Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy
Lạp |
Việt |
Ἐγώ εἰμι ἡ ἄμπελος ἡ ἀληθινὴ καὶ ὁ πατήρ μου ὁ γεωργός ἐστιν. 2 πᾶν κλῆμα ἐν ἐμοὶ μὴ φέρον
καρπὸν αἴρει αὐτό, καὶ πᾶν τὸ καρπὸν φέρον καθαίρει
αὐτὸ ἵνα καρπὸν πλείονα φέρῃ. 3 ἤδη ὑμεῖς καθαροί ἐστε διὰ τὸν
λόγον ὃν λελάληκα ὑμῖν· 4 μείνατε ἐν
ἐμοί, κἀγὼ ἐν ὑμῖν. καθὼς τὸ κλῆμα
οὐ δύναται καρπὸν φέρειν ἀφ᾽ ἑαυτοῦ ἐὰν μὴ μένῃ ἐν τῇ ἀμπέλῳ, οὕτως οὐδὲ ὑμεῖς ἐὰν μὴ ἐν ἐμοὶ μένητε. 5 ἐγώ εἰμι ἡ
ἄμπελος, ὑμεῖς τὰ κλήματα. ὁ μένων ἐν ἐμοὶ κἀγὼ ἐν αὐτῷ
οὗτος φέρει καρπὸν πολύν, ὅτι χωρὶς ἐμοῦ οὐ δύνασθε
ποιεῖν οὐδέν. 6 ἐὰν μή τις μένῃ ἐν ἐμοί, ἐβλήθη ἔξω ὡς τὸ κλῆμα καὶ ἐξηράνθη καὶ συνάγουσιν αὐτὰ καὶ εἰς τὸ
πῦρ βάλλουσιν καὶ καίεται. 7 ἐὰν μείνητε ἐν ἐμοὶ καὶ τὰ ῥήματά μου ἐν ὑμῖν μείνῃ, ὃ ἐὰν θέλητε αἰτήσασθε,
καὶ γενήσεται ὑμῖν. 8 ἐν τούτῳ ἐδοξάσθη ὁ πατήρ μου, ἵνα
καρπὸν πολὺν φέρητε
καὶ γένησθε ἐμοὶ μαθηταί. (Jn. 15:1-8 BGT) |
1 Tôi là cây nho đích thực và Cha
Tôi là người trồng nho. 2 Cành nào trong Tôi mà không sinh hoa trái, Ngài lấy nó đi, và cành nào sinh hoa trái thì Ngài cắt tỉa để nó sinh nhiều hoa trái hơn. 3 Anh em đã được sạch nhờ lời Tôi đã nói với anh em 4 Hãy ở lại
trong Tôi và Tôi ở trong anh em hệt như cành nho
không thể tự mình sinh hoa trái nếu nó không ở lại trong cây nho. Cũng như thế, Anh em cũng không (sinh
hoa trái) nếu không ở lại
trong Tôi. 5 Tôi là cây nho, anh em là những cành cây. Người nào ở lại trong và Tôi ở trong nó, người
này sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Tôi
anh em không thể làm gì được. 6 Nếu ai không ở
lại trong Tôi, người đó sẽ bị quăng ra ngoài như cành nho bị khô héo, và người ta gom lại và
quăng vào lửa, và nó được đốt đi. 7 Nếu anh em ở lại
trong Tôi và những lời
của tôi ở lại
trong anh em, hãy xin điều mà anh em muốn, và nó sẽ xảy ra cho anh em. 8 Vì điều này Cha Tôi được tôn vinh để anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Tôi. |
Bối cảnh
Đoạn Ga 15,1-10
nằm trong phần thứ III của Tin Mừng thứ tư có tên là “Sách của sự tôn vinh”
(13,1 – 20, 29). Cũng xin nói thêm rằng, nhiều chuyên gia đồng ý rằng Tin Mừng
thứ tư được chia làm 3 phần rõ nét. Phần I là phần “Lời tựa” (1,1-18)[1].
