Bản văn
Hy Lạp |
Việt |
12 Καὶ τῇ πρώτῃ ἡμέρᾳ τῶν ἀζύμων, ὅτε
τὸ πάσχα ἔθυον, λέγουσιν αὐτῷ οἱ μαθηταὶ αὐτοῦ· ποῦ θέλεις ἀπελθόντες ἑτοιμάσωμεν
ἵνα φάγῃς τὸ πάσχα; 13 καὶ ἀποστέλλει δύο τῶν
μαθητῶν αὐτοῦ καὶ λέγει αὐτοῖς· ὑπάγετε εἰς τὴν πόλιν, καὶ ἀπαντήσει ὑμῖν ἄνθρωπος
κεράμιον ὕδατος βαστάζων· ἀκολουθήσατε αὐτῷ 14 καὶ ὅπου ἐὰν εἰσέλθῃ εἴπατε
τῷ οἰκοδεσπότῃ ὅτι ὁ διδάσκαλος λέγει· ποῦ ἐστιν τὸ κατάλυμά μου ὅπου τὸ πάσχα
μετὰ τῶν μαθητῶν μου φάγω; 15 καὶ αὐτὸς ὑμῖν δείξει ἀνάγαιον
μέγα ἐστρωμένον ἕτοιμον· καὶ ἐκεῖ ἑτοιμάσατε ἡμῖν. 16 καὶ ἐξῆλθον οἱ μαθηταὶ
καὶ ἦλθον εἰς τὴν πόλιν καὶ εὗρον καθὼς εἶπεν αὐτοῖς καὶ ἡτοίμασαν τὸ πάσχα. 22 Καὶ ἐσθιόντων αὐτῶν λαβὼν ἄρτον εὐλογήσας
ἔκλασεν καὶ ἔδωκεν αὐτοῖς καὶ εἶπεν· λάβετε, τοῦτό ἐστιν τὸ σῶμά μου. 23 καὶ λαβὼν ποτήριον εὐχαριστήσας
ἔδωκεν αὐτοῖς, καὶ ἔπιον ἐξ αὐτοῦ πάντες. 24 καὶ εἶπεν αὐτοῖς· τοῦτό
ἐστιν τὸ αἷμά μου τῆς διαθήκης τὸ ἐκχυννόμενον ὑπὲρ πολλῶν. 25 ἀμὴν λέγω ὑμῖν ὅτι οὐκέτι
οὐ μὴ πίω ἐκ τοῦ γενήματος τῆς ἀμπέλου ἕως τῆς ἡμέρας ἐκείνης ὅταν αὐτὸ πίνω
καινὸν ἐν τῇ βασιλείᾳ τοῦ θεοῦ. 26 Καὶ ὑμνήσαντες ἐξῆλθον
εἰς τὸ ὄρος τῶν ἐλαιῶν. (Mk 14:12-16.22-26 BGT) |
12 vào ngày thứ nhất
của những ngày Bánh Không Men, là ngày người ta sát tế Con Chiên Vượt Qua,
các môn đệ nói cùng Người: ‘Thầy muốn chúng con đi đâu chuẩn bị để Thầy có thể
ăn Lễ Vượt Qua?’ 13 và Người sai hai
người trong số các môn đệ và nói cùng họ: ‘anh em hãy đi vào thành phố, và một
người mang vò nước sẽ gặp anh em, hãy đi theo anh ta.’ 14 và anh em hãy nói
cùng chủ nhà nơi mà anh ta vào rằng Thầy nói: ‘nơi của tôi, nơi mà tôi sẽ ăn
Lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?’ 15 và ông ấy sẽ chỉ
cho anh em một cái phòng to trên gác đã trang bị sẵn sàng và ở đó anh em hãy
chuẩn bị cho chúng ta. 16 rồi các môn đệ ra
đi và đi vào thành phố và tìm thấy hệt như Người đã nói với họ và họ chuẩn bị
Lễ Vượt Qua. 22 và đang khi họ
đang ăn, Người lấy bánh, chúc lành, bẻ ra và trao cho họ và nói: “Anh em hãy
nhận lấy, đây là mình Thầy” 23 và sau khi cầm lấy
chén, và tạ ơn, Người trao cho họ và tất cả họ đã uống từ chén ấy”. 24 và Người nói cùng
họ: ‘đây là máu Thầy, máu giao ước, máu được đổ ra vì nhiều người. 25 thật, Thầy nói với
anh em rằng thầy sẽ không còn uống hoa trái của cây nho cho đến ngày ấy, ngày
mà Thầy được uống rượu mới trong Vương Quốc của Thiên Chúa. 26 và sau khi hát
thánh vịnh, Người đi lên núi Cây Dầu. |
Bối cảnh bản văn
Trong bối cảnh
riêng của Tin Mừng Mác-cô cũng như bối cảnh chung của Tin Mừng Nhất Lãm, hai đoạn
văn Mc 14,12-16 (Chuẩn bị Lễ Vượt Qua) và 14,22-26 (lập Bí Tích Thánh Thể) nằm
trong bối cảnh những tường thuật cuối cùng trước khi Đức Giê-su bước vào cuộc
Thương Khó. Những trình thuật này bao gồm:
(i) Chuẩn bị ăn Lễ Vượt Qua (Mc 14,12-16; Mt 26,17-19; Lc 22,7-12); (ii) Thông
tin về việc Giu-đa sẽ nộp Đức Giê-su (Mc 14,10-11.17-21; Mt 26,14-16.20-25; Lc
22,3-6.21-23; Ga 13,21-30); (iii) Đức Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể (Mc
14,22-26; Mt 26,26-29; Lc 22,19-20); và (iv) thông báo về việc Phê-rô sẽ chối bỏ
Đức Giê-su (Mc 14,26-31; Mt 26,30-35; Lc 22,31-34; Ga 13,36-38). Bản văn liên
quan đến việc lập Bí Tích Thánh Thể (Mc 14,22-26) đặc biệt quan trọng. Nó liên
quan đến hành động Cứu Chuộc trong Hy Tế trên đồi Gol-gô-tha mà chính Đức Giê-su
sẽ dâng. Bản văn tường thuật về việc lập Bí Tích Thánh Thể cổ nhất không phải
là bản văn của Mác-cô, Mát-thêu hay Luca nhưng là bản văn của Thánh Phao-lô, gửi
tín hữu Cô-rin-tô (1 Cr 11,23-25) được viết vào khoảng mùa xuân năm 53 hoặc 54
C.E.[1] Trong thư thứ nhất gửi tín
hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô đã ghi lại việc Đức Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể.
