Bản Văn Mc 4, 35-41
Hy Lạp |
Việt |
35 Καὶ λέγει αὐτοῖς ἐν ἐκείνῃ τῇ ἡμέρᾳ ὀψίας γενομένης· διέλθωμεν εἰς τὸ πέραν. 36 καὶ ἀφέντες τὸν ὄχλον
παραλαμβάνουσιν αὐτὸν ὡς ἦν ἐν τῷ πλοίῳ, καὶ ἄλλα πλοῖα
ἦν μετ᾽ αὐτοῦ. 37 καὶ γίνεται λαῖλαψ μεγάλη ἀνέμου καὶ τὰ κύματα ἐπέβαλλεν εἰς τὸ πλοῖον, ὥστε ἤδη
γεμίζεσθαι τὸ πλοῖον. 38 καὶ αὐτὸς ἦν ἐν τῇ πρύμνῃ
ἐπὶ τὸ προσκεφάλαιον καθεύδων. καὶ ἐγείρουσιν αὐτὸν καὶ λέγουσιν αὐτῷ· διδάσκαλε,
οὐ μέλει σοι ὅτι ἀπολλύμεθα; 39 καὶ διεγερθεὶς ἐπετίμησεν τῷ ἀνέμῳ
καὶ εἶπεν τῇ θαλάσσῃ· σιώπα, πεφίμωσο.
καὶ ἐκόπασεν ὁ ἄνεμος καὶ ἐγένετο γαλήνη μεγάλη. 40 καὶ εἶπεν αὐτοῖς· τί
δειλοί ἐστε; οὔπω ἔχετε πίστιν; 41 καὶ ἐφοβήθησαν φόβον
μέγαν καὶ ἔλεγον πρὸς ἀλλήλους· τίς ἄρα
οὗτός ἐστιν ὅτι καὶ ὁ ἄνεμος καὶ ἡ θάλασσα ὑπακούει αὐτῷ; (Mk. 4:35-5:1 BGT) |
35 Rồi trong ngày
ấy, khi màn đêm buông xuống, Người nói cùng họ: ‘chúng
hãy đi qua phía bên kia” 36 và sau khi rời
bỏ đám đông, họ mang Người, như người đang là, lên một chiếc thuyền và những chiếc thuyền khác đang cùng với Người. 37 và cơn lốc lớn gió từ mọi phía đến và sóng cứ xô vào thuyền, kết quả là thuyền bị đầy [nước] rồi. 38 Người đang ở
phía sau thuyền, đang ngủ trên gối. Họ đánh thức Người và nói cùng Người. Thầy ơi! Thầy không bận tâm sao? Vì chúng ta (rằng
chúng tôi) chết mất? 39 sau khi thức dậy, Người ngăm đe gió
và nói cùng biển: “im đi và lặng đi” và gió ngừng và một sự tĩnh lặng lớn đến. 40 Rồi Người nói
cùng họ: ‘Sao anh em lại hoảng sợ? Anh em chưa có đức tin sao? 41 và họ sợ một nỗi
sợ lớn và cứ nói cùng nhau: ‘Người này là ai mà cả gió và biển phải nghe lệnh anh
ta?’ |
Bối cảnh bản văn
Mc 4,35-41 nằm trong phân đoạn
thứ nhất của Tin Mừng Mác-cô (Mc 1,4 – 8,21: Ga-li-lê). Tin Mừng Mác-cô có thể
được chia làm bốn phần:[1] (i) Phần lời tựa (1,2-13);
(ii) Phân đoạn thứ nhất: Ga-li-lê (1,14 – 8,21); (iii) Phân đoạn thứ hai: Trên
đường lên Giê-ru-sa-lem (8,22 – 10,52); (iv) Phân đoạn thứ ba: Giê-ru-sa-lem
(11,1 – 16,8). Trong bối cảnh trực tiếp, đoạn văn này nằm trong số những đoạn
văn nói về uy quyền độc nhất vô nhị của Đức Giê-su (4,35 – 5,43). Đoạn văn này
nên được bố trí nằm trong chương 5 thì hợp lý hơn. Cũng nên lưu ý rằng, trong
những bản chép tay bằng tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ gốc của các sách Tân Ước, không
hề có số chương hay số câu. Số chương chỉ được thêm vào từ năm 1226 bởi linh mục
Stephen Langton (sau làm TGM Canterbury). Năm 1551, Rober Estienne mới chia các
bản văn Tân Ước thành những câu nhỏ. Nói như thế để thấy rằng phần ngắt chương
của cha Stephen trong trường hợp này dường như không hợp lý. Chương 4 trình bày
về loạt những dụ ngôn về Nước Thiên Chúa, trong khi đó Mc 4,35-41 lại nói về Đức
Giê-su dẹp yên biển động. Trong khi đó, chương 5 là loạt phép lạ trừ quỷ
(5,1-20) và chữa lành (5,21-43). Như vậy, Mc 4,35-41 nên là một phần của chương
5. Tuy nhiên, J. Marcus cho rằng đoạn này cũng có thể nối kết chặt chẽ với những
trình thuật dụ ngôn về Nước Trời. Lý do mà ông đưa ra là: 4,1-34 diễn tả quyền
năng vương đế của Thiên Chúa, còn trình thuật này quy chiếu về quyền năng của
chính Đức Giê-su qua việc dẹp yên gió và sóng biển.[2] Tin Mừng Mác-cô còn có một
trình thuật khác nói về quyền năng trên thiên nhiên. Đó là trình thuật Đức
Giê-su đi trên mặt biển hồ (Mc 6,45-52; Cf. Mt 14,22-33; Ga 6,16-21). Trong
trình thuật này, các môn đệ cũng bị gió ngược làm khó trong việc chèo chóng. Chỉ
khi Đức Giê-su lên thuyền thì gió lặng. Các ông cũng cảm thấy kinh ngạc về uy
quyền của Đức Giê-su. Chủ đề quyền năng của Đức Giê-su trên thiên nhiên, vũ trụ
gợi nhớ đến cuộc tạo dựng trong sách Sáng Thế (1,1 – 2,4) và cuộc vượt qua biển
Sậy (Xh 14,16-31). Hình ảnh Đức Giê-su đồng hành trên thuyền cũng gợi nhớ lại
phép lạ “mẻ lưới đầy” (Lc 5,1-11). Mẻ lưới lạ lùng ấy đã giúp cho Đức Giê-su
thu phục bốn môn đệ đầu tiên: Phê-rô, An-rê, Gia-cô-bê, và Gioan. Chủ đề “yếu đức
tin” cũng là một chủ đề đáng để ý trong Tin Mừng Mác-cô. Trong trình thuật này
Đức Giê-su đặt vấn đền về đức tin của các môn đệ: “anh em còn chưa có niềm tin
ư?”. Khi các môn đệ không thể chữa được một người bị quỷ câm ám, Đức Giê-su lại
than thở rằng: “ôi thế hệ kém lòng tin! Tôi còn phải ở với anh em thêm bao lâu
nữa?” (Mc 9,19; Cf. Lc 9,41). Sau Phục Sinh, Đức Giê-su cũng quở trách nhóm Mười
Một vì họ cứng lòng không chịu tin “vì họ không tin vào những người đã thấy Người
sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14). Sự thiếu niềm tin của các môn đệ, có thể
nói là, kéo dài từ lúc theo Đức Giê-su cho đến lúc Người Phục Sinh. Ngoài ra, lời
Đức Giê-su ngăm đe gió và nói cùng biển tương tự như lời Người đã dùng để quát
nạt quỷ dữ trong trình thuật trừ quỷ: “câm đi và xuất khỏi anh ta” (Mc
1,25). Cả thần ô uế và thiên nhiên dữ dằn
được khuất phục bởi lời của Đức Giê-su.