Phần II được gọi là “Sách của các dấu (lạ)” gồm hơn kém 12 chương, từ 1,19 –
12,50[2]. “Sách
của sự tôn vinh” là tên gọi của phần III, từ 13,1 – 20,29 (chương 13 câu 1 đến
chương 20 câu 9). “Sách của sự tôn vinh” nói về việc Đức Giêsu “về cùng Cha”,
trở lại với sự vinh quang mà Người có trước mọi thời. Nó khởi đầu bằng hành động
Đức Giêsu cúi xuống rửa chân cho từng mộn đệ, cho cả Phêrô, kẻ chối Thầy và Giuđa,
kẻ nộp thầy (13,1-20); rồi tiếp theo sau đó, là “diễn từ chia tay” kéo dài từ
13,31 – 16,33; phần III này tiếp tục với trình thuật về cuộc Tử Nạn diễn tả
cách thức Đức Giêsu đi về cùng Cha (18,1 – 19,42) (đây là Bài Thương Khó thường
được đọc hoặc hát vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh). Kết thúc phần III này (Sách của
sự tôn vinh) là những trình thuật về “Sự Phục Sinh” (20,1-31).[3]
Tin Mừng Nhất
Lãm có những trình thuật liên quan đến vườn nho. Mátthêu nói đến dụ ngôn, tạm gọi
là “Người chủ vườn nho tốt bụng” (20,1-16). Dụ ngôn này nói đến một người thợ
thuê mướn nhân viên làm vườn nho cho mình. Điều đặc biệt là ông không căn cứ
trên số giờ của nhân viên ấy làm việc mà trả lương cho họ. Đối với những người
vào làm từ giờ đầu tiên, ông trả một quan tiền/ một ngày như đã thỏa thuận; còn
đối với những người vào làm giờ sau cùng, ông cũng trả một quan theo tình
thương và lòng quảng đại của ông. Mátthêu còn kể một dụ ngôn khác về “hai người
con” được cha mình nhờ cậy đi làm vườn nho (21,28-32). Người con thứ nhất lúc đầu
từ chối nhưng sau lại hối hận và lại đi làm; ngược lại người con thứ hai gật đầu
nhưng rồi lại không đi làm. Dụ ngôn kết luận rằng: “Những người thu thuế và
nhưng cô gái điếm vào Nước Trời trước” các thượng tế và các kỳ mục (Mt 21,31).
Dụ ngôn “những ta điền sát nhân” được cả 3 Tin Mừng Nhất Lãm nói đến (Mt
21,33-42; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19). Trong dụ ngôn này, các tá điền được giao cho
việc canh tác vườn nho và nộp hoa lợi cho ông chủ. Họ không những không nộp hoa
lợi đừng mùa mà con đánh, giết, ném đá các đầy tớ của ông chủ và giết cả đứa
con duy nhất của ông. Trong Tin Mừng Gioan, đoạn mà chúng ta đang nghiên cứu, Đức
Giêsu không nói dụ ngôn về vườn nho, nhưng Người tự bạch rằng “Người là cây nho
thật” và “Cha” của Người là “Người trồng nho” còn các môn đệ là “những cành
nho” đây là mối tương quan chặt chẽ giữa Chúa Cha, Đức Giêsu và các môn đệ. Sự
gắn bó này được diễn tả bằng cụm động từ “ở lại trong”. Như những cành nho gắn
liền với cây nho, các môn đệ cũng gắn liền bằng cách ở lại trong Đức Giêsu như
vậy. Chủ đề “ở lại” đã được nói đến trong đoạn trước đó: “ai yêu mến Thầy thì sẽ
giữ Lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với
người ấy” (Ga 14,23). Các môn đệ có thể đón nhận Thần Khí vì họ biết Người.
“Người (Thần Khí) luôn ở lại giữa họ và trong họ” (Ga 14,17). Tiếp theo sau đoạn
này (15,1-8), Đức Giêsu tiếp tục mời gọi các môn đệ “hãy ở lại trong tình
thương của Thầy” bằng cách “giữ các điều răn của Thầy”, hệt như Đức Giêsu “ở lại
trong tình thương” của Cha bằng cách “giữ cách điều răn” của Chúa Cha (Ga 15,10).
