ĐỘNG LÒNG THƯƠNG ĐÀN CHIÊN KHÔNG CÓ CHỦ CHĂN. Chú Giải Tin Mừng CN XVI TN B (Mc 6,30-34)
Bản văn
Hy Lạp | Việt |
30 Καὶ συνάγονται οἱ ἀπόστολοι πρὸς τὸν Ἰησοῦν καὶ ἀπήγγειλαν αὐτῷ πάντα ὅσα ἐποίησαν καὶ ὅσα ἐδίδαξαν. 31 καὶ λέγει αὐτοῖς· δεῦτε ὑμεῖς αὐτοὶ κατ᾽ ἰδίαν εἰς ἔρημον τόπον καὶ ἀναπαύσασθε ὀλίγον. ἦσαν γὰρ οἱ ἐρχόμενοι καὶ οἱ ὑπάγοντες πολλοί, καὶ οὐδὲ φαγεῖν εὐκαίρουν. 32 Καὶ ἀπῆλθον ἐν τῷ πλοίῳ εἰς ἔρημον τόπον κατ᾽ ἰδίαν. 33 καὶ εἶδον αὐτοὺς ὑπάγοντας καὶ ἐπέγνωσαν πολλοὶ καὶ πεζῇ ἀπὸ πασῶν τῶν πόλεων συνέδραμον ἐκεῖ καὶ προῆλθον αὐτούς. 34 Καὶ ἐξελθὼν εἶδεν πολὺν ὄχλον καὶ ἐσπλαγχνίσθη ἐπ᾽ αὐτούς, ὅτι ἦσαν ὡς πρόβατα μὴ ἔχοντα ποιμένα, καὶ ἤρξατο διδάσκειν αὐτοὺς πολλά. (Mk. 6:30-34 BGT) | 30 Các Tông Đồ quy tụ với Đức Giêsu và tường thuật với Người tất cả những điều các ông đã làm và đã dạy. 31 và Người nói cùng họ: ‘Đến đây, vào nơi hoang vắng riêng mình và hãy nghỉ ngơi đôi chút vì có nhiều kẻ đến và ngươi đi, khiến các ông không tìm được cơ hội mà ăn 32 và họ đi riêng vào nơi hoang vắng bằng thuyền. 33 và khi họ [người dân] thấy họ ra đi và nhiều người nhận biết và tất cả thành phố chạy đến đó bằng đường bộ và họ [người dân] đi trước họ. 34 khi ra khỏi Đức Giêsu thấy đám đông lớn thì Người “động lòng thương” vì họ như những con chiên không có người chăn chiên, và Người bắt đầu dạy họ nhiều điều. |
Bối cảnh bản văn
Đoạn Mc 6,30-34 là đoạn nối tiếp giữa trình thuật gợi nhớ về cái chết của Gioan Tẩy Giả (Mc 6,17-29) và trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất (Mc 6,35-44). Mc 6,30-34 được xem là “miếng dưới” của chiếc “bánh mì kẹp thịt” từ Mc 6,6b-34. Đoạn 6,6b-13 là “miếng trên” (sứ vụ sai đi) ghép với “miếng dưới” (6,30: Trở về và báo cáo sứ vụ) của chiếc “bánh mì kẹp thịt”. Miếng thịt ở giữa chính là trình thuật về Hêrôđê và vụ án hành quyết Gioan Tẩy Giả. Toàn bộ chiếc “bánh mình kẹp thịt là” [A – B – A’]: Mc 6,7-13: Các môn đệ được sai đi (A) – Mc 6,14-29: Vụ án Gioan Tẩy Giả (B) - Mc 6,30-34: Các môn đệ trở về báo cáo (A’). Nói như thế có nghĩa là đoạn văn Mc 6,30-34 chỉ được hiểu trọn vẹn khi đọc chung với hai đoạn còn lại (6,6b-13 và 6,14-29).[1] Chủ đề trọng tâm của những đoạn văn này vẫn là sự rao giảng. Sự sai đi rao giảng (6,6b-13) sẽ dẫn đến kết quả nơi sự trở về và báo cáo sứ vụ (6,30-34). Giữa hai đoạn này là trình thuật nói về số phận bị chối từ, hãm hại và bị giết chết của những sứ giả Tin Mừng. Người đầu tiên là Gioan Tẩy Giả (Mc 6,14-29). Mc 6,30-34 không những đóng lại chiếc “bánh mì kẹp thịt” mà còn mở ra cho phần trình thuật “hóa bánh mì ra nhiều” (6,35-44). Chủ đề “động lòng thương” trong đoạn này có sự nối kết chặt chẽ với hành động cụ thể trong đoạn sau: hóa bánh ra nhiều để cho đám đông ăn no nê (6,35-44). Nó cũng nối kết với phép lạ chữa lành người phong hủi (Mc 1,40-45); phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai (Mc 8,1-10); với phép lạ chữa lành người bị quỷ ám mắc chứng bệnh động kinh (Mc 9,14-29). Ngoài ra, chủ đề này còn liên kết mật thiết với các trình thuật khác trong Tin Mừng Mátthêu và Tin Mừng Luca: “Dụ ngôn người mắc nợ không biết thương xót” (Mt 18,23-35); Phục sinh con trai bà góa thành Nain (Lc 7,11-17); Dụ ngôn “Người Samari nhân hậu (Lc 10,29-37); Dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” (Lc 15,11-32). Chủ đề mục tử và đàn chiên cũng là một chủ đề nối kết cả Tân Ước và Cựu Ước. Máccô nhắc đến sự kiện đàn chiên sẽ tan tác khi vị mục tử bị đánh (14,27). Mátthêu cũng nhiều lần diễn tả Đức Giêsu như là một mục tử (Mt 2,6; 18,12; 25,32; 26,3). Đặc biệt tác giả Tin Mừng thứ tư có một khảo luận dài về “mục tử nhân lành” (Ga 10,1-21). Sách Khải Huyền cũng nói đến hình ảnh “Con Chiên” sẽ là mục tử dẫn dân tới nguồn nước sự sống, và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt (Kh 7,17). Cựu Ước cũng nhiều lần diễn tả Thiên Chúa như là một mục tử (Tv 23; Is 40,11; Ed 34,11.15; Dcr 11,7.9).