Một sự
kiện theo cách trình thuật của 3 tác giả |
||
Mc 4,35-41 |
Mt 8,23-27 |
Lc 8,22-25 |
35 Rồi trong ngày
ấy, khi màn đêm
buông xuống, Người nói cùng họ: ‘chúng hãy đi qua phía bên kia” 36 và sau khi rời
bỏ đám đông, họ
mang Người, như người đang là, lên một chiếc thuyền và những chiếc thuyền khác đang
cùng với Người. 37 và cơn lốc lớn gió từ mọi phía đến
và sóng cứ xô vào thuyền,
kết quả là thuyền bị đầy [nước] rồi. 38 Người đang ở
phía sau thuyền, đang ngủ
trên gối. Họ đánh thức Người và nói
cùng Người. Thầy ơi! Thầy
không bận tâm sao? Vì chúng ta (rằng chúng tôi) chết mất? 39 sau khi thức dậy, Người ngăm đe gió và nói cùng biển: “im đi và lặng đi” và gió ngừng và một sự tĩnh lặng lớn
đến. 40 Rồi Người nói
cùng họ: ‘Sao anh em
lại hoảng sợ? Anh em chưa có đức tin sao? 41 và họ sợ một nỗi sợ lớn và cứ nói cùng nhau:
‘Người này là ai mà cả gió
và biển phải nghe lệnh anh ta?’ |
23 Đức Giê-su xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người.24 Bỗng
nhiên, biển động mạnh
khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ.25 Các ông lại gần đánh thức Người và nói:
“Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết
mất!”26 Đức Giê-su nói: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng
tin!” Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ. 27 Người ta ngạc
nhiên và nói: “Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” |
22 Một ngày
nọ, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ. Người
nói: “Chúng
ta sang phía bên kia!” Rồi
thầy trò ra khơi.23 Đang khi các ngài đi thuyền, thì Đức Giê-su thiếp ngủ.
Một trận cuồng phong
ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy.24 Các môn đệ lại gần
đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, Thầy! Chúng ta chết mất!” Người thức dậy, ngăm đe sóng nước và gió,
chúng liền ngừng và biển lặng ngay.25 Người bảo các ông: “Đức tin anh em ở đâu?”
Các ông hoảng sợ, kinh ngạc và nói với nhau: “Vậy người này là ai mà ra lệnh
cho cả sóng và gió, và chúng phải tuân lệnh?” |
Nhận xét: Ø
Trong 3 tác
giả Tin Mừng Nhất Lãm, Mát-thêu là người trình bày sự kiện này ngắn hơn cả,
Mác-cô trình bày chi tiết hơn cả. Ø
Trong phần
bối cảnh, Mát-thêu không đề cập yếu tố thời gian. Mác-cô và Luca có đề cập đến
yếu tố thời gian. Tuy nhiên, thời gian của Mác-cô cụ thể hơn: Ngày đó, lúc màn
đêm buông xuống. Luca chỉ nói là vào một ngày nọ. Ø
Chỉ có
Mác-cô và Luca ghi lại đề nghị: “chúng ta hãy qua bờ bên kia” (Mc 4,35; Lc
8,22). Trong Mát-thêu, Đức Giê-su đi trước, các môn đệ đi theo sau. Ngược lại
Mác-cô nói rằng “họ mang người trong một chiếc thuyền như Người đang là. Luca
thì cho rằng: “thầy trò cùng ra khơi”. Ø
Mác-cô còn
nhắc thêm chi tiết “các thuyền khác cùng với Người”. Luca kể rằng Đức Giê-su
thiếp ngủ, trong khi Mát-thêu và Mác-cô diễn tả một tình trạng ngủ chủ động
hơn: Người đang ngủ (Mt); Người đang ở phía sau thuyền và đang ngủ trên gối
(Mc). Ø
Chỉ có Luca
và Mác-cô đề cập đến sự thiếu niềm tin của các môn đệ, còn Mát-thêu thì không
có chi tiết này. |
Cấu trúc[3]
Bản văn gồm có phần bối cảnh
giới thiệu về thời gian (trời tối); không gian (Mặt biển hồ Ga-li-lê; và nhân vật
(Đức Giê-su và các môn đệ). Cấu trúc chính gồm có 5 tiểu phần song song và quy
tâm. Tiểu phần (A) Sự xuất hiện của cơn bão // (A’) Cơn bão chấm dứt, sóng yên
biển lặng. Tiểu phần (B) Sự bình thản của Đức Giê-su (đang ngủ) // (B’) Thức dậy
ngăm đe gió và nói cùng biển. Tiểu phần trung tâm (C) Nỗi sợ hãi của các môn đệ.
