Bản văn Mc 5,21-43
Hy Lạp |
Việt |
21 Καὶ διαπεράσαντος τοῦ Ἰησοῦ [ἐν τῷ πλοίῳ] πάλιν
εἰς τὸ πέραν συνήχθη ὄχλος πολὺς ἐπ᾽ αὐτόν, καὶ ἦν παρὰ τὴν θάλασσαν. 22 Καὶ ἔρχεται εἷς τῶν ἀρχισυναγώγων,
ὀνόματι Ἰάϊρος, καὶ ἰδὼν αὐτὸν πίπτει πρὸς τοὺς πόδας αὐτοῦ 23 καὶ παρακαλεῖ αὐτὸν πολλὰ λέγων ὅτι
τὸ θυγάτριόν μου ἐσχάτως ἔχει, ἵνα ἐλθὼν ἐπιθῇς τὰς χεῖρας αὐτῇ ἵνα σωθῇ καὶ
ζήσῃ. 24 καὶ ἀπῆλθεν μετ᾽ αὐτοῦ. καὶ ἠκολούθει
αὐτῷ ὄχλος πολὺς καὶ συνέθλιβον αὐτόν. 25 Καὶ γυνὴ οὖσα ἐν ῥύσει αἵματος δώδεκα ἔτη 26 καὶ πολλὰ παθοῦσα ὑπὸ πολλῶν ἰατρῶν καὶ
δαπανήσασα τὰ παρ᾽ αὐτῆς πάντα καὶ μηδὲν ὠφεληθεῖσα ἀλλὰ μᾶλλον εἰς τὸ χεῖρον
ἐλθοῦσα, 27 ἀκούσασα περὶ τοῦ Ἰησοῦ, ἐλθοῦσα ἐν τῷ ὄχλῳ ὄπισθεν
ἥψατο τοῦ ἱματίου αὐτοῦ· 28 ἔλεγεν γὰρ ὅτι ἐὰν ἅψωμαι κἂν τῶν ἱματίων αὐτοῦ
σωθήσομαι. 29 καὶ εὐθὺς ἐξηράνθη ἡ πηγὴ τοῦ αἵματος αὐτῆς
καὶ ἔγνω τῷ σώματι ὅτι ἴαται ἀπὸ τῆς μάστιγος. 30 καὶ εὐθὺς ὁ Ἰησοῦς ἐπιγνοὺς ἐν ἑαυτῷ τὴν ἐξ
αὐτοῦ δύναμιν ἐξελθοῦσαν ἐπιστραφεὶς ἐν τῷ ὄχλῳ ἔλεγεν· τίς μου ἥψατο τῶν ἱματίων; 31 καὶ ἔλεγον αὐτῷ οἱ μαθηταὶ αὐτοῦ· βλέπεις τὸν
ὄχλον συνθλίβοντά σε καὶ λέγεις· τίς μου ἥψατο; 32 καὶ περιεβλέπετο ἰδεῖν τὴν τοῦτο ποιήσασαν. 33 ἡ δὲ γυνὴ φοβηθεῖσα καὶ τρέμουσα, εἰδυῖα ὃ γέγονεν
αὐτῇ, ἦλθεν καὶ προσέπεσεν αὐτῷ καὶ εἶπεν αὐτῷ πᾶσαν τὴν ἀλήθειαν. 34 ὁ δὲ εἶπεν αὐτῇ· θυγάτηρ, ἡ πίστις σου σέσωκέν
σε· ὕπαγε εἰς εἰρήνην καὶ ἴσθι ὑγιὴς ἀπὸ τῆς μάστιγός σου. 35 Ἔτι αὐτοῦ λαλοῦντος ἔρχονται ἀπὸ τοῦ ἀρχισυναγώγου
λέγοντες ὅτι ἡ θυγάτηρ σου ἀπέθανεν· τί ἔτι σκύλλεις τὸν διδάσκαλον; 36 ὁ δὲ Ἰησοῦς παρακούσας τὸν λόγον λαλούμενον
λέγει τῷ ἀρχισυναγώγῳ· μὴ φοβοῦ, μόνον πίστευε. 37 καὶ οὐκ ἀφῆκεν οὐδένα μετ᾽ αὐτοῦ
συνακολουθῆσαι εἰ μὴ τὸν Πέτρον καὶ Ἰάκωβον καὶ Ἰωάννην τὸν ἀδελφὸν Ἰακώβου. 38 καὶ ἔρχονται εἰς τὸν οἶκον τοῦ ἀρχισυναγώγου,
καὶ θεωρεῖ θόρυβον καὶ κλαίοντας καὶ ἀλαλάζοντας πολλά, 39 καὶ εἰσελθὼν λέγει αὐτοῖς· τί
θορυβεῖσθε καὶ κλαίετε; τὸ παιδίον οὐκ ἀπέθανεν ἀλλὰ καθεύδει. 40 καὶ κατεγέλων αὐτοῦ. αὐτὸς δὲ ἐκβαλὼν
πάντας παραλαμβάνει τὸν πατέρα τοῦ παιδίου καὶ τὴν μητέρα καὶ τοὺς μετ᾽ αὐτοῦ
καὶ εἰσπορεύεται ὅπου ἦν τὸ παιδίον. 41 καὶ κρατήσας τῆς χειρὸς τοῦ παιδίου
λέγει αὐτῇ· ταλιθα κουμ, ὅ ἐστιν μεθερμηνευόμενον· τὸ κοράσιον, σοὶ λέγω, ἔγειρε. 42 καὶ εὐθὺς ἀνέστη τὸ κοράσιον καὶ
περιεπάτει· ἦν γὰρ ἐτῶν δώδεκα. καὶ ἐξέστησαν [εὐθὺς] ἐκστάσει μεγάλῃ. 43 καὶ διεστείλατο αὐτοῖς πολλὰ ἵνα
μηδεὶς γνοῖ τοῦτο, καὶ εἶπεν δοθῆναι αὐτῇ φαγεῖν. (Mk. 5:21-43
BGT) |
21 Và sau khi Đức Giêsu hải trình trở lại [trên thuyền] vào phía bên kia,
một đám đông lớn được tập trung lại với Người, và Người đang ở dọc bờ biển 22 rồi, khi một trong những người trưởng hội đường, tên là Giaiiros, đến
và thấy (gặp) Đức Giêsu, ông liền sụp xuống dưới chân Người 23 và ông kêu cầu Người rất nhiều, nói rằng, đứa con gái nhỏ của tôi đang
thập tử nhất sinh [nghĩa đen: đang có sự cuối cùng], để khi đến Người đặt tay
trên nó để nó được cứu và được sống. 24 và Người đi với ông ta và đám đông lớn đi theo Người và chen lấn bao
quanh Người. 25 Rồi, một người phụ nữ bị bệnh băng huyết đã mười hai năm. 26 Bà đã đau khổ rất nhiều vì nhiều thầy thuốc và đã tiêu xài tất cả những
gì của bà mà không lợi ích gì nhưng còn trở nên tệ hơn 27 Khi nghe về Đức Giêsu, bà đã đến trong đám đông, phía sau, bà đã chạm
vào áo choàng của Người. 28 Vì bà nói rằng nếu tôi chỉ cần chạm vào áo choàng của Người thì tôi sẽ
được cứu. 29 Ngay lập tức dòng máu của bà ấy dừng lại và bà ta nhận biết qua cơ thể
rằng bà đã được chữa khỏi đau khổ. 30 Và lập tức Đức Giêsu nhận biết trong mình một năng lực của Người đã đi
ra, quay lại quanh đám đông, Người nói: ‘ai đã chạm vào áo choàng của tôi?’ 31 Và các môn đệ nói cùng Người: “Hãy nhìn xem, đám đông chen lấn Thầy mà
Thầy nói: ‘ai đã chạm vào tôi?’” 32 Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm người đã làm việc ấy. 33 Người phụ nữ đang hoảng sợ và run rẩy, bà biết điều đã xảy ra cho
mình, bà đến và sụp lạy Người và nói cùng Người tất cả sự thật. 34 Rồi Người nói cùng bà: ‘Này con gái, đức tin của con đã cứu chữa con,
hãy đi bình an và hãy được chữa khỏi hoàn toàn đau khổ của con.’ 35 Khi Người còn đang nói thì, một người đến từ [nhà] ông trưởng hội đường
nói rằng ‘con gái của ông đã chết rồi, tại sao làm phiền người Thầy nữa?’ 36 Nhưng khi Đức Giêsu nghe lời ấy liền nói cùng ông trưởng hội đường: ‘Đừng
sợ, hãy tin là đủ.’ 37 Rồi Người không mang ai đi theo với Người ngoại trừ Phêrô, Giacôbê và
Gioan em ông Giacôbê 38 Và Người đi vào nhà của ông trưởng hội đường, và Người thấy ồn ào và
người ta đang khóc và la rất nhiều. 39 Sau khi đi vào, Người nói với họ: ‘Tại sao lại buồn sầu và khóc la? đứa
bé không chết đâu mà ngủ thôi’ 40 Người ta bắt đầu cười Người. Sau khi đuổi tất cả ra ngoài, Người mang
theo cha, mẹ đứa trẻ và những người ở với Người, đi vào nơi đứa bé đang ở. 41 Và đang khi cầm lấy ta của bé gái, Người nói cùng cháu: “Talitha cum”,
nghĩa là “này bé, Tôi nói cùng con, hãy chỗi dậy” 42 Và ngay lập tức, bé gái đứng dậy và bắt đầu bước đi, bởi vì nó đã 12
tuổi và lập tức người ta kinh ngạc một sự ngạc nhiên lớn. 43 và Người ra lệnh cho họ một cách nghiêm túc để không ai có thể biết sự
