Friday 28 May 2021

RA ĐI, MÔN ĐỆ HÓA MUÔN DÂN, LÀM PHÉP RỬA, DẠY TUÂN GIỮ. Chú giải Tin Mừng Lễ Chúa Ba Ngôi Năm B (Mt 28,16-20)

 Bản văn và bản dịch sát nghĩa

Hy Lạp

Việt

16Οἱ δὲ ἕνδεκα μαθηταὶ ἐπορεύθησαν εἰς τὴν Γαλιλαίαν εἰς τὸ ὄρος οὗ ἐτάξατο αὐτοῖς ὁ Ἰησοῦς,

 17καὶ ἰδόντες αὐτὸν προσεκύνησαν, οἱ δὲ ἐδίστασαν.

 18 καὶ προσελθὼν ὁ Ἰησοῦς ἐλάλησεν αὐτοῖς λέγων· ἐδόθη μοι πᾶσα ἐξουσία ἐν οὐρανῷ καὶ ἐπὶ [τῆς] γῆς.

 19 πορευθέντες οὖν μαθητεύσατε πάντα τὰ ἔθνη, βαπτίζοντες αὐτοὺς εἰς τὸ ὄνομα τοῦ πατρὸς καὶ τοῦ υἱοῦ καὶ τοῦ ἁγίου πνεύματος,

 20διδάσκοντες αὐτοὺς τηρεῖν πάντα ὅσα ἐνετειλάμην ὑμῖν· καὶ ἰδοὺ ἐγὼ μεθ᾽ ὑμῶν εἰμι πάσας τὰς ἡμέρας ἕως τῆς συντελείας τοῦ αἰῶνος.

 

 (Matt. 28:16-1:1 BGT)

16 Rồi Mười Một Môn Đệ ra đi vào vùng Ga-li-lê, vào ngọn núi mà Đức Giê-su đã chỉ định trước cho họ.

17 và khi thấy Người họ bái lạy, nhưng có những người vẫn hoài nghi.

18 và sau khi đến, Đức Giê-su nói cùng họ rằng: “Tôi đã được ban tất cả quyền trên trời và dưới đất”

19 vậy trong khi ra đi anh em hãy làm cho tất cả các dân tộc trở thành các môn đệ, làm phép dìm cho họ nhân danh của Cha, và Con và Pnêu-ma[1] Thánh,

20 Dạy họ tuân giữ tất cả những điều tôi đã truyền (chỉ dẫn) cho anh em. Và nghe này! Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận cùng của thời gian

