đi và bắt đầu rao giảng trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giêsu đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc” (5,20). Tiếp theo, là hai phép lạ lồng vào nhau (Mc 5,21-43) tô điểm Đức tin của người phụ nữ bị băng huyết, người đã tin là chỉ cần “chạm vào áo choàng của” Đức Giêsu thì “sẽ được cứu” (Mc 5,28). Đức tin của ông trưởng hội đường Giaiirô cũng nhờ đó được củng cố và dẫn đến việc Đức Giêsu phục sinh sự sống cho con gái ông. Sau hai phép lạ về đức tin này là trình thuật về sự nghi ngờ, không tin của những người cùng quê với Đức Giêsu (6,1-6). Những người đồng hương của Đức Giêsu tương ứng với các môn đệ của Đức Giê su trong trình thuật “dẹp yên biển động”. Cả hai nhóm đều thiếu niềm tin vào Đức Giêsu. Cấu trúc của đoạn lớn từ 4,35 – 6,6a là: A – B – A’, trong đó, A: Chưa tin (4,35-41) – B: Tin (5,1-43) – A’: Không tin (6,1-6).
A: Các môn đệ chưa
tin vào quyền năng của Người (4,35-41) B: Người
phụ nữ bị băng huyết tin vào quyền năng của Người (5,1-43) A’: Những người đồng
hương không tin vào quyền năng cua Người (6,1-6) |
Bình luận tổng quát
Trong hành
trình rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, mỗi bước đi, mọi chọn lựa điểm đến của
mỗi hành trình ngắn dài đều là mỗi hành trình của sứ vụ rao giảng và chữa lành,
hay cao hơn là sứ mạng mang ơn cứu độ. Chuyến về quê Nadarét của Người cũng vậy.
Người hẳn không về quê vì nhớ mẹ và bạn hữu nên ghé qua để thăm viếng họ cho đỡ
nhớ. Đó hẳn không phải là một kỳ nghỉ hè thăm quê của Người. Tá giả Máccô không
kể cho độc giả nghe cuộc gặp gỡ nào với Đức Maria, hay một buổi ăn nhậu vui vẻ
với nhóm bạn học cũ nơi làng quên Nadarét. Người về đó là để giảng dạy. Vào
ngày Sabbát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Thời gian “Sabbát và nơi
chốn “hội đường” chính là nơi chốn và thời gian mà Đức Giêsu muốn tận dụng
trong chuyến về quê này. Người hy vọng có thể đem lại niềm hy vọng cứu độ cho
những người cùng làng. Tuy nhiên, sự nghi ngờ đã phá tan mọi hy vọng của Người.
Sau khi Người bắt đầu rao giảng, bao nhiêu câu hỏi chất vấn về thân phận, cha mẹ,
anh chị em, bà con thân thuộc nổi lên. Họ đã kinh ngạc về sự khôn ngoan thông
thái trong lời giảng của Người. Họ bất ngờ về những năng lực phi thường của người
đồng hương tầm thường, xuất thân từ một gia đình bình thường. Sư ngạc nhiên của
họ khác hẳn với sự ngạc nhiên của dân chúng ở vùng khác. Người ta kinh ngạc với
sự tôn trọng thán phục, còn họ kinh ngạc với sự nghi ngờ và khinh thường. Trong
bối cảnh đó Đức Giêsu đã bộc lộ một sự thật đắng cay, chua chát về số phận của
một vị ngôn sứ bị chối từ.[7] Vị
ngôn sứ có thể được vinh danh, trọng dụng ở những nơi khác, nhưng lại thất thế
và thậm chí bị coi thường, mĩa mai trên chính quê hương của mình. Đức Giêsu là
vị ngôn sứ không những như ông Môsê mà còn vượt trội trên Môsê mọi bề: về địa vị
và về quyền năng. Sự chối từ của những người đồng hương không chỉ biểu lộ bằng
sự thiếu niềm tin vào vị ngôn sứ, nhưng còn bằng sự chống đối và giết chết vị
ngôn sứ. Đức Giêsu chính là kiểu mẫu cho hình ảnh vị ngôn sứ bị bách hại và bị
giết chết. Thánh Luca trong cùng trình thuật đã cho thấy cái kết bi thảm của
chuyến về quê đáng buồn ấy của Đức Giêsu. Vào cuối buổi giảng dạy trong hội
đương, người ta giận dữ, mang Người ra khỏi thành để ném Đức Giêsu xuống dưới
nhằm giết chết Người nhưng Người băng qua giữa họ mà đi (Lc 4,28-30). Gioan Tẩy
Giả, hiện thân của ngôn sứ Êlia, người dọn đường cho Chúa đã đạt đến đỉnh cao của
sứ vụ dọn đường khi ông dám chết cho sự thật. Ông đã sẵn sàng đương đầu với thế
quyền (vua Hêrôđê) và đã trả giá bằng máu của mình (Mc 6,17-29; Mt 14,3-12)
cũng như Êlia đã đương đầu với hoàng hậu Isabel và đã bị bà đuổi giết (1 V
19,2). Đức Giêsu sẽ bị các “Kỳ Mục và các Kinh Sư loại bỏ, bị giết chết” (Mc
8,31); Người sẽ bị nộp cho các “Thượng Tế và Kinh Sư. Họ sẽ lên án xử tử Người
và sẽ nộp Người cho dân ngoại” (10,33). Dân ngoại ở đây là Philatô, tổng trấn
Rôma thời bấy giờ. Đức Giêsu đã thực sự bị chối bỏ và giết chết bởi bản án
chính thức của Philatô, nhưng những kẻ muốn giết chết Người thật sự lại là những
Thượng tế và các Kinh Sư với sự hô hào ủng hộ của rất nhiều người đồng hương của
Người. Đức Giêsu công bố sự thật phủ phàng về một vị ngôn sứ bị chối bỏ vừa để
lên án, vừa để cảnh tỉnh dân chúng. Đón nhận vị ngôn sứ Giêsu đồng nghĩa với việc
“được cứu và được sống” (Ga 3,16; 5,24) và chối từ Người đồng nghĩa với việc chối
từ ơn cứu độ và sự sống do Người ban tặng. Trong một bối cảnh rộng hơn, chống đối
vị ngôn sứ Chúa sai đến là chống đối lại Chúa. Sách ngôn sứ Êdêkiel đã ghi lại
sấm ngôn của Đức Chúa biểu lộ sự phản nghịch của dân Ngài. Ngài gọi họ; là “dân
phản nghịch đang nổi loạn chống đối” Ngài “chúng cũng như cha ông chúng đã nổi
lên chống lại ta mãi cho đến ngày nay”. Họ được ví như “những đứa con mặt dày
mày dặn, lòng chai dạ đá”; “là nòi phản loạn” (Ed 3,2-5). Chúng “có thể nghe hoặc
không nghe” nhưng phần Chúa, Ngài phải gửi Êdêkiel, vị ngôn sứ đến để “nói với
dân lời của” Chúa, “dù chúng nghe hay không” (Ed 2,7). Số phận bi đát của vị
ngôn sứ Giêsu trong đoạn Tin Mừng này sẽ báo trước số phận bi đát của dân Người.