việc này, rồi Người bảo cho nó ăn. |
Bối cảnh bản
văn
Bản văn Mc 1,21-43 nằm trong trình thuật về loạt phép lạ diễn tả quyền năng
của Đức Giêsu (Mc 4,35 – 5,43). Loạt phép là này bao gồm “dẹp yên gió và biển động”
(Mc 4,35-41); trừ quỷ ở vùng Ghêrasa (Mc 5,1-20); chữa lành một phụ nữ bị băng
huyết và phục sinh con gái ông Giaiirô (Mc 4,21-43). Không gian của những phép
lạ này là xung quanh hồ Galilê. Phép lạ trừ quỷ ở Ghêrasa diễn ra phía bên kia Biển
Hồ, phía đông hồ Galilê, trên vùng đất của dân ngoại. Hai phép lạ chữa lành người
phụ nữ bị băng huyết và phục sinh con gái ông Giaiirô diễn ra bên này Biển Hồ Galilê,
nơi vùng đất Do Thái. Phép lạ dẹp yên cuồng phong và biển động diễn ra trên Biển
Hồ. Chủ đề “đức tin” trong đoạn Tin Mừng này nối hai phép lạ với nhau: Niềm tin
của ông Giaiirô và niềm tin của người phụ nữ. Niềm tin này cũng ngược lại với sự
thiếu niềm tin của các môn đệ trong trình thuật dẹp yên biển động trước đó và sự
thiếu niềm tin của dân làng Nadarét trong trình thuật Đức Giêsu thăm Nadarét
sau đó (Mc 6,1-6). Sự xác nhận của Đức Giêsu về niềm tin của người phụ nữ nối kết
với hai phép lạ khác: (i) Phép lạ chữa mười người phong hủi, trong đó, Đức Giêsu
cũng tuyên bố: “Đứng dậy về đi, niềm tin của anh đã cứu anh (Lc 17,19); (ii)
Phép lạ chữa người mù Giêrikhô, trong đó Đức Giêsu nói: “Anh nhìn thấy đi niềm
tin của anh đã cứu chữa anh” (Mc 11,52; Lc 18,42). Chủ đề về quyền năng của Đức
Giêsu là chủ đề chung cho loạt những phép lạ này. Con số 12 là con số đặc biệt
nối kết hai phép lạ với nhau (Người phụ nữ đau khổ 12 năm và cô gái 12 tuổi). Ngoài
ra, nó còn nối kết với nhiều đoạn khác trong Tân Ước và Cựu Ước. Chủ đề “phục
sinh sự sống” chính là chủ đề quan trọng bậc nhất trong toàn bộ Các Sách Tin Mừng.
Nó nối kết chặt chẽ với câu chuyện phục sinh con trai bà góa thành Nain (Lc
7,11-17); câu chuyện Đức Giêsu phục sinh cho Ladarô, người đã chết và được chôn
bốn ngày (Ga 11,17-44); và đặc biệt nhắc nhớ đến sự phục sinh của Đức Kitô. Chủ
đề “bí mật Mêsia”: “Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết chuyện ấy”
(Mc 5,43) là một chủ đề mang tên “bí mật Mêsia” là chủ để mang nhãn hiệu Máccô.
Kỹ thuật văn chương “bánh mì kẹp thịt” (một câu chuyện được lồng vào giữa một
câu chuyện khác) cũng mang đậm nét đặc trưng của Máccô. Câu chuyện chữa lành
người phụ nữ bị băng huyết được lồng vào trong câu chuyện phục sinh đứa bé gái,
con của ông Giaiirô. Câu chuyện các kinh sư từ Jêrusalem cho rằng Đức Giêsu dựa
thế quỷ vương mà trừ quỷ (Mc 3,22-30) được lồng vào giữa câu chuyện thân nhân Đức
Giêsu đi tìm Đức Giêsu vì cho rằng Người mất trí (Mc 3,20-21.31-35) [3,20-21(22-30)31-35].
Phép lạ chữa lành người phụ nữ bị băng huyết (5,25-34) nằm giữa phép lạ chữa
lành con gái ông trưởng hội đường (5,21-24.35-43) [5,21-24 (25-34)35-43]. Câu
chuyện Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng (6,6b-13) và các môn đệ trở về
(6,30-31) đóng khung câu chuyện Gioan Tẩy Giả bị chém đầu (Ma 6,14-29) [6:7-13(14-29)30-31]. Câu chuyện Đức Giêsu thanh tẩy
đền thờ (Mc 11,15-19) nằm giữa câu chuyện Đức Giêsu nguyền rủa cây vả không
trái (Mc 11,12-14), và hiệu quả là cây vả chết khô (Mc 6,20-25)
[11:12-14(15-19)20-25]. Câu chuyện nộp Đức Giêsu (14,1-2.10-11) đóng khung câu
chuyện xức dầu tại Bêthania (14, 15-19) [14:1-2(3-9)10-11]. Những câu chuyện được
lồng vào nhau này có tác dụng làm sáng ý và giải thích cho nhau. Những điểm
tương tự giữa hai câu chuyện này: cả hai đều cầu xin được cứu chữa
(5,23.28.34); cả hai người đều sụp lạy Đức Giêsu (5,22.33); cả hai bệnh nhân đều
được gọi là “Con gái” (5,23.34.35); Người phụ nữ bệnh 12 năm, cô bé 12 tuổi
(5,25.42); cả hai bệnh nhân đều ô uế: Bệnh băng huyết là ô uế, xác chết của bé
gái cũng ô uế; sự sợ hãi được đề cập trong cả hai câu chuyện (5,33.36) và đức
tin cũng được nhấn mạnh trong hai câu chuyện (5,34.36).[1]
Cấu trúc bản văn:
Cấu trúc toàn bản văn có đặc tính đan xen nhau có
thể biểu thị như sau A-B-A. Trong đó hai phần A là câu chuyện phục
sinh con gái ông Giaiirô và B là câu chuyện chữa lành người phụ nữ bị
băng huyết. Vì là hai câu chuyện riêng biệt nên mỗi câu chuyện cũng cũng có một
cấu trúc chi tiết riêng. Câu chuyện A, ngoài phần dẫn nhập, có đến 4 cặp
tiểu thành phần song song với nhau và đan xen nhau giữa hy vọng và tuyệt vọng.
Đáng chú ý là câu chuyện này được khởi đầu bằng cặp tiểu thành phần đều mang
chiều kích hy vọng và kết thúc cũng là cặp tiểu phần có tính hy vọng. Ở giữa là
hai cặp tiểu phần đan xen nhau giữa thất vọng và hy vọng. Câu chuyện B gồm
có 3 tiểu phần chính yếu song song và quy tâm. Tiểu phần trung tâm (b)
là phản ứng của Đức Giêsu: Người nhận thấy một năng lực phát ra từ mình và tìm
kiếm người đã “chạm vào áo choàng” của Người. Tiểu phần (a) Hành động
táo bạo của người phụ nữ, phát xuất từ niềm tin (a1), và dẫn đến hiệu quả
của niềm tin ấy (được khỏi bệnh) // (a’) Tự thú của người phụ nữ, kéo
theo sự chứng nhận về niềm tin từ Đức Giêsu (a’1) và lời công bố khỏi bệnh
hoàn toàn (a’2). Ngoài ra còn có một số tiểu phần để mô tả nhóm chứng
nhân: 3 môn đệ Phêrô, Giacôbê, Gioan và cha mẹ đứa bé.
