Bản văn và dịch sát nghĩa Mc 4,26-34
Hy Lạp |
Việt |
26 Καὶ ἔλεγεν· οὕτως ἐστὶν
ἡ βασιλεία τοῦ θεοῦ ὡς ἄνθρωπος βάλῃ τὸν σπόρον ἐπὶ τῆς γῆς 27 καὶ καθεύδῃ
καὶ ἐγείρηται νύκτα
καὶ ἡμέραν, καὶ ὁ σπόρος βλαστᾷ καὶ μηκύνηται ὡς
οὐκ οἶδεν αὐτός. 28 αὐτομάτη ἡ γῆ καρποφορεῖ, πρῶτον χόρτον εἶτα στάχυν εἶτα πλήρη[ς]
σῖτον ἐν τῷ στάχυϊ. 29 ὅταν δὲ παραδοῖ ὁ καρπός, εὐθὺς ἀποστέλλει τὸ δρέπανον,
ὅτι παρέστηκεν ὁ θερισμός. 30 Καὶ ἔλεγεν· πῶς ὁμοιώσωμεν τὴν
βασιλείαν τοῦ θεοῦ ἢ ἐν τίνι αὐτὴν παραβολῇ θῶμεν; 31 ὡς κόκκῳ
σινάπεως, ὃς ὅταν σπαρῇ ἐπὶ τῆς γῆς, μικρότερον ὂν πάντων τῶν σπερμάτων τῶν ἐπὶ τῆς γῆς, 32 καὶ ὅταν σπαρῇ,
ἀναβαίνει καὶ γίνεται μεῖζον
πάντων τῶν λαχάνων καὶ ποιεῖ κλάδους μεγάλους,
ὥστε δύνασθαι ὑπὸ τὴν σκιὰν αὐτοῦ τὰ πετεινὰ τοῦ οὐρανοῦ κατασκηνοῦν. 33 Καὶ τοιαύταις παραβολαῖς πολλαῖς ἐλάλει αὐτοῖς τὸν λόγον καθὼς ἠδύναντο
ἀκούειν· 34 χωρὶς δὲ παραβολῆς
οὐκ ἐλάλει αὐτοῖς, κατ᾽ ἰδίαν δὲ τοῖς ἰδίοις μαθηταῖς ἐπέλυεν πάντα. (Mk. 4:26-34
BGT) |
26 và Người nói, vậy, Nước
Thiên Chúa giống như một người đàn ông quăng
hạt giống trên đất 27 và anh ta ngủ hay thức,
đêm hay ngày, hạt giống nảy mầm và phát triển
như anh ta không biết. 28 Đất tự nó sinh hoa
trái, đầu tiên là cây, rồi đến tai lúa rồi đến hạt đầy đủ trong tai
lúa’ 29 Khi hoa trái đã cho, ngay lập tức anh tra liềm, bởi vì vụ mùa đã
đến 30 và Người nói: ‘chúng ta so sánh Nước Thiên Chúa thế nào đây hoặc là đặt dụ ngôn nào trong
nó?’ 31 giống như hạt giống
cây cải, hạt mà khi được gieo trên đất, nhỏ nhất
so với tất cả các hạt khác trên mặt đất. 32 nhưng khi nó được
gieo, nó lớn lên và trở nên lớn hơn tất
cả các loại cây rau và tạo thành các cành cây
lớn, để mà chim trời có thể ở dưới tán của nó. 33 và với nhiều dụ ngôn như
thế với Người nói lời cho họ theo như họ có thể
nghe. 34 Người không nói điều gì cho họ mà không dùng dụ ngôn, nhưng Người giải
thích tất cả cho các môn đệ của Người
khi [họ] ở riêng [với Người] |
Bối cảnh bản văn: Mc 4,26-34 nằm trong phần những bài giảng bằng dụ
ngôn liên quan đến chủ đề Nước Thiên Chúa (4,1-34). Đoạn này bao gồm hai du
ngôn và phần kết của phần các bài giảng dụ ngôn về Nước Trời. Dụ ngôn thứ nhất
là dụ ngôn về hạt giống tự mọc lên (4,26-29). Dụ ngôn này chỉ có trong Tin Mừng
Máccô. Dụ ngôn thứ hai là “dụ ngôn hạt cải” (4,30-32). Dụ ngôn này được cả 3
Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại (Mt 13,31-32; Lc 13,18-19). Phần kết nói về thói quen
Đức Giêsu luôn dụ ngôn để giảng và thường giải thích tất cả cho các môn đệ khi
họ ở riêng với nhau (4,33-34). Phần kết này chỉ có trong Máccô và Mátthêu (Mt
13,14). Trước phần này, vào đầu chương 4, là một dụ ngôn nổi tiếng hơn. Đó là
“dụ ngôn người gieo giống” (4,1-9; Mt 13,1-9; Lc 8,4-8). Tiếp theo sau đó là phần
giải thích lý do tại sao Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà giảng dạy (Mc 4,10-12; Mt
13,10-15; Lc 8,9-10). Tiếp theo phần giải thích lý do này là phần giải nghĩa ‘dụ
ngôn người gieo giống” (Mc 4,13-20; Mt 13,18-23; Lc 8,11-15).