Cấu trúc:
Đoạn Mc 6,30-34 có thể được chia thành hai tiểu đoạn. Tiểu đoạn I: nói về sự kiện các môn đệ trở về, sau khi đã đi rao giảng và báo cáo với Đức Giêsu kết quả của hành trình rao giảng. Tiểu đoạn II: là một cấu trúc gồm 4 thành phần song song và quy tâm. Phần (A) Sự quan tâm của Đức Giêsu dành cho các môn đệ // phần (A’) sự quan tâm của Đức Giêsu dành cho dân chúng. Phần (B) Các môn đệ đi riêng bằng thuyền vào nơi hoang vắng // (B’) Dân chúng chạy bộ đến cùng nơi với các môn đệ.
I. Quy tụ và báo cáo những việc đã làm và đã dạy (6,30) II. (A) Sự quan tâm của Đức Giêsu: Hãy vào nơi hoang vắng và nghỉ ngơi (6,31) (B) Các môn đệ đi riêng bằng thuyền vào nơi hoang vắng (6,32) (B’) Dân chúng chạy đường bộ đến đó trước các môn đệ (6,33) (A’) Sự quan tâm của Đức Giêsu: Thấy, động lòng thương, dạy (6,34) |
Một số điểm chú giải
1.
Quy tụ và tường thuật: Như đã đề cập trong phần “bối cảnh bản văn”. Phần “quy tụ và tường thuật”
là phần thiết yếu để hoàn trọn trình thuật “sai đi” đã được khởi sự ở 6,6b-13.
Đức Giêsu đã sai các Tông Đồ đi với quyền trừ quỷ (6,7) và nhiều lời căn dặn.
Các ông đã ra đi “từng cặp”, đến nhiều nơi theo chỉ thị của Người, bây giờ trở
về và tường thuật lại với Thầy tất cả. Đây là bầu khí thân thương của tình Thầy
– Trò. Động từ “quy tụ” được chia ở thể bị động với tác nhân là Đức Giêsu. Cũng
như trước đó, Đức Giêsu đã gọi các ông đến và sai các ông đi rao giảng, giờ đây
Người cũng quy tụ các ông để nghe các ông tường thuật về chuyến hành trình. Đức
Giêsu vẫn là chủ thể trong mọi hoạt động truyền giáo của các Tông Đồ. Danh xưng
“Tông Đồ”, được dùng chỉ một lần duy nhất ở trong bối cảnh này có một chủ ý rõ
ràng. Trước đó, Máccô gọi họ là “Nhóm Mười Hai” (Mc 6,7). Tông đồ trong Tiếng
Việt có lẽ là viết tắt của cụm từ “chính Tông, môn Đồ”. Kiểu gọi này không diễn
tả được ý nghĩa của danh xưng này trong tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ gốc của Tân Ước.
Trong Hy Ngữ, danh từ “Tông Đồ” (apostolos) phát xuất từ động từ “sai đi”
(apostello). Nghĩa là, “Apostolos” là một người được người khác sai đi, hay nói
cách khác là “sứ giả” của ai đó. Trong trường hợp này Nhóm Mười Hai là những sứ
giả của Đức Giêsu. Sứ giả của Đức Giêsu thì nhận lấy sứ điệp từ Người và phụ
thuộc vào Người. Sứ vụ của họ chỉ là sứ vụ của Đức Giêsu được mở rộng.[2]
Chính vì thế, sau khi họ thi hành sứ vụ trao thông điệp cho người khác, họ được
gọi đến để báo cáo về “những điều họ đã làm và đã dạy”. Dĩ nhiên, những gì họ làm được chính là nhân danh
Đức Giêsu và nhờ quyền năng của Người.
2.