(A) Biểu hiện hy vọng: Khẩn cầu cho con gái được cứu và sống
(5,23) (A’) Đáp lại niềm hỵ vọng: Đức Giêsu đi với ông ta (5,24) |
(a) Hành động
của người phụ nữ: Chạm
vào áo choàng của Người (5,27) (a1) Niềm tin của bà: Chạm vào áo choàng thì sẽ được cứu (5,28) (a2) Hiệu quả của niềm tin: Khỏi bệnh ngay lập tức (5,29) (b) Phản ứng của Đức Giêsu: Một năng
lực đi ra từ người (5,30) (b1) Câu hỏi của
Đức Giêsu: “ai đã chạm
vào áo choàng của tôi?” (b2) Đáp trả của
các môn đệ: Không thể
biết ai đã chạm vào Người (5,31) (b3) Đức Giêsu dò
xét: Nhìn quanh để tìm
người đã làm việc ấy (5,32) (a’) Tự
thú của người phụ nữ: Nói cùng Người tất cà sự thật (5,33) (a’1) Chứng nhận niềm tin: Đức tin của con đã cứu chữa con (5,34) (a’2) Chứng nhận chữa lành: Con hãy đi và hãy được chữa khỏi đau khổ (5,34b) |
(B’) Khơi dậy niềm tin: ‘Đừng sợ, hãy
tin là đủ.’ (5,36)
Nhóm bộ ba: Phêrô,
Giacôbê và Gioan em ông Giacôbê (5,37) (C) Biểu hiện tuyệt vọng: “Người ta đang khóc và la rất nhiều” (5,38)
(D) Khơi niềm hy vọng: Đứa
bé không chết đâu nhưng nó ngủ thôi’ (5,39) (C’) Biểu hiện tuyệt vọng: “Người ta bắt đầu cười Đức Giêsu” (5,40a)
Nhóm bộ ba và
cha mẹ đứa bé (5,40b) (D) Hiện thực hóa niềm hy vọng: Cầm tay và nói “talitha cum” (5,41) (D’) Hiệu quả của niềm hy vọng: Ngay lập tức bé gái đứng
dậy và cứ bước đi (5,42a)
Phản ứng của cha mẹ đứa bé và các môn đệ: Kinh ngạc một sự ngạc nhiên lớn (5,42b) Lệnh
giữ bí mật: Không ai có
thể biết sự việc này (5,43) |
Một số điểm
chú giải
1.
Hải trình trở lại phía bên kia: Độc giả hẳn còn nhớ trong hai trình thuật trước, (i) Trình thuật về việc Đức
Giêsu làm lặng gió và sóng biển; (ii) Trình thuật trừ quỷ trên đất Ghêrasa, Đức
Giêsu và các môn đệ cũng đi qua “phía bên kia” (τὸ πέραν: Mc 4,35; 5,1). Trong trình thuật này, độc giả lại nghe
Đức Giêsu lại hải trình, băng qua biển để trở lại “phía bên kia”. Từ ngữ Hy Lạp
Máccô sử dụng chỉ là một (τὸ πέραν). Nếu chúng ta diễn tả theo Tiếng Việt thì có vẻ nó
dễ hiểu hơn. Nghĩa là, tuy từ vựng là cùng một từ nhưng trong Tiếng Việt có thể
nói là: hai trình thuật trước Đức Giêsu băng qua phía “bên kia” Biển Hồ để vào
vùng đất của dân ngoại Ghêrasa, còn trong trình thuật này, Đức Giêsu lại trở về
“bên này” của Biển Hồ, vùng đất của người Do Thái. Phần giới thiệu bối cảnh,
cho biết về không gian này, là khá quan trọng vì nó cho độc giả biết Đức Giêsu
trở lại vùng đất của người Do Thái. Lần này, Đức Giêsu cũng đi lại y chang hải
trình mà Người và các môn đệ đã trải qua trong trình thuật Đức Giêsu dẹp yên biển
động, thế nhưng, tác giả không còn giới thiệu bối cảnh thời gian là “màn đêm
buông xuống nữa”, bởi nó không cần thiết cho trình thuật này.
2.
Đám rất đông người chen lấn (Hy Lạp: Đám đông lớn): Phần giới thiệu đám đông lớn chen lấn nhau cũng
đáng chú ý vì sau đó sẽ là cảnh người phụ nữ len lỏi vào giữa đám đông này để
chạm vào áo choàng của Đức Giêsu một cách âm thầm. Nó cũng chuẩn bị cho câu trả
lời của các môn đệ: “Đám đông chen lấn vậy mà thầy lại hỏi ai đã chạm vào áo
choàng của Thầy hay sao?”. Câu trả lời theo kiểu hỏi lại của các môn đệ ngụ ý rằng
câu hỏi của Đức Giêsu quả là ngớ ngẩn. Từ ngữ “đám đông” xuất hiện ba lần trong
trình thuật này (5,21.24.31). Có hai lần
danh từ đám đông được kèm theo tính từ “nhiều, đông, lớn” (πολὺς). Lần đầu tiên đám đông tụ tập quanh Đức Giêsu
(5,21). Lần thứ hai, họ “đi theo” và “chen lấn” Đức Giêsu (5,24). Lần cuối cùng,
các môn đệ diễn tả “đám đông lớn” này chen lấn Đức Giêsu (5,31). Nó dường như có
vai trò bảo đảm an toàn cho hành động kín đáo của người phụ nữ và sự tìm kiếm của
Đức Giêsu dường như vô vọng, nếu người phụ nữ không thú nhận.
3.
“thấy…sụp lạy…khẩn cầu”: Danh phận của người đàn ông được tác giả khéo léo nhắc đến đầy ngụ ý: ông
ta là một trong những “người trưởng Hội Đường” (εἷς τῶν ἀρχισυναγώγων), tên là Giaiirô. Chi tiết này hợp với
chi tiết trong phần giới thiệu bối cảnh: Đức Giêsu trở lại “bên này” của hồ Galilê,
tức là vùng đất của người Do Thái. Ông trưởng hội đường này dĩ nhiên là người
Do Thái. Danh phận của ông cũng không phải tầm thường, ông là người đứng đầu một
hội đường Do Thái. Danh xưng này chỉ được nhắc đến trong câu chuyện này và được
dùng tới 4 lần (5,22.35.36.38). Mặc dù đã giới thiệu tên gọi của ông là Giaiirô
nhưng Máccô cố ý gọi ông là “ông trưởng hội đường” đến 4 lần dường như là để nhấn
mạnh vị thế của ông trước độc giả và Đức Giêsu. Với vị thế ấy, rõ ràng không cần
ông phải sụp lạy Đức Giêsu, trước bàn dân thiên hạ để khẩn cầu cho đứa con của
mình. Hình ảnh sụp lạy của ông vừa cho thấy sự khiêm nhường, tình thương dành
cho đứa con gái và lòng tín thác tuyệt đối vào Đức Giêsu. Ông tin rằng nếu Đức Giêsu
đặt tay lên đứa bé thì nó sẽ được chữa lành và được sống. Chữa lành bằng cách đặt
tay là một trong những cách Đức Giêsu thường dùng: “Người đặt tay trên một vài
bệnh nhân và chữa lành họ” (Mc 6,5); Người “cầm tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi
nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh mù và hỏi: ‘Anh có thấy gì
không?’” (Mc 8,23); “rồi Người lại đặt tay trên mắt anh, anh trông rõ và khỏi hẳn,
anh thấy tỏ tường mọi sự” (Mc 8,25); Các môn đệ cũng có thể “đặt tay trên những
người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe” (Mc 16,18). Ông trưởng hội
đường có lẽ quen với cách thức chữa bệnh của Đức Giêsu nên mới cầu xin Đức Giêsu
đến đặt tay. Lời khẩn cầu của ông rất khẩn thiết. Trong tiếng Hy Lạp: “Ông cầu
xin rất nhiều”. Tính từ “nhiều” (πολλὰ) đi kèm theo động từ “cầu xin” cho thấy mức độ khẩn
thiết trong lời cầu nguyện của ông.
4.
“thập tử nhất sinh”:
Trong tiếng Hy Lạp là “con gái tôi đang có sự cuối cùng”. Trong tiếng Việt có
thể hiểu rằng “đang hấp hối” hoặc là “đang cận kề sự chết”. Tình trạng của bé
gái quả là nguy hiểm. Ông chỉ còn biết trông cậy vào sự đặt tay của Đức Giêsu
mà thôi.