Sự trùng lắp của trình thuật của đoạn thư Phao-lô liên quan đến Bí Tích Thánh
Thể với cả ba Tin Mừng Nhất Lãm được lý giải là các tác giả cùng chia sẻ chung
một truyền thống truyền khẩu và thực hành trong các cộng đoàn Ki-tô hữu sơ
khai. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng rằng, khi các tác giả Tin Mừng soạn thảo
Tin Mừng thì bản văn của Phao-lô đã tồn tại và ít nhiều ảnh hưởng. Chúng ta biết
rằng, việc hình thành các sách Tin Mừng trải qua 3 giai đoạn. (1) Thời của Đức
Giê-su (Lời nói, việc làm nhất là cuộc Khổ nạn – Phục Sinh của Người); (2) Thời
các Tông Đồ (Rao giảng khởi đi từ mầu nhiệm Phục Sinh, rồi các Tông Đồ phản tỉnh,
nhớ lại những lời nói việc làm của Đức Giê-su); (3) Thời các tác giả biên soạn
(Mc, Mt, Lc và Gioan, với ơn linh hứng, họ đã gom góp các nguồn truyền khẩu và
soạn thảo các bản văn Tin Mừng). Thánh Phao-lô được xem là tác giả chắp bút viết
những lá thư gửi cho các giáo đoàn trước bất cứ tác giả sách Tin Mừng nào. Nhiều
tác giả tin rằng, theo truyền thống thì Mác-cô là người viết Tin Mừng trước,
sau đó đồng thời là Mát-thêu và Luca được viết dựa trên phần lớn khung sườn của
Mác-cô và có thêm các nguồn chung của hai ông và nguồn riêng của hai ông nữa.
Chính vì thế mà có “vấn đề Nhất Lãm”(Synopticus; συνοπτικός: Tường thuật những sự
kiện từ một cái nhìn giống nhau). Gioan soạn thảo Tin Mừng thứ tư muộn hơn
cách tác giả Tin Mừng Nhất Lãm và không cùng khung sườn với họ. Gioan không có
tường thuật về việc lập Bí Tích Thánh Thể. Tuy nhiên, trong Tin Mừng của ông, độc
giả tìm thấy “Diễn Từ về Bánh Hằng Sống” (Ga 6,32-59) vốn không tồn tại trong
các Tin Mừng Nhất Lãm. Diễn từ “Bánh Hằng Sống” của Gioan gợi nhớ đến “bánh
Manna” mà dân Do Thái đã suốt 40 năm trong sa-mạc và đã chết. Bánh Đức Giê-su
ban tặng chính là thịt và máu của Người đem đến sự sống đời đời. Trình thuật về
việc lập Bí Tích Thánh Thể của Tin Mừng Nhất Lãm gợi nhớ đến máu giao ước, máu
các con vật mà thuở xưa Mô-sê đã rảy trên dân chúng trong ngày Chúa lập Giao Ước
với họ (thường gọi là giao Ước Sinai). Nay, chính máu Đức Giê-su xác lập Giao Ước
mới và vĩnh cửu mang đến ơn tha thứ cho muôn người. Bản văn không những nối kết
cả 3 Tin Mừng Nhất Lãm cùng với thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô; với sự kiện
Giao Ước của Cựu Ước; với diễn từ “Bánh Hằng sống” của Tin Mừng Gioan an, mà
còn nối kết chặt chẽ với biến cố Khổ Nạn – Phục Sinh của Đức Giê-su sẽ diễn ra
ngay sau đó.
Đối chiếu bốn bản văn về
Bí Tích Thánh Thể |
|||
1 Cr 11,23-25 |
Mc 14,22-26 |
Mt 26,26-29 |
Lc 22,19-20 |
23 Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa,
tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp,
Chúa Giê-su cầm lấy bánh, 24 dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm
lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em;
anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến
Thầy.”25 Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: “Đây là
chén Máu Thầy, Máu đổ ra
để lập Giao Ước Mới;
mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.”26 Thật
vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết.27 Vì
thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến
Mình và Máu Chúa. |
22 Cũng đang bữa ăn,
Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng
lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy,
đây là mình Thầy.”23 Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao
cho các ông, và tất cả đều uống chén này.24 Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước,
đổ ra vì muôn người.25 Thầy
bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến
ngày Thầy uống thứ rượu mới
trong Nước Thiên Chúa.” |
26 Cũng trong bữa ăn,
Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng
lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà
ăn, đây là mình Thầy.”27 Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao
cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này,28 vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước,
đổ ra cho muôn người được tha tội.29 Thầy
bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây
nho, cho đến ngày Thầy cùng
anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy.” |
19 Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra,
trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế
vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng
nhớ đến Thầy.”20 Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như
vậy và nói: “Chén này là
Giao Ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra
vì anh em.” |
Kinh Nguyện Thánh Thể II: Khi tự nguyện nộp mình chịu khổ hình, Người cầm lấy
bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ
mà nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn: Vì Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy
chén, cũng tạ ơn, trao cho các môn đệ mà
nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống: vì
Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước
mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho
các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.
|
Một số nhận xét đối chiếu các bản văn: Ø Các bản văn của cả bốn tác giả Mát-thêu, Mác-cô,
Luca và Phao-lô, tuy khá giống nhau, nhưng không giống nhau hoàn toàn. Ø Bản văn của Kinh Nguyện Thánh Thể II dường như là
gom góp của cả bốn bản văn và có thêm vào một vài ý tưởng. Ø Máu Giao Ước Mới là ý tưởng của riêng Phao-lô và
Luca. Tác hai tác giả còn lại chỉ có Chén Giao Ước và Máu Giao Ước. Ø Ý tưởng (Giao Ước) “vĩnh cửu” là phần thêm vào của bản
văn Phụng Vụ. Ø Tác dụng của Máu Giao Ước là: “cho các con và nhiều
người được tha tội” của bản văn Phụng Vụ là ghép từ ý tưởng của cả 3 tác giả
Tin Mừng Nhất Lãm, Mát-thêu: “Đổ ra cho nhiều người được tha tội”; Mác-cô: “đổ
ra vì muôn người” và Luca: “đổ ra vì anh em”. Bản văn của Phao-lô không có những
ý tưởng này. Ø Ý tưởng “được tha thứ tội lỗi” chỉ có trong bản văn của Mát-thêu. Ø Ý tưởng “sẽ bị nộp vì anh em” giống với ý tưởng
trong bản văn Phao-lô và Luca “hiến tế vì anh em”. Hai tác giả còn lại cũng
không có ý tưởng này. Ø Lời căn dặn: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”
trong bản văn Phụng Vụ là lấy từ bản văn của Phao-lô: “Anh em hãy làm như Thầy
vừa làm mà tưởng nhớ đến Thầy” và Luca: “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ
đến Thầy”
|
Cấu Trúc các bản văn
Mc 14,12-16: Chuẩn bị Lễ Vượt Qua
Bối cảnh: Thời gian,
không gian và nhân vật (Mc 14,12)
(A) Chỉ thị: Hãy đi vào
Thành Phố
(A1) Sự kiện:
Một người mang vò nước sẽ gặp (Mc 14,13)
Nơi chốn:
Phòng rộng, được trang bị trên gác (Mc 14,14-15a)
(A2) Hãy chuẩn
bị nơi ăn Lễ Vượt Qua ở đó (Mc 14,15b)
(A’) Làm theo chỉ thị: Các môn
đệ ra đi và đi vào thành phố (14,16a)
(A1’) Tìm thấy
hệt như Người đã nói với họ (14,16b)
(A2’) Họ chuẩn
bị Lễ Vượt Qua ở đó. (14,16c)
Mc 14,22-26: Lập Bí Tích Thánh Thể
(A) Cử chỉ với bánh: Người lấy
bánh, chúc lành, bẻ ra và trao (Mc 14,22a)
(B) Lời nói: “Anh em hãy
nhận lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14,22b)
(A’) Cử chỉ với chén: Cầm lấy
chén, tạ ơn, và trao (Mc 14,23a)
(A’1) Tất cả họ
đã uống từ chén ấy”.