Tất cả những điều các ông đã làm và đã dạy: Túc từ của động từ tường thuật, diễn tả nội dung
mà các Tông Đồ tường thuật gồm 2 phần: (i) Những gì các ông đã làm và (ii) Những
điều các ông đã dạy. Đây là một cách nói tóm tắt với chỉ hai mệnh đề nhưng nó
cũng cho phép mở rộng biên độ nội dung ra vô hạn. Các ông đã làm những gì và đã
dạy những gì? Trong trình thuật liên quan đến sứ vụ rao giảng (Mc 6,6b-13), Máccô
đã cho biết là các Tông Đồ “rao giảng để người ta có thể hoán cải”. Đây có có
thể là một trong những nội dung các ông đã dạy.[3] Trong
những bài giảng của các ông không thể thiếu được sứ điệp nòng cốt của Đức Giêsu:
“Thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần, anh chị em hãy hoán cải và
tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Tuy nhiên, không chỉ có thế, để người ta hiểu về
Triều Đại Thiên Chúa, các ông cũng có thể rao giảng và giải thích những dụ ngôn
về Nước Trời như các ông đã nghe Đức Giêsu rao giảng. Nội dung giảng dạy của
các ông cũng có thể là bất cứ điều gì các ông đã nghe từ Đức Giêsu trong suốt
quá trình theo Chúa. Ngoài ra, các ông cũng có thể chia sẻ về con người, thân
phận của Đức Giêsu như các ông hiểu về Người. “Những điều các ông đã làm” rất
có thể là “trừ nhiều quỷ” và “xức dầu trên các bệnh nhân và chữa lành họ” (Mc
6,13). Họ cũng có thể chia sẻ những thất bại về những nơi không đón tiếp họ. Đó
là điều bình thường vì Đức Giêsu dự trù phương án dành cho sự chối từ này: “Nơi
nào người ta không đón tiếp anh em thì trước khi ra khỏi đó anh em hãy giũ bụi
chân lại để tỏ ý cảnh cáo” (6,11).
3.
Nơi hoang vắng: Danh
từ “ἔρημος” trong tiếng Hy Lạp vừa có nghĩa là “nơi
hoang vắng” (không người ở) vừa có nghĩa là “sa mạc, nơi hoang dã”. Trong bối cảnh
này có thể hiểu cả hai nghĩa. Hầu hết những vùng đất hoang vắng ở Palestine đều
là sa mạc, hoặc núi đồi. Trong đoạn này từ ngữ “sa mạc” được nhắc đến 2 lần
(6,31.32). Từ ngữ chỉ nơi chốn này được dùng để báo trước khung cảnh của phép lạ
“hóa bánh ra nhiều” ngay sau đó (Mc 6,35-44). Phép lạ này cũng diễn ra trong
nơi hoang vắng: “Ở đây hoang vắng và bây giờ đã khá muộn, xin Thầy cho dân
chúng về, để họ vào các thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn”
(6,35-36). Ý tưởng “nơi hoang vắng” nối kết với việc “nghỉ ngơi” là điều khá lạ
trong truyền thống Thánh Kinh. Hoang mạc thường nối kết nhiều hơn đến việc thử
thách. Đức Giêsu đã ở trong sa mạc 40 ngày, chịu Satan cám dỗ (Mc 1,12-13; Mt
4,1-11; Lc 4,14-15). Đức Chúa đã dẫn con cái Israel đi trong sa mạc 40 năm để bắt
họ phải cùng cực, như vậy, Người thử thách cho biết lòng dạ của họ ra sao, xem
họ có giữ các mệnh lệnh của Ngài không (Đnl 8,2). Sa mạc cũng là nơi để trừng
phạt và thanh tẩy. Dân Israel lang thang trong sa mạc 40 năm vì tội bất tuân của
mình (Ds 14,34; 32,13). Tuy nhiên, sa mạc cũng là nơi Chúa chăm sóc dân Người
(Xh 16,35: Con cái Israel đã ăn manna suốt 40 năm cho đến khi họ tới đất định
cư (Đnl 2,7): là 40 năm Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi ở với các người và
các người đã chẳng thiếu thốn điều gì; (Đnl 8,2.4): Ta đã dẫn các ngươi 40 năm
trong sa mạc mà áo các ngươi mặc đã không rách, dép chân các ngươi đi đã không
mòn). Đức Giêsu và các môn đệ đi vào sa mạc với mục đích là nghỉ ngơi. Tuy
nhiên, nơi ấy lập tức lại trở thành bối cảnh cho cuộc gặp gỡ giảng dạy và làm
phép lạ (hóa bánh ra nhiều) của Đức Giêsu.[4] Cả
hai phép lạ hóa bánh ra nhiều đều diễn ra trong nơi hoang vắng (Mc 6,35-44=Mt
14,13-21; Mc 8,1-10=Mt 15,32-39). Ngoài ra, sa mạc cũng là nơi Đức Giêsu cầu
nguyện và gặp gỡ Chúa Cha (Mc 1,35; Lc 5,16).
4.
Hãy nghỉ ngơi: Động từ
“ἀναπαύω” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “nghỉ ngơi” và “hồi phục”. Nghỉ ngơi sẽ đem
lại cho người ta sự hồi phục cả thể xác lẫn tinh thần. Cứ bình thường sau một thời
gian làm việc mệt nhọc, người ta sẽ phải đi du lịch để bồi dưỡng thể xác và tinh
thần. Các linh mục tu sĩ nam, nữ, sau một năm làm việc sẽ có một thời gian linh
thao để hồi phục thể xác và tâm hồn. Đó là chưa kể đến những lần tĩnh tâm tháng
và mùa. Xem ra việc mời gọi và tặng thưởng cho các môn đệ một chuyến “du lịch sinh
thái”, sau khi các ông đã lao nhọc trên hành trình rao giảng Tin Mừng là quá hợp
lý. Tuy nhiên, một hành trình vào sa mạc, có lẽ mang đến cho các ông sự hồi phục
về tâm hồn hơn là thể xác.[5] Bởi
lẽ, sa mạc là nơi gặp Chúa và nguyện cầu. Đức Giêsu từng hứa trao ban sự nghỉ ngơi,
hồi phục tâm hồn cho những ai “vất vả” và “mang gánh nặng nề”: “Những ai vất vả
và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi, hồi phục” (Mt
11,28). Lời hứa “tâm hồn anh chị em sẽ được nghỉ ngơi, hồi phục” đến ngay sau lời
mời gọi “hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Đó
là một sự hồi phục cần có về mặt tâm linh. Đức Giêsu cũng đã có lần trách các môn
đệ vì nghỉ ngơi, ngủ mê và thiếu sự nguyện cầu: “Giờ này mà còn ngủ, còn nghỉ sao,
này đã đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi” (Mc 14,41; Mt 26,45).