5.
“Được cứu thoát và được sống”: Ông Giaiirô không dùng động từ chữa lành nhưng lại dùng động từ “cứu
thoát/cứu chữa”. Trong bối cảnh này, động từ này có thể diễn tả sự cứu thoát khỏi
bệnh, “cứu mạng sống” (Ngày Sabát được cứu mạng sống hay giết chết: Mc 3,4).
Tuy nhiên, động từ này còn có một nghĩa khác liên quan đến mầu nhiệm của Đức Kitô.
Đó là mầu nhiệm cứu độ. Đức Giêsu được sứ thần loan báo như là Đấng Cứu Độ (σωτὴρ) (Lc 2,11). Danh từ Đấng Cứu Độ có cùng gốc
với động từ “cứu thoát” (σωθῇ: 5:23). Đức Giêsu đã công bố rằng: “Vì danh Thầy anh em
sẽ bị mọi người thù ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, sẽ được cứu độ” (Mc 13,13;
Mt 24,13). Thánh Phaolô cũng xác tín rằng: “Tất cả những ai kêu cầu Chúa Kitô sẽ
được cứu thoát” (Rm 10,13); Sứ thần chỉ thị cho Giuse phải đặt tên hài nhi là Giêsu
vì Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Gioan cũng xác tín rằng
Thiên Chúa sai con mình xuống thế gian không phải để lên án thế gian nhưng là để
thế gian được cứu nhờ Người” (Ga 3,17). Như vậy, Động từ “cứu” trong thần học
Tân Ước, theo chiều kích Kitô học, không chỉ đơn thuần là cứu thoát khỏi chết về
thể lý, nhưng còn là một sự cứu độ về mặt linh hồn nữa, như chúng ta sẽ thấy
sau nơi lời nói chữa lành của Đức Giêsu.
6.
“mười hai năm… mười hai tuổi”: Con số 12 quả là một con số đặc biệt trong Tân Ước. Chắc chắn rằng Máccô
không vô tình cho biết người đàn bà đã đau khổ suốt 12 năm và bé gái được 12 tuổi.
Con số 12 rõ ràng nối kết hai câu chuyện: Một người đau khổ vì bệnh băng huyết
suốt 12 năm và một người “đã gần như chết” vào lúc 12 tuổi. Cuối cùng, cơn bệnh
12 năm chấm dứt và cái chết lúc tuổi 12 cũng được cứu. Con số 12 nhắc nhớ đến
12 người con của Gia-cóp, dẫn đầu 12 chi tộc Israel nghĩa là con số biểu thị
cho toàn bộ dân Israel. Dân Israel cũng là dân tộc đại diện mọi dân tộc toàn thế
giới. Đó là dân tộc mà nhờ đó toàn bộ nhân loại sẽ được chúc phúc như Chúa đã hứa
cùng tổ phụ Ápraham: “Nhờ ngươi mà tất các gia đình trên toàn trái đất sẽ được
chúc lành” (St 12,17; 18,18). Thành thánh Jêrusalem trên trời có mười hai cửa
do 12 thiên sứ canh giữ và trên các cửa có ghi tên 12 chi tộc của Israel. Tường
thành xây trên 12 nền móng, trên đó có tên 12 Tông đồ của Con Chiên (Kh
21,12-14). Người Phụ Nữ trong sách Khải Huyền (tượng trưng cho Đức Maria và
Giáo Hội), “đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” (Kh 12,1). Hơn nữa, con số 12 cũng
là con số 12 Tông Đồ, 12 trụ cột của Giáo Hội. Chính vì thế, đây cũng là con số
tượng trưng cho Giáo Hội là thân thể của Đức Kitô. Độc giả cũng không nên quên
rằng Đức Giêsu xuất hiện công khai trong đền thờ với những câu hỏi và lời đối
đáp một cách thông minh lúc Người lên 12 tuổi (Lc 2,42.49). 12 cũng là số giờ của
ban ngày, số giờ mà theo Đức Giêsu, ai đi “ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy
ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi
mình” (Ga 11,9-10). Đức Giêsu là “ánh sáng thế gian” (Ga 8,12; 9,5). Ai đi
trong khoảng 12 giờ của ban ngày là đi trong ánh sáng của Đức Kitô, ánh sáng giải
thoát họ khỏi tối tăm lầm lạc ủa tội lỗi và sự chết. 12 giờ trưa (giờ thứ sáu)
cũng là giờ “bóng tối bao phủ khắp mặt đất” vì là giờ Đức Giêsu, ánh sáng thế
gian, đang hấp hối trên thập giá (Mc 15,33; Mt 20,5; Lc 23,44). Con số 12 quả
là con số biểu tượng rất sống động. Nó nối kết từ Cựu Ước đến Tân Ước; từ Israel
đến Giáo Hội và đến toàn thế giới. Nó nối kết giữa Đức Kitô là đầu với chi thể
Giáo hội, là hiền thê của Chúa.
7.
“đau khổ vì thầy thuốc…tiêu xài hết của cải… không thuyên giảm…tệ hơn trước”:
Sự đau khổ của bà được Máccô
mô tả bằng một tiến trình hết sức sống động. Thời gian kéo dài là 12 năm. Bà
không chỉ đau khổ, kiệt quệ vì bệnh tật nhưng nhất là vì các thầy thuốc. Bản dịch
Việt Ngữ là: “Bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc” (CGKPV); “và đã khổ nhiều
với thầy thuốc” (NTT); Anh ngữ: “đau khổ rất nhiều dưới tác động của các thầy
thuốc” (suffered much under many physicians: ESV); Ý ngữ: “Đau khổ rất nhiều vì
hoạt động của nhiều thầy thuốc” (aveva molto sofferto per opera di molti
medici: CEI); Pháp ngữ: tương tự như Ý ngữ (elle avait beaucoup souffert du
fait de nombreux Médecins: TOB); Tây Ban Nha ngữ: “Đau khổ rất nhiều vì nhiều bác sĩ” (había sufrido mucho
por causa de muchos medicos: CAB). Các bản dịch nước ngoài xem ra bám sát bản
văn hơn các bản Việt Ngữ. Trong tiếng Hy Lạp, ngữ giới từ “ὑπὸ
πολλῶν ἰατρῶν” diễn tả rằng
nhiều thầy thuốc chính là tác nhân cho sự đau khổ của người phụ nữ này. Giới từ
“ὑπὸ” + danh từ ở thuộc
cách nhiều lần được dùng để chỉ tác nhân (chiếc thuyền đầy nước vì sóng biển:
Mt 8,24; “Con Người sẽ bị đau khổ vì họ”: Mt 17,12). Máccô có lẽ muốn lên án cách ý nhị hệ thống
lang băm vào thời của ông. Dẫu rằng ngành y có câu nỗi tiếng: “Lương y như từ mẫu”,
và các sinh viên ngành y luôn được giáo dục là lấy y đức làm đầu, các bệnh viện
xưa thường được gọi là “nhà thương”, nhưng ở thời đại nào cũng có những lang
băm, những kẻ trục lợi, làm giàu trên bệnh nhân, hơn là chữa bệnh. Máccô còn nhấn
mạnh hơn là bà ta tiêu xài tất cả những gì bà có (δαπανήσασα τὰ παρ᾽ αὐτῆς
πάντα) (nghĩa đen: tiêu xài tất
cả những gì từ chính bà ấy). Tính từ “tất cả” (πάντα) cho thấy rằng bà ta không còn gì nữa. Tất
cả những gì bà có đều rơi vào túi các thầy thuốc. Trớ trêu thay, bệnh tình
không những không khá hơn mà còn tệ hơn trước. “Tiền mất, tật mang”. Đức Giêsu là giải đáp duy nhất và cuối cùng cho nỗi thống
khổ của bà. Động từ “đau khổ” (paskhô)[2]
cũng chính là động từ được dùng để diễn tả cuộc thương khó của Đức Giêsu (Mt
17,12; “Con người sẽ đau khổ nhiều”: Mc 8,31; Mt 16,21; Lc 9,22). Máccô dường
như muốn nối kết đau khổ của người phụ nữ này với mầu nhiệm khổ nạn của Đức Giêsu.
Cả hai đều là nạn nhân của những người đồng hương Do Thái.
8.