Có hai tiểu phần song song với tiểu phần (C) cũng liên quan đến sự sợ hãi. (C’)
Đức Giê-su đề cập đến lý do của sự hoảng sợ: chưa có niềm tin. (C’’) Họ sợ một
nỗi sợ lớn. Nỗi sợ này là nỗi kính sợ và kinh ngạc chứ không phải sợ hãi.
Cấu
trúc bản văn |
Bối cảnh: Mệnh lệnh “đi qua bên kia” lúc trời tối
(4,35-36). (A) Khó
khăn xuất hiện: Cơn lốc gió mạnh và sóng cứ xô vào thuyền (4,37) (B) Bình thản của thầy: Ngủ ở phía sau thuyền (4,38a) (C) Hoảng
hốt của trò: Đánh thức thầy, nghĩ rằng chết đến nơi rồi (4,38b) (B’) Phản ứng của Thầy: Thức dậy, ngăm đe gió và nói cùng biển
(4,39a) (A’) Khó
khăn qua mau: Gió ngừng và một sự tĩnh lặng lớn đến (4,39b) (C’) Lý
do hoảng sợ của trò: ‘Anh em chưa có đức tin sao?’ (4,40) (C’’) Họ
sợ một nỗi sợ lớn và bâng khuâng về căn tính của Thầy (4,41) |
1. Khi màn đêm buông xuống (ὀψίας γενομένης): Bối cảnh đặc biệt
về mặt thời gian chỉ có Mác-cô đề cập đến. Màn đêm buông xuống có thể có ba ý
nghĩa: (i) Thời gian nghỉ ngơi; (ii) thời gian không thuận tiện để hành trình
(iii) Thời gian của sự dữ. Đây là khoảng thời gian báo hiệu một sự nghỉ ngơi
sum vầy bên người thân, gia đình. Nó là thời gian nghỉ ngơi, ăn uống sau một
ngày làm việc vất vả. Thế mà, Đức Giê-su và các môn đệ lại gieo bước hành
trình. Điều này cho thấy mức độ bận tâm vì sứ vụ của Đức Giê-su. Thật vậy,
Mác-cô có lần ghi lại Đức Giê-su làm việc tất bật cho đến tận đêm: “Khi màn đêm
buông xuống Người ta đem đến cho người tất cả những người bệnh hoặc bị quỷ ám”
(Mc 1,32; Mt 8,16). “khi màn đêm buống xuống” cũng là khoảng thời gian Đức
Giê-su làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn (Mt 14,15). “Màn đêm
buông xuống” cũng có thể là thời gian của khó khăn, của bóng tối sự dữ thiên
nhiên cũng như của quỷ. Hành trình trong khoảng thời gian như thế quả là hại nhiều
hơn lợi. Nó hoàn toàn không giống với thói quen của nhiều người Việt Nam ngày
nay là: chọn hành trình ban đêm trên những chuyến xe giường nằm hay các phương
tiện khác, nhằm tiết kiệm thời gian và mát mẻ hơn. “Màn đêm buông xuống” là một
chi tiết Mác-cô tinh tế chuẩn bị cho sự kiện bắt trắc của các môn đệ mà ông sẽ
nói đến. Độc giả không quên trình thuật Đức Giê-su đi trên mặt nước, trong đó
thuyền các môn đệ đã gặp sóng gió khi màn đêm buông xuống” (Mc 6,47-48; Mt
14,23-24).
2. “Phía bên kia” (εἰς τὸ πέραν): Trong Tin Mừng Nhất Lãm trạng từ “phía bên kia”
ám chỉ đến hai nơi: (i) Bên kia sông Gio-đan: “một đám rất đông theo Người từ
Ga-li-lê, và Giu-đê và Giê-ru-sa-lem và I-đu-mê và bên kia sông Gio-đan và từ
xung quanh Tia và Xi-đôn” (Mc 3,7-8; 10,1; Mt 4,15.25); (ii) Bên kia biển hồ
Ga-li-lê (Mc 6,45; 8,13). Phía bên kia trong bối cảnh này rõ ràng là bên kia biển
hồ Ga-li-lê, vì Mc 5,1 sẽ cụ thể hóa là “bên kia biển”: “Họ đến bên kia biển,
vào cùng Ghê-ra-sa. Đây là một vùng đất của dân ngoại và Đức Giê-su sẽ chữa một
người bị thần ô uế ám, chui ra từ đám mồ mả (Mc 5,1-17). Rồi Đức Giê-su lại trở
lại bờ bên này sau khi làm phép lạ này (Mc 5,21). Hành trình qua lại trên biển
hồ Ga-li-lê vốn là hành trình thường xuyên và bình thường của Đức Giê-su và các
môn đệ. Chỉ có hai lần thuyền của họ gặp sóng gió. Lần 1: khi Đức Giê-su vắng
bóng (trình thuật Đức Giê-su đi trên mặt nước: Mc 6,45-52; Mt 14,22-33; Ga
6,16-21). Lần 2: Đức Giê-su đi cùng nhưng Người đang ngủ (Mc 4,35-41; Mt
8,23-27; Lc 8,22-25). “Phía bên kia” trong trình thuật này có thể là vùng gần
Gê-ra-sê-nê vì Mc 5,1 cho biết khi đến phía bên kia biển hồ, họ vào vùng
Gê-ra-sê-nê. Đây là một vùng đất dân ngoại nằm ở phía đông xa xa bờ biển
Ga-li-lê. Như thế, hành trình của Đức Giê-su và các môn đệ là khoảng hơn 13 km
đường biển, tùy theo địa điểm họ phát xuất. Nếu họ phát xuất từ bờ
Ca-phác-na-um thì khoảng cách còn xa hơn, khoảng 20 km. Biển hồ Ga-li-lê có chiều
rộng nơi rộng nhất khoảng 12km và chiều dài nơi dài nhất là khoảng 21 km. Và có
độ cao 212 m dưới mực nước biển. Đây là hồ nước ngọt có mực nước thấp nhất trên
thế giới, và thấp thứ hai nếu tính cả hồ nước ngọt và nước mặn (Biển Chết có mực
nước thấp nhất, 430 m dưới mực nước biển).