Trong bối cảnh của toàn Tin Mừng Gioan, ngay từ chương đầu tiên, hai môn đệ của
Gioan Tẩy Giả đã “đến xem nơi Đức Giêsu ở và ở lại với Người ngày hôm đó” (Ga
1,39). Trong “Diễn từ Bánh Hằng sống”, Đức Giêsu cũng khẳng định rằng “ai ăn thịt
và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). Đức
Giêsu cũng đã nói với những “Người Do Thái đã tin Người” rằng “nếu anh chị em ở
lại trong lời của tôi, anh chị em thực sự là môn đệ của tôi” (Ga 8,31). Chủ đề
tiếp theo, chủ đề “sinh hoa trái”, cũng xuất hiện nhiều lần trong cả Tin Mừng
thứ tư và Tin Mừng Nhất Lãm. Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giêsu đã nhấn mạnh sự cần
thiết của sự “thối đi” của hạt lúa mì gieo vào lòng đất mới sinh ra nhiều bông
hạt khác (Ga 12,24). Liền ngay sau đoạn này, Đức Giêsu nói rằng: “Tôi đã cắt đặt
anh em ra đi và sinh nhiều hoa trái, hoa trái sẽ tồn tại” (Ga 15,16). Tin Mừng
Nhất Lãm đề cập đến lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả: “Hãy sinh hoa trái xứng với
lòng hoán cải” (Mt 3,8.10; Lc 3,8-9). Ở Tin Mừng Nhất Lãm, độc giả cũng tìm thấy
hành động nghiêm khắc của Đức Giêsu đối với cây vả không sinh hoa trái. Người
nguyền rủa: “muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của ngươi nữa” (Mc 11,14; Mt
21,19) và cây vả này sau đó đã “chết khô tận rễ” (Mc 11,20; Mt 21,19). Luca kể
“dụ ngôn cây vả không ra trái” để nhấn mạnh sự kiên nhẫn. Trong dụ ngôn này,
người chủ vườn đã muốn chặt cây vả không ra trái nhưng người làm vườn lại xin
thêm một năm nữa để hy vọng nó sẽ có trái vào năm tới (Lc 13,6-9). Một vài điểm
phác họa sau khi quan sát về bối cảnh rộng cũng như hẹp của đoạn Tin Mừng để thấy
sự nối kết chủ đề của đoạn Ga 15,1-8, trong Tin Mừng Gioan và toàn bộ cách Sách
Tin Mừng.
Giới hạn và cấu trúc
Giới hạn
Đoạn Ga 15,1-8
có sự thống nhất về nội dung và dấu hiệu về ngôn ngữ chuyển đoạn. Chủ đề Đức Giêsu
là “cây nho” và các môn đệ là những “cành nho” là chủ đề thống nhất của riêng
đoạn này. Cả đoạn trước và đoạn sau đó không đề cập đến chủ đề này. Từ ngữ “cây
nho” và “cành nho” chỉ gói gọn trong đoạn này (cây nho: Ga 15,1.5; cành nho: Ga
15,2.4.5.6)[4].
Có sự thay đổi về không gian cách rõ nét giữa cuối chương 14 và đầu chương 15
(14,31 và 15,1). Cuối chương 14 (cụ thể ở Ga 14,31), Đức Giêsu ra lệnh: “Hãy đứng
dậy, chúng ta đi khỏi đây”. Đức Giêsu muốn ngụ ý đi đâu? Có nhiều ý kiến khác
nhau. Có tác giả cho rằng Đức Giêsu sẽ đi gặp kẻ thù như đã nói trong Tin Mừng Máccô:
“Hãy đứng dậy, chúng ta đi nào, kìa kẻ nộp Thầy đã đến” (Mc 14,42). C.S. Keener
nghĩ rằng Đức Giêsu đi về cùng Chúa Cha như Người đã nói trước đó: “Ta đi về
cùng Cha và tôi là đường cho anh em về cùng Cha” (Ga 14,3-6.28.31).[5] Điều
chắc chắn là có sự chuyển đổi về không gian vào cuối chương 14. 15,1 rất có thể
là một không gian khác. Đoạn 15,1-8 có thể kết ở 15,8 vì chủ đề “sinh hoa trái”
được khởi đầu trước đó và đóng khung tại đây. Trước đó chủ đề sinh hoa trái đa
được nhắc đến: “Cành nào không sinh hoa trái thì Người chặt đi” (15,2a); “cành
nào sinh hoa trái thì Người tỉa tót” (15,2b); “cành nho không thể tự mình sinh
hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho” (15,4); “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở
trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (15,5). Cuối cùng, chốt lại
“điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn
đệ của Thầy” (15,8).[6]
Cấu trúc
Sau khi quan
sát kỹ, xin chia đoạn Tin Mừng này thành hai tiểu phần dựa trên hai lời giới
thiệu khá giống nhau của Đức Giêsu: “Tôi là cây nho đích thực” (15,1) và “tôi
là cây nho” (15,5a). Tiểu phần I được định dạng bằng cấu trúc quy tâm. Thành phần
(B) Được sạch “nhờ lời” Đức Giêsu “đã nói”, là thành phần trung tâm của cấu
trúc. Thành phần (A) Không sinh hoa trái – lấy đi và sinh hoa trái – cắt tỉa,
song song với (//) (A’) Ở lại và sinh hoa trái. Tiểu phần thứ II được cấu trúc
bởi hai cặp thành phần song song với nhau. Thành phần (A) Ở lại và sinh hoa
trái // (A’) Sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Thành phần
(B) Không ở lại, thì bị quăng ra ngoài, khô héo, người ta gom lại và đốt đi
(tiêu cực) song song và đối lại với thành phần (B’) Ở lại, cầu xin và được như
ý (tích cực). Một cách ngắn gọn có thể nói cấu trúc tổng thể của đoạn này gồm
hai phần lớn song song với nhau: (I) Đức Giêsu là cây nho và Cha Người là người
trồng nho // (II) Đức Giêsu là cây nho và các môn đệ là những cành nho. Ghép
hai thành phần này lại độc giả có thể thấy một mối liên hệ xuyên suốt từ Cha –
Đức Giêsu – các môn đệ: Cha “trồng”, “chăm sóc” và “nuôi dưỡng” cây nho Giêsu
và Đức Giêsu “sinh ra”, “chăm sóc” và “nuôi dưỡng” các cành nho là môn đệ của
Người. Các môn đệ lai sinh hoa trái để mang vinh quang cho Cha.
(I) Giới thiệu: TÔI LÀ CÂY NHO ĐÍCH THỰC
VÀ CHA TÔI LÀ NGƯỜI TRỒNG NHO (15,1). (A) Không sinh hoa trái
– lấy đi; hoặc sinh hoa trái – cắt tỉa – sinh nhiều hơn (15,2) (B)
Sạch nhờ lời mà Tôi đã
nói (15,3) (A’) Ở lại trong Thầy và sinh hoa trái (15,4) (II) Giới thiệu: TÔI LÀ CÂY NHO, ANH EM LÀ NHỮNG CÀNH CÂY (15,5a) (A)
Ở lại và sinh hoa trái (15,5b) (B) Không ở lại trong Thầy, bị quăng ra
ngoài, khô, gom, đốt (15,6) (B’) Ở lại trong Thầy, cầu xin và được như ý (15,7) (A’)
Sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ - Cha được tôn
vinh (15,8) |
Một số điểm chú giải
1. “Cây
nho đích thực”: Đoạn Tin Mừng mang tính tự bạch của Đức Giêsu bắt đầu bằng
lối nói long trọng quen thuộc của Đức Giêsu “ego eimi” (ἐγώ εἰμι: tôi
là). Kiểu nói này cũng là kiểu từ ngữ đặc trưng của Tin Mừng Gioan. Đây chính
là cụm từ mà Thiên Chúa đã mạc khải tên của Ngài cho ông Môsê. Trong lần đầu
tiên Môsê giáp mặt với Chúa nơi “bụi gai rực cháy”, ông đã hỏi tên của Chúa và
Người đã trả lời rằng: “ἐγώ εἰμι”. Nghĩa là “ta là Đấng ta là, Ta là Đấng
Hằng Hữu, Ta là Đấng hiện hữu” (rất khó dịch chính xác nghĩa của cụm từ này).
Thực ra, đó cũng chỉ là cách dịch tiếng Hy Lạp từ tiếng Do Thái (ngôn ngữ gốc của
Thánh Kinh Cựu Ước). Trong tiếng Do Thái, tên của Chúa được viết là “ אֶֽהְיֶ֖ה
אֲשֶׁ֣ר אֶֽהְיֶ֑ה ”
(tôi là Đấng tôi là). Nói như thế để thấy rằng kiểu nói này khá long trọng, khi
Đức Giêsu muốn tuyên bố một điều gì long trọng Người thường dùng điều này.