Đó là sự nghỉ ngơi đối nghịch lại với sự cầu nguyện. Với sự nghỉ ngơi mệt mỏi này,
các môn đệ đã sa ngã và xa Chúa. Sự nghỉ ngơi của các môn đệ trong đoạn Tin Mừng
này có thể là sự nghỉ ngơi về mặt thể xác, vì người thuật chuyện đã giải thích rằng:
“Bởi vì, người đến kẻ đi quá đông nên họ không có cơ hội để ăn uống” (6,31).[6] Tuy
nhiên, đi vào “sa mạc” cũng hướng tới một sự nghỉ ngơi và phục hồi về mặt tâm linh.
5.
Đi bằng thuyền: Hành trình
bằng thuyền trên biển là hành trình bình thường của Đức Giêsu và các môn đệ (Mt
8,23; 9,1; 13,2; 14,13.22; Mc 4,36; 5,18.21; 6,45; 8,10.13). Nhiều lần, họ lên thuyền
bắt đầu hải trình để trốn chạy khỏi đám đông: Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều lần
thứ nhất, “lập tức, Đức Giêsu ra lệnh cho các môn đệ lên thuyền qua bờ bên kia,
vào thành Bếtsaiđa” (Mc 6,45; Mt 14,13). Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai
cũng vậy, “lập tức Người lên thuyền với các môn đệ và đi về quận Đalmanutha (Mc
8,10; Mt 15,39). Lần này cũng không ngoại lệ. Họ lánh khỏi đám đông bằng thuyền,
để người ta khó đi theo và khó biết được họ đi đâu. Tuy nhiên, đám đông vẫn nhận
biết nơi họ định đến và hành trình đường bộ theo họ.
6.
Tất cả thành phố chạy đến trước: Cách diễn tả này xem ra hơi cường điệu hóa. Máccô muốn nói rằng rất nhiều
người theo Đức Giêsu. Cách nói này cũng là để chuẩn bị bối cảnh cho phép lạ hóa
bánh ra nhiều, nơi mà số đàn ông ăn bánh lên đến 5 ngàn người. Số phụ nữ và trẻ
em có thể hơn thế nữa. Đó là đám đông kinh khủng mà Máccô gọi là “tất cả các thành
phố” (πασῶν
τῶν πόλεων). Động từ “συντρέχω” diễn tả một cách sống động cách di chuyển của họ.
Họ không mảnh ai nấy đi nhưng “chạy cùng nhau”. Chúng ta có thể tưởng tưởng khung
cảnh như là một cuộc chạy marathon đang diễn ra trên bờ biển hồ. Hải trình của
Đức Giêsu và các môn đệ lần ấy chắc hẳn là dọc theo biển hồ chứ không phải băng
từ bên này qua bên kia, bởi lẽ, nếu thế thì “tất cả các thành phố” không thể nào
chạy nổi để theo Người. Máccô cho biết là họ chạy và đi trước (προῆλθον) Đức Giêsu và các môn đệ. Theo Luca, Đức Giêsu
đưa các môn đệ lui về thành Bếtsaiđa. Đích đến của Đức Giêsu theo Luca dường như
trái ngược với đích đến của Giêsu trong Máccô (sa mạc đối lại với thành thị).
7.
Thấy đám đông lớn: Khi
ra khỏi thuyền Đức Giêsu đã “thấy đám đông lớn”. Nghĩa là đám đông đã chạy đến trước
và chờ Đức Giêsu trên trên bờ. Đám đông rất lớn vì như Máccô miêu tả là “tất cả
các thành phố” đã chạy cùng nhau. Trước đó đám đông đã “nhìn thấy” Đức Giêsu và
các môn đệ khởi hành. Bây giờ Đức Giêsu “nhìn thấy” đám đông. Động từ “ὁράω” trong tiếng Hy Lạp vừa có nghĩa đơn giản là “nhìn thấy” nhưng cũng có nghĩa
sâu xa hơn là “nhận thức, biết”. Cái “nhìn thấy” của đám đông dành cho Đức Giêsu
và của Đức Giêsu dành cho họ có thể vượt trên mức nhìn thấy đơn giản. Hành động
“nhìn thấy” của đám đông đi kèm với hành động “biết, hiểu” (ἐπέγνωσαν): “Nhìn thấy họ [Giêsu và môn đệ] khởi hành
và nhiều người biết, hiểu”. Họ hiểu lộ trình, đích đến của Đức Giêsu và các môn
đệ nên đã chạy theo đúng hướng. Hành động “nhìn thấy” của Đức Giêsu kéo theo hành
động “động lòng thương”. Đức Giêsu cũng nhận biết sự thiếu thốn, bơ vơ, lạc lõng
nơi những con người này.
8.