3. Họ mang Người (παραλαμβάνουσιν αὐτὸν): Dịch sát
nghĩa là “Họ mang Người như Người đang là trong thuyền. Bản dịch của nhóm CGKPV
là “Các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền”. Bản dịch của tác dịch
giả Nguyễn Thế Thuấn là “vì Ngài đã ở sẵn trên thuyền, họ chở Ngài đi” (ESV); bản
dịch Pháp Ngữ là “họ mang Người trong thuyền nơi mà Người đang là” (TOB); Ý ngữ:
“họ mang Người với họ, như Người đang là, vào trong thuyền” (CEI). Rất khó để
tương hợp cấu trúc văn phạm của tiếng Hy Lạp với ngôn ngữ hiện đại.[4] Có thể hiểu thế này, Người
lên thuyền trước. Các môn đệ ở lại giải tán đám đông. Khi các môn đệ lên thuyền,
Đức Giê-su đang ở trên thuyền rồi. Rồi, họ chèo thuyền đưa Người đi. Cách hiểu
này có thể phù hợp với lối diễn tả của Mát-thêu: “Đức Giê-su xuống thuyền, các
môn đệ đi theo Người” (Mt 8,23). Mát-thêu không đề cập đến chuyện giải tán đám
đông. Luca thì không quan trọng ai vào trước ai vào sau, ai mang ai đi. Đối với
ông: “Thầy trò cùng ra khơi” (Lc 8,22). Lối diễn tả của Mác-cô có vẻ phù hợp
hơn cho chi tiết phía sau. Người vào trước, đi vào cuối thuyền và ngủ trên gối.
4. “Những chiếc thuyền khác đang cùng với Người”:
Đây cũng là chi tiết chỉ có một mình tác giả Mác-cô ghi lại trong phần dẫn nhập
của sự kiện. J. Marcus cho rằng những chiếc thuyền thêm này không có vai trò gì
trong câu chuyện.[5] Tôi không nghĩ thế. Nó có thể giúp cho việc mở rộng
số người “kinh ngạc hỏi nhau ‘người này là ai’ mà cả gió và biển phải tuân lệnh”.
Bởi lẽ, nếu thuyền các môn đệ gặp cuồng phong và ngập nước, thì những chiếc thuyền
đi theo này cũng cùng chung số phận. Không lẽ, họ cùng đi trên một biển hồ,
cùng nhau, mà thuyền của những người kia lại thoát cảnh song gió. Và khi Đức
Giê-su dẹp yên sóng biển và gió thì tất cả bọn họ đều thấy biển lặng cách lạ kỳ
chứ không phải chỉ riêng các môn đệ thấy.
5. Cơn lốc lớn gió từ mọi phía đến và sóng cứ xô vào
thuyền, kết quả là thuyền bị đầy [nước] rồi: Tai ương từ thiên nhiên của thuyền các môn đệ được diễn tả rất dữ dội. Rất
nhiều hình ảnh diễn tả mức độ mạnh của sóng gió được Mác-cô dùng. Một cơn cuồng
phong (λαῖλαψ). Cơn
cuồng phong này lại được gia tăng bằng tính từ “lớn, mạnh” (μεγάλη). Chưa hết, nó còn được mở rộng bằng một danh từ
dùng ở thuộc cách “của gió tốc độ nhanh” (ἀνέμου). Thêm nữa, Mác-cô diễn tả tiếp bằng hình ảnh sóng
cứ đập vào thuyền. Động từ “đập, xô” được dùng ở thì chưa hoàn thành, diễn tả một
hành động kéo dài liên tục. Chính vì thế mà bản dịch tiếng Anh là: “the waves
were breaking into the boat” (sóng đang xô vào mạn thuyền). Bản Tiếng Việt của
CGKPV dịch là “sóng ập vào thuyền” dường như không diễn tả được khía cạnh kéo
dài liên tục của hành động này. Nên dịch là “sống vỗ liên hồi vào mạn thuyền”.
Mắt xích cuối cùng của dây chuyền tàn phá của cơn cuồng phong này là thuyền bị
đầy nước rồi. Hành động “bị đầy nước” đi sau một liên từ bổ trợ chỉ hậu quả (ὥστε: kết quả là,
vì vậy) để diễn tả hậu
quả của việc sóng vỗ liên hồi vào thuyền.
6. Đang ngủ trên gối: Có một thái độ bình thản trái ngược của Đức
Giê-su với tai họa thiên nhiên này. Người vẫn ngủ trên gối một cách bình thường
như không có chuyện gì xảy ra. Tình trạng đang ngủ của Đức Giê-su trước tiên có
thể chỉ là biểu hiện thể lý bình thường của một người rong ruổi suốt ngày để
rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, dĩ nhiên Mác-cô không chỉ muốn mô tả biểu hiện
thể lý ấy. Cái ông muốn nói đó chính là sự bình thản, có khả năng làm chủ sóng
gió kinh khủng của Con Thiên Chúa làm người. Bình an thật sự không phải là
không bao giờ có sóng gió, nhưng là khả năng đương đầu với sóng gió, trải qua
sóng gió một cách bình thản. Có thể hơi khập khiễng nhưng tôi muốn dùng hình ảnh
của Gia Cát Lượng trong cuộc chiến với Tư Mã Ý để minh họa cho sự bình thản
này. Trong một lần dẫn quân Bắc phạt lần thứ nhất, Gia Cát lượng trong tình thế
tiến thoái lưỡng nan, đã dùng “không thành kế” (thành bỏ trống) đề đuổi 15 vạn
quân của Tư Mã Ý đang bao vây Tây thành. Khi Tư Mã Ý đánh đến Tây Thành Gia Cát
Lượng chỉ còn 2.500 (so với 15 vạn quân cùa Tư Mã Ý), và lại thiếu lương thực
trầm trọng. Gia Cát Lượng lệnh cho mở toang cửa thành. Bên trong cổng thành, một
vài người quét rác cách bình thường. Còn Gia Cát Lượng thì vác đàn tranh lên cổng
thành ngồi gảy một cách bình an thư thái. Kỳ thực, phía sau thành, ông đã cho
toàn bộ quân lính từ từ rút lui về Thục quốc. Khi Tư Mã Ý đến cổng thành, nhìn
thấy cảnh tượng như thế, ông ngại rằng Gia Cát Lượng có phục binh, nên cho quân
rút lui, không dám đánh vào thành. Sau khi Tư Mã Ý rút lui, Khổng Minh thốt
lên: “Trời xanh cứu ta, Tư Mã Ý thật hiểu ý ta”, rồi vác đàn cùng với quân nhân
rút về Thục Hán, kết thúc cuộc Bắc phạt lần thứ nhất thất bại. Đức Giê-su đang
ngủ không phải là một kế sách, nhưng là động thái tự nhiên của một người “có uy
quyền” trên thiên nhiên. Lốc dù có mạnh, bão dù có nhanh, hay sóng biển có dồn
dập đến mấy cũng không phá được giấc ngủ, tượng trưng cho sự bình thản của Người.