Trong Tin Mừng thứ tư, từ chương 1 đến chương 3, độc giả có thể thấy Gioan Tẩy
Giả cũng dùng y chang cụm từ này nhưng ông thường thêm trạng từ phủ định “uck”
(không) (ἐγὼ οὐκ εἰμὶ: tôi không
là), để cho thấy ông là người dọn đường cho Đấng Kitô, nhưng ông không là Đấng Kitô
(ví dụ trong 1,20 và 3,28: “tôi không là Đấng Kitô”; trong 1,21: “Tôi không là
Êlia”; trong 1,27: “Tôi không xứng đáng để cởi quai dép cho Người”). Ngược lại
Đức Giêsu luôn luôn là: “Tôi là” (Đấng Kitô) (Ga 6,26); “Chính Thầy đây, đừng sợ”
(Ga 6,20); “Tôi là bánh trường sinh” (Ga 6,35.48.51); “Tôi là bánh từ trời xuống”
(Ga 6,41); “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 8,12); “khi các ông treo Con Người
lên, các ông sẽ biết rằng “tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28); “trước khi có Ápraham, tôi
Hằng Hữu” (Ga 8,58). Kiểu nói: “Tôi là” + Đại từ xác định + danh từ + đại từ
xác định + tính từ, chúng ta gặp trong đoạn này “Εγώ εἰμι ἡ ἄμπελος ἡ ἀληθινὴ”
(“Tôi là cây nho đích thực”: Ga 15,1), rất giống với kiểu nói “Ἐγώ εἰμι ὁ ποιμὴν ὁ καλός”
(“tôi là mục tử nhân lành” :10,11.14). Tính từ “đích thực” sẽ định nghĩa cho
danh từ “cây nho” cũng như tính từ “tốt lành” định nghĩa cho “mục tử”.
Hình ảnh cây nho gợi nhớ đến truyền thống
các ngôn sứ diễn tả Ítrael là “cây nho sinh hoa trái” (Os 10,1).[7]
Khi Ítrael hối lỗi và trở về, Đức Chúa sẽ làm cho họ “sinh sôi nẩy nở tựa cây
nho” (Os 14,8). Đức Chúa hứa với dân “còn sót” rằng họ sẽ là “hạt giống bình
an: cây nho sẽ cho quả” (Kg 8,12). Ítrael là “cây nho tuyển” mà Đức Chúa đã trồng
(Gr 2,21). Is 5,1-7 nói đến một “bài ca vườn nho”, trong đó, ông chủ đã làm tất
cả những gì có thể để trồng và chăm sóc vườn nho: Đồi màu mỡ, giống nho quý, nhặt
đá, cuốc đất, xây vọng gác, khoét bồn đạp nho. Ông chờ đợi nó sinh trái tốt,
nhưng nó lại sinh nho dại (Is 5,1-3). Như đã nói trong phần bối cảnh, hình ảnh
cây nho cũng gợi nhớ đến dụ ngôn “hai người con được sai đi làm vườn nho”, “dụ
ngôn tá điền sát nhân” được nói đến trong các Tin Mừng Nhất Lãm. Tuy nhiên, ở
đây chính Đức Giêsu là cây nho “thật”, chứ không phải Ítrael hay một vườn nho
nào khác.
Trong đoạn Tin Mừng này, câu “tôi là cây
nho” được lặp lại hai lần (15,1.5), nhưng chỉ có lần thứ nhất (15,1), tính từ
“đích thật” (ἡ ἀληθινὴ) đi kèm theo. Tuy nhiên, có thể ở lần thứ hai (15,5) tác
giả tránh lặp lại tính tứ “đích thực” một lần nữa. Dù có hay không tính từ này ở
lần thứ hai thì Đức Giêsu vẫn là “cây nho thật”. Có lẽ, phẩm tính “đích thực” ở
đây đối lại với “cây nho” Ítrael đã bao lần không sinh trái hoặc sinh nho dại.[8] Phẩm
tính “đích thực” cũng muốn diễn tả sự phẩm tính tốt, “chính hiệu” của cây nho
mà hễ cành nào phát sinh từ nó đều có hoa trái phẩm chất tốt, như sẽ thấy sau.
Đức Giêsu không dùng lối so sánh, Tôi “giống như” cây nho, cũng như Người cũng
không nói các môn đệ “giống như” những cành nho. Người “LÀ” cây nho, và các môn
đệ “LÀ” cành. Điều đó không có nghĩa rằng Người đồng hóa mình với cây nho. Điều
mà Người muốn nhấn mạnh sau đó là mối tương quan cố hữu tự nhiên giữa cây nho
và cành nho cũng phải là mối tương quan giữa các môn đệ và Người. Đó là mối
quan hệ mang đến sự sống còn cho cành nho, cũng như các môn đệ. Chính vì vậy, E.