Như vậy, trong bối cảnh chung của Tin Mừng Nhất Lãm, Mc 4,26-34 cùng trình
bày dụ ngôn liên quan đến Nước Thiên Chúa. Trong bối cảnh của Tin Mừng Máccô và
Mátthêu, chủ đề các dụ ngôn về Nước Thiên Chúa (theo Mt là Nước Trời) là sự triển
khai và giải thích lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu: “Thời kỳ đã mãn, Nước
Thiên Chúa đã đến gần, hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15; Mt 4,17). Dĩ
nhiên, chủ đề này còn liên kết với nhiều đoạn khác trong Tin Mừng Máccô, hoặc
Tin Mừng Nhất Lãm với cùng chủ đề. Máccô nhắc đến chủ đề này lần cuối cùng
trong trình thuật về việc an táng Đức Giêsu: “Ông Giuse Arimathêa, một thành
viên đáng kính trọng của Thượng hội đồng, là người thiết tha trông chờ Nước
Thiên Chúa, đã đến cùng Philatô và xin xác Đức Giêsu” (Mc 15,31). Tương tự Máccô,
Luca cũng nói về Nước Thiên Chúa lần cuối trong khi giới thiệu về Giuse Arimathêa
(Lc 23,51). Chủ đề về “lời” (Người nói ‘lời’) trong phần kết luận bài giảng về
dụ ngôn (Mc 4,33-34) cũng là một chủ đề khá phổ biến trong Máccô (Mc 1,45; 2,20)
và đặc biệt được nhắc đến cách dày đặc trong chương 4 này (đến 8 lần: 4,14.15.16.17.18.19.20.33).
Cấu trúc bản văn
Đoạn Mc 4,26-34 được gom từ 3 đoạn nhỏ khác nhau: Mc
4,26-29; Mc 4,30-32 và Mc 4,33-34. Hai dụ ngôn có cấu trúc tương tự gồm hai
phần: (1) phần dẫn nhập: Nước Thiên Chúa giống …; (2) Diễn giải dụ
ngôn chi tiết. Dụ ngôn thứ nhất gồm những thành phần song song với nhau giữa
các hành động của người gieo và hạt giống. Cấu trúc dường như diễn tả “đường ai
nấy đi” của người gieo và hạt giống. Chỉ có hai hành động của người gieo có tác
động đến hạt giống là: (i) gieo; (ii) thu hoạch. Còn những hoạt động còn lại một
quá trình dài từ sinh mầm đến sinh trái, người gieo dường như không can thiệp
gì. Dụ ngôn thứ hai cũng gồm 3 thành phần song song với nhau theo bậc cấp. Hai
thành phần (A) và (A’) là hai hình ảnh trái ngược nhau: (i) nhỏ nhất; (ii) lớn
hơn tất cả. Hình ảnh (A’’): chim trời sống dưới tán cây vừa diễn tả sống động sự
lớn mạnh của cây cải vừa diễn tả hiệu quả tích cực, ích lợi của hạt giống cây cải.
Ngược với hạt giống trên kia, cây cải không sinh hoa trái, không cho vụ mùa
nhưng lại làm nơi trú ngụ cho chim trời.