Tác giả Trần Thị Giồng, trong tác phẩm nhan đề “Tâm Bất Biến Giữa Dòng Đời Vạn
Biến”, đã chia sẻ phần nào ao ước và phương cách tìm thấy tâm thanh thản và hồn
bình an dẫu cho những biến tấu bất thường thăng trầm của phận người.
7. “Thầy không bận tâm”? “μέλει” là một động từ không ngôi diễn tả sự để ý, sự để
tâm, lo lắng đến một vấn đề gì đó. Trong trường hợp này có thể các môn đệ trách
cứ sự vô tâm của Đức Giê-su. Đó là một phản ứng hết sức tự nhiên. Trong khi trò
hoảng sợ lo lắng thì Thầy lại ngủ ngon lành. Cũng có thể là các môn để chỉ ngạc
nhiên trước sự bình thản của Đức Giê-su. Họ muốn hỏi là “thầy không lo lắng, lo
sợ gì hay sao?”. Cách hiểu mệnh đề phía sau câu hỏi này cũng rất quan trọng.
Liên từ bổ trợ “ὅτι” trong
tiếng Hy Lạp vừa có chức năng đơn giản là đại từ quan hệ mở đầu một mệnh đề có
tính làm rõ hơn động từ phía trước nó: “Thầy không bận tâm rằng chúng ta sẽ chết
hay sao”. Ngoài ra, liên từ này còn có chức năng mở đầu một mệnh đề chỉ nguyên
nhân: “Thầy không bận tâm vì chúng ta sẽ chết hay sao?”. Động từ “ἀπόλλυμι” (chết) dùng ở ngôi thứ nhất số nhiều (ἀπολλύμεθα) cũng rất khó hiểu rõ. Nó có thể được hiểu theo
hai cách: (i) Chúng tôi chết mất (không bao gồm Đức Giê-su); (ii) Chúng ta chết
mất (gồm cả Đức Giê-su). Nếu hiểu theo cách thứ nhất thì rất có thể đó là một lời trách móc. Chúng con sắp chết mà
thầy vô tâm, không lo cứu chúng con hay sao? Nếu hiểu theo cách thứ hai thì đó
là một sự chất vấn về thái độ của Đức Giê-su trên chuyện sống chết. Chúng ta sắp
chết hết rồi mà thầy không lo sợ gì sao?
8. “Họ đánh thức Người… Người thức dậy”: Động từ
đánh thức “γείρω” và
thức dậy chỉ khác nhau ở tiếp đầu ngữ “διεγείρω[6]”. Thật thú vị là động từ thức dậy “διεγείρω” có một nghĩa khác nữa là “biển động”. Tác giả
Gioan đã dùng chính động từ này để diễn tả biển động trong trình thuật về sự kiện
Đức Giê-su đi trên mặt nước: “ἥ τε θάλασσα ἀνέμου μεγάλου πνέοντος
διεγείρετο” (Ga 6,16-21). Hành động tỉnh dậy của Đức Giê-su
cùng động từ với hành động nổi sóng của biển Hồ. Biển dậy sóng và Đức Giê-su
cũng tỉnh dậy. Sự tỉnh dậy của Đức Giê-su sẽ làm sóng yên biển lặng.
9. “Im đi và lặng đi” (σιώπα, πεφίμωσο): Sau khi tỉnh dậy Đức Giê-su liền làm hai hành động:
“Ngăm đe gió và nói cùng biển”. Phải dùng hai hành động vì trong cơn cuồng
phong này có gió mạnh và sóng biển xô vào thuyền. Tiếp theo là hai động từ dùng
cho hai chủ thể khác nhau “Im đi và lặng đi”. “Im đi” có thể dành cho gió và “lặng
đi” có thể dùng cho biển. Động từ thứ hai cũng chính là động từ Đức Giê-su dùng
để ra lệnh cho quỷ: “Câm đi” (Mc 1,25: φιμώθητι)
10. “Gió liền ngừng và một sự tĩnh lặng lớn đến”: Sau hai hành động cùng với hai động từ dùng cho
hai đối tượng, có hai hiệu quả tuyệt đối kèm theo: gió ngừng và biển lặng. Có
thể nói theo kiểu tiếng Việt là “biển lặng như tờ”. Mác-cô dùng tính từ “lớn” (μεγάλη) trong cụm danh từ “một sự tĩnh lặng lớn” có lẽ
nhằm đối lại với mức độ “lớn” của cơn bão đã được nói trên đây. Một cơn bão lớn
đã xuất hiện thì giờ đây phải cần “một sự tĩnh lặng lớn” để biển trở lại bình
thường. Chưa hết tiếp theo sau sự tĩnh lặng “lớn” này, “họ sẽ sợ một nỗi sợ “lớn”
nữa. Tính từ này rõ ràng là một kỹ thuật dùng từ của Mác-cô nhằm tạo nên một sự
nối kết từ đầu đến cuối mà khi đọc các bản dịch sẽ không thấy được. Hai hiệu quả
này cho thấy lời của Đức Giê-su “có uy quyền” tuyệt đối. Trước đó, qua lời nhận
xét của dân chúng, độc giả có thể uy quyền của lời của Đức Giê-su: “Thế nghĩa
là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các
thần ô uế và chúng phải tuân lệnh” (Mc 1,27; Lc 4,32.36).