Haenchen – R. Funk – U. Busse gọi đó là lối diễn tả tương ứng một cách chính
xác thực tại của tính “môn đệ”.[9]
2. “Người
trồng nho”: “Cây nho thật này” có nguồn gốc từ “Cha của” Đức Giêsu. Có thể
vì được “Người Cha” trồng nên cây nho này “đích thực” nhất trong các cây nho.
Trong toàn bộ Thánh Kinh, chỉ có Đức Giêsu là cây nho “thật” và “Người cha”
cũng là người duy nhất trồng cây nho này. Nếu như Đức Giêsu là cây nho thì người
trồng chỉ có Chúa Cha mà thôi. Danh từ “georgos” (γεωργός) trong tiếng
Hy Lạp có nghĩa đầu tiên là “nông dân”, người canh tác đất đai: “chính người
nông dân là người đáng được chia sẻ vụ mùa đầu tiên” (2 Tm 2,6). Ngoài ra, nó
còn có nghĩa khác là “người làm vườn”, “người giữ vườn nho”, “người trồng nho”,
“chủ vườn nho”.[10]
Nghĩa là, người Cha có thể bao gồm tất cả các vai trò này. Người chủ vườn nho
trong dụ ngôn “tá điền sát nhân” (Mc 12,1-12) có thể ngụ ý đến người Cha này bởi
vì nó đề cập đến chi tiết, cuối cùng người chủ gửi người con duy nhất của mình
đến để thu hoa lợi, nhưng các tá điền cũng giết cậu và quăng ra ngoài vườn nho
(Mc 12,8). Sách Sáng Thế cũng nói đến Nô-ê là người đàn ông canh tác đất đai
(St 9,20).
3. “Lấy
đi … cắt tỉa”: Một cách tự nhiên, khi chăm sóc vườn nho, người chủ sẽ khôn
ngoan cắt tỉa cho những cành cây cho nhiều quả; còn những cành cây không có quả
thì ông sẽ chặt bỏ đi, nếu không, chất đinh dưỡng sẽ bị chia cho những nhành
cây vô ích. Người Cha cũng sẽ cắt tỉa để những cành cây sinh hoa trái sẽ có nhiều
hoa trái hơn. Động từ diễn tả hành động của Người Cha đối với những cành không
sinh hoa trái là “áirô” (αἴρω) có
nghĩa là lấy đi, tách lìa cành ra khỏi cây nho. Theo lẽ thường, cành nào gắn với
cây nho “đích thực” thì phải sinh hoa trái, nếu không sinh hoa trái thì không nên
gắn vào đó nữa. Động từ “kaitháirồ” (καθαίρω) dùng để diễn tả hành động của Người Cha dành cho những cành sinh hoa
trái. Động từ này có hai nghĩa: (1) Làm sạch; (2) Cắt tỉa những cành cây. Trong
bối cảnh này nghĩa thứ hai có vẻ phù hợp hơn. Tuy nhiên, nếu kết hợp với tính từ
“sạch” ở câu tiếp theo: “Anh em đã được sạch rồi” thì nghĩa thứ nhất lại phù hợp
hơn. Hay nói đúng hơn, cả hai nghĩa cũng được dùng phối hợp với nhau, “cắt tỉa”
cũng có nghĩa là “làm sạch”, “làm cho gọn gàng”.
Theo cấu trúc, phần (A)
Không sinh hoa trái –
lấy đi; hoặc Sinh hoa trái – cắt tỉa (15,2) song song với phần (A’) Ở lại trong Thầy và sinh
hoa trái (15,4). Điều này chứng tỏ rằng (A) sẽ được soi sáng và hiểu
rõ nhờ (A’) và ngược lại. (A) Nói đến việc cành nho sinh hoa trái sẽ được cắt tỉa
để sinh nhiều hoa trái hơn. Tuy nhiên, muốn sinh được hoa trái thì trước tiên
cành nho phải “ở lại trong” Đức Giêsu (ἐν ἐμοὶ) và được Chá cắt tỉa.
Sự cắt tỉa này có hiệu quả là các môn đệ được sạch.