Mc 4,26-29 Dụ ngôn hạt giống tự phát triển |
Dẫn Nhập: Giới thiệu người gieo và hạt giống (A) Người gieo: Ngủ hay thức,
đêm hay ngày (4,27a) (B) Hạt giống: Nảy mầm và phát triển (4,27b) (A’) Người gieo: Không biết (4,27c) (B’) Hạt giống: Sự phát triển:
cây – tai lúa – hạt lúa (4,28) (A’’) Người gieo: Thu hoạch (4,29) |
Mc 4,30-32 Dụ ngôn hạt cải |
Dẫn Nhập: Giống như hạt giống cây
cải (4,31a) (A) Nhỏ
nhất so với tất cả các hạt khác (4,31b) (A’) Trở nên lớn
hơn tất cả các loại cây rau (4,32a) (A’’) Chim trời có thể ở dưới tán của nó (4,32b) |
Mc 4,33-34 Kết luận Về dụ ngôn |
(A) Nói lời tất cả bằng dụ ngôn (4,33) (A’) Không nói điều gì không dùng dụ ngôn (4,34a) (A’’) Giải thích tất cả cho các môn đệ
(4,34b) |
1.
Nước Thiên Chúa: Câu
dẫn nhập “như vậy Nước Thiên Chúa giống như…” cho thấy ý hướng chủ đạo của toàn
bộ dụ ngôn. Tất cả nội dung chi tiết phía sau câu này là minh giải cho chủ đề
Nước Thiên Chúa. Đây là chủ đề trọng yếu trong những bài giảng của Đức Giêsu.
Thật vậy, lời công bố Tin Mừng đầu tiên và là câu chủ đề cho toàn bộ sứ điệp
Tin Mừng của Người là: “Thời kỳ đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã đến gần, anh chị
em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Một độc giả hoặc một thín giả để
tâm sau khi nghe lời “mời gọi” này sẽ thắc mắc ngay rằng: “Thời kỳ” nào vậy? “đã
mãn” có nghĩa là gì? thế nào là “hoán cải”? “Tin Mừng” là gì vậy? hay “Nước
Thiên Chúa” là gì? Độc giả và thín giả sẽ chờ đợi người rao giảng trả lời, giải
thích cho những ý niệm này. Đức Giêsu, quả thực đã làm như thế. Theo dõi toàn bộ
sách Tin Mừng độc giả sẽ lần lượt hiểu được những thông điệp ấy. Một trong những
cách Người giải thích khái niệm “Nước Thiên Chúa” là Người kể những dụ ngôn. Trong
chương 4 của Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu kể tất cả 3 dụ ngôn về Nước Thiên Chúa.
Xem ra, dụ ngôn “người gieo giống” có phần quan trọng hơn vì nó chiếm thời gian
nhiều hơn (Mc 4,3-9) và được giải nghĩa một cách chi tiết (Mc 4,13-20). Danh từ
“ἡ βασιλεία” trong tiếng
Hy Lạp vừa có nghĩa là vương quốc (một nơi chốn, một lãnh địa nơi mà đức vua
cai trị), vừa có nghĩa là triều đại (khoảng thời gian cai trị của một đức vua).
Sự rao giảng về vương quốc (triều đại) Thiên Chúa chung chung được chấp nhận
như là trọng tâm của lời rao giảng của Đức Giêsu. Thánh Kinh Cựu Ước tuy không
dùng khái niệm “nước Thiên Chúa”, nhưng ý niệm Đức Chúa là vua lại được nhấn mạnh
trong suốt lịch sử (Xh 15,11-13.18; Ds 23,21-23; Tv 2; 72; 89; 110; 145,11-12-
những thánh vịnh hoàng gia; Tv 95-100 – có thể là Thánh Vịnh đăng quang) cũng
như vào thời kỳ lịch sử đã mãn khi sự cai trị của Thiên Chúa sẽ được thiết lập
(Mc 2,12-13; 4,5-7; Is 44,1-8; Dcr 9.9-11; Dn 2,44; 7, 11-14).[1] Máccô
và Luca dùng danh xưng “Nước Thiên Chúa”, trong khi đó Mátthêu dùng cả hai danh
xưng “Nước Thiên Chúa” và “Nước Trời”. Tuy nhiên, Mátthêu ưa chuộng dùng danh
xưng “Nước Trời” hơn (32 lần) so với “Nước Thiên Chúa” (chỉ có 5 lần).
2.
Người gieo hạt giống: Phần dẫn nhập giới thiệu cho độc giả hai nhân vật chính của dụ ngôn: “Người
gieo giống” và “hạt giống”. Tiếp theo sau đó, độc giả sẽ chờ xem những hoạt động
của hai nhân vật này. Phần dẫn nhập này cho thấy “người gieo giống” đóng vai
trò chủ động. Anh ta vãi hạt giống xuống đất, còn hạt giống trong vai trò bị động,
được vãi xuống đất.