Bối cảnh đoạn văn

Đoạn Tin Mừng Mt 28,16-20 nằm cuối cùng sách Tin Mừng thứ nhất (Tin Mừng Mát-thêu). Nó nằm trong loạt những đoạn Tin Mừng tường thuật lại việc Đức Giê-su hiện ra sau khi Người Phục Sinh. Đây là trình thuật về lần hiện ra cuối cùng, theo Mát-thêu. Lần hiện ra này là một cuộc hẹn trước ở Ga-li-lê. Theo Luca, rất có thể lần hiện ra cuối cùng này của Đức Giê-su xảy ra tại Giê-ru-sa-lem, vì ngay sau đó, Đức Giê-su dẫn các ông đến một nơi gần Bê-ta-nia, rồi lên trời tại đó (Lc 24,50-51). Mác-cô không đề cập đến nơi chốn của cuộc hiện ra này. Gioan cũng dường như cho thấy các cuộc hiện ra đều diễn ra tại Giệ-ru-sa-lem, ngoại trừ lần thứ 3, tại biển hồ Ti-bê-ri-a (Ga 21,1-14). Trong lần hiên ra này, trong cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều có mệnh lệnh truyền giáo. Tuy nhiên, mỗi tác giả ghi lại mỗi cách thức khác nhau. Trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giê-su nói rằng: “Khi đi ra khắp muôn phương, anh em hãy loan báo Tin Mừng cho khắp mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Thánh Luca cũng ghi lại mệnh lệnh rằng: “Phải rao giảng Phép Rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha thứ nhờ danh Người” (Lc 24,47). Thánh Mát-thêu lại nói đến mệnh lệnh làm cho mọi người trở thành môn đệ: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Thánh Gioan không ghi lại mệnh lệnh cụ thể nhưng vẫn không thiếu sự sai đi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Sách Công Vụ Tông Đồ, nói đến nhiệm vụ chứng nhân: “Bấy giờ anh em sẽ là những chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp miền Giu-đê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Một trong những đặc tính quan trọng nhất của mệnh lệnh này là “Phép Rửa”. Mác-cô nói đến việc “ai tin và chịu Phép Rửa” sẽ được cứu độ” (16,16a). Mát-thêu có công thức làm Phép Rửa nổi tiếng nhân danh Ba Ngôi, được Giáo Hội áp dụng cho đến ngày nay: “Làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Luca không đề cập đến làm “Phép Rửa”. Tuy vậy, Sách Công Vụ Tông đồ, cũng do Luca viết, kể lại rất nhiều hoạt động làm Phép Rửa của các Tông Đồ (Cv 2,41; 8,12-13.38). Phao-lô cũng chịu Phép Rửa khi trở lại (Cv 9,18). Công vụ Tông Đồ còn nói đến một Phép Rửa Nhân Danh Đức Giê-su (Cv 8,16). Chủ đề Phép Rửa trong mệnh lệnh của Đức Giê-su làm độc giả không thể không nghĩ đến Phép Rửa của Gioan Tẩy Giả. Gioan rao giảng “Phép Rửa của lòng sám hối” (Mt 3,11; Mc 1,4;). Ông làm Phép Rửa cho nhiều người (Mt 3,6-7; Mc 1,5; Lc 3,12; Lc 7,29; Ga 1,25; 3,23.26). Chính Đức Giê-su cũng chịu Phép Rửa bởi Gioan Tẩy Giả (Mt 3,13.16). Theo Tin Mừng Gioan, chính Đức Giê-su cũng làm Phép Rửa (“sau đó Đức Giê-su và các môn đã đi tới miền Giu-đê, Người ở lại đó với các ông và làm Phép Rửa”: Ga 3,22; Ga 4,1). Các Tin Mừng còn nhắc đến việc Đức Giê-su được Gioan Tẩy Giả giới thiệu như là Đấng làm Phép Rửa trong Thánh Thần (Mt 3,11, Mc 1,8; Lc 3,16; Ga 1,33; Mt và Lc thêm vào “và lửa”). Trong Sách Công Vụ, chính Đức Giê-su đã hứa rằng các Tông Đồ sẽ được “Rửa trong Thánh Thần” (Cv1,5; 11,16). Biến cố Ngũ Tuần trong Cv 2,1-12, là hiện thực hóa lời hứa này. Trong khi Mác-cô và Lu-ca đều trình thuật sự kiện Đức Giê-su lên trời (Mc 16,19; Lc 24,50; Cv 1,9), Mát-thêu lại ghi lại lời hứa “ở cùng” của Đức Giê-su: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19). Lời hứa “ở cùng” vào cuối đoạn này gọi nhớ đến danh xưng của Hài Nhi Giê-su đã được nhắc đến khi giải thích cho mệnh lệnh của sứ thần là phải đặt tên con trẻ là Giê-su. Lời ghi chú là: “tất cả những sự việc này đã xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa phán qua miệng các ngôn sứ ‘này đây trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, và người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-el, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,22-23). Lời ghi chú này ám chỉ đến Is 7,14 nói về lời hứa về sự giáng sinh Đấng Mê-si-ah.

Giới hạn bản văn

Đoạn văn được tách biệt với đoạn trước đó bằng một sư thay đổi về không gian rõ nét: Ga-li-lê. Hơn nữa, nội dung, sự kiện và nhân vật cũng khác hoàn toàn so với đoạn văn trước đó. Đoạn 28,11-15, trình thuật về sự kiện lính canh báo cho các Thượng tế viết sự việc “ngôi mộ trống”. Rồi các Thượng Tế cho lính canh tiền và chỉ cho họ cách nói dối rằng: “các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác”. Kết quả là câu chuyện ấy vẫn đượng phổ biến giữa người Do Thái cho đến ngày nay. Đoạn Mt 28,16-20 là cuộc hẹn giữa Đức Giê-su và các môn đệ với mệnh lệnh truyền giáo và lời hứa “ở cùng mọi ngày cho đến tận thế”.