“sờ vào áo choàng…được cứu”: Máccô dùng cách nói khá lạ lùng để giải thích hành động len lỏi vào đám
đông đang chen lấn Đức Giêsu, chạm vào áo choàng của Người từ phía sau. “Chạm
vào phía sau” có thể là vì bà ta mặc cảm về bệnh tật của mình. Nó cũng có thể
là vì bà sợ sẽ làm cho Đức Giêsu ra ô uế vì cơn bệnh của bà. Sách Lêvi nói đến
một người đàn bà bị rong huyết trong vòng nhiều ngày, ngoài thời kỳ kinh nguyệt
thì sự ô uế kéo dài suốt thời gian bị rong huyết: Bà sẽ ra ô uế như thời gian
có kinh (Lv 15,25). Theo người thuật chuyện, sở dĩ bà ta làm như thế vì “bà nói
rằng: ‘Nếu tôi chỉ cần chạm vào áo choàng của Người thì tôi sẽ được cứu’
(5,28). Bà đã nói với ai? nếu nói với chính bà thì phải có đại từ phản thân,
nhưng ở đây không có. Động từ “nói” lại không có túc từ đi kèm. Có thể hiểu là
bà ta nghĩ như thế (theo cách hiểu của nhóm CGKPV: “Vì bà tự nhủ”). Tuy nhiên,
rõ ràng không có dấu hiệu để cho thấy bà “nói với chính mình”. Động từ “nói” được
dùng ở thì “chưa hoàn thành” (imperfect), diễn tả một hành động kéo dài. Nghĩa
là bà ta “cứ nói như thế”. Túc từ của hành động này, nghĩa là người nghe bà
nói, có thể là bất cứ ai. Có thể là bà đã nói nhiều lần với nhiều người. Đó là
niềm xác tín công khai của bà. Động từ “cứu” (sôzô) chính là động từ mà ông Giaiirô
dùng trước đó ít lâu với hai ý nghĩa: “Cứu chữa” và “cứu độ” như đã giải thích
trên. Động từ này là điểm nối kết giữa niềm tin của bà với niềm tin của ông Giaiirô.
Phép lạ từ áo choàng gợi nhớ đến phép lạ từ áo choàng của ngôn sứ Êlia. Ông Êlia
đã dùng áo choàng đập trên sông Gio-đan để rẻ đôi nước ra hai bên, nhờ đó, ông
và Êlisa đi qua ráo chân (2 V 2,7). Sau khi ông Êlia được lên trời trong cơn
gió lốc, trên cổ xe đỏ như lửa, Êlisa, khi trở về cũng dùng áo choàng của Êlia
để rẻ đôi nước sông Giorđan (2 V 2,14). Niềm tin của người phụ nữ sau này trở
thành niềm tin của tất cả dân chúng: “Người đi đến đâu, người ta cũng đặt kẻ ốm
đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Người cho họ ít nhất là được chạm đến tua
áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi” (Mc 6,56). Các
môn đệ của Đức Giêsu sau này còn cao thủ hơn: người ta đặt bệnh nhân dọc đường
để hy vọng rằng khi ông Phêrô đi qua thì bóng của ông có thể phủ xuống trên bệnh
nhân để bệnh được chữa khỏi (Cv 5,15); “Chúa đã hoàn tất quá nhiều việc lạ lùng
qua tay ông Phaolô đến nỗi khi khăn mặt và áo đã chạm đến da thịt ông (Phaolô) mà
đặt trên người bệnh, và bệnh tất biến đi khỏi họ, tà thần cũng phải xuất” (Cv
19,11-12).
9.
Đức Giêsu đặt câu hỏi và “ngó quanh tìm kiếm”: Phản ứng của Đức Giêsu là cần thiết để
cho chuyện của người phụ nữ lộ ra ánh sáng và bà ta được khỏi bệnh hoàn toàn nhờ
vào lời của Đức Giêsu. Đến lúc này nó chỉ là câu chuyện của người phụ nữ và Đức
Giêsu. Bà ta cố ý chạm vào áo choàng của Đức Giêsu và đã cảm nhận “dòng máu của
bà dừng lại và bà đã khỏi những đau khổ”. Đức Giêsu cũng cảm thấy “một năng lực
phát ra” từ cơ thể của mình. Dĩ nhiên, Đức Giêsu biết ai đã làm dù cho đám đông
có chen lấn cách mấy. Câu hỏi, và sự nhìn quanh của Người chỉ nhằm giúp người
phụ nữ gặp Người và được chứng nhận niềm tin cũng như được công bố khỏi bệnh
hoàn toàn.
10.
“hoảng sợ… run rẩy…phủ phục… nói hết sự thật”: Sự phụ phục của người phụ nữ phảng phất sự phụ
phục của ông trưởng hội đường. Tuy nhiên, mục đích của việc phủ phục thì khác
nhau: người phụ nữ phủ phục vì hoảng sợ và để trình bày sự việc bà đã được cứu
chữa, còn ông trưởng hội đường phủ phục để khẩn cầu ơn chữa lành. Sở dĩ người
phụ nữ run rẩy hoảng sợ có thể liên quan đến quy định về sự ô uế trong Lv
15,25. Bà đang bị ô uế mà dám chạm vào Đức Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa (Mc
1,24) (sự ô uế dám chạm vào sự thánh thiện). Sự hoảng sợ và run rẩy của người
phụ nữ có thể hiểu theo hai nghĩa: (i) Hoảng sợ vì đã lén lút chạm vào Đấng
Thánh của Thiên Chúa trong khi đang bị ô uế;[3]
(ii) Hoảng sợ để biểu hiện của sự kính sợ, yếu đuối của con người trước phép lạ
của Thiên Chúa như đã từng thấy trong Mc 4,41; 5,15; Xh 15,6.[4] Sợ
hãi cũng là một phản ứng căn bản của con người trước một cuộc thần hiện (xuất
hiện của Chúa) (St 15,12; 28,17; Tl 6,22-23).[5]
11.
“Này con gái! lòng tin của con đã cứu chữa con”: Trước nỗi hoảng sợ và run rẩy của Người phụ nữ, Đức
Giêsu lại cho thấy một thái độ hiền lành, ân cần và gần gũi đến lạ thường. Đáp
lại với sự sợ hãi run rẩy của người phụ nữ, Đức Giêsu gọi bà là: “Con gái” (θυγάτηρ) chứ không phải là “người phụ nữ”
(5,25.33: γυνὴ) như cách Máccô giới thiệu bà. Cách gọi của Đức Giêsu phá tan mọi hàng rào
ngăn cách của luật thanh sạch ô uế. Đó là một “con gái” của Sion (Mt 21,5; Ga
12,15) đau khổ vì bệnh tật suốt 12 năm. Bà cần được an ủi, yêu thương và tôn trọng
chứ không phải là xa cách hắt hủi. Đức Giêsu xem bà như là người con trong
tương quan với Thiên Chúa.[6]
Người cho thấy rằng Người không có chút gì để làm cho bà phải lo lắng sợ hãi. “Con
gái” cũng là cách gọi mà ông trưởng hội đường gọi con của mình: “Đứa con gái nhỏ
của tôi đang hấp hối” (5,23), và cũng là cách mà người nhà của ông trưởng hội đường gọi bé gái:
“Con gái của ông chết rồi, tại sao còn làm phiền Thầy?” (5,35). Chính đức Giêsu
chứng nhận và công khai hóa niềm tin của người phụ nữ đau khổ. Đó là đỉnh cao của
sự chữa lành. Bà đã có niềm tin trước khi được chữa lành và niềm tin ấy là tiền
đề cho sự chữa lành và sau sự chữa lành ấy là một cuộc sống chứng nhân cho niềm
tin. Đức Giêsu có năng lực chữa lành nhưng Người không chữa lành chỉ là để chữa
lành. Sự chữa lành của Người phải đưa đến niềm tin cho người được chữa lành. Đó
là điều quan trọng nhất. Vì vậy, Người phải chứng nhận và công bố niềm tin của
người phụ nữ. Trong trình thuật chữa lành mười người phong hủi. Chỉ có một người
ngoại bang quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa và Đức Giêsu công bố với người này:
“Đứng dậy và hãy đi, lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17,19). Có thể tất cả
10 người đều khỏi bệnh phong hủi nhưng duy nhất chỉ có người ngoại này vươn tới
đỉnh cao của sự chữa lành. Đó là đức tin. Tương tự, Đức Giêsu cũng tuyên bố với
người mù ở Giêrikhô rằng: “Hãy đi! lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Mc
10,52; Mt Lc 18,42). Cũng nên nhắc thêm rằng mục đích của toàn bộ các trình thuật
trong sách Tin Mừng là để “anh chị em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa, để nhờ tin và được sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).