11. Hoảng sợ …vì chưa có đức tin: Lời chất vấn của Đức Giê-su diễn tả nội tâm của
các môn đệ. Họ hoảng sợ vì họ chưa có niềm tin vào Người. Họ chưa xác tín về
căn tính thần linh cũng như quyền trên sự dữ của Người. Lời cật vấn của Đức
Giê-su quả thật là chính đáng để đặt ra trong bối cảnh này. Bởi lẽ, cho đến
trình thuật này, Mác-cô đã trình bày không biết bao nhiêu là dấu lạ Đức Giê-su
đã làm trước mặt các môn đệ. Xin đơn cử một vài dấu lạ như: Chữa một người bị
quỷ ám (Mc 1,23-28); chữa nhạc mẫu của Phê-rô (1,29-31); Chữa cho nhiều người mắc
đủ thứ bệnh tật (1,32-34); chữa người mắc bệnh phong (1,40-45). Thế mà khi có
bão đến các môn đệ lại hoảng sợ, nghĩ là phải chết mất. Đó là khoảng trống đức
tin mà các môn đệ phải khỏa lấp tiếp tục trong hành trình theo Chúa. Đây không
phải là lần duy nhất các ông bị quở trách về niềm tin của mình. Người quở trách
họ thiếu niềm tin vào sự quan phòng của Chúa (Mt 6,3). Trong trình thuật “Đức
Giê-su đi trên nước”, Người cũng quở trách Phê-rô vì ông lòng tin yếu kém (Mt
14,31). Khi Đức Giê-su giảng dạy “hãy coi chừng men Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê”
các môn đệ đã nghĩ rằng vì họ quên mang theo bánh. Người lại quở trách sao các
ông lại kém lòng tin vì không nhớ đến những phép lạ hóa bánh ra nhiều trước đó:
“này anh em những kẻ kém tin sao lại sao lại nói về chuyện không có bánh” (Mt
16,8). Khi các môn đệ không thể chữa bệnh cho cậu bé bị động kinh Đức Giê-su lại
than thở: “ôi thế hệ kém lòng tin, ta còn ở với các người bao lâu nữa?” (Mt
17,17.20; Mc 9,19; Lc 9,41). J. Marcus còn đề nghị một niềm tin khác mà các môn
đệ chưa có. Đó là niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa giống như Đức
Giê-su. Nhờ niềm tin ấy mà Đức Giê-su có thể ngủ trong cơn bão. Có nhiều bản
văn Cựu Ước trong đó, ngủ một cách an bình là dấu hiệu của sự tin tưởng vào sự
bảo vệ của quyền năn Chúa (Tv 3,5; 4,8; Cn 3,24).[7]
12. Sợ một nỗi
sợ lớn và cứ nói cùng nhau: Như
đã nói trên Mác-cô dùng tính từ “lớn” (μέγαν) để diễn tả nỗi sợ nhằm sâu chuỗi loạt sự kiện từ đầu tới cuối: Cơn bão lớn,
một sự tĩnh lặng lớn và sợ một nỗi sợ lớn. Hơn nữa tính từ “lớn” cùng với cách
Mác-cô diễn tả nỗi sợ làm cho độc giả phải nghĩ đến một nỗi sợ ở mức cao nhất.
Mác-cô dùng động từ sợ + danh từ sợ + tính từ lớn: Sợ một nỗi sợ lớn (ἐφοβήθησαν
φόβον μέγαν). Tiếng Việt Nam có thể
nói là “kinh hồn bạt vía”. Động từ “sợ” được dùng ở thể bị động nhằm ám chỉ tác
nhân của sự sợ hãi của họ là “hành động phi thường của Đức Giê-su”. Trong các
sách Tân Ước kiểu dùng từ như vậy chỉ xảy ra đúng hai lần. Ngoài lần này của
tác giả Mác-cô, tác giả Luca còn dùng một lần nữa đễ diễn tả sự sợ hãi của những
mục đồng khi chứng kiến cảnh Đức Giê-su giáng sinh: “Một thiên thần hiện ra với
họ và vinh quang của Đức Chúa bao quanh họ và họ bị sợ một nỗi sợ lớn” (Lc
2,9). Có thể đây không phải là một sự hoảng sợ như kiểu các môn đệ hoảng sợ trước
bão tố hay là hoảng sợ khi họ thấy Đức Giê-su đi trên mặt nước và tưởng là thấy
ma (Lc 24,37). Đây có thể là sự kính sợ, ngạc nhiên quá đỗi trước một hành động
thần linh. Trong câu chuyện của ngôn sứ Gio-na, thành ngữ “sợ một nỗi sợ lớn”
cũng được sử dụng để diễn tả sự kính sợ Thiên Chúa: “Rồi, người ta kính sợ
Thiên Chúa hơn nữa, và họ dâng hiến lễ cho Đức Chúa và thề nguyền” (Gn 1,16). Như
đã lưu ý ở trên về sự hiện diện của những chiếc thuyền khác cùng với thuyền của
các môn đệ. Động từ “sợ” và “nói cùng nhau” được chia ở ngôi thứ ba số nhiều “họ
sợ một nỗi sợ lớn” và “nói cùng nhau”. “Họ” ở đây rất có thể là tất cả mọi người
bao gồm các môn đệ và những người trên những chiếc thuyền đi theo. Bởi lẽ, họ
cùng chung một chuyến hải trình trên Biển Hồ, và họ biết tất cả các câu chuyện.
Như thế, việc Mác-cô nhắc đến những chiếc thuyền khác đi theo là có chủ ý diễn
tả sự kiện này được nhiều người biết đến chứ không phải là kinh nghiệm riêng của
các môn đệ. Động từ “nói cùng nhau” chia ở thì chưa hoàn thành, diễn tả một
hành động đang tiếp diễn: “họ cứ nói cùng nhau”, hay là “họ cứ bàn luận với
nhau” về căn tính của Đức Giê-su.