             Cấu trúc 

            Mt 28, 16-20 có thể được chia thành 5 tiểu phần. Tiểu phần (A) là phần giới thiệu về bối cảnh: nơi chốn và nhân vật. Bốn tiểu phần còn lại được cấu trục theo kiểu bậc cấp: tiểu phần sau đi theo tiểu phần trước và được đặt nền trên tiểu phần trước nó. Tiểu phần (B) là cuộc gặp gỡ và có biểu hiện hoài nghi nơi một số môn đệ. Tiểu phần (C) Đức Giê-su minh chứng Người đã được trao quyền trên trời và dưới đất. Sau khi đã trấn an các môn đệ bởi sự khẳng định quyền, trong tiểu phần (D) Đức Giê-su trao ban sứ vụ gồm bốn hành động: (i) Ra đi; (ii) Làm cho muôn dân trở thành môn đệ; (iii) Làm Phép Rửa nhân danh Cha và Con và Pnêu-ma Thánh; (iv) dạy họ tuân giữ những điều Đức Giê-su đã truyền. Cuối cùng, sau khi trao ban sứ vụ là (E): Lời hứa ở cùng mọi ngày cho đến tận thế.

(A) Bối cảnh: Không gian và nhân vật: Ga-li-lê, núi; Đức Giê-su và các môn đệ (28,16)

(B) Gặp gỡ và phản ứng: Bái lạy và một số hoài nghi (28,17)

(C) Khẳng định quyền: “Tôi đã được ban tất cả quyền trên trời và dưới đất” (28,18)

(D) Mệnh lệnh: Ra đi,

            làm cho muôn dân thành những môn đệ,

làm phép dìm,

dạy tuân giữ (28,19 -20a)

(E) Lời hứa: “Ở cùng mọi ngày cho đến tận cùng của thời gian” (28,20b)

Một số điểm chú giải

1.     Ga-li-lê: Đây là vùng đất quê hương của Đức Giê-su và của các môn đệ.[2] Ga-li-lê thuộc miền Bắc của nước It-ra-el. Đây chính là vùng đất Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ và trải qua hầu hết thời gian rao giảng của mình. Ga-li-lê thời Chúa Giê-su được chia làm hai vùng là Ga-li-lê thượng và Ga-li-lê hạ. Trong khi Ga-li-lê thượng hầu hết là những vùng đồi núi khô cằn thì Ga-li-lê hạ là vùng đất trù phú có nhiều đồng bằng thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Ga-li-lê có đại lộ Đông-Tây nổi tiếng, là đường giao thương buôn bán qua lại giữa các vùng. Đặc biệt Ga-li-lê hạ có hai thành phố giàu có và nổi tiếng Se-pho-ris và Tiberia. Đây là hai thành phố được Hê-rô-đê An-ti-pa xây dựng. Thành phố Ti-be-ri-a nằm ngay bên biển hồ Ga-li-lê. Chính vì thế mà biển hồ Ga-li-lê còn được gọi là biển hồ Ti-be-ri-a (Ga 6,1). Thành cổ Ca-phác-na-um nằm ngay bên bờ biển hồ Ga-li-lê. Bét-sai-da, Na-gia-rét, núi Ta-bo, Mác-đa-la, Ca-na đều nằm trong vùng Ga-li-lê. Muốn đi từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem người ta phải băng qua miền trung Samari. Tại sao Đức Giê-su lại bắt đầu sứ vụ của Người tại Ga-li-lê và Ga-li-lê có phải là vùng đất của dân ngoại? Là hai câu hỏi mà các nhà chú giải vẫn còn nhiều tranh luận. Có thể Ga-li-lê là vùng đất của dân ngoại nên Đức Giê-su dành nhiều thời gian tại đây để rao giảng Tin Vui. Hoặc cũng có thể vì Đức Giê-su là người Na-gia-rét nên Người quen thuộc Ga-li-lê hơn vùng kinh thành Giê-ru-sa-lem. Có một điều khá lạ lùng là Thánh Kinh chẳng có một tường thuật nào ghi lại Người vào một thành phố lớn nào như Se-pho-ris hay Tiberia để rao giảng. Người ưa thích miền quê, ven biển và miền núi, vùng dân ngoại ngoài Ga-li-lê. Giê-ru-sa-lem cũng chỉ là nơi Người trải qua cuộc Thương Khó và bị giết chết. Mát-thêu nhắc đến địa danh Ga-li-lê 17 lần. Đó là nơi Đức Giê-su cha-con Đức Giê-su lui về khi trở về từ Ai-cập (Mt 2,22); chịu phép rửa (Mt 3,13; Mc 1,9); là nơi Đức Giê-su khởi đầu sứ vụ rao giảng (Mt 4,12; Mc 1,14); là nơi Người chọn 4 môn đệ đầu tiên (Mt 4,18; Mc 1,16); nơi Đức Giê-su thông báo về việc Người sẽ bị nộp vào tay người đời (Mt 17,22). Hơn nữa, Ga-li-lê còn là điểm hẹn đặc biệt giữa Đức Giê-su và các môn đệ sau khi Người Phục Sinh: Đức Giê-su hứa rằng “sau khi được chỗi dậy tôi sẽ đi Ga-li-lê trước anh em” (Mt 26,32; Mc 14,28); lời hứa này được thiên thần nhắc lại với Ma-ri-a Ma-đa-lê-nê và một bà Maria khác: “Người đã được trỗi dậy từ cõi chết và Người thực sự đi trước anh em đến Ga-li-lê, nơi đó anh em sẽ được gặp Người” (Mt 18,7; Mc 16,7); rồi, chính Đấng Phục Sinh cũng nhắc như vậy trong mệnh lệnh của Người: “hãy đi và bảo anh em của tôi đến Ga-li-lê, họ sẽ được thấy tôi ở đó (Mt 18,10). Nơi khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su cũng là nơi khởi đầu sứ vụ các môn đệ. Đức Giê-su ngay sau khi nghe tin Gioan bị nộp đã “rút lui về miền Ga-li-lê” để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaiah: ‘Ga-li-lê vùng đất của dân ngoại, đoàn dân đang ngồi trong bóng tối đã thấy một ánh sáng huy hoàng (Mt 4,14-16; Cf. Is 9,1-2). Dân ngoại bây giờ không còn gói gọn trong vùng Ga-li-lê nữa những là “toàn thể các dân nước”, bắt đầu từ Ga-li-lê.[3] Thế nhưng, đừng quên, hoạt động và hoa trái, những mẻ lưới nặng cá đầu tiên đã diễn ra tại Giê-ru-sa-lem được ghi lại trong sách Công Vụ Tông Đồ.