12.
“Hãy đi bình an và hãy được chữa lành toàn bộ sự đau khổ”: Mệnh lệnh “hãy đi” bao gồm cả một sứ mạng
làm chứng nhân cho niềm tin được chữa lành chứ không đơn giản là đi về nhà bình
an. Nó tương tự như mệnh lệnh của kết thúc mỗi Thánh Lễ: “Hãy đi bình an”. Đó
là mệnh lệnh ra đi mà Chúa Kitô trao gửi cho mỗi tín hữu sau khi đã tham dự
Thánh Lễ. Họ đã lãnh nhận Lời Chúa cùng với Mình Máu Chúa. Đây là lúc họ ra đi
rao truyền Tin Vui và làm chứng cho niềm tin của mình. Nhiều linh mục có thói
quen công bố rằng “Lễ xong, chúc anh chị em về bình an” hay là “chúc anh chị em
một ngày bình an” hay là “chúc anh chị em sống trong bình an của Chúa”. Tất cả
đều không diễn tả được rõ ràng trọn vẹn mệnh lệnh “ra đi” của Đức Kitô, được lấy
từ Tin Mừng. Ngoài mệnh lệnh “đi bình an” là lời tuyên bố “hãy được chữa khỏi
toàn bộ đau khổ”. Những đau khổ của bà bao gồm đau khổ về thể xác, hết tiền hết
bạc, và đau khổ về tinh thần: bị ô uế (cô lập khỏi người khác).[7] Đức
Giêsu như là một bác sĩ ký giấy xuất viện cho bệnh nhân bị băng huyết suốt 12
năm. Chắc chắn bà sẽ đi đến đâu kể đến đó niềm vui được khỏi bệnh và được Chúa
yêu thương như thế nào.
13.
“Con gái ông chết rồi”: Sau câu chuyện chữa lành người phụ nữ bị băng huyết, Máccô tiếp tục kể
câu chuyện đang dở dang của ông trưởng hội đường. Đối lại với niềm hy vọng của
ông trưởng hội đường là sự thất vọng của người đến từ gia đình ông. Động từ “chết”
được chia ở thì aorist (ἀπέθανεν), diễn tả một hành động của quá khứ. Theo lời của
người đưa tin thì bé gái đã chết. Tin tức này như phá tan niềm hy vọng nơi ông
trưởng hội đường. Nhưng rồi, chính Đức Giêsu lại mang lại cho ông niềm hy vọng.
Đối với người nhà của ông trưởng hội đường, bé gái đã chết. Nhưng đối với Đức Giêsu,
bé như đang ngủ (Mc 5,39).
14.
“đừng sợ, hãy tin là đủ: Sau khi nghe lời ấy Đức Giêsu tiếp tục gieo niềm hy vọng cho ông. Người trấn
an ông: “Đừng sợ” và khuyến khích ông: “Hãy tin là đủ”. Mệnh lệnh “đừng sợ” (μὴ
φοβοῦ) không phải là từ ngữ đặc
trưng của Máccô. Trong Máccô, Đức Giêsu sử dụng mệnh lệnh này một lần duy nhất.
Đây là từ ngữ đặc trưng của Luca. Luca sử dụng 5 lần trong Tin Mừng mang tên
ông và 2 lần khác trong sách Công Vụ Tông Đồ (Lc 1,13.30; 5,10; 8,50; 12,32; Cv
18,9; 27,4). Sợ đồng nghĩa với “sợ hãi” là thiếu niềm tin và tuyệt vọng như trường
hợp của các môn đệ trong trình thuật Đức Giêsu dẹp yên biển động: “Sao lại sợ?
anh em chưa có niềm tin à? (Mc 4,40). Mệnh lệnh “hãy tin”, với động từ “tin” được
chia ở lối mệnh lệnh, thì hiện tại chỉ xảy ra đúng hai lần trong Tân Ước. Ngoài
lần này, Gioan ghi lại một lần khác trong câu chuyện “Người phụ nữ Samari bên bờ
giếng Giacóp” (Ga 4,21). Nói như thế để thấy rằng sự khích lệ và an ủi theo lối
mệnh lệnh mà Đức Giêsu dành cho ông trưởng hội đường là duy nhất trong Tin Mừng
Máccô. Trong câu chuyện liên quan đến sự phục sinh của Ladarô, Đức Giêsu cũng
nói với Máctha rằng: “Chính tôi là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào tôi
thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào tôi sẽ không bao giờ phải
chết” (Ga 11,25). Đó là giá trị của niềm tin vào Đức Giêsu.
15.
“bộ ba các môn đệ”: Phêrô,
Giacôbê và Gioan. Trước đó, Máccô đã cho độc giả biết rằng, Đức Giêsu đã gọi bốn
môn đệ đầu tiên, gồm hai cặp anh em. Cặp Anrê – Simon cùng với cặp Giacôbê –
Gioan (1,16-20). Thế nhưng, chẳng hiểu sao Anrê dường như bị tách ra khỏi nhóm
bốn Người. Khi liệt kê danh sách 12 Tông Đồ, khác với hai tác giả Tin Mừng Nhất
Lãm còn lại (Luca và Mátthêu), Máccô tách Anrê ra phía sau tên của Giacôbê và
Gioan.[8] Đức
Giêsu dường như chỉ chọn cho mình nhóm 3 người đặc biệt trong nhóm 12 Tông Đồ.
Không ai có thể giải thích cách rõ ràng dụng ý của Đức Giêsu. Người ta chỉ có
thể thấy rằng bộ ba này xuất hiện riêng cùng với Đức Giêsu trong những biến cố
quan trọng. Ngoài lần này, nhóm này còn xuất hiện hai lần khác nữa: (i) Trình
thuật Đức Giêsu biến hình (Mc 9,2-8); (ii) Trong Vườn Ghếtsêmani (14,33). Trong
cả ba biến cố này, điểm chung có lẽ là cuộc thương khó, cái chết, và sự phục
sinh. Ba môn đệ này là vừa là chứng nhân, vừa là người theo đuổi tiến trình này
cùng với Đức Giêsu. Độc giả có thể liên hệ đến nhân vật Phêrô sẽ tuyên xưng “thầy
là Đấng Kitô” (8,29) và cũng là người đã ngăn cản thầy mình nói về cuộc thương
khó. Hậu quả là ông bị thầy trách mắng là “Satan” (8, 32-33). Tuy nhiên, ông
cũng được Đức Giêsu gọi tên là Phêrô, nghĩa là đá, và “trên đá này, Thầy sẽ xây
hội thánh của Thầy” (Mt 16,18). Giacôbê và Gioan là hai nhân vật xin Đức Giêsu
được “ngồi bên tả và bên hữu”, ngay sau khi Đức Giêsu tiền báo về cuộc thương
khó lần thứ ba (Mc 10,35-40). Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu gọi là
“Boanerges” (Con của thần sấm). Giacôbê là Tông Đồ đầu tiên tử đạo thời vua Hêrôđê
(Cv 12,2). Theo truyền thống, Gioan chính là “người môn đệ Chúa yêu” trong Tin
Mừng thứ tư, và ông cũng chính là tác giả của Tin Mừng này. Trong bối cảnh trực
tiếp này, ba nhân vật này chẳng có gì nổi bật. Họ, cùng với cha mẹ đứa bé, là
chứng nhân cho việc Đức Giêsu phục sinh bé gái, nhưng lại bị cấm không được nói
với ai về chuyện này. Đó là bài học đức tin cho riêng họ.
16.
“Cầm lấy tay … Talitha kum” (Con gái, ta truyền cho con, hãy chỗi dậy): Sau khi Đức Giêsu cầm lấy tay đứa bé,
Người nói bằng tiếng Aram. Có vẻ như đây là một thành ngữ được dùng để phục hồi
một đứa trẻ trong tiếng Aram (Tin Mừng của Máccô hoàn toàn bằng tiếng Hy Lạp).