3.
Nảy mầm và lớn lên: Đây
là hai hoạt động đầu tiên và mạnh mẽ của hạt giống được gieo. Nó tự nảy mầm,
đùn đất, mọc lên và phát triển. Đây là một quá trình phát triển hết sức tự
nhiên của hạt giống. Dĩ nhiên, có những yếu tố như là độ ẩm và nước nữa nhưng
chúng không được đề cập ở đây. Sức mạnh, sức sống tự nhiên của hạt giống chính
là yếu tố được nhấn mạnh trong dụ ngôn này.
4.
Thức hay ngủ… và không biết: Những hoạt động tiếp theo của “người gieo” là: Thức, ngủ và không biết.
Những hoạt động của anh ta song song với những hoạt động của hạt giống trong cấu
trúc của đoạn văn. Những hoạt động của hạt giống như được lồng vào giữa những
hoạt động của anh ta: “Anh ta ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống
mọc lên và phát triển thế nào, anh ta không biết”. Tuy
nhiên, dường như những hoạt động của anh ta chẳng ăn nhằm gì, chẳng ảnh hưởng
gì đến, hai hoạt động của hạt giống. Hai yếu tố về thời gian “đêm hay ngày” được
thêm vào nhằm nhấn mạnh thêm sự tự nhiên của hạt giống. Yếu tố thời gian dường
như cũng không ảnh hưởng gì. Cũng như người gieo giống, mặt trời ngủ hay mặt trời
thức dậy thì kệ mặt trời, hạt giống cứ thế mọc lên.
5.
Tự nó (sinh hoa trái) (αὐτομάτη): Tính từ “αὐτόματος” (tự động) bổ nghĩa cho danh từ đất (ἡ γῆ) được đặt ngay đầu câu nhằm nhấn mạnh
tính tự mình, tự động của đất. Động từ “sinh hoa trái” được dùng ở thì hiện tại
“καρποφορεῖ” với chủ từ là đất, càng nhấn mạnh tính
chất tự nhiên, sự thật luôn luôn, của việc “đất tự mình sinh hoa trái”. Dĩ
nhiên, theo mạch văn, hoa trái ở đây là hoa trái từ hạt giống mà “người gieo”
đã gieo chứ không phải từ đất. Cách nói “đất tự nó sinh hoa trái”, càng nhấn mạnh
thêm sự không liên quan của “người gieo” trong tiến trình này. Tác giả K.
Snodgrass cho rằng. Tính từ “automate” là một từ then chốt để hiểu dụ ngôn.
“Tính tự động của đất” tạo ra sự phát triển của hạt giống. Trong khi tính thụ động
của “người gieo” không được nhấn mạnh, tính từ này nhấn mạnh rằng sự phát triển
diễn ra ngoài sự can thiệp của “người gieo”.[2]
6.
“đầu tiên là cây, rồi đến tai bông lúa rồi đến hạt đầy đủ trong tai bông lúa”. Nói nôm na cho dễ hiểu theo bản dịch của
nhóm CGKPV là: “trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng và sau cùng thành
bông lúa nặng trĩu hạt”; hay là theo dịch giả Nguyễn Thế Thuấn: “Trước tiên
thành mạ, rồi thành đòng đòng, rồi thành lúa chắc nơi gié”. Nói chung, đây là
cách mô tả quá trình phát triển của một cây lúa mạch từ lúc nẩy mầm cho đến lúc
sinh bông hạt. Điều quan trọng là chuỗi tiến triển này của cây lúa là hoàn toàn
tự nhiên theo cách diễn tả của tác giả dụ ngôn.
7.
Tra liềm: Sau khi mô
tả sự phát triển một cách tự nhiên của hạt giống, người gieo được mô tả trở lại
trong tư thế người thu hoạch. Tra liềm là một cách thức thu hoạch thủ công của
người dân Trung Cận Đông thuở xưa.
8.