2.     Đã chỉ định trước”: Động từ “định trước, sắp xếp trước” được chia ở thì aorist, ngôi thứ 3 số ít. Đức Giê-su đã định trước một ngọn núi nơi mà họ sẽ gặp lại sau biến cố Phục Sinh và khi các bà nhắc đến lời hứa hẹn này, chắc chắn các môn đệ biết là nơi nào. Sự định trước này có thể nằm trong lời hứa này: “sau khi được chỗi dậy tôi sẽ đi Ga-li-lê trước anh em” (Mt 26,32; Mc 14,28). Ngọn núi tự cho thấy sự nối kết với nhân vật Mô-sê của thời Cựu Ước, hình ảnh vốn được Mát-thêu ám chỉ đến nhiều. Ví dụ như Bài Giảng Trên Núi (Mt 5,1); Đức Giê-du dẫn bộ ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan lên núi (Mt 17,1-2); Đức Giê-su lên núi ngồi và đám người đông đảo kéo đến với Người.[4]

3.     Những người hoài nghi”: Tin Mừng Mat-thêu chỉ tường thuật hai lần Đức Giê-su hiện ra sau khi Người Phục Sinh. Lần thứ nhất, Người hiện ra với bà Maria Ma-da-lê-nê và một bà Maria khác trên đường họ trở về từ “Ngôi mộ trống”. Lần thứ hai, chính là lần hẹn ở Ga-li-lê này. Việc nhóm Mười Một Đến Ga-li-lê giả định rằng trước đó những bà này đã gặp gỡ nhóm này và đã nói với họ về mệnh lệnh của Đức Giê-su: “về báo cho anh em của thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ gặp Thầy ở đó” (Mt 28,10). Nghĩa là, trước lần này, theo Mát-thêu, chưa có môn đệ nào gặp Đức Giê-su và lần mà họ gặp Đức Giê-su duy nhất chính là lần hẹn Ga-li-lê. Chính vì thế, sự nghi ngờ trong lòng một số người hoặc có thể là toàn bộ Nhóm Mười Một, cũng có thể lý giải được. Tin Mừng Mác-cô ghi lại cảm giác hoài nghi của các môn đệ còn ly kỳ hơn. Bà Maria Ma-đa-lê-nê, sau khi gặp Chúa Phục Sinh, đi nói với những người đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc, nhưng họ không tin lời bà (Mc 16,10-11). Hai người môn đệ trên đường về quê, sau khi đã thấy Chúa Phục Sinh, quay trở lại báo cho những ông khác nhưng những ông này cũng không tin (Mc 16,12-13). Cuối cùng, khi Đức Giê-su hiện ra với nhóm Mười Một, Người đã khiển trách sự không tin và cứng lòng của các ông (Mc 16,14). Luca ghi lại cách mà Đức Giê-su xóa tan mối nghi ngờ trong lòng các ông qua nhiều giai đoạn: (1) bằng lời trấn an và mời gọi nhìn xem và sờ chạm: “Nhìn chân tay thầy coi, chính thầy đây ma! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy thầy có đây?” (Lc 24,39-40); (2) Ăn cá nướng: “Các ông đưa cho Người một phần cá nướng, Người cầm lầy và ăn trước mặt các ông” (Lc 24,42-43). Tất cả những chứng cứ này cho thấy rằng mối nghi ngờ về Đấng Phục Sinh vốn tồn tại trong lòng các môn đệ. Trong lần gặp này, Đức Giê-su phải giải quyết, đánh tan mọi mối nghi ngờ và trao ban sứ vụ làm chứng cho người khác tin nữa.