Tin Mừng Máccô ghi lại Đức Giêsu “nắm lấy tay” các bệnh nhân 3 lần và cả 3 lần ấy
bệnh nhân đều được chữa lành. (1) Đức Giêsu nắm lấy tay mẹ vợ của Phêrô và nâng
bà dậy, cơn sốt liền rời khỏi bà (Mc 1,31); (2) Đức Giêsu nắm lấy tay bé gái
trong trình thuật này (Mc 5,41); (3) Đức Giêsu nắm tay đứa bé bị thần ô uế nhập
và nâng cậu dậy (Mc 9,27). Trong cả 3 trường hợp, bệnh nhân đều nằm bất động. Mẹ
vợ của ông Phêrô bị sốt và đang nằm bệnh. Bé gái con ông Giaiirô bị cho là đã
chết (Mc 5,35). Cậu bé bị thần câm điếc nhập cũng đang nằm như chết đến nỗi nhiều
người nói rằng: cậu ta chết rồi (Mc 9,26). Động từ được dùng cho cả 3 trường hợp
là “nâng dậy, trỗi dậy” (ἐγείρω): Đức Giêsu “nâng”
mẹ vợ Phêrô dậy; Người “nâng” cậu bé dậy; và người nói cùng bé gái “talitha
kum” nghĩa là “bé gái, ta truyền cho con, hãy trỗi dậy”. Đây cũng chính là động
từ diễn tả sự phục sinh của Đức Giêsu: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê
trước các con” (Mc 14,28; Mt 26,32; Cf. Mt 28,7); “Các bà tìm Giêsu Nadarét chứ
gì, Người đã trỗi dậy rồi, Người không còn ở đây nữa, xem chỗ người ta đặt
Người nè” (Mc 16,6; Mt 28,6); “Người quở trách các ông vì sự không tin và cứng
lòng của họ vì họ không tin những người đã gặp Người sau khi Người đã trỗi dậy”
(Mc 16,16). Sự “trỗi đậy” của bé gái (giống như sự sống lại của Ladarô) chứng tỏ
Đức Giêsu “là đường, là sự thật và là sự sống”.[9]
“Sau câu nói của Đức Giêsu lập tức bé gái đứng dậy và cứ bước đi”. Qua
cách dùng từ Máccô như muốn cho thấy sự liên hệ giữa sự sống lại của bé gái và sự
phục sinh của Đức Giêsu. Người có quyền trên sự sống và sẽ sống lại, để mang lại
niềm hy vọng cho tất cả nhân loại. Động từ “đứng dậy” (ἀνίστημι) cũng có nghĩa là “sống lại”, mà Đức Giêsu luôn dùng trong 3 lần Người tiền
báo về cuộc Khổ Nạn – Phục Sinh của Người (Mc 8,31; 9,9.10.31; 10,34). Cách Đức
Giêsu gọi đứa trẻ này cũng đáng chú ý: “τὸ κοράσιον” (5,41: bé gái, cô bé). Tương tự như sự ân cần mà Đức Giêsu dành cho người
phụ nữ trước đó khi gọi bà là “con gái” (5,34), Đức Giêsu cũng dành cho cô bé
này một sự thân thương gần gũi như thế.
17.
“Ra lệnh cho họ cách nghiêm túc để không một ai có thể biết sự việc này”: Cách thức Đức Giêsu cấm tiết lộ thông
tin về phép lạ này được gọi theo từ chuyên môn là “bí mật Mêsia” được học giả
W. Wrede đề xuất trong tác phẩm Das Messiasgeeimnis in den Evangelien năm 1901.
Ví dụ điển hình và rõ ràng nhất về bí mật này là ở Mc 8,31. Sau khi Phêrô tuyên
xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Đức Giêsu liền “cấm ngặt họ không được nói cho bất
kỳ ai về Người”.[10]
Ngoài ra, còn nhiều bản văn khác Đức Giêsu ra lệnh “giữ im lặng” cho “thần ô uế”
(1,25.33) lý do mà Máccô đưa ra là “vì chúng đã biết Người” (1,34). Khi thần ô
uế kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa, Người lại cấm ngặt chúng không được tiết lộ
Người là ai” (Mc 3,11-12). Thêm nữa, nhiều lần khác Đức Giêsu ra lệnh cho những
người được chữa lành không được tiết lộ phép lạ: Người phong cùi (Mc 1,44), những
chứng nhân trong câu chuyện chữa con gái ông Giaiirô (5,43), người vừa điếc vừa
ngọng (7,36). Tuy vậy, cũng lạ thay là Đức Giêsu nói với người đàn ông bị quỷ
ám ở Ghêrasa là hãy về nhà và kể cho bạn bè “bao nhiêu chuyện Chúa đã làm cho
anh” (5,19). Trong trình thuật về biến hình, Đức Giêsu cũng cấm Phêrô, Giacôbê
và Gioan kể lại những gì họ thấy trên núi. Tuy nhiên, lệnh cấm này có thời hạn là
“cho đến khi Con Người đã sống lại từ cõi chết” (9,9). Một cách giải thích truyền
thống là sở dĩ Đức Giêsu không muốn tiết lộ thân phận Mêsia vì sợ rằng nhiều
thành phần dân chúng sẽ dùng nó như là dịp để nổi dậy về quân sự. Tác giả Wrede
thì cho rằng Máccô cố gắng giải thích niềm tin của Giáo hội vào Đức Giêsu như Đấng
Mêsia và thực tế lịch sử rằng trong suốt quá sứ vụ công khai Đức Giêsu không tự
giới thiệu mình như là Đấng Mêsia. Cách giải thích tốt hơn và được chấp nhận rộng
rãi hơn là Máccô tìm cách định nghĩa lại thuật ngữ Mêsia và những danh hiệu Kitô
học khác dưới ánh sáng của cái chết và phục sinh của Đức Giêsu cho nên ông để
việc bộc lộ căn tính thực của Đức Giêsu cho đến cái chết của Người (15,39) và sự
phục sinh của Người (9,9).[11]
Các môn đệ tuy đã dần nhận ra căn tính Mêsia của Đức Giêsu nhưng cách hiểu của
họ vẫn thiện cận, chưa đầy đủ. Họ chỉ thấy và khoái chí về khía cạnh vinh quang
của Đấng Mêsia mà thấy khó hiểu khó chấp nhận mầu nhiệm khổ nạn sẽ được Đấng ấy
trải qua.
Bình luận tổng quát
Đức Giêsu trở về phía bên này của Hồ Galilê, là
vùng của Người Do Thái. Bối cảnh này cho thấy hai phép lạ chữa lành trong trình
thuật này đều là cho người Do Thái. Cách giới thiệu ông trưởng hội đường, một
danh xưng đặc chất Do Thái. Con số 12 năm bị bệnh băng huyết của người phụ nữ
cũng rất Do Thái. Con số 12 có thể tượng trưng cho 12 người con của Giacóp; là
12 chi tộc Israel đại diện cho toàn thể nhân loại; là 12 Tông đồ, biểu trưng
cho Giáo Hội Chúa Kitô, cũng là đại diện cho toàn thể nhân loại. Máccô với kỹ
thuật hành văn được gọi bình dân là “Bánh mì kẹp thịt” đã khéo léo đan lồng hai
câu chuyện về niềm tin vào nhau nhằm bổ sung và làm đẹp cho nhau. 12 năm bệnh tật
của người phụ nữ cũng là con số tuổi của con gái ông Giaiirô. Cả hai đều đang ở
trong tình trạng “bất động” vì bệnh tật. Người phụ nữ bế tắc, bất động vì bị
các thầy lang ăn hết tài sản mà bệnh càng nặng thêm. Cô bé thì đã chết lâm
sàng. Cả hai, ông trưởng hội đường và người phụ nữ chỉ còn một niềm hy vọng duy
nhất là Đức Giêsu. Họ đều đến với Đức Giêsu với niềm tin rằng Người sẽ là giải
pháp hoàn hảo cho sự bế tắc của họ. Người đàn ông tin vào sự đặt tay và trao
ban ơn cứu độ và phục hồi sự sống của Đức Giêsu. Người phụ nữ tin rằng chỉ cần
chạm vào áo choàng của Đức Giêsu thì sẽ khỏi bệnh. Cả hai người đều đạt được những
gì mình hy vọng và mơ ước. Người phụ nữ khỏi bệnh và con gái của ông trưởng hội
đường thoát chết. Cả hai người đều từng sụp xuống dưới chân của Đức Giêsu. Ông
trưởng hội đường sụp xuống để xin ơn phục sinh sự sống cho con gái. Người phụ nữ
sụp xuống nhằm thú nhận toàn bộ phép lạ đã xảy ra cho mình. Bà đã cố ý “ăn trộm
ơn chữa lành”, “lấy cắp” năng lực từ Đức Giêsu một cách lén lút. Điểm sáng nhất
của cả hai câu chuyện là lời chứng nhận của Đức Giêsu: “Con gái! Đức tin của
con đã cứu chữa con”. Người phụ nữ đã vươn đến đỉnh cao của sự chữa lành. Đó là
đức tin, niềm tin vào Đức Giêsu. Ông trưởng hội đường chắc chắn cũng có niềm
tin khởi điểm khi ông đến với Đức Giêsu. Tuy nhiên, sau câu chuyện về đức tin của
người phụ nữ, chắc hẳn niềm tin của ông được gia tăng đáng kể. Sau lời khuyến
khích của Đức Giêsu: “Đừng sợ! Hãy tin là đủ” niềm tin của ông càng được gia cố.[12]
Ông chắc chắn đã trải qua thời gian sốt ruột, bị thử thách về đức tin khi Đức Giêsu
dừng lại để chữa lành người đàn bà bị băng huyết. Tác giả Marshall gọi đó là một
sự “trì hoãn mang tính tra tấn”.[13] Đến
cuối cùng ông đã kiên nhẫn đủ và vẫn tin. Nhờ niềm tin ấy mà con gái ông được cứu
thoát và được sống.