Đó là số phận của những người “lòng chai dạ đá”, chối bỏ Thiên Chúa, kết cục là
họ sẽ chết trong tội của mình (Ga 8,21.24; 11,25-26). Việc Đức Giêsu có thể “đặt
tay trên một vài bệnh nhân” mà Máccô đề cập đến để chứng tỏ rằng năng lực chữa
lành, làm phép lạ của Đức Giêsu không bị giới hạn nhưng những kẻ không tin
không có khả năng cảm nghiệm được những phép lạ ấy.[8] Đức
Giêsu có làm phép lạ là vì người ta có niềm tin vào Chúa, và Người làm phép lạ
mục đích là làm cho người ta càng thêm tin vào Chúa. Có thể nói rằng, niềm tin
là yếu tố quan trọng nhất trong mỗi phép lạ. Người làm phép lạ để khơi dậy niềm
tin và gia cố cho niềm tin. Nếu không có niềm tin thì phép lạ trở nên vô nghĩa.
Vị ngôn sứ Giêsu đã bị thù ghét, chịu ngược đãi, và đã bị giết chết, nhưng người
đã sống lại. Tất cả tiến trình Thương Khó – Phục Sinh ấy, lại lạ một phép lạ cả
thể đem lại ơn chữa lành cho bất kỳ ai tin vào Người. Ngôn sứ Isaia đã diễn tả
rất sống động về “người tôi trung đau khổ”: “Chính Người mang lấy bệnh tật của
chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta… chính Người đã bị đâm vì
chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; Người đã chịu sửa trị để
chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lành” (Is
3,4-5).
Chúng ta hầu hết
không phải là những người cùng làng quê với Đức Giêsu, không ai đã nhìn thấy
Người lớn lên, hay quen biết những người ruột thịt của Người để rồi chúng ta có
thể khinh miệt Người, không tin vào những phép lạ Người đã làm. Chúng ta cũng
không phải là những người cùng thời điểm lịch sử với Người để rồi cùng chung
tay giết chết vị ngôn sứ Giêsu. Tuy nhiên, sự chối từ ngôn sứ, sự chối bỏ đức
tin vẫn xảy ra mỗi ngày trong cuộc đời mỗi chúng ta. Sự sung túc về vật chất. Sự
bảo đảm về chăm sóc sức khỏe nhờ ý tế được nâng cao. Lối sống thiên về hưởng thụ,
giải trí. Lối sống đề cao tự do cá nhân, ích kỷ, thiếu tình yêu và sự hy sinh
cho người khác, cho cộng động. Tất cả những điều đó cùng bao nhiêu điều khác nữa
đã dần đẩy Đức Kitô ra khỏi cuộc sống của nhiều người. Câu chất vấn của Đức Giêsu
thuở nào vẫn là một câu nói thời sự đáng để suy gẫm: “Liệu khi Con Người đến,
Người có còn tìm thấy niềm tin trên mặt đất này nữa hay không?” (Lc 18,8)
Lm. Joseph Phạm
Duy Thạch, SVD
[1] See.
A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark: A Commentary on the Gospel of Mark
(CHCB; Minneapolis 2007) 289.
[2] Về
chủ đề ngày Sab-bát xem thêm, G.F. Hasel, The Anchor Bible Dictionary
(ed. D.N. Freedman) (New York – Toronto – London – Sydney – Aukland 1992) V,
“Sabbath”, 849-856.
[3] J.
Marcus, Mark 1-8. A New Translation with Introduction and Commentary (AYBC;
New Haven – London 2008) 27A, 375. A. Collins – H. Attridge claims that it is a
way that “uninformed or hostile reader to infer that the mother is named and
not the father because the father was unknown and the son illegitimate” [A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark, 290-291].
[4] J.R.
Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2005)
187-188.
[5] J.
Marcus, Mark 1-8, 376.
[6] Về
chủ đề Đức Giê-su như là ngôn sứ, xem thêm G.R. Kreider, “Jesus the Messiah as
Prophet, Priest, and King”, BS 176 (2019) 174-187, 176.
[7] J.R.
Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2005)
187,
[8]
J.E.A. Chiu, “Mark”, The Paulist Biblical Commentary (Ed. J.E.A. Chiu et
al.) (New York 2018) 991; J.R. Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark
(SP 2; Collegeville 2005) 186.
No comments:
Post a Comment