4.     Quyền năng trên trời dưới đất”: Khác với trong Mác-cô và Luca, Đức Giê-su khiển trách và làm nhiều điều để xóa tan mọi nghi ngờ của các môn đệ, ở đây Đức Giê-su chỉ khẳng định Người có “quyền năng trền trời và dưới đất”, toàn thể không gian của vũ trụ. Theo tác giả Michel, đây là một trong 3 đặc tính của lối kết luận Tin Mừng theo mẫu thức của nghi thức phong vương nơi vùng Trung Cận Đông Cổ: (i) quyền năng, (ii) chủ quyền và (iii) sự nhận biết mang tính hoàn vũ. Tác giả Jeremias cũng cung cấp một phân tích liên hệ: (1) Sự tôn vinh, (ii) Công bố và (iii) Sự lên ngôi.[5]

5.     Làm cho muôn dân thành môn đệ”: Cụm danh từ “πάντα τὰ ἔθνη” (tất cả các dân tộc) mở rộng biên cương của những ứng viên trở thành môn đệ Đức Giê-su ra vô tận. Cho đến lúc các môn đệ nhận mệnh lệnh này, nhóm môn đệ có thể là chỉ Nhóm Mười Một, nhóm bảy mươi hai môn đệ, cùng tất cả những người tin vào Đức Giê-su. Thế nhưng, mệnh lệnh này mời gọi các môn đệ mở rộng biên cương cho tất cả mọi người. Họ phải làm cho tất cả mọi người trên thế giới này trở thành môn đệ của Đức Giê-su. Sứ vụ của họ không còn đơn giản là các các con chiên lạc nhà Ít-ra-el (Mt 10,6; 15,24) nhưng là cho muôn quốc gia như Đức Giê-su đã từng dự đoán (Mt 24,14; Cf. 26,13).[6]

6.     Làm phép dìm: Động từ “báp-tí-dồ” (βαπτίζω) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là dìm trong nước, hay thanh tẩy bằng cách rửa. Mát-thêu cũng như các Tin Mưng Nhất Lãm khác đã nói đến Phép Rửa của lòng hoán cải của Gioan Tẩy Giả. Phép dìm trong bối cảnh này khác với của Gioan Tẩy Giả. Phép Rửa này là Phép Rửa trong Thánh Thần. Niềm tin căn bản là tin vào sứ điệp Tin Mừng mà các Tông Đồ rao giảng: Đức Giê-su là Đấng Ki-tô mà Cựu Ước đã nói đến; Người đã chết và Phục Sinh để mang lại sự sống vĩnh cửu cho những người tin. Phép Rửa này chính là Phép Rửa mà Gioan an Tẩy Giả đã từng báo trước khi ông rao giảng Phép Rửa của lòng sám hối. Gioan đã rao giảng rằng sẽ có một Phép Rửa trong Thánh Thần và lửa (Mt 3,11; Mc 1,8; Lc 3,16). Chính Đức Giê-su cũng nhắc lại Phép Rửa của Gioan và hứa Phép Rửa trong Thánh Thần cho các môn đệ (Cv 1,5; Cf. 11,16). Như tác động của Thánh Thần trên cuộc đời và sứ vụ của Đức Giê-su, sứ vụ của các Tông Đồ cũng không thể sinh hoa trái nếu không có Thánh Thần. Phép Rửa trong Thánh Thần này được ban cho các Tông Đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Cv 2,1-13). Sau biến cố Ngũ Tuần, Phê-rô đã rao giảng và kêu gọi: “Anh em hãy sám hối và mỗi người hãy chịu Phép Rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ của Thánh Thần” (Cv 2,38). Phép Rửa này được làm nhân danh Đức Giê-su và thụ nhân sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Phi-líp-phê rao giảng và làm Phép Rửa cho người Samari (Cv 8,12); sau đó Phê-rô và Gioan đến cầu nguyện cho họ để họ nhận được Thánh Thần (Cv 8,15-16). Phao-lô đã làm Phép Rửa nhân danh Đức Giê-su cho nhóm 12 môn đệ của Gioan Tầy Giả và đặt tay ban Thánh Thần cho họ (Cv 19,1-7).