“Khi hoa trái cho … vì mùa gặt đã đến”: Hoạt động của “người gieo” được lồng vào giữa hoạt
động của hạt giống và yếu tố thời gian:
Khi hoa trái sinh ra, anh ta tra liềm, bởi vì mùa gặt
đã đến. Một lần nữa hoạt động của hạt giống và yếu tố vụ mùa lại đến hết sức tự
nhiên. “Người gieo” hoàn toàn không quyết định hay ảnh hưởng đến chúng. Việc của
anh ta từ đầu đến cuối là gieo và thu hoạch. Danh từ “mùa gặt”, mùa thu hoạch ở
đây gợi nhớ đến sứ vụ truyền giáo được nói đến trong Tin Mừng Mátthêu: “Mùa gặt
thì dồi dào mà người lao động thì ít, vậy anh em hãy sai Chúa của mùa gặt sai
những người lao động vào vụ mùa của Người” (Mt 9,37-38; Lc 10,2). “Mùa gặt”
cũng có thể ám chỉ đến thời cánh chung như Đức Giêsu đã từng giải thích trong dụ
ngôn “cỏ lùng”: “Kẻ thù, kẻ đã gieo cỏ lùng là ma quỷ, mùa gặt là tận thế và
các thợ gặt là các thiên thần” (Mt 13,39).
9.
Hạt giống cây cải nhỏ nhất? Theo một tác giả nữ người Do Thái A-J. Levine, người đã có công nghiên cứu
về các dụ ngôn của Đức Giêsu, hạt cải không phải là hạt nhỏ nhất. Bà cho rằng hạt
cây hoa lan và hạt cây bách còn nhỏ hơn nữa. Hơn nữa, những hạt cải không phát
triển thành những cây to. Bà cho rằng các chuyên gia cho rằng giống cải Đức Giêsu
muốn nói có thể là “cải đen” (brassica nigra). Giống này có thể phát triển chiều
cao đến khoảng trên dưới 3 mét.[3] Nếu
như thế, thì quả là cao nhất trong các loại cây rau. Bà cũng trích dẫn một số
cách giải thích của một số tác giả. Hạt cải là nhỏ nhất trong một khu vực gieo
trồng nhất định, như là trong những vườn rau chẳng hạn, chứ không phải nói
chung tất cả mọi nơi. Cách lý giải khác là hạt cải có thể là nhỏ nhất trên đất
Ítrael thời Chúa Giêsu. Có tác giả giải thích theo đặc điểm văn phạm Hy Lạp.
Tính từ so sánh nhất “mikroteron” (nhỏ nhất) có thể được hiểu là “nhỏ hơn”. [4]
Ngoài dụ ngôn hạt cải, Mátthêu và Luca còn đề cập đến việc Đức Giêsu dùng hạt cải
để so sánh đức tin của các môn đệ: “Tôi bảo thật anh em: “Nếu anh em có đức tin
bằng hạt cải thì anh em có thể nói với núi này ‘dời qua bên kia mà mọc’ nó sẽ
nghe lời anh em, không có gì là không thể đối với anh em” (Mt 17,20; Lc17,6).
Điều này chứng tỏ rằng Đức Giêsu xem hạt cải như là hạt nhỏ nhất.
10.
Lớn hơn trong các loại cây rau: Nghịch lý của tự nhiên diễn ra ở cây cải này: nhỏ nhất trở thành lớn nhất.
Máccô đã thêm vào một chi tiết để diễn tả sự lớn nhất và chuẩn bị cho chi tiết
phía sau đó. Đó là việc nó sinh những cành to. Những cành to vừa chứng tỏ nó lớn
nhất vừa cho thấy nó có khả năng cho chim trời sống dưới tán cây của nó. Khác với
Máccô, Mátthêu không nói là “nó sinh những cành to nhưng là “nó trở thành một
cây” và “chim trời trú ngụ trên những cành cây” (Mt 4,30-32). Luca không nói gì
đến sự phát triển từ hạt nhỏ đến cây lớn nhất. Ông chỉ nói là nó trở thành một
cây và những con chim trời trú ngụ trên những nhánh của nó (tương tự như Mátthêu)
(Lc 13,18-19).
11.
Chim trời: Hình ảnh
chim trời được nhắc đến đúng hai lần trong Tin Mừng Máccô. Lần đầu tiên trong dụ
ngôn người gieo giống. Trong dụ ngôn đó, hành động của chim trời có vẻ tiêu cực:
“Nó đến và ăn hạt giống rơi bên vệ đường” (Mc 4,4). Ở dụ ngôn này vai trò chim
trời chỉ nhằm minh chứng cho sự to lớn của cây cải. Đây dường như là chứng cứ
cuối cùng và thuyết phục nhất về sự to lớn của cây cải. Sự đề cập đến chim trời
và sự trú ngụ của nó cũng dường như gợi nhớ đến hình ảnh trong sách Êdêkiel: “Trên
núi cao của Ítrael, tôi sẽ trồng nó, để nó có thể sinh cành và sinh trái, và trở
nên cây tùng cao quý. Dưới nó mọi giống chim có thể ở. Trong bóng của
nhánh cây của nó những loài có cánh sẽ làm tổ” (Ed 17,23). Nếu thế, Nước
Chúa như là một Ítrael được khôi phục, nơi mà thậm chí dân ngoại cũng có thể
tìm chỗ trú thân.[5]
12.