(B’) Lời nói: ‘đây là máu Thầy, máu
giao ước, máu được đổ ra vì nhiều người.’ (Mc 14,24)
(B’1) Sẽ không
còn uống …uống rượu mới trong Nước Thiên Chúa (Mc 14,25)
Kết: Sau khi hát thánh vịnh,
Người đi lên núi Cây Dầu (Mc 14,26)
Một số điểm chú giải
1. Những
ngày Bánh Không Men: Sách Xuất Hành chỉ dẫn cho con cái Ít-ra-el rằng trước
đêm họ ra khỏi đất Ai-cập họ phải ăn thịt cừu nướng với bánh không men và rau
diếp đắng (Xh 12,15). Và sau đó, nó trở thành một Lễ Hội nhớ ngày Đức Chúa đem
dân ra khỏi đất Ai-cập. Lễ Hội Bánh Không Men (הַמַּצּוֹת) kéo dài 7 ngày. Trong bảy ngày này họ không họ không được dùng
men. Ngày thứ nhất, họ phải loại bỏ men ra khỏi nhà của họ, thậm chí họ phải hủy
và đốt đi. Người nào ăn bất cứ thứ gì có men trong bảy ngày này sẽ bị “cắt đứt”
khỏi It-ra-el (Xh 12,15.19). Ngày thứ nhất và ngày thứ bảy, họ phải tổ chức đại
hội cách long trọng (Xh 12,16; Cf. Đnl 16,8). Thời gian ấn định của kỳ Lễ Bánh
Không Men là: “Trong tháng thứ nhất, vào chiều ngày thứ 14 trong tháng cho đến
chiều ngày thứ 21 trong tháng” (Xh 12,18). Sách Lê-vi thì quy định rằng: ngày
thứ 14 vào lúc chạng vạng, sẽ có dâng Lễ Vật Vượt Qua lên Đức Chúa, và bắt đầu
từ ngày thứ 15 là Lễ Bánh Không Men cho Đức Chúa (Lv 23,5-6; Cf. Ds 28,16-17;
Ed 45,21; Er 19,19-22). Vào đầu chương 13 của sách Xuất Hành, Mô-sê lại nhắc nhở
dân về tính bắt buộc của Lễ hội Bánh Không Men (Xh 13,3-10). Lễ Hội này lại được
Đức Chúa nhắc đi nhắc lại là phải giữ (Xh 23,15; 34,18). Sách Đệ Nhị Luật cũng nói
đến tính bắt buộc và lý do ăn thứ không có men vì đêm ấy dân đã ra khỏi Ai-cập
một cách vội vã (Đnl 16,3).
Tân Ước nói đến
Lễ Bánh Không Men nhiều lần. Gioan không nhắc đến Lễ hội này. Mát-thêu nhắc đến
đúng một lần. Đó là trong trình thuật về Chuẩn Bị Lễ Vượt Qua (Mt 26,17). Luca
nhắc đến Lễ này hai lần. Lần thứ nhất trong trình thuật về “âm mưu giết Đức
Giê-su”. Âm mưu này diễn ra vào dịp Lễ Hội Bánh Không Men đang đến gần. Luca chú
thích thêm Lễ này cũng gọi là Lễ Vượt Qua (πάσχα) (Lc 22,1-2). Lần thứ
hai, trong trình thuật về chuẩn bị ăn Lễ Vượt Qua. Thánh Luca nói đến “ngày của
Bánh Không Men” và không quên ghi chú thêm rằng, “ngày Con Chiên Vượt Qua bị giết”
(Lc 22,7). Hai lần nói đến Lễ Bánh Không Men này của Luca rất giống với Mác-cô.
Mác-cô cũng nói đến âm mưu giết Đức Giê-su được diễn ra trong dịp Lễ Bánh Không
Men và Lễ Vượt Qua. Có điều Mác-cô cụ thể hóa số ngày: “Hai ngày trước Lễ Vượt
qua và Lễ Bánh Không Men” (Mc 14,1). Nói như thế, Mác-cô cho thấy ông hiểu Lễ
Vượt Qua và Lễ Bánh Không Men bắt đầu cùng thời gian. Lần thứ hai, Mác-cô cũng
cụ thể hơn trong việc nhắc đến Lễ Bánh Không Men: “Ngày thứ nhất của kỳ Lễ Bánh
Không Men”, và cũng không quên ghi chú thêm rằng: “Khi người ta sát tế con Chiên
Vượt Qua” (Mc 14,12). Sách Công Vụ cũng nhắc đến hai lần Lễ Bánh Không Men: (1)
Dịp Hê-rô-đê bắt giam Phê-rô và được một thiên sứ giải thoát cách kỳ lạ (Cv
12,1-11); (2) Phao-lô cùng các môn đệ rời Phi-li-phê sau những ngày “Bánh Không
Men”. Thánh Phao-lô nói đến “Bánh Không Men” của sự chân thành và sự thật đối lại
vói men của xấu xa và sự dữ (1 Cr 5,8).[2]
2. Ngày
người ta sát tế Con Chiên Vượt Qua: Trong các tác gải sách Tin Mừng, chỉ có
Mác-cô và Luca (rất có thể do ảnh hưởng của Mác-cô), nhấn mạnh đến chi tiết này
(Mc 14,12; Lc 22,7): “Ngày thứ nhất của Lễ Bánh Không Men, khi người ta sát tế Con
Chiên Vượt Qua”. Như đã nói trên, Sách Lê-vi nói đến việc dâng một Hy Tế Vượt
qua vào lúc chạng vạng của ngày 14, tháng thứ nhất và bắt đầu từ ngày 15 là Lễ
Bánh Không Men. Sách Sử Biên Niên quyển thứ hai cũng nói đến việc sát tế một
Con Chiên Vượt Qua vào ngày thứ 14 của tháng thứ nhất để kỷ niệm Lễ Vượt Qua (2
Sbn 35,1). Chiên Vượt Qua gợi nhớ đến con chiên mà dân Ít-ra-el đã giết vào chiều
ngày mà họ sẽ ra khỏi đất Ai-cập (Ex 12,21). Con chiên đó phải toàn vẹn, phải
là con đực, không quá một tuổi. Con chiên hay con dê cũng được và phải nhốt nó
cho đến ngày 14 của tháng thứ nhất rồi đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi
lên khung cửa. Phải ăn nướng, không được ăn sống hay luộc và phải ăn cả đầu,
chân và lòng; không để lại gì đến sáng; cái gì còn đến sáng phải đốt đi (Xh
12,5-10). Mác-cô nhấn mạnh đến “Ngày Người ta sát tế Con Chiên Vượt Qua” không
chỉ là đơn giản giải thích cho truyền thống cổ xưa, nhưng trên hết là để giới
thiệu cho hy tế mà Đức Giê-su sắp dâng. Vì ngay sau đó, Đức Giê-su đã dùng bánh
như là biểu tượng của chính “thân thể” của Người và chén rượu như là máu của
Người, máu Giao Ước sẽ đổ ra cho nhiều người.