“Động lòng thương”: Theo cấu trúc đoạn
văn, có sự song song giữa sự quan tâm của Đức Giêsu dành cho các môn đệ: Người khuyên
họ lánh riêng ra một nơi và nghỉ ngơi (6,31). Giờ đây, sự quan tâm dành cho đám
đông làm cho sự quan tâm dành cho các Tông Đồ không được như ý. Động từ “ động lòng thương” (σπλαγχνίζομαι[7]) là một động từ diễn tả cảm xúc một cách sâu
sắc nhất: “Rung động, thương xót trong những phần bên trong của ai đó”; “bị đánh
động bởi”; “có lòng thương xót đối với”. Trong Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu là chủ
ngữ duy nhất của động từ này. Thật vậy, Máccô ghi lại 4 lần Đức Giêsu “động lòng
thương”. (i) Đức Giêsu “động lòng thương” đưa tay chạm vào người bị bệnh phong và
nói: ‘tôi muốn anh sạch đi’ (Mc 1,41); (ii) Người “động lòng thương” đám đông vì
họ như bầy chiên không có mục tử (Mc 6,34); (iii) Người “động lòng thương” đám
đông vì họ đã ở với Người 3 ngày và không có gì ăn (Mc 8,2); (iv) Cha của đứa bé
bị bệnh động kinh thưa cùng Đức Giêsu: ‘Nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin “động
lòng thương mà cứu giúp chúng tôi” (Mc 9,22). Trong Tin Mừng Luca, động từ này
được dùng cho Đức Giêsu chỉ một lần duy nhất. Trong trình thuật “phục sinh con trai
bà góa thành Nain”, khi trông thấy bà góa thành Nain, người có đứa con trai vừa
chết, Đức Giêsu “động lòng thương” và nói: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Ngoài ra,
Luca còn dùng động từ này hai lần khác với chủ từ không phải là Đức Giêsu. (i) Người
Samari nhân hậu: “Một người Samari kia, đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy
và động lòng thương” (Lc 10,33); (ii) Người cha nhân hậu: “Anh ta [người con thứ]
còn ở đằng xa, người cha đã trông thấy, Ông động lòng thương, chạy ra ôm cổ anh
ta và hôn một cách nồng nhiệt” (Lc 15,20). Sự kết hợp giữa động từ “nhìn thấy” và
“động lòng thương” trong cả 3 lần Luca dùng động từ này rất giống với cách dùng
của Máccô trong đoạn Tin Mừng này (Nhìn thấy đám đông lớn, Đức Giêsu động lòng thương).
Mátthêu là tác giả dùng động từ “động lòng thương” nhiều nhất trong các tác giả
sách Tin Mừng (Mt 5 lần; Mc 4 lần; Lc 3 lần). Trong năm lần của Mátthêu, có bốn
lần động từ này có chủ từ là Đức Giêsu và 1 lần khác, chủ từ là một nhân vật khác.
Có hai lần động từ này xuất hiện ở hai phép lạ hóa bánh ra nhiều (Đức Giêsu động
lòng thương đám đông), giống với trình thuật của Máccô (Mt 14,14=Mc 6,34; 15,32=Mc
8,2). Một lần khác, Mátthêu cũng ghi lại Đức Giêsu “động lòng thương” đám đông nhưng
không nằm trong bối cảnh “phép lạ hóa bánh ra nhiều” mà là bối cảnh sai đi (Mt
9,36). Mátthêu còn cho biết Đức Giêsu “động lòng thương” hai người mù ở Giêrikhô:
“Đức Giêsu động lòng thương sờ vào mắt họ; tức khắc họ nhìn thấy được và đi theo
Người” (Mt 20,34). Trong dụ ngôn “người mắc nợ không biết xót thương”, người chủ
“động lòng thương” người đầy tớ thiếu nợ và “cho y về và tha luôn món nợ” (Mt
18,27). Tiếc thay, người này lại không biết động lòng thương và tha cho người bạn
thiếu nợ y (Mt 18,28).
9.
Những con chiên không có người chăn chiên: Lý do Đức Giêsu phải động lòng thương là “vì họ nhữ
những con chiên không có người chủ chăn”. Hình ảnh Thiên Chúa là mục tử và Israel
là đàn chiên là một hình ảnh quen thuộc trong truyền thống Thánh Kinh Do Thái.[8] Bắt
nguồn từ truyền thống du mục, chăn nuôi xa xưa của người Do Thái. Hình ảnh Thiên
Chúa là người mục tử luôn được nhắc đi nhắc lại trong những áng văn chương Thánh
Kinh. Thánh Vịnh 23 là một trong những áng văn chương đẹp nhất về hình ảnh
Thiên Chúa-mục tử: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi. Tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong
đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi đến dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người”
(Tv 23,1-3). Ngôn sứ Isaia cũng phác họa một hình ảnh không thể đẹp hơn và
gần gũi hơn về Thiên Chúa-mục tử: “Như mục tử. Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa,
tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ,
cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11). Ngôn sứ Êdêkiel có những lời đanh thép
lên án những mục tử-nhân loại chăn dắt dân Israel: “Khốn cho các mục tử Israel,
những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đoàn chiên sao? sữa
các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên
lại không lo chăn dắt, chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh, chiên bệnh tật
các ngươi không chữa cho lành, chiên bị thương, các ngươi không băng bó, chiên
đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không đi tìm. Các ngươi
thống trị chúng một cách tàn bạo hà khắc.” (Ed 34,2-4). Vì thế, Đức Chúa là Chúa
Thượng phán “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm… chính
Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ” (Ed 34,11.15). Trong cuộc
chiến với Aram, ngôn sứ Mikhagiơhu nói tiền báo với vua Akháp một viễn cảnh về một
đàn chiên Israel không người chăn dắt, không còn chủ nữa (1V 22,17; Sbn 18,16).