Nói lời: Máccô sử dụng
danh từ “lời” với mạo từ xác định 12 lần, trong đó có 9 lần trong chương 4, còn
3 lần còn lại ngoài chương 4. Trong 9 lần của chương 4, thì hết 8 lần được dùng
trong phần giải nghĩa “dụ ngôn người gieo giống”. Hạt giống mà người gieo giống
gieo, chính là “lời”: Người gieo giống gieo “lời” (4,15). Nội dung mà Đức Giêsu
rao giảng cũng chính là “lời”: “Với những dụ ngôn như thế, Người nói “lời” cho
họ như họ có thể nghe (4,33). Trước đó, khi giảng dạy tại Caphácnaum, Người
cũng đã “nói lời” cho nhiều người, trước khi chữa lành “người bại liệt có bốn
người khiêng” (Mc 2,2-12). Nói “lời” chính là sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu. “Lời”
có thể là cách nói ngắn gọn của tất cả các loại thông điệp Tin Mừng mà Đức Giêsu
gửi đến cho dân chúng.
13.
Bằng dụ ngôn: Phần tổng
kết cho thấy rằng Người nói “lời” tất cả bằng dụ ngôn, và Người giải thích hết
cho các môn đệ khi họ ở riêng. Điều này đã chứng minh trong phần giải nghĩa dụ
ngôn người gieo giống: “Khi Người có một mình, những kẻ theo Người làm một cùng
với nhóm Mười Hai mới hỏi Người về dụ ngôn, và Người giải thích cho họ” (Mc
4,10). Trước khi giải thích dụ ngôn Người gieo giống, Người nói lý do tại sao
Người lại dùng dụ ngôn để giảng: “Phần anh em đã được ban cho mầu nhiệm Nước
Thiên Chúa; còn mọi sự chỉ ban cho những kẻ ở ngoài bằng dụ ngôn để mỗi khi
nhìn, họ nhìn mà không thấy, mỗi khi nghe, họ nghe mà không hiểu, kẻo họ trở lại
mà được thứ tha” (Mc 4,11-12). Đây là một đoạn khó hiểu. Đức Giêsu dùng bối cảnh
của Is 6,9-10 để lý giải cho việc nhiều người trong dân thánh đã không đón nhận
lời của Người giống như không đáp trả lời của ngôn sứ Isaiah. Is 6,9-10 đã cho
thấy sự thất bại trong sứ vụ rao giảng của Isaiah. Dân chúng trở nên cứng lòng.
Thậm chí, lời của ngôn sứ làm cho họ cứng lòng hơn. Dường như là vô nghĩa khi
rao giảng cho một người cứng lòng. Nó như thể là đưa một cuốn sách cho người
không thể đọc (Is 29,11-12). Lời giảng chỉ hiệu quả cho những ai đón nhận Thánh
Thần của Chúa và học để thấy.[6]
Bình luận tổng
quát
Dụ ngôn “hạt giống tự mọc lên và sinh hoa trái”
(Mc 4,26-29) có lẽ là một sự bổ sung hoàn hảo cho dụ ngôn “Người gieo giống”
(4,1-9.13-20) và với dụ ngôn hạt cải nữa.[7] Có
những yếu tố chung như hạt giống, người gieo, hành động gieo, và đất. Dụ ngôn người
gieo giống có vẻ nhấn mạnh đến ảnh hưởng của phẩm chất của đất trồng trong việc
sinh hoa trái. Hạt giống chỉ sinh hoa kết quả: ‘Hạt thì được 30, hạt thì được
sáu mươi, hạt thì được một trăm’ trên mảnh đất có phẩm chất tốt mà thôi (Mc
4,9). Tương ứng với những người “nghe lời và đón nhận” rồi sinh hoa kết quả, kẻ
được ba mươi, kẻ được sáu mươi, và người thì một trăm (Mc 4,20). Dụ ngôn “hạt