3. “Lễ
Vượt Qua”:[3]
Trong bốn tác giả Sách Tin Mừng, chỉ có Gioan cho độc giả biết rằng Đức
Giê-su đến Giê-ru-sa-lem vào ba dịp Lễ Vượt Qua trong hành trình rao giảng của
Người (Ga 2,13.23; 5,1; 12,1). Chính vì thế mà theo truyền thống, Đức Giê-su
rao giảng khoảng 3 năm, và chết ở tuổi 33. Luca cho biết Đức Giê-su khởi đầu sứ
vụ rao giảng khi Người khoảng 30 tuổi (Lc 3,23), cùng với 3 Lễ Vượt Qua (xảy ra
mỗi năm một lần), trong đó, Người bị kết án và đóng đinh vào Lễ Vượt qua thứ
ba. Các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ cho biết Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem một lần,
vào dịp Lễ Vượt qua trong suốt quá trình rao giảng. Tin Mừng Nhất Lãm chỉ nhắc
đến một Lễ Vượt Qua trong trình thuật về cuộc Thương Khó (Mt 26,2.17-19; Mc
14,1.12.14.16; Lc 22,1.7.28.11.13.15),[4]
và đó là lần Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó – Chịu Chết đóng đinh. Chặng
đường lên Giê-ru-sa-lem là rất quan trọng. Thậm chí, Tin Mừng Luca còn dành cho
chặng đường lên Giê-ru-sa-lem đến 10 chương (9,51 – 19,27), nghĩa là gần một nữa
Tin Mừng của Luca (24 chương). Đối với các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, Ga-li-lê
là thánh địa cho sứ vụ rao giảng và làm dấu lạ, còn Giê-ru-sa-lem là tử địa nơi
xảy ra cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su.
Lễ Vượt Qua là
một Đại Lễ hằng năm của Người Do Thái. Nó kỷ niệm biến cố quan trọng: Dân đã được
cứu khỏi ách nô lệ của Pha-ra-ô. Trong đêm ấy sứ thần Chúa đã tiêu diệt tất cả
các con đầu lòng của người Ai Cập. Thậm chí con vật đầu lòng cũng bị giết. Con
cái Ít-ra-el thì được sống nhờ vào những vết máu bôi trên cửa theo chỉ dẫn của
Chúa (Xh 11,5; 12, 12-13.29). Lễ Vượt Qua trong tiến Do Thái là “הַפָּ֑סַח” (pesah), trong tiếng là Hy Lạp là “πάσχα” (paskha). Trong tiếng gốc Do
Thái “Pesah”, có nghĩa là “bảo vệ” hay “bỏ qua”. Lễ này, theo một số tác giả,
có nguồn gốc ban đầu liên quan đến một nghi lễ mang tính giải hạn của những người
du mục, cử hành mùa xuân. Tuy nhiên, ý kiến được chấp nhận rộng rãi nhất liên
quan đến lễ hội cổ xưa cho những giai đoạn của trăng, đặc biệt cho dịp trăng
tròn. Và trên bình diện lịch sử, Lễ này dĩ nhiên là liên kết đến sự kiện Xuất
Hành từ Ai-Cập.[5] Trong Lễ Vượt Qua, một con vật hiến tế (cừu hoạc dê một tuổi) được
giết thịt vào ngày thứ 14 của tháng Nisan và được ăn vào buổi đêm, hoặc ngay
sau hoàng hôn, đánh dấu khởi đầu của ngày 15 tháng Nisan. Thánh Kinh kết hợp việc
sát tế Vượt Qua với Lễ Bánh Không men, lễ hội kéo dài bảy ngày bắt đầu vào ngày
15 của tháng Nisan. Trong thời gian hậu Thánh Kinh, hai Lễ này được hòa nhập
thành một Lễ hội mà thôi.[6]
4. Một
người mang vò nước sẽ gặp anh em: Hình ảnh thấy trước mọi sự cho thấy Đức
Giê-su làm chủ cục diện và mầu nhiệm Người sắp trải qua cùng với các môn đệ.
Đây không phải là một Lễ Vượt Qua bình thường như mọi năm. Dĩ nhiên, là hằng
năm chắc hẳn Đức Giê-su cùng ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ nhưng không phải một
nơi cố định, nên các môn đệ hỏi thăm Đức Giê-su là chuyện bình thường. Nhưng kể
hỏi như thế cũng hơi muộn, vì làm sao kịp để chuận bị vừa phòng ốc, Chiên Vượt
Qua và những thứ cần thiết. Đức Giê-su dường như đã lo liệu mọi sự. Các môn đệ
hỏi ý kiến Đức Giê-su để chuẩn bị nhưng Đức Giê-su lại là người chuẩn bị cho họ.
Hình ảnh một người đàn ông (ἄνθρωπος) mang vò nước quả là khá hiếm, vì nhiệm
vụ lấy nước thường là của những chị em phụ nữ. Và người đàn ông này có nhiệm vụ
dẫn đường. Ông ta chủ động gặp hai môn đệ (ἀπαντήσει ὑμῖν ἄνθρωπος) chứ
không phải họ tìm gặp ông. Ông không phải làm chủ nhà, có thể là một đầy tớ, có
nhiệm vụ dẫn hai môn đệ đến với chủ nhà. Nhiệm vụ của các môn đệ là: “Hãy đi
theo anh ta” và nói với chủ nhà những gì Đức Giê-su bảo.