Trong bối cảnh đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu cũng thấy đàn chiên Israel bơ vơ, lạc
lõng, không có chủ chăn. Dĩ nhiên, vào thời Đức Giêsu, có rất nhiều Kinh Sư và Pharisêu
để lãnh đạo tinh thần cho dân Do Thái. Tuy nhiên, đa số họ bị nhiễm men giả hình
mà Đức Đức Giêsu căn dặn các môn đệ phải coi chừng: “Phải coi chừng men Pharisêu
và Xađốc” (Mt 16,6.11; Lc 12,1) (Mc 8,15: men Pharisêu và Hêrôđê). Các Kinh Sư và
Pharisêu còn bị kết án là tham lam: họ “nuốt hết tài sản của các bà góa còn làm
bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mt 23,14; Mc 12,40; Lc 20,47). Có thể là vì sự
băng hoại, giả hình của những vị mục tử nên dân chúng khao khát một vị mục tử như
Đức Giêsu. Tin Mừng Nhất Lãm nhiều lần ví Đức Giêsu như là mục tử. Trong bối cảnh
Cuộc Thương Khó, Đức Giêsu nhắc đến lời đã chép rằng: “Ta sẽ đánh chủ chăn và
đàn chiên sẽ tan tác” (Mc 14,27). Câu Thánh Kinh này rõ ràng áp dụng cho Đức Giêsu.
Đức Giêsu được ví như vị thủ lãnh chăn dắt Israel, được sinh ra tại Bếthlehem như
lời ngôn sứ Mikha (Mt 2,6). Mátthêu cũng nhiều lần diễn tả Đức Giêsu như là một
mục tử (Mt 2,6; 18,12; 25,32; 26,3). Người như vị mục tử đi tìm con chiên lạc (Mt
18,12). Tuy nhiên, nơi Tin Mừng thứ tư, người ta mới gặp thấy hình ảnh mục tử Giêsu
một cách rõ ràng sống động nhất: “Ta là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh
mạng sống vì đàn chiên …Tôi biết các chiên tôi và các chiên tôi biết tôi” (Ga
10,11.14). Kết thúc Thánh Kinh, Sách Khải Huyền cũng nói đến hình ảnh “Con Chiên”
sẽ là mục tử dẫn dân tới nguồn nước sự sống, và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn
mặt (Kh 7,17). Hơn nữa, lối diễn tả “Những con chiên không có vị mục tử” là kiểu
nói thường xuyên nhất trong Thánh Kinh về một dân không có vua. Cho nên kiểu nói
này lặp lại trong khung cảnh này như ám chỉ Đức Giêsu mà Đấng Kitô, Đấng Mêsia của
Israel, vị vua họ đang mong đợi.[9]
10.
Bắt đầu dạy họ nhiều điều: Giảng dạy và làm phép lạ là hai hoạt động chính yếu của Đức Giêsu trong sứ
vụ công khai. Cấu trúc động từ “bắt đầu” + động từ “dạy” là đặc trưng của Tin Mừng
Máccô. Thật vậy, Máccô là tác giả duy nhất sử sụng cấu trúc này và ông sử dụng
đến 4 lần (Mc 4,1; 6,2; 6,34; 8,31). Động từ “dạy” (didasko), nói chung, được Máccô
dùng 17 lần trong đó có 16 lần Đức Giêsu là chủ từ, chỉ có duy nhất một lần duy
nhất chủ từ là “dân này”.[10]
Đó là lần Đức Giêsu trích sách ngôn sứ Isaia nói rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng
môi, miệng còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta cũng vô ích, vì
giáo lý chúng dạy chỉ điều răn của phàm nhân” (Mc 7,7). Ngoài ra, Máccô cũng dùng
danh từ “thầy dạy” (didaskalos) 12 lần[11] cho
một mình Đức Giêsu. Những thống kê về cách dùng từ này cho thấy Đức Giêsu chính
là Đấng duy nhất có thẩm quyền giảng dạy trong Tin Mừng Máccô. Thầy dạy Giêsu luôn
thu hút dân chúng, bởi giáo lý mới mẻ và sự uy quyền của người dạy (Mc 1,27; Lc
4,32). Trong vai trò của một vị mục tử, điều quan trọng nhất là biết “động lòng
thương” và giảng dạy cho dân. Máccô nhấn mạnh đến sự dạy dỗ của mục tử Giêsu, trong
khi đó Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự chữa lành: “Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một
đám đông lớn thì động lòng thương và chữa lành các bệnh tật của họ” (Mt 14,14).
Bình luận tổng
quát
Chúng ta đang trong hành trình khám phá Đức Giêsu là
Đấng Kitô, và là Con Thiên Chúa, theo mô tả của tác giả sách Tin Mừng Máccô. Tin
Mừng Máccô bắt đầu bằng lời giới thiệu rằng: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô,
Con Thiên Chúa” (Mc 1,1). Nghĩa là, qua những trang Tin Mừng này có hai điều trọng
yếu mà độc giả, cũng như các tín hữu phải khám phá cho được về ông Giêsu Nadarét:
(i) Người là Đấng Kitô mà dân Do Thái đang mong đợi; (ii) Người là Con Thiên Chúa.