7.     Nhân danh của Cha và Con và Pnêuma Thánh (ἁγίου πνεύματος): Mẫu thức vô tiền của Phép Dìm dành cho các môn đệ mới nối kết Con với Cha và Pnêu-ma Thánh trong một danh xưng đơn nhất. Xuyên suốt Tin Mừng đã có những dấu vết cho thấy Đức Giê-su là nhân vật nào đó hơn một người rao giảng bình thường hay thậm chí hơn cả Mê-si-ah. Người tương quan với Chúa như Con với Cha, và trong nhiều cách khác nhau Mát-thêu đã cho phép chúng ta nhìn thấy Người hành động với quyền năng Thiên Chúa; trong sự đến của Người, Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.[7] Công thức này cũng gợi nhớ đến “khoảnh khắc Ba Ngôi” vào thời điểm khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Sau khi Đức Giê-su chịu Phép Dìm của Gioan Tẩy Giả, Người Thấy Pnêu-ma đi xuống trên mình và nghe giọng nói của Cha xác nhận: “đây là Con ta yêu dấu, nơi Người ta hài lòng” (Mt 3,16-17). Chịu Phép Dìm nhân danh Cha và Con và Pnêu-ma Thánh là được dìm vào bên trong một sự hiệp thông tình yêu Thiên Chúa-nhân loại. Ứng viên trở thành một người con yêu dấu trên đó sự ưa chuộng của Cha ngự trị.[8] Được làm môn đệ qua Phép Dìm nhân danh Ba Ngôi, là cơ may để các môn đệ chia sẻ tình con thảo với Cha trên trời, và sống tình yêu hiệp thông Ba Ngôi với Đức Giê-su và Pnêu-ma Thánh, cũng như với tất cả mọi người. Đó là căn tính và lý tưởng mà người môn đệ Đức Giê-su phải vươn đến.

8.     “Tất cả những điều tôi đã truyền”: tất cả những điều Đức Giê su đã truyền là cách nói tổng quát nhìn ngược lại để tóm lược tất cả sứ vụ rao giảng của Đức Giê-su.[9] “Tuân giữ” đề nghị rằng giữ Luật như đã được Đức Giê-su diễn giải trong Bài Giảng như thể là ghi nhớ lời kêu gọi của Người liên quan đến “điều Chúa muốn” (lòng thương xót hơn là của lễ) (Mt 9,13; 12,17); lời mời gọi của Người đối với người thanh niên (nếu anh muốn nên hoàn thiện) (Mt 19,17-21); câu trả lời của Người về điều răn trọng nhất (Mt 22,34-40); và tiêu chuẩn để vào sự sống đời đời được đưa ra trong bối cảnh cuộc xét xử cuối cùng (Mt 25,31-46).[10]