5. Một
cái phòng to trên gác đã trang bị sẵn sàng: Vị trí của “Phòng trên
gác” (the upper room) được nhiều nhà khảo cổ tin là ở trên núi Si-on, phía Tây
Nam của Cổ Thành Giê-ru-sa-lem. Hiện nay còn dấu tích một hội đường đượccác
ki-tô hữu Do Thái xây dựng vào khoảng năm 73 – 135 C.E. Phía dưới của phòng ấy
là nơi để quan tài bằng đá, được cho là của vua Đa-vít. Ngày nay nhiều người Do
Thái vẫn đến đó thăm viếng và cầu nguyện mỗi ngày. Theo Luca, đây rất có thể là
căn phòng mà các Tông Đồ và những tín hữu Giê-ru-sa-lem quy tụ vào thời sơ khai
(Cv 1,13; Cf. 9,7.39).[7]
6. Đi
vào thành phố và tìm thấy hệt như vậy… họ chuẩn bị Lễ Vượt Qua: Câu ghi chú
này của người thuật chuyện như là một lời tóm kết ngắn gọn cho việc thực thi chỉ
thị của Đức Giê-su. Lễ Vượt Qua này do chính Đức Giê-su chủ động chuẩn bị ngay
từ đầu và cho đến cuối với Hy Tế Thánh Thể, như sẽ thấy sau. Câu chuyện về việc
chuẩn bị Lễ Vượt Qua rất giống với câu chuyện Đức Giê-su chuẩn bị vào thành (Mc
11,1-6). Đức Giê-su cũng sai hai môn đệ vào làng và sẽ thấy một con lừa chưa ai
cưỡi bao giờ. Các ông sẽ thao dây buộc lừa và dẫn nó về. Nếu có người hỏi thì
các ông nói là “Chúa cần đến nó và Người sẽ gửi lại ngay”. Các ông đã ra đi và
làm y chang như Đức Giê-su bảo. Những hành động này cho thấy kiến thức kỳ lạ của
Đức Giê-su. Hơn nữa, những câu chuyện song song cũng cung cấp ý tưởng xa hơn:
việc Đức Giê-su đến Đền Thờ (Mc 11,11) và tiếp theo sau đó là sự thanh tẩy đền
thờ (11,15-16) ứng với việc cử hành Bữa Ăn Cuối Cùng và việc thiết lập Bí Tích
Thánh Thể. Nói cách khách lý do Đức Giê-su vào Đền Thờ và kết thúc với nghi lễ
hiến tế được làm rõ ở đây: Người sẽ dâng mạng sống của Người làm hy lễ Giiao Ước.[8]
7. Đang
khi họ ăn, lấy bánh, chúc lành, bẻ ra và trao: Một loạt 5 động từ liên tục
được dùng trong mô tả này: 3 động từ phụ được dùng ở dạng hiện tại phân từ:
“Khi họ đang ăn”, “sau khi Người lấy bánh”, “Chúc lành”; và hai động từ chính “Người
bẻ ra” và “trao” cho họ. Nghi thức này rõ ràng không phải là một phần của Tiệc
Vượt Qua theo truyền thống. Những cử chỉ của Đức Giê-su hẳn làm cho các môn đệ
phải bâng khuâng, lấy làm khó hiểu. Người Do Thái chúc lành bánh vào đầu bữa ăn
chứ không phải giữa bữa ăn. Cử chỉ “chúc lành”, “bẻ ra” và “trao ban” rõ ràng gợi
nhớ đến phép lạ hóa bánh ra nhiều, trong đó Đức Giê-su cũng lấy 5 chiếc bánh
“chúc tụng”, “bẻ ra thành từng miếng nhỏ”, rồi “trao cho các môn đệ” để họ dọn
ra cho dân (Mc 6,34-44; Mt 14,13-21; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Mác-cô còn ghi lại
phép lạ hóa bánh ra lần thứ hai, nơi đó Đức Giê-su “cầm lấy bảy chiếc bánh,
dâng lời tạ ơn và bẻ ra, trao cho các môn đệ, để các ông dọn ra.” (Mc 8,1-8; Mt
15,32-39). Đây có thể được xem la một dấu hiệu của sự sẻ chia. Phép lạ hóa bánh
ra nhiều cho thấy quyền năng thần linh của Đức Giê-su và lòng thương xót của
Người. Người có khả năng giải quyết sự đói khát của con Người. Tuy nhiên, nên
nhớ rằng, Người không luôn làm như thế bởi cung ứng thức ăn thể xác và giải quyết
mọi cơn đói trên thế gian không phải là mục tiêu của Người. Cử chỉ bẻ ra và trao
ban được Đức Giê-su lý giải ngay sau đó.