Khởi đầu chương 6, dân cùng làng Nadarét đã thất bại trong việc nhận ra căn tính
Kitô nơi con người của Đức Giêsu. Người vẫn giảng dạy với uy quyền và đầy khôn ngoan.
Người vẫn làm phép lạ bằng cách đặt tay và chữa lành một vài bệnh nhân. Thế nhưng,
những người cùng làng chỉ khư khư cho rằng, anh chàng Giêsu này chỉ là chàng thợ
mộc con bà Maria. Sứ mạng ngôn sứ của Đấng Kitô nơi làng quê Nadarét dường như thất
bại, vì họ không tin vào Người. Tuy nhiên, sự thất bại ấy không làm cho Người nản
chí bỏ cuộc. Có thể nói rằng sự chối từ của những người cùng làng lại mở ra cơ hội
cho những làng khác khi Đức Giêsu “đi các làng chung quanh mà giảng dạy” (6,6b).
Hơn thế nữa, Người lại trao sứ vụ giảng dạy và làm phép lạ cho Mười Hai Tông Đồ
là những người đã “ở với Người” và được Người huấn luyện. Họ đã ra đi từng hai người
một đến nhiều làng để giảng dạy. Sau khi thi hành sứ vụ họ lại được quy tụ để chia
sẻ, báo cáo cùng Đức Giêsu về những việc họ đã làm và đã dạy (6,30). Họ chắc hẳn
đã làm nhiều phép lạ trừ nhiều quỷ. Họ cũng đã xức dầu trên nhiều bệnh nhân và chữa
lành bệnh (6,13). Họ có lẽ cũng đã dạy người ta về Tin Mừng Nước Thiên Chúa: “Thời
Kỳ đã mãn, Triều đại Thiên Chúa đã đến gần, anh chị em hãy hoán cải và tin vào Tin
Mừng”. Cùng với sứ điệp nòng cốt này, chắc hẳn họ cũng phải dạy những dụ ngôn về
Nước Trời. Họ cũng phải giới thiệu về Đức Giêsu, bởi Đức Giêsu chính là Tin Mừng
mà người ta cần phải tin. Có lẽ họ cũng đã chia sẻ kinh nghiệm về “sự hoán cải”
của chính họ, rằng họ đã bỏ mọi sự để theo Đức Giêsu thế nào. Rồi có thể có những
người trong họ đã nếm mùi thất bại, vì sự chối từ của một làng nào đó và đã phải
“giũ bụi chân lại” để cảnh cáo người ta. Sứ vụ rao giảng dù thành công hay thất
bại đều làm cho các môn đệ tiêu hao năng lượng xác hồn. Họ cần một thời gian nghỉ
ngơi để hồi phục. Đức Giêsu đã thấy rõ nhu cầu thiết yếu đó và quyết định cho cả
nhóm đi nghỉ mát ở vùng “sa mạc”. Đó là một nơi gặp gỡ và hẹn hò với Chúa, để Người
bồi bổ tinh thần và họ cũng được nghỉ ngơi về thể xác, khi không phải quá tải, vì
giúp đỡ dân chúng. Đó là những khoảnh khắc cần thiết trong nhịp sống của mỗi Kitô
hữu để “xạc pin”, để có đủ năng lượng mà tiếp tục sống cho Chúa và cho mọi người.
Tuy nhiên, chuyến tĩnh tâm
trong “sa mạc” của Thầy – trò
Giêsu dường như thất bại, không được như ý. Bởi lẽ, đám đông đã nhìn thấy, và nhận
biết nơi Thầy – trò định đến và “tất cả các thành phố” đều chạy đến trước để đón
đầu Thầy – trò Giêsu. Vừa ra khỏi thuyền, trông thấy đám người rất đông, Đức Giêsu
lại rung cảm, xót thương trong lòng, vì họ như những con chiên không người chăn
dắt. Một đàn chiên không người chăn dắt sẽ lang thang vô định. Chúng không biết
đi đâu về đâu và nơi đâu có đồng cỏ xanh tươi và dòng suốt mát để ăn uống bổ sức.
Chưa nói đến nguy cơ sói rừng luôn rình rập
cướp đi mạng sống của chúng. Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành, cũng là mục tử Thiên
Chúa, không thể bỏ rơi đàn chiên của mình. Họ đã không tìm thấy nơi những vị lãnh
đạo tinh thần đương thời (các kinh sư và Pharisêu) một sự bảo đảm no đủ về tinh
thần, tâm linh, nên họ phải chạy theo Đức Giêsu.[12] Nơi
Đức Giêsu họ tìm được sự tốt lành, thánh thiện, nhiệt tâm và khôn ngoan uy quyền
nữa. Mục tử Giêsu đã dạy họ nhiều điều. Tính từ “πολλά” (nhiều) làm danh từ túc từ cho động từ “đidasko”
(dạy) mở rộng nội dung giảng dạy của Đức Giêsu ra vô hạn. Người đã dạy họ “nhiều
điều” về Nước Trời, về niềm tin, về Lề Luật, về Thiên Chúa, về tình yêu, về sự phó
thác, về cách đối nhân xử thế trên đời… Nói chung là tất cả những điều Người có
thể dạy, vì sự “động lòng thương” từ con tim của Người.