13. ‘Người này là ai mà cả gió và biển phải nghe lệnh
ông ta?’ Đức Giê-su đã từng làm nhiều dấu lạ trước mặt dân chúng nhưng người
ta chưa từng đặt câu hỏi về thân phận thực sự của Người. Chỉ có quỷ đã có lần
công bố thân phận của Người: “Ông Giê-su Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến
ông? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24; Cf. Mc
1,33; Lc 4,34) nhưng Đức Giê-su không cho nó nói: “Câm đi, hãy xuất khỏi người
này” (Mc 1,25). Trong lần trừ quỷ được kể lại trong Mc 1,23-28, dân chúng có ngạc
nhiên và bàn tán với nhau: “thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại
có uy quyền” nhưng họ chưa đặt vấn đền về căn tính của Người. Dấu lạ này là mấu
chốt để cho các môn đệ và những người trên thuyền thắc mắc về thân phận quyền
năng của Người. Dĩ nhiên, một người bình thường không có quyền trên gió và biển
như thế. Đó là những thắc mắc cần thiết để dẫn đến sự khám phá thân phận thực sự
của Đức Giê-su và tin tưởng tuyệt đối vào Người. Bởi lẽ cho đến trước sự kiện
này, niềm tin của các môn đệ còn mơ hồ, yếu ớt. Tin Mừng Mác-cô đã khởi đầu bằng
việc giới thiệu Đức Giê-su là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa: “Khởi đầu Tin Mừng
Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1). Độc giả đã biết ngay từ đâu thân phận
và căn tính của Đức Giê-su. Tuy nhiên, căn tính này không phải là kiến thức hiển
nhiên đối với các môn đệ. Sách Tin Mừng này là quá trình họ phải chiến đấu, tìm
tòi và tin vào Người. Đến cuối cùng, người duy nhất tuyên xưng Đức Giê-su là
“Con Thiên Chúa” là một viên đại đội trưởng gốc dân ngoại chứ không phải là các
môn đệ: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở
như thế liền nói: ‘quả thật, người này là Con Thiên Chúa’” (Mc 15,39).
Bình luận chung
Một chuyến hải trình vào
ban đêm dài trên dưới 12 km đường biển với phương tiện thuyền nhỏ thô sơ quả là
một chuyến đi chẳng mấy an tòan. Thế nhưng, vâng lời Đức Giê-su, các môn đệ vẫn
chở Người ra khơi. Hải trình qua lại trên biển hồ Ga-li-lê là một hải trình
không xa lạ với Đức Giê-su và các môn đệ. Họ qua lại nhiều lần từ vùng đất Do
Thái ở phía Tây của hồ Ga-li-lê (Ca-phác-na-um, Ghê-nê-gia-rét, Ti-bê-ri-a) qua
phía Đông của hồ Ga-li-lê, thuộc vùng Ghê-ra-sê-nê và Thập Tỉnh, những vùng đất
của dân ngoại. Trời đã tối nhưng họ được lệnh phải lên đường. Có lẽ vì sự hối hả
của Đức Giê-su để mau đến với vùng dân ngoại. Đức Giê-su vẫn có thói quen làm
việc không kể ngày đêm như thế. Áp lực nội tâm, mệt mỏi thể xác rõ ràng là có
trong con người các môn đệ. Thầy nhiệt tâm như thế, nhưng chắc gì trò cũng nhiệt
tâm được như Thầy. Vả lại, “tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác cũng yếu đuối.”
Thế nhưng, lần này không chỉ có những khó khăn chủ quan ấy mà còn là khó khăn
khách quan bủa vây cuộc đời các môn đệ. Một cơn cuồng phong lớn ập đến, sóng xô
liên tục vào mãn con thuyền nhỏ. Thuyền đã đầy nước. Có lẽ họ phải chia nhau, kẻ
thì chèo chống, người thì tát nước cho vơi đi. Đức Giê-su thì đang ngủ, ở phía
cuối thuyền. Người ngủ trên nước hay sao? Hay có chỗ nào trên thuyền vẫn còn
chưa ngập nước? Sao Thầy có thể bình thản đến lạ lùng? Trong sự mệt nhòa và cả hoảng
sợ, các môn đệ chắc phải bực dọc, đánh thức Đức Giê-su dậy để trách Người hơn
là cầu cứu Người. Theo trình thuật của Mác-cô, trong ngôn ngữ của các môn đệ
không có chữ “cứu chúng tôi với” nhưng chỉ là một câu chất vấn: “Thầy không bận
tâm rằng chúng tôi chết mất hay sao? Hay, Thầy không lo lắng bởi vì chúng ta sẽ
chết mất hay sao?”. Câu hỏi của các môn đệ có hai hướng hiểu: (i) Thầy không bận
tâm đến việc chúng con chèo chống mệt, nhưng thuyền vẫn ngập và chúng con sắp
chết hay sao; (ii) Thầy không lo lắng, không sợ chết hay sao? Dẫu sao thì trong
câu hỏi của các môn đệ không có từ ngữ, hay ý cầu cứu, hay một sự tín thác một
cách rõ ràng như kiểu của Phê-rô: “Thưa thầy xin cứu con với” khi ông bắt đầu
chìm xuống nước (Mt 14,29) hay là của người đàn bà Canaan: “Chúa ơi, giúp tôi với”
(Mt 15,25). Trong trình thuật của Mát-thêu, các môn đệ cầu cứu rất rõ ràng hơn:
“Chúa ơi, cứu chúng con với! Chúng con chết mất” (Mt 8,25) hay trong Luca các
môn đệ gọi Đức Giê-su thất thanh: “Thầy ơi! Thầy, chúng con (ta) chết mất” (Lc
8,24). Tâm thế hoảng sợ cho thấy họ thiếu niềm tin vào Thiên Chúa và chưa tin
vào Đức Giê-su. Tin vào Thiên Chúa là tin vào sự quan phòng lo lắng của Ngài
trong mọi sự. Tín thác vào Đức Giê-su là tín thác vào quyền năng thần linh của
Người như các ông vẫn thấy Người làm nhiều dấu lạ chữa bệnh và trừ quỷ. Có Người
ở bên thì còn lo lắng sợ hãi gì nữa. Cả hai niềm tin ấy các ông đều chưa đạt đến.
Nơi ranh giới giữa sự sống và sự chết, quả thật, rất khó để người ta có thể
bình thản mà không hoảng sợ. Sự hoảng sợ cũng có thể là một thái độ nguyện cầu
dâng lên cho Chúa để Người cứu giúp. Đức Giê-su có vẻ quở trách, nhưng đó chỉ
là dạy dỗ sau khi Người đã giải quyết mọi vấn đề. Qua lần này, không những các
môn đệ mà những người đồng hành với họ tiến sát hơn với thân phận thần linh của
Đức Giê-su, tuy họ chưa hiểu một cách rõ ràng dứt khoát lắm. Họ cần phải tiếp tục
hành trình và cải thiện kiến thức về Người mỗi ngày. Ít lâu sau trình thuật
này, trong một chuyến hải trình khác. Chiếc thuyền nhỏ của các môn đệ cũng gặp
khó khăn. Đức Giê-su đi trên mặt nước đến với họ. Họ lại tưởng là ma và la hét
om sòm. Sau khi Người lên thuyền và gió lặng. Các ông lại bàng hoàng sửng sốt
vì các ông còn chưa hiểu ý nghĩa phép lạ hóa bánh ra nhiều: lòng trí các ông
còn ngu muội (x. 6,45-52).