Người phụ nữ đau khổ suốt mười hai năm, cô bé thập
tử nhất sinh lúc mười hai tuổi có thể là tượng trưng cho dân tộc Israel, tượng
trưng cho Giáo Hội, đại diện cho toàn thể nhân loại. Họ cũng có thể đại diện
cho từng cá nhân, cách riêng là những người phụ nữ, những trẻ em vị thành niên.
Họ đại diện cho những ai đang bị đau khổ vì bệnh tật thể xác, tình thần, và tất
cả những ai đang lâm nguy, về cả thể xác và tinh thần. Tất cả đều được mời gọi
tin tưởng vào Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu chính là sự cứu cánh hoàn hảo cho mọi
loại đau khổ, bệnh tật và cả sự chết. Còn dám tin tưởng vào Đức Giêsu là còn hy
vọng. Khi dám cầu xin với Người với lòng tín thác, tin tưởng tuyệt đối thì dù
chưa được chữa lành về thể xác, các tín hữu có thể đạt đến đỉnh cao của sự chữa
lành rồi. Đó là niềm tin vào Chúa.
Cách dùng từ của Máccô như là động từ “paskhô” (chịu
đau khổ) (5,26); động từ “apothnescô” (chết) (5,35); động từ “egeirô” (trỗi dậy,
nâng dậy) (5,41), động từ “anistemi” (đứng lên, sống lại) (5,42); động từ “sôzô”
(cứu chữa, cứu độ) (5,23.28.34) và “zaô” (sống) (5,23) cho thấy sự nối kết chặt
chẽ số phận của những con người cùng khổ này với mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh của
Đức Giêsu. Người tiền báo về việc khổ nạn và phục sinh đến 3 lần. Cuối cùng,
Người đã hiện thực hóa lời tiền báo của Người bằng cách bước vào cuộc khổ nạn
và phục sinh vinh hiển. Người đã mang lấy những nỗi thống khổ, bệnh tật của
nhân loại (Mt 8,17; Cl 1,24). Người đã mang lấy tội lỗi của họ trong mình và
đưa lên cây thập giá, Người đã mang những vết thương để họ được lành lặn (1 Pr
2,24). Cuối cùng, Người đã chết để giúp cho họ được cứu độ và được sống vĩnh cửu
với Người.
Cách nói chuyện và đối xử của Đức Giêsu với hai bệnh
nhân gợi mở một đời sống nhân văn cao cả trong xã hội loài người. Trong nỗi sợ
hãi run rẩy của người phụ nữ dám “ăn trộm” năng lực và dám chạm vào Đức Giêsu
đang khi bị ô uế, Đức Giêsu đáp lại hết sức ân cần, lịch thiệp: “Này con gái, Đức
tin của con đã cứu chữa con”. Người không những không trách móc, mà còn nâng
cao, tôn vinh nhân đức của người phụ nữ. Đức Giêsu, sau khi nắm lấy tay đứa bé
ân cần, cũng gọi đứa trẻ là: “Này bé, hãy trỗi dậy”. Tất cả những hành vi lời
nói ấy làm toát lên một sự tôn trọng con người dù họ là ai đi nữa. Người phụ nữ
vốn không được xem trọng trong xã hội Do Thái. Bà lại bị băng huyết, bị ô uế và
bị loại ra khỏi cộng đoàn. Những đứa bé vốn cũng là thành phần không đáng kể
trong xã hội thời bấy giờ, mà bé gái thì địa vị càng thấp hơn.[14] Trong
xã hội có đầy dẫy những thói quen “mạnh được yếu thua”, “thượng đội hạ đạp”,
“cá lớn nuốt cá bé”, thì cách đối đãi của Đức Giêsu thật đáng được suy gẫm và bắt
chước.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] J. Marcus, Mark 1-8. A
New Translation with Introduction and Commentary (AYBC; New Haven – London
2008) 27A, 365.
[2] Tiếng Anh gọi cuộc khổ nạn
của Đức Giê-su là Paschal Mystery, tiếng Ý là il Mistero Pasquale. Tiếng Việt
ít ra cũng có chữ “kho” (cuộc khổ nạn).
[3] Dù Freedman cho rằng người
phụ nữ chạm vào áo choàng của Đức Giê-su thì sẽ không làm cho Đức Giê-su ra ô uế,
nhưng J.Marcus nghĩ rằng chạm vào áo quần thí có thể là ô uế bớt nghiêm trọng
hơn nhưng vẫn gây ra sự dơ bẩn [ J. Marcus, Mark 1-8. A New Translation with
Introduction and Commentary (AYBC; New Haven – London 2008) 27A, 358-359].
[4] J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2005) 175.
[5] J. Marcus, Mark 1-8, 359.
[6] Trong truyền thống Cựu Ước
và truyền thống Do Thái sau đó danh xưng “con gái tôi” là cách thức tiêu biểu
diễn tả sự tôn trọng và trìu mến không kể tuổi tác và tương quan gia đình (R
2,8; 3,10). Tuy nhiên, cách gọi của Đức Giê-su cũng có thể có ý niệm ki-tô giáo
rằng bà ta là thành viên trong gia đình đức tin [J. Marcus, Mark 1-8, 360].
[7] J. Donahue and D. Harrington claims that “She is physically ill,
ritually unclean, and near impoverishment. Neither religion nor social standing
offers her much help” [J.R. Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark
(SP 2; Collegeville 2005) 174].
[8] Có một điều khá ngạc nhiên
là: Trong danh sách 12 Tông Đồ theo thánh Mác-cô, An-rê được xếp sau Simon,
Gia-cô-bê và Gioan (Mc 3,16-18). Sách Công Vụ Tông Đồ cũng đặt An-rê sau 3 ông
này như là Mác-cô (Cv 1,13). Thứ tự các
Tông Đồ theo Mát-thêu: Simon, người được gọi là Phê-rô, An-rê, anh em của ông,
Gia-cô-bê, con của ông Dê-bê-đê, và Gioan, người anh em của ông (Mt 10,2). Thứ
tự 4 người Tông Đồ đầu tiên trong danh sách của Luca cũng tương tự như
Mát-thêu: Simon, An-rê, Gia-cô-bê, Gioan. Theo Tin Mừng Gioan, An-rê thậm chí
được đến và xem nơi Chúa ở trước Phê-rô. Chính ông đã giới thiệu Đức Giê-su cho
người anh em của mình là Phê-rô (Ga 1,35-42). Trong trình thuật Đức Giê-su tiền
báo về sự sụp đổ của đền thờ, Mác-cô cũng là tác giả Tin Mừng Nhất Lãm duy nhất
gom An-rê với bộ ba này vào nhóm bốn người đặt câu hỏi với Đức Giê-su: “Xin Thầy
nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy xảy ra, và khi tất cả đến hồi
chung cục thì cò điềm gì báo trước?” (Mc 13,4). Luca chỉ dùng đại từ ngôi thứ
ba số nhiều “họ”, còn Mát-thêu dùng danh từ chung “các môn đệ” (Mt 24,1-3; Lc
21,5-6).
[9] J.E.A. Chiu, “Mark”, The
Paulist Biblical Commentary (Ed. J.E.A. Chiu et al.) (New York 2018) 991.
[10] J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2005) 27.
[11] J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark, 28.
[12] J. Marcus, Mark 1 – 8,
362.
[13] J. Marcus, Mark 1 – 8,
366.
[14] M. Kusio, “Theological Implications of Markan
Interpretative Intercalations”, RBL 68/3 (2015) 265–288, 273.
No comments:
Post a Comment