Đời người là một chuỗi dài của những hoạt động yêu
thương không biết mệt mỏi vì chính mình và vì người khác. Trong cơn đại dịch, có
biết bao nhiêu bàn tay, khối óc và tấm lòng đã “vã mồ hôi, sôi nước mắt vì” miếng
cơm, manh áo, bảo vệ sức khỏe và giành dựt sự sống cho người khác. Thiết nghĩ,
đó hẳn là nhịp sống và là tinh thần của người Tông Đồ của Chúa Giêsu. Họ phải luôn
lên đường như thế chứ không phải chỉ trong cơn đại dịch mà thôi. Và rồi, họ cũng
phải ý thức phận người mỏng giòn, đầy giới hạn của mình, để rồi biết dành thời gian
nghỉ ngơi bên Chúa, và cả du lịch, dã ngoại nữa nhằm kín múc những ơn thánh cần thiết cũng như
được hồi phục năng lượng dồi dào cho những hoạt động “động lòng thương” với người
thân và nhân thế. Có hai sự nguy hiểm trong cuộc sống của con người. Thứ nhất, làm
việc không ngừng nghỉ. Nếu làm việc không ngừng nghỉ thì sẽ có nguy cơ ngừng thở
về tâm linh cũng như thể xác. Thứ hai, nghỉ ngơi quá nhiều. Cầu nguyện không hoạt
động không phải là cầu nguyện thật. Tận hiến không cầu nguyện không phải là tận
hiến thật. Chúng ta không tìm theo Chúa để tránh theo đuổi tha nhân. Đúng hơn, theo
Chúa để làm cho chúng ta làm tốt hơn sứ vụ phục vụ tha nhân.[13] Đời
người Kitô hữu cũng có lúc như những con chiên không người chăn dắt. Họ đứng giữa
ngã ba đường của cuộc đời, giữa dòng người đông đảo, nhưng bơ vơ lạc lõng. Họ không
biết đi đâu, về đâu, bởi không có mục đích tối hậu rõ ràng của đời mình. Họ bơ vơ
lạc lõng giữa dòng người đông đúc, vì họ không hề có một cam kết yêu thương cụ thể
với một ai cả. Họ cảm thấy cô đơn vì chưa từng gắn bó với Chúa và với tha nhân.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] Xem thêm về kiểu hành văn
“bánh mì kẹp thịt” của tác giả Máccô trong Joseph Phạm Duy Thạch, “Talitha
kum: Này Bé, Hãy Trỗi Dậy” [HORIZON
MISSIONARY: “TALITHA KUM: NÀY BÉ, HÃY TRỖI DẬY”. Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật
XIII TN B (Mc 5,21-43) (josephpham-horizon.blogspot.com)] (truy cập
21/07/2021).
[2] R.A. Guelich, Mark
1-8:26 (WBC; Dallas 2002) 34B, 339.
[3] A.Y. Collins – H.W.
Attridge, Mark. A Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia;
Minneapolis 2007) 314.
[4] R.A. Guelich, Mark
1-8:26, 339.
[5] A.Y. Collins – H.W.
Attridge, Mark, 318.
[6] Lexically, but even more so substantively, it is
reminiscent of the scene in 3:20 that led the family of Jesus to think that he
was out of his senses, “the crowd gathered again, so that they were not even
able to eat” [Ibid.]; W. Barclay cho rằng đây là cách diễn tả nhịp sống của ki-tô
hữu: gặp Chúa và gặp tha nhân, nghi ngơi và lao động, thời gian để xạc pin: “Here
we see what might be called the rhythm of the Christian life. The
Christian life is a continuous going into the presence of God from the presence
of men and coming out into the presence of men from the presence of God. It is
like the rhythm of sleep and work. We cannot work unless we have our time of
rest; and sleep will not come unless we have worked until we are tired.” [W.
Barclay, The Gospel of Mark. Lecturer in the University of Glasgow (DSB;
Philadelphia 2000) 155].
[7] M.
Zerwick – M. Grosvenor, A grammatical analysis of the Greek New Testament (Rome 1974) 123.
[8] Theo quan sát của J. Marcus,
những vị vua miền Lưỡng Hà đã xem họ như những người chăn chiên của dân và
trong Cựu Ước, rồi văn chương Do Thái sau đó cả Chúa và lãnh đạo nhân loại được
phác họa như những mục tử [J. Marcus, Mark 1-8. A New Translation with
Introduction and Commentary (AYBC; New Haven – London 2008) 27A, 406].
[10] Mc 1,21.22; 2,13; 4,1.2;
6,2.6.30.34; 7,7; 8,31; 9,31; 10,1; 11,17; 12,14.35; 14,49.
[11] Mc 4,38; 5,35; 9,17.38;
10,17.20.35; 12,14.19.32; 13,1;14,1.
[12] Theo J. Marcus, kiểu nói
“Con chiên không có mục tử” đã trở thành ẩn dụ mang tính tục ngữ dành cho những
người đau khổ qua hoặc là thiếu một sự dẫn dắt lành mạnh (Ds 27,17; 1 V 22,17=
2 Sbn 18,16; Gđt 11,19) hoặc là qua những vị lãnh đạo xấu xa (Ed 34,8; Dcr
10,2) (J. Marcus, Mark 1-8, 406).
[13] W. Barclay, The
Gospel of Mark. Lecturer in the University of Glasgow (DSB; Philadelphia
2000) 155.
No comments:
Post a Comment