giống tự mọc lên và sinh hoa trái” không nhấn mạnh đến tình trạng của đất mà chỉ
nhấn mạnh đến sự tự nhiên “sản xuất” của đất. Trên hết là sức mạnh, và sự tự
nhiên sinh mầm, lớn lên, cho hoa trái của chính hạt giống. “Người gieo” có vai
trò gieo, nhưng anh ta chẳng tác động gì trên toàn bộ quá trình mọc lên, phát
triển và sinh hoa trái của chính hạt giống. Nói như kiểu J. Chiu thì, “Nước
Chúa là công trình của Chúa, không phải là thành quả của nhân loại”.[8]
Ông thừa nhận sự cộng tác của con người nhưng họ không phải là nhân tố quyết định
của sự hiển trị của Nước Thiên Chúa. Nói hạt giống tự nó mọc lên là nhấn mạnh đến
vai trò của Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa cứ hiện diện và phát triển thậm chí người
gieo không hiểu được tính chất nhiệm mầu của nó. Dẫu vậy, họ được mời gọi tin
tưởng vào sự quan phòng của Người trên sự phát triển nhiệm mầu của Nước Thiên
Chúa.[9] Hạt
giống ở đây rõ ràng là “lời” theo như Đức Giêsu giải thích (‘Người gieo giống
đi gieo lời’: Mc 4,14). Trong bối cảnh cộng đoàn chia năm sẻ bảy, gom nhóm, Thánh
Phaolô cũng diễn tả tư tưởng này trong thư thứ nhất Côrintô: “Tôi trồng, Apôlô
tưới nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì vậy, kẻ trồng hay người tưới chẳng
là gì cả, chỉ có Thiên Chúa Đấng cho mọc lên mới là đáng kể” (1 Cr 3,6-7). Dụ
ngôn này không có ý phủ nhận vai trò đóng góp của từng mảnh đất tâm hồn khi đón
nhận hạt giống Lời Chúa. Dụ ngôn chỉ muốn nhấn mạnh vị trí tối cao, ưu việt của,
tính tiên quyết của hạt giống Lời. Lời có thể làm thay đổi lòng người, mọc lên
trong lòng người một cách tự nhiên. Sự đóng góp của mảnh đất lòng người sẽ cộng
tác không nhỏ trong việc phát triển của hạt giống “lời” và tính bội thu của vụ
mùa. Dụ ngôn này sẽ tròn đầy ý nghĩa khi đọc song song cùng với dụ ngôn “người
gieo giống”. Nó có thể bổ sung cho ý nghĩ rằng mảnh đất tâm hồn có tính quyết định
tiên quyết trên sự nảy mầm và phát triển của hạt giống. Sức mạnh, sự nảy mầm tự
nhiên, phát triển và sinh hoa trái hệ tại chính yếu ở hạt giống. Thiên Chúa là
nguồn phát sinh mọi sự thiện hảo. Hạt giống Lời của Người có sức nẩy mầm, lớn
lên và sinh hoa trái một cách tự nhiên. Mảnh đất tâm hồn, tốt hay xấu, là phần
cộng tác không thể thiếu từ phía con người vì “lời” là cho con người và vì con
người. Họ có tự do cộng tác, nuôi dưỡng, chăm chút, để tâm để lòng yêu mến thì “lời”
sẽ phát triển tròn đầy trong họ và sinh hoa trái cho chính họ.
Dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh đến một khía cạnh khác của
hạt giống “lời”. Hạt giống “lời” tuy nhỏ, nhiều khi là nhỏ nhất trước mặt người
đời. Hạt giống “lời” vốn mầu nhiệm. Nhiều lúc không thể nhìn thấy đối với những
kẻ cứng lòng. Thế nhưng, sức phát triển, sự lớn mạnh của hạt giống ấy là vô hạn.