9.     “Ở cùng”: Sách Cựu Ước nói đến lời hứa “ở cùng” khi Chúa trao ban sứ vụ trong hai trường hợp. (i) Trong bối cảnh Đức Chúa sai ông Giô-suê con ông Nun, Người nói “hãy mạnh mẽ và can trường, vì ngươi sẽ mang dân Ít-ra-el vào trong vùng đất mà ta đã thề sẽ ban cho họ. Ta sẽ ở cùng ngươi” (Đnl 31,23). (ii) Đức Chúa lặp lại vơi Giô-suê một lần nữa với nhiều cách nói khác nữa: “không có người nào có thể địch nỗi ngươi trong mọi ngày đời của ngươi. Như thể Ta đã ở cùng Mô-sê, Ta cũng sẽ ở cùng ngươi. Ta sẽ không bỏ rơi ngươi hay rời xa ngươi” (Gs 1,5); “hãy mạnh mẽ lên và hãy can đảm lên. Đừng sợ, và đừng nao núng vì Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi sẽ ở với ngươi mọi nơi ngươi đi” (Gs 1,9). Đó là những lời hứa chắc chắn, đảm bảo cho sự thành công của Giô-suê trong sứ mạng chinh phục đất hứa. Như đã nói trên, lời hứa “ở cùng” cũng gợi nhớ đến lời công bố của sứ thần về sự Giáng Sinh của Đức Giê-su nhằm hoàn thành lời hứa thần linh đã được ghi lại trong Is 7,14. Người sẽ được gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Biến cố này chỉ có Mát-thêu ghi nhận và ông lại kết thúc Tin Mừng bằng lời hứa “ở cùng” như một cái kết trọng vẹn. Đức Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chính vì thế mà, cuối cùng, Người sẽ ở cùng các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế. “Sự ở cùng” của Đức Giê-su là hết sức cần thiết cho sứ vụ “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” của các môn đệ. Tin Mừng Mác-cô không ghi lại lời hứa “ở cùng” một cách lọng trọng như Mát-thêu. Thế nhưng, trong lúc trao ban sứ vụ truyền giáo ấy, người ta vẫn nhận ra một “sự ở cùng” của Đức Chúa. Đó là sự ở cùng bằng cách “cùng hoạt động với các ông và làm những dấu lạ kèm theo” nhằm chứng nhận những điều các ông rao giảng (Mc 16,20). Trong Tin Mừng Luca, Đức Giê-su cũng hứa sẽ “gửi đến với anh em điều Cha Thầy đã hứa” tức là Pnêu-ma Thánh (Lc 24,49). Nghĩa là, Pnêu-ma Thánh sẽ “ở cùng” và đồng hành cùng với các môn đệ trong suốt hành trinh thi hành sứ vụ mà Đức Giê-su đã giao phó. Sách Công Vụ đã cho thấy sự hiện xuống và tác động của Pnêu-ma Thánh trên hoạt động truyền giáo của các Tông Đồ và đời sống Giáo Hội.

Bình luận tổng quát

Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi như là một tổng kết cho việc cử hành mầu nhiệm Nhập Thể và Mầu Nhiệm Cứu Độ. Thiên Chúa là một nhân vật của lịch sử cứu độ; nhưng Thiên Chúa không hề trừu tượng, cô đơn. Người là một Thiên Chúa Cộng Đoàn tình yêu, Cha, Con, và Pnêu-ma Thánh. Từ tình yêu sung mãn của gia đình Thiên Chúa phát xuất tình yêu chảy tràn trong nhân loại. Tình yêu tạo dựng là một bằng chứng cho một sự thông ban tình yêu dạt dào của Thiên Chúa Tình yêu trên vạn vật và nhất là con người. Con người được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa lại vô hình vô tượng, vậy thì con người giống Thiên Chúa ở góc độ nào. Có lẽ, con người giống Thiên Chúa nhất ở mức độ yêu thương. Thiên Chúa đã phú bẩm nơi con người hơi thở sự sống, cũng là hơi thở tình yêu của Người. Và rồi, con người chỉ thật sự trở nên giống Thiên Chúa hết sức có thể khi họ không ngừng lan tỏa yêu thương trong gia đình riêng của mọi người và gia đình chung của nhân loại. Chẳng những thế mà con người luôn được tạo nên trong một gia đình. Nó được sinh ra cùng lúc bởi người cha và người me. Đây là hai đối tượng, hai nhân vật của một tình yêu nên một. Từ tình yêu của họ mà nhân loại có những con người. Tuy vậy, đã từ bao giờ nhân loại, các đôi vợ chồng trẻ trở nên nghi ngờ món quà tình yêu là con cái. Đã có vô số bạn trẻ nghĩ rằng những thành viên mới trong một gia đình là một gánh nặng về mọi mặt, cho đến nỗi họ giảm thiểu ít nhất có thể món quà tình yêu này. Đức Thánh Cha và Nước Ý đang nói về một mùa đông ảm đảm về con cái đang trải dài trên nước Ý và nhiều nước Âu Châu trong một thời gian dài. Đức Thánh Cha đã nói rất chí lý rằng: “một xã hội không chào mừng sự sống là xã hội ngừng sống”.[11] Khi nạn dịch Covid ập đến, thiếu khẩu trang nơi các nước Ý, Anh, người ta mới chợt giật mình nhận ra Âu Châu đang phụ thuộc quá nhiều về lực lượng sản xuất trẻ ở những nước Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc. Không sanh con, các trường mẫu giáo đóng cửa dần, nhân công lao động trẻ không còn bao nhiêu; tỷ lệ người già, hưu trí, người hưởng chế độ quá đông. Tuổi thọ ngày càng cao, người ta sống ngày càng dài; tỷ lệ người lao động quá ít dần dần không còn đủ để chu cấp cho đại bộ phận dân số già nữa. Đó thực sự là một vấn đề xã hội nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự sống còn của nhân loại. Vấn đề nghiêm trọng ấy có nguyên nhân sâu xa từ vấn đề xác tín niềm tin tôn giáo, quan niệm về quà tặng sự sống. Những giá trị niềm tin liên quan đến nền tảng gia đình và con cái đang ngày càng bị xem nhẹ và bị đẩy ra ngoài quan niệm sống của đại bộ phận dân ki-tô giáo Tây Phương. Đối với họ, dường như sống dồi dào đồng nghĩa với sự sung túc về vật chất và đảm bảo những quyền lợi hưởng thụ cá nhân một cách thoải mái. Tỷ lệ tinh con cao là một trong những mối hiểm họa của chất lượng cuộc sống của họ. Con cái không còn là món quá vô giá và là sản phẩm của tình yêu gia đình nữa.