8. “Anh
em hãy nhận lấy, đây là mình Thầy”: Lời nói của Đức Giê-su đã làm
cho nghi thức bẻ bánh và trao ban cửa Người không dừng lại ở sự trao ban lương
thực thể xác nhưng là sự trao ban lương thực về thần linh. Bánh không còn là
bánh nhưng là chính thân thể của Người. Cái mà các môn đệ lãnh nhân không còn
là những mẫu bánh nhưng chính là những mảnh thân thể của Người. Danh từ “ổ
bánh” được dùng ở số ít. Chỉ có một “ổ bánh” mà thôi. Chúng không là 3 chiếc
bánh hay là bảy chiếc bánh, nhưng chỉ là một chiếc bánh. Một chiếc bánh ám chỉ
chỉ một mình Đức Giê-su. Nó cũng cho thấy sự hiệp nhất quy tụ nơi một mình Đức
Giê-su. Tấm bánh được “bẻ ra” là biểu tượng của một thân xác bị đau khổ, bị
nghiền nát như những hạt lúa miến để trở thành lương thực thần linh cho các môn
đệ. Thánh Phao-lô và Luca còn thêm vào chiều kích hiến tế trong mầu nhiệm “bẻ
bánh và trao bánh”: Này là mình Thầy, hiến tế vì anh em” (1 Cr 11,24; Lc
22,19). Nói đến hiến tế là nói đến việc Con Chiên Vượt Qua bị sát tế trong ngày
đầu tiên của Lễ Bánh Không men. Con chiên vẹn toàn vô tỳ tích đó chính là Đức
Giê-su. Hơn nữa, bánh không men, cũng như thân thể của Đức Giê-su, được nối kết
với sự cứu độ, vì nó phục vụ như là một sự nhắc nhở về ngày giải phóng khỏi ách
nô lệ Ai Cập, khi những người Ít-ra-el phải di chuyển nhanh chóng đến nỗi bánh
của họ chưa kịp lên men.[9]
9. Tất
cả họ đã uống từ chén ấy: Giống như cách họ lãnh nhận từ một “ổ bánh” được
bẻ ra, họ cũng uống từ một chén rượu nho. Mác-cô nhấn mạnh đến việc “tất cả” đã
uống từ một chén ấy.[10] Trong tất cả bốn tác giả,
chỉ có Mác-cô ghi nhận “Tất cả họ đã uống”. Nghĩa là tất cả họ đều tham gia vào
Giao Ước được lập bởi chính máu thánh của Đức Giê-su. Bữa Ăn Vượt Qua theo truyền
thống thường có bốn phần, mỗi phần được kết bằng việc uống một chén rượu: (1)
Vào lúc kết thúc nghi thức giới thiệu (ly rượu thánh hóa được uống); (2) Vào
lúc kết thúc của tường thuật về cuộc giải cứu khỏi Ai-cập (Đnl 26,5-9), được gợi
ý bởi bốn câu hỏi[11] của người trẻ nhất trong
gia đình (chén cứu độ được uống); (3) Vào cuối bữa ăn (chén chúc lành hay là
chén cứu chuộc được uống); (4) Vào cuối việc hát thánh vịnh 115-118: Hallel
(chén chúc tụng hay hồi phục được uống). Chén thứ năm được gọi là chén của
Ê-li-ah trong suốt buổi cử hành nhưng nó không được uống. Nó được để dành cho
ông Ê-li-ah, người thông báo sự đến của Đấng Mê-si-ah. Chén mà tất cả các môn đệ
đều uống (Mc 14,23) rất có thể là chén chúc tụng và chén mà Đức Giê-su sẽ không
uống: “Tôi sẽ không dùng hoa trái từ cây nho này nữa cho đến ngày tôi được uống
thứ rượu mới trong vương quốc của Thiên Chúa” (14,25) rất có thể là chén thứ bốn.[12]
10. ‘Đây
là máu Thầy, máu Giao Ước, máu được đổ ra vì nhiều người. Sau khi họ uống,
Đức Giê-su mới tiếp tục lý giải ý nghĩa của chén: “Đây là Máu Thầy, máu Giao Ước,
đổ ra vì nhiều người (πολλῶν: nhiều). Máu Con Chiên Vượt Qua trong Tiệc
Vượt Qua gợi nhớ đến vết máu của con chiên được bôi trên hai cột cửa và trên đà
ngang cửa nhà của dân Ít-ra-el. Nhờ đó, Đức Chúa sẽ nhận ra và “đi qua, bang
qua” cửa nhà, không giết các con trai đầu lòng của họ (Xh 12,23). Tuy nhiên,
máu Giao Ước, lại gợi nhớ đến sự kiện Giao Ước giữa Thiên Chúa với dân qua
trung gian là ông Mô-sê. Ông Mô-sê lấy một nữa máu bò rảy lên bàn thờ, tượng
trưng cho Đức Chúa, còn nữa kia, ông rảy trên dân và nói: “đây là máu giao ước
Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24,6-8). Máu Giao Ước
này không phải là máu bò, nhưng là máu của chính Đức Giê-su. Luca và Phao-lô nhấn
mạnh đến hành động “lập” Giao Ước và tính “mới” của Giao Ước: “Chén này
là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,20)”; “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ
ra để lập Giao Ước Mới” (1 Cr 11,25). “Mới” ở chỗ là do chính Đức Giê-su lập và bằng chính máu của Người, chứ không
phải là máu con vật bị sát tế. Ngoài ra, “mới” còn thể hiện ở chỗ các môn đệ “uống”
chứ không phải là máu được rảy lên người. Mát-thêu và Mác-cô chỉ nói là “Máu
Giao Ước được đổ ra vì nhiều người”. Mát-thêu còn thêm cụm từ “được tha tội”.
Có lẽ, Mát-thêu muốn nói đến truyền thống về Lễ Xá Tội do thượng tế A-ha-ron cử
hành, trong đó “máu con vật được dùng vào Lễ Xá Tội, dâng vào ngày xá tội mỗi một
năm một lần, mà cử hành lễ xá tội” (Xh 30,10). Ý tưởng về cái chết của một người
có chức năng như là của lễ xá tội cho “nhiều người” cũng tương tự như bức tranh
nơi sách Isaiah: “vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính tôi trung của Ta, sẽ
làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ… nó đã hiến
thân chịu chết, đã bị liệt vào hạng tội nhân; nhưng thực ra, Người đã mang lấy
tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53,11-12).[13] Bài khảo luận về chức tư
tế dành cho thính giả “Híp-ri” (thường được gọi là thư Híp-ri) đã nhắc đến việc
thượng tế Giê-su cử hành Lễ Xá Tội này. Theo đó, “Đức Giê-su đã vào cung thánh
không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, người vào
chỉ một lần thôi (không phải hằng năm) và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn
cho chúng ta” (Hr 9, 12); “Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những
việc đưa đến sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa Hằng Sống” (Hr
9,14).