Những cành cây, những tán cây to bự đó có thể nói đến khía cạnh Kitô học. Hạt
giống “lời” khởi đi từ những ảnh hưởng nhỏ bé ở vùng Galilê bình thường, sức ảnh
hưởng của những lời giảng của Đức Giêsu trải dài trên toàn thế giới.[10] Sự
phát triển đó cũng có thể mang chiều kích cứu chuộc. Hạt giống “lời” nhỏ bé đã
dấn đến sự cứu độ toàn cầu, phổ quát. Như đã nói trên, chim trời tượng trưng
cho những quốc gia dân ngoại, đến trú ngụ trên những cành cây của giáo hội.[11]
Có lẽ chiều kích Giáo Hội Học là chiều kích dể nhận ra nhất. Giáo hội bắt đầu từ
cộng đoàn các môn đê, rồi đến các cộng đoàn Kitô hữu sơ khai ở Giêrusalem, rồi
đến Antiôkia, vùng Hy Lạp, Tiểu Á, Rôma, thủ đô của đế quốc Rôma. Đó là không
gian địa lý diễn tả khái niệm “toàn thế giới” lúc bấy giờ. Bây giờ là “toàn thế
giới” theo nghĩa là tất cả các quốc gia trên toàn thế giới. Đúng như lệnh truyền
của Đức Giêsu: “Khi ra đi khắp tứ phương thiên hạ, anh em hãy loan báo Tin Mừng
khắp mọi nơi cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Sự phát triển mạnh mẽ rộng khắp
của hạt giống “lời” trong dụ ngôn “hạt cải” cũng có mối liên hệ chặt chẽ với dụ
ngôn “men trong bột” (Mt 13,33; Lc 13,20-21), trong đó, nắm men của “lời” cũng
làm “dậy” cả 3 thúng bột “thế gian”.
Trong cả hai dụ ngôn, “người gieo” đầu tiên chắc hẳn
là Đức Giêsu. Người đã gieo “lời” trong toàn bộ sứ mạng rao giảng của Người. Một
trong những mục đích gieo “lời” là để giải thích về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa,
vương quốc mà Người đã giới thiệu vào lúc khởi đầu sứ vụ và mời gọi mọi người
chuẩn bị để bước vào. Nước Thiên Chúa trông như thế nào? Và làm thế nào để vào
được Nước ấy? có lẽ là hai vấn đề căn bản mà Đức Giêsu muốn làm rõ. Sứ mạng của
Người không kết thúc khi Người về trời nhưng được chuyển giao cho những người
đã sẵn sàng đón nhận Nước Thiên Chúa. Đó là các Tông Đồ và tiếp theo các Tông Đồ
là Giáo Hội hiền thê của Người. Cứ mỗi dụ ngôn, là mỗi khía cạnh của Nước Thiên
Chúa được giải thích. Cặp dụ ngôn “hạt giống tự mọc lên” và “dụ ngôn hạt cải”
nói đến hai tính chất quan trọng của hạt giống “lời”: (1) Sự tự động và tính
quyết định nơi hạt giống “lời”; (2) Sự lớn mạnh cách phi thường và nhiệm mầu của
hạt giống “lời”. Hạt giống ấy vẫn được gieo mỗi ngày bởi các ki-tô hữu và vẫn mọc
lên, vẫn phát triển làm nơi trú ngụ cho muôn người, cho đến “mùa gặt”, là ngày
tận thế. Sự phát triển của hạt giống “lời” không hệ tại ở cơ cấu, cấu trúc của
một Giáo Hội cho bằng những giá trị Tin Mừng mà người tín hữu mang vào đời và
thay đổi cuộc đời, giúp cho mọi người sống cách nhân văn theo thánh ý Chúa.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD.
[1]
J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark, 71.
[2]
K.R. Snodgrass, Stories
with Intent. A Comprehensive Guide to the Parables of Jesus (Grand Rapids
2008) 153.
[3]
A. J. LEVINE, Short Stories by Jesus. The Enigmatic Parables of Controversial
Rabbi (JNNT; New York 2015) 161.
[4]
A. J. LEVINE, Short Stories, 162.
[5]
J.E.A. Chiu, “Mark”, The
Paulist Commentary (ed. J.E.A. Chiu et al.) (New
York 2018) 988.
[6] J.E.A. Chiu, “Mark”, The
Paulist Commentary (ed. J.E.A. Chiu et al.) (New
York 2018) 973.
[7]K.R. Snodgrass claims that “Several
scholars think this parable forms a pair with that of the Mustard Seed and
makes the same point or at least a similar point.” [K.R. Snodgrass, Stories
with Intent. A Comprehensive Guide to the Parables of Jesus (Grand Rapids
2008) 152].
[8] R. Bultmann, Theology of the New Testament (trans.
Kendrick Grobel) (New York 1951) 8.
[9]
J.E.A. Chiu, “Mark”, The
Paulist Commentary, 988.
[10] A.J. Hultgren, The Parables of Jesus. A Commentary (Grand Rapids 2000) 401.
[11] E. Reid, Parables for Preachers,Year A (Collegeville
2001) 103.
No comments:
Post a Comment