Mừng Lễ Chúa Ba Ngôi, các môn đệ Chúa được mời gọi nhân rộng thành viên con cái Chúa, mở rộng phạm vi gia đình nhân loại bằng bốn hành động: (i) Ra đi; (ii) Làm cho tất cả mọi dân tộc trở thành môn đệ; (iii) Làm Phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Pnêu-ma Thánh; (iv) Dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền dạy cho anh em. Để họ thành công trong sứ vụ thánh, Đức Giê-su đã hứa sẽ ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế. Sự vụ của họ nói một cách đơn giản là gieo trồng tình yêu của Thiên Chúa trong mọi ngóc ngách của trần gian này. Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là “anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu” (1 Ga 4,8). Sứ vụ của họ theo khía cạnh phụng tự và bí tích, là phải làm Phép Dìm nhân danh Cha và Con và Pnêu-ma Thánh, cho những người tin vào Đức Giê-su để họ trở thành Ki-tô hữu, sống cam kết yêu thương như Chúa Ki-tô. Việc chịu Phép Dìm nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi không chỉ mang lại cho họ danh xưng và phẩm vị làm Con Chúa nhưng họ còn được ban tặng một trái tim yêu thương của cộng đoàn ba Ngôi yêu thương tuyệt đối, thuần khiết, không tách lìa. Mầu nhiệm cứu độ và mầu nhiệm Nhập Thể được khép lại bằng mệnh lệnh ra đi và gieo trồng tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là thời điểm kết thúc sứ vụ trần thế của Đức Giê-su và cũng là lúc mở ra sứ vụ của Giáo Hội với sự đồng hành luôn mãi của Người. “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ” nghĩa là làm cho nhân loại này có nhiều sứ giả yêu thương theo khuôn mẫu tình yêu Ba Ngọi Thiên Chúa.

Joseph Phạm Duy Thạch, SVD



[1] ἁγίου πνεύματος. Tính từ ἁγίου (haghion) có thế dịch là “thánh”, nhưng mà danh từ πνεύματος không biết phải dịch thế nào cho ổn nghĩa vì nó có rất nhiều nghĩa: tinh thần, linh hồn, khí, gió, hơi thở….

[3] B. Brendan, “Matthew”, The Paulist Commentary (ed. J.E.A. Chiu et al.) (New York 2018) 970.

[5] W.D. Davies – D.C.Jr. Allison, the Gospel according to Saint Matthew, 676.

[6] R.T. France, The Gospel of Matthew (NICNT; Grand Rapids 2007) 1108.

[7] Ibid.

[8] B. Brendan, “Matthew”, The Paulist Commentary, 971.

[9] W.D. Davies – D.C.Jr. Allison, the Gospel according to Saint Matthew, 678.

[10] B. Brendan, “Matthew”, The Paulist Commentary, 971.

No comments:

Post a Comment