Tác giả Cope đã chỉ ra 6
nét tương đồng đáng chú ý giữa câu chuyện này với câu chuyện của ngôn sứ
Giô-na: (1) Khởi hành bằng thuyền; (2) Bão tố; (3) Nhân vật chính đang ngủ; (4)
Sự hoảng sợ của thủy thủ; (5) Sự giải cứu kỳ lạ liên quan đến nhân vật chính;
(6) Sự kinh ngạc của những người trên thuyền.[8] Tuy nhiên, độc giả dĩ
nhiên hiểu rằng Đức Giê-su không phải là Gio-na. Gio-na trốn Chúa nên gây sóng
gió cho người cùng thuyền. Gio-na bị vứt xuống biển để làm cho biển lặng. Đức
Giê-su chỉ dùng lời để dẹp yên gió và biển.
Câu chuyện này có thể
giúp chúng ta liên tưởng đến câu chuyện Thương Khó và Phục Sinh. Trong suốt thời
gian Đức Giê-su nằm yên trong mồ, các môn đệ đã trải qua thời gian buồn sầu và
hoảng sợ ghê gớm. Lý do là các ông chưa hiểu chưa tin vào biến cố Tử Nạn – Phục
Sinh của Thầy mình. Các ông vẫn chưa xác tín về căn tính thần linh nơi Đức
Giê-su. Chỉ khi Người chỗi dậy các môn đệ mới bắt đầu hồi phục sự sống dần dần.
Sau nhiều lần Đức Giê-su hiện ra, an ủi và trao ban bình an, con thuyền các môn
đệ mới bắt đầu bình yên trở lại. Các ông hiểu ra dần dần những điều Thánh Kinh
nói về Đức Giê-su và những điều chính Đức Giê-su mạc khải về mầu nhiệm Khổ Nạn
– Phục Sinh.
Đoạn Tin Mừng này cũng
có thể được hiểu theo cấp độ cộng đoàn Mác-cô. Cộng đoàn đang gặp nhiều khó
khăn thử thach khách quan. Họ đang hành trình giữa biển trần gian. Họ đang gặp
sự bắt bớ của vua Chúa và quan quyền. Nhiều lúc thừa sống thiếu chết, họ cảm
giác như Đức Giê-su đã lãng quên họ trong giấc ngủ yên của Người. Tuy nhiên, Đức
Giê-su vẫn ở đó vẫn giải cứu họ lúc cần thiết và họ lại bình an lên đường.
Cuộc đời mỗi gia đình
ki-tô hữu hay mỗi cá nhân ki-tô hữu là một chuyến hải trình qua biển trần gian
tiến về quên trời. Biển trần gian nhiều khi giẫy sóng làm cho con thuyền của họ
chao đảo và ngập nước. Đó là sóng gió của bệnh tật, dịch Co-vid. Đó có thể là
những khó khăn về cơm áo gạo tiền, nợ nần. Đó cũng có thể là khó khăn do chiến
tranh thiên tai. Sách Gióp là một bằng chứng sống động về những đau khổ bất ưng nghiệt ngã của phận người. Có những đau khổ do lỗi lầm của chính mỗi cá nhân, hoặc lỗi lầm của thân nhân, tha nhân. Tuy nhiên, có những đau khổ dường như ngẫu nhiên chẳng biết đâu là nguyên nhân cả. Biết trách ai, biết đổ lỗi cho ai bây giờ. Giữa những tai ương bất trắc ấy, nhiều khi chúng ta cảm thấy bất lực, đau khổ cả tinh thần lẫn thể xác, gần như mất mạng, bởi sức
người có hạn, mà khó khăn thì vô hạn. Những lúc như thế chỉ còn niềm tin nơi Đức
Giê-su, Đấng có quyền năng dẹp yên sóng gió, mới giúp chúng ta chóng chèo và vượt
qua sóng to gió lớn của cuộc đời. Đức Giê-su vẫn ở bên cạnh các môn đệ, nhưng họ vẫn chưa đủ thân thiết để tin vào Người. Đức Giê-su vẫn đồng hành với mỗi người chúng ta trong mọi phút giây của cuộc sống, bởi sứ vụ của Người là thế. Liệu chúng ta có đủ sự hiểu biết và tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Người hay chưa. Dù tin hay không thì chúng ta vẫn phải bước về phía trước. Vậy, tốt hơn người ta nên tín thác vào Người hơn là đi một mình trong đau khổ vô vọng.
Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] Cấu trúc này dựa theo R.T. France, The Gospel of Mark. A Commentary on the Greek Text (NIGTC; Grand
Rapids 2002).
[2] Marcus, J., Mark 1–8. A New
Translation with Introduction and Commentary (AnYB; New Haven – London
2008) XXVII, 335.
[3] J. Marcus suggests a
different structure and emphasizes the importance of the adjective “great”
(megas): “The passage in its present form falls into three parts: a
stage-setting introduction (4:35–36), the description of the storm and Jesus’
conquest of it (4:37–39), and an interpretative conversation (4:40–41). After
the introduction, the passage is structured around three instances of the word megas = “great” in 4:37, 39, and 41” (Ibid.).
[4] J. Marcus claims that the
clause “when he was in the boat” is often translated as “as he was, in the
boat,” but the meaning of “as he was” is unclear—“without going ashore” [Marcus, J., Mark 1–8, 332].
[5] Ibid.
[6] M. Zerwick– M. Grosvenor,
A grammatical
analysis of the Greek New Testament (Rome 1974) 114.
[7] Marcus, J., Mark 1–8. A New
Translation with Introduction and Commentary, 334.
[8] Marcus, J., Mark 1–8. A New
Translation with Introduction and Commentary, 337.
No comments:
Post a Comment