11. Uống
rượu mới trong Vương Quốc của Thiên Chúa: Đức Giê-su không uống chén thứ
tư, chén chúc tụng hoặc phục hồi, chén sau khi hát thánh vinh 115-118. Trong bối
cảnh trực tiếp, “sau khi hát thánh vịnh, ngay lập tức, họ đi vào núi Ô-liu” (Mc
14,26). Đức Giê-su cũng không uống chén mà Người trao cho các môn đệ, vì đó
chính là chén máu của Người, được đổ ra vì nhiều người. Đó có thể xem là bữa ăn
Vượt Qua cuối cùng của Đức Giê-su với các môn đệ trên trần gian nên Người sẽ
không uống bất kỳ một ly rượu nho nào của Lễ Vượt Qua nữa. Công bố cuối cùng của
Đức Giê-su soi chiếu cuộc thương khó và cái chết sắp xảy ra của Người: Đức
Giê-su sẽ gặp lại các môn đệ trong vương quốc của Thiên Chúa. Đối với các độc
giả của Mác-cô, việc cử hành Thánh Thể không chỉ tưởng nhớ lại hy tế của Đức
Giê-su mà còn nếm trải trước bàn tiệc tương lai trong Nước Thiên Chúa, một sự
hiệp thông trọn vẹn của Thiên Chúa với dân Người.[14] Rượu mới mà Đức Giê-su muốn
nói không còn là sản phẩm của cây nho, hay là máu Giao Ước của Người nữa nhưng
là rượu của tiệc mừng, “Tiệc Cưới Con Chiên”. Đức Giê-su thường ví mình như là
chàng rể của tiệc cưới (Mt 9,15; Mc 2,19) và Nước Trời cũng được ví như là một
tiệc cưới mà đức vua tổ chức cho con của mình (Mt 22,1-14). J. Marcus cho rằng
Đức Giê-su sẽ uống rượu mới vào ngày cánh chung. Ý tưởng này được ủng hộ bởi Mc
2,22 nơi “rượu mới” là biểu tượng cho nguồn gốc mang tính cánh chung của sứ vụ
của Đức Giê-su. Cuộn Đền Thờ (Một trong những bản văn Biển Chết) có mô tả một
“Lễ Hội Rượu Mới”, vốn dường như có định hướng cánh chung và được kết hợp với sự
xá tội. “Rượu mới”, theo Qumran, vì thế có liên kết với cánh chung, Đấng
Mê-si-ah và xá tội.[15]
Bình luận tổng quát
Giao Ước cũ hay
còn gọi là Giao Ước Sinai giữa dân Ít-ra-el và Thiên Chúa được hoàn tất qua ba
khoảnh khắc tương ứng: (1) Sự tỏ mình của Thiên Chúa cho dân (Xh 19)[16]; (2) Trao ban Thập Điều
(Xh 20,1-21; Đnl 5,1-33), như là luật thiết định và bộ luật Giao Ước (phần mở rộng
của Thập Điều, Xh 20,22 – 23,33); (3) Giao Ước được hoàn tất và thánh hiến một
cách long trọng với “những hiến lễ hiệp thông” (Xh 24)[17]
Đối lại, Giao Ước
mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và nhân loại cũng được hoàn thành qua 3 khoảnh
khắc tương tự: (1) Sự tỏ mình sâu sắc và long trọng có tính phổ quát của Chúa nơi
Đức Ki-tô (Mc 1,10-11: Chúa chịu Phép Rửa; Mc 9,2-8: Chúa biến hình); (2) Một bộ
thập điều được hồi phục cho tính tinh khiết và nguyên vẹn của nó, cho sự “kiện
toàn” (Mt 5,17-48: Anh em nghe Luật dạy rằng… còn Thầy, Thầy bảo anh em…), thêm
một bộ luật các mối phúc, luật nội tâm và “điều răn mới” (Mt 5,1-12.6-7; Ga
13,34-35; 15,10-17); (3) Giao Ước mới cũng được hoàn tất với sự thánh hiến long
trọng trong “hiến lễ hiệp thông” nơi Máu Chúa Ki-tô (Mc 14,22-24).
Không phải ngẫu
nhiên mà cuộc khổ nạn của Đức Giê-su lại diễn ra đúng vào dịp Lễ Vượt Qua và tuần
lễ Bánh Không Men. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Đức Giê-su lập Bí Tích Thánh
Thể ngay đêm Người bị trao nộp và bước vào cuộc Thương Khó. Tất cả đều được hữu
ý trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được chuẩn bị trước trong Cựu Ước. Ngày Đức
Giê-su dùng bữa ăn cuối cùng với các môn đệ được Mác-cô và Luca lưu ý rằng “ngày
người ta sát tế con chiên vượt qua”. Con Chiên Vượt Qua được giết để tượng niệm
lại biến cố dân đã giết chiên vượt qua trong buổi chiều trước khi họ được Chúa
dẫn ra khỏi nô lệ trên đất Ai-cập. Máu của chính con chiên ấy được vẫy trên hai
trụ và đà của cửa nhà chính là dấu hiệu để thiên sứ Chủa “bỏ qua, đi ngang qua”
mà không giết các con đầu lòng của những gia đình Ít-ra-el. Con Chiên Vượt Qua
năm ấy không phải là “con chiên một tuổi” nhưng là con chiên 33 tuổi. Đức Giê-su
sẽ bị chính dân của Người sát tế vào dịp Lễ Vượt Qua năm ấy. Máu của Con Chiên
Giê-su không còn được rảy trên hai cột cửa nữa nhưng được chia cho tất cả các môn
đệ. Tất cả các môn đệ đều chung chia cùng một chén ấy. Máu ấy không còn là dấu
hiệu để Thiên Chúa bỏ qua mà không giết các con đầu lòng của dân Do Thái, nhưng
là máu mà tư tế mang vào nơi cực thánh của đền thờ, mỗi năm một lần để làm lễ xá
tội cho dân. Chính vì thế mà Mát-thêu đã thêm vào “Máu được đổ ra cho muôn người
được tha tội”; hay thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giê-su: “Đây Chiên Thiên
Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29; Cf. Ga 1,36). Đức Giê-su không những
là Con Chiên bị sát tế nhưng là vị thượng tế đời đời, người dâng chính máu mình
để chuộc tội cho toàn dân như được nói đến trong thư Híp-ri. Không những thế, máu
của con Chiên Vượt Qua Giê-su còn là máu của Giao Ước giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Biên cương của dân Chúa giờ đây không còn giới hạn trong dân Ít-ra-el nhưng là “nhiều
người”. Thuở xưa Mô-sê đã rảy một nữa máu của con vật được sát tế trên bàn thờ
và một nữa trên dân là dấu chỉ hiệp thông giữa dân và Chúa. Ngày nay, nhờ máu của
Đức Ki-tô Thiên Chúa nối kết hiệp thông với toàn thể nhân loại. Việc tất cả các
môn đệ cùng uống chung một chén máu Đức Giê-su mang lại cho họ không những sự
hiệp thông với Chúa mà còn với nhau nữa. Cùng với việc chia sẻ cùng một tấm bánh,
là mình Đức Ki-tô họ được hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau một cách trọn vẹn.
Bí tích Thánh Thể tái hiện Hy Tế Thánh Giá Của Đức Ki-tô, mang đến ơn tha thứ tội
lỗi và cứu độ cho con người. Qua Bí Tích Thánh Thể, Thiên Chúa lại tái lập Giao
Ước hiệp thông với dân người là nhân loại, một giao ước vĩnh cửu. Việc tham dự
Bí Tích Mình và Máu Chúa đặc biệt là phần Hiệp Lễ làm cho người ta trở nên một
với Chúa và trở nên một với nhau. Tuy nhiên, lý tưởng đó dường như còn xa vời,
bởi nhiều khi người ta chỉ lãnh nhận Chúa cho riêng mình mà quên đi chiều kích “nên
một” nơi bí tích Thánh Thể. Hơn nữa bí tích Thánh Thể cũng là dấu chỉ của sự
trao ban. Đức Ki-tô đã trao ban thân mình và máu mình cho muôn người. Điều dường
như nghịch lý trong tình yêu là càng trao ban thì càng giàu có, và càng trao
ban thì càng lãnh nhận, và càng trao ban thì càng “nên một”. Thánh Gioan không
có tường thuật về việc lập bí tích Thánh Thể, nhưng ông lại ghi lai một diễn từ
hết sức ý nghĩa và quan trọng về bí tích này. Trong diễn từ “Bánh Hằng Sống”, Đức
Giê-su đã cho thấy sự cần kíp của việc phải “ăn thịt Chúa” và “uống máu Chúa”: “Ai
ăn thịt và uống máu tôi thì có sự sống đời đời, và tôi sẽ cho người ấy chỗi dậy
trong ngày sau hết” (Ga 6,54); “ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi
và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). Chiều kích cứu độ, sự sống vĩnh cửu và
sự hiệp thông nên một rõ ràng là những chiều kích nỗi bật của bí tích Tình Yêu
này. Qua việc lập bí tích Thánh Thể Đức Giê-su vừa báo trước Hy Tế Thánh Giá mà
Người sẽ hiến dâng. Đồng thời Người nâng cấp Giao Ước Sinai thành bản “mới” và
có hạn sử dụng “vĩnh cửu”, đặc biệt là bản này không giới hạn người dùng: cho “tất
cả mọi người”. Bản Giao Ước nâng cấp này có giá trị bằng chính mạng sống của Người:
“Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em” (1 Cr 11,24; Lc 22,19). Để “ký kết” bản Giao
Ước này, Người đã phải đổ máu ra hết: “Này là máu Thầy, Máu Giao Ước được đổ ra
vì muôn người” (Mc 14,24; Cf.Ga 19,34).
Joseph Phạm Duy
Thạch, SVD
[1] R.F. Collins, “First
Corinthians”, The Paulist Commentary (ed. J.E.A. Chiu et al.) (New York
2018) 1291.
[2] Xem thêm về “Lễ Bánh Không
Men”, Dictionary of Jesus and the Gospels (Ed. J.B.
Green) (Nottingham 2013) 273.
[3] Xem thêm về “Lễ Vượt Qua”,
Dictionary of Jesus and the Gospels, 273.
[4] Luca cho biết là Hằng Năm
Đức Giê-su đều lên Giê-ru-sa-lem, trong bối cảnh Luca trình bày sự kiện Đức
Giê-su “bị lạc” cha mẹ, ở lại trong đền thờ, ngồi giữa “các thầy dạy, vừa nghe
họ vừa đặt câu hỏi” (Lc 2,41-49). Tuy vậy, đây là thời gian Đức Giê-su còn ở với
cha mẹ tại Na-gia-rét. Chúng ta cũng có thể phỏng đoán rằng, Đức Giê-su vẫn tiếp
tục thói quen ấy, mỗi năm lên Giê-ru-sa-lem một lần, như những người Do Thái đạo
Đức. Thế nhưng, Gioan có điểm nhấn về 3 lần Lễ Vượt qua, trong khi các Tin Mừng
Nhất Lãm thì không đề cập.
[5] L. Koehler, et al., The Hebrew and Aramaic lexicon of the Old Testament,
947-948
[6] Xem B.M. Bokser, The
Anchor Dictionary (D.N. Freedman et Al. eds.) (New York – London – Tornto –
Syned – Auckland 1992) VI Si-Z, “Unleavened Bread and Passover, Feast
of.”,755-765; G.R.
Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 37.
[7] Dictionary of Jesus and
the Gospels (Ed. J.B. Green) (Nottingham 2013) 41,54,410.
[8] J.E.A. Chiu, “Mark”, The
Paulist Commentary (ed. J.E.A. Chiu et al.) (New York 2018) 1019.
[9] J. Marcus, Mark 8–16: A New Translation with Introduction and
Commentary (AnYB; New Haven – London 2009) 27A, 964.
[10] J. Marcus, Mark 8–16: A New Translation with Introduction and
Commentary (AnYB; New Haven – London 2009) 27A, 958.
[11] Bốn câu hỏi nhằm lý giải
cho sự khác biệt của đêm nay so với tất cả những đêm khác: (1) Đối với những
đêm khác chúng ta ăn hoặc bánh có men hoặc bánh không men, tại sao trong đêm
nay chỉ có bánh không men? (2) Trong những đêm khác chúng ta ăn tất cả các loại
rau, tại sao đêm nay chỉ có rau đắng? (3) Vào tất cả những đêm khác chúng ta
không cần chấm rau dù chỉ một lần, tại sao đêm nay chúng ta chấm rau đắng hai lần?
(4) Vào tất cả những đêm khác chúng ta ngồi hoặc nằm ăn, tại sao tối nay tất cả
chúng ta nằm quay quần?
[12] J.E.A. Chiu, “Mark”,
1019.
[13] J. Marcus, Mark 8–16: A New Translation with Introduction and
Commentary, 958.
[14] J.E.A. Chiu, “Mark”,
1020.
[15] J. Marcus, Mark 8–16: A New Translation with Introduction and
Commentary, 959; D.
Mangum, (ed.), Lexham Context Commentary: New Testament
(LCC; Bellingham 2020) Mk 14:22-25.
[16] “Đến ngày thứ ba, ngay từ
sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh.
Toàn dân trong trại đều run sợ.17 Ông Mô-sê đưa dân ra khỏi trại để nghênh
đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi. Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì ĐỨC CHÚA
ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển
mạnh. Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa
trả lời trong tiếng sấm. ĐỨC CHÚA ngự xuống trên núi Xi-nai, trên đỉnh núi.” (Xh
19,16-20).
[17]
“Ông Mô-sê xuống thuật lại cho dân mọi
lời của ĐỨC CHÚA và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời ĐỨC
CHÚA đã phán, chúng tôi sẽ thi hành.” Ông Mô-sê chép lại mọi lời của ĐỨC
CHÚA. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai
trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en. Rồi ông sai các thanh niên trong dân
Ít-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế ĐỨC CHÚA. Ông
Mô-sê lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn
thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những
gì ĐỨC CHÚA đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo.” Bấy giờ, ông Mô-sê lấy
máu rảy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước ĐỨC CHÚA đã lập với anh em, dựa
trên những lời này.” (Xh 24,3-8).
Công phu nghiên cứu quá anh ơi, chắc phải lấy nhíp mà gắp từng chữ bỏ vào cẩn thận mới khớp với khuôn khổ hàn lâm này, nhưng em phân vân không biết bên Do Thái giáo họ có khái niệm về ơn linh hứng hay không? Nếu có thì họ nói gì về Tân Ước của Ki-tô giáo, nếu không thì ơn linh hứng bên Ki-tô giáo nói gì về Cựu Ước?
ReplyDelete