4. “Được
sạch nhờ lời mà Thầy đã nói”: Theo cấu trúc, đây là phần trung tâm của tiểu
phần thứ nhất. Đang nói về việc “cắt tỉa” cành nho để nó sinh nhiều hoa trái
hơn (15,2), Đức Giêsu bất ngờ chuyển hướng: “Anh em đã được sạch nhờ lời Thầy đã nói vói anh em” (15,3). Tuy
nhiên, câu này nối kết cách chặt chẽ với cả câu trước câu sau đó (15,4). Nó nối
kết với câu trước bằng tính từ sạch “καθαρός”. Động từ “cắt tỉa” (καθαίρω) ở
câu trước đó cũng có nghĩa là làm sạch.[11] Động
từ này có cùng nguồn gốc với tính từ “sạch”. Như thế, sự “cắt tỉa” hay “làm sạch”
của cành nho liên hệ đến “sự sạch sẽ” của các môn đệ. Nó nối kết với câu sau đó
bằng đặc tính sinh hoa trái. Muốn sinh nhiều hoa trái nhiều thì phải được “làm
sạch” hay “cắt tỉa”. Giới từ “đìa” (διὰ) + danh từ ở đối cách
(accusative), diễn tả nguyên nhân của một hành động nào đó. Vì thế, “διὰ
τὸν λόγον”, có thể hiểu là “vì lời”.
Lời này được giới hạn bởi mệnh đề tình từ “vì lời mà thầy đã nói với anh em”. Động
từ nói “laléồ” (λαλέω) được chia ở thì hoàn thành, diễn tả một hành động
đã diễn ra mà hiệu quả vẫn còn trong hiện tại. Nguyên nhân các môn đệ được sạch
là vì lời mà Đức Giêsu đã nói. Lời này là lời nào? C. Barette cho rằng “tiến
trình rửa sạch là toàn bộ sự phục vụ yêu thương dành cho nhân loại, đỉnh cao là
cái chết; “lời” cũng là thông điệp cứu độ mà Người mang.[12] Nói
về cách thức lời “làm cho các môn đệ sạch”, R. Brown giải thích rằng nó không
có nghĩa rằng qua hoặc nhờ lời Đức Giêsu công bố mà các môn đệ tự nhiên được sạch.
Đúng hơn nó là vấn đề của sự hoạt động, làm việc của lời ấy trong lòng các môn
đệ. Lời ở đây có nghĩa là toàn bộ lời dạy của Đức Giêsu.[13] Nói
cách khác, chính lời Đức Giêsu làm cho họ được biến đổi và được sạch. “Lời” của
Đức Giêsu cũng được lặp lại ở số nhiều (những lời) đi kèm với lời mời gọi: “Anh
em hãy ở lại trong Thầy” và “Những lời của Thầy ở lại trong anh em” (15,7). Nếu
cả hai điều này xảy ra cùng lúc thì bất cứ điều gì họ muốn, và cầu xin, điều đó
sẽ thành hiện thực. Trong Tin Mừng thứ tư, nhiều lần Đức Giêsu dạy về tác dụng
của “lời” của Người: “Lời Thầy đã nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (Ga
6,63); “nếu anh em ở lại trong lời của Thầy, anh em thực sự là môn đệ của Thầy”;
“ai giữ lời Thầy sẽ không bao giờ thấy sự chết” (Ga 8,51.52); Chính Phêrô cũng
xác tín: “Thầy có những lời của sự sống đời đời, chúng con biết đến với ai nữa?”
(Ga 6,68). J. Moloney cho rằng được làm sạch bởi lời của Đức Giêsu bao gồm một
sự chấp nhận đối với mạc khải về Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.[14]
5. “Quăng
ra ngoài, khô héo, gom lại, quăng vào lửa và đốt đi”: Hình ảnh này như tiếp
nối và mở rộng hình ảnh ở 15,2 và là hình ảnh đối nghịch của 15,7 như đã thấy
trong phần cấu trúc.
(a) Nối
tiếp với 15,12: Ở 15,2 Đức Giêsu nói đến số phận của những cành nho không
sinh hoa trái. Chúng sẽ bị tách ra khỏi cây nho. Và dĩ nhiên một khi bị tách ra
khỏi thân nho thì cành nho sẽ khô héo và chết. Ở 15,6, Đức Giêsu diễn tả một
cách đầy đủ, mạnh mẽ và triệt để hơn về số phận của những ai “không ở lại
trong” Người: “nếu ai không
ở lại trong Tôi, nó sẽ bị quăng ra ngoài như cành
nho bị khô héo, và người ta gom lại và quăng vào lửa, và nó được đốt đi.”.
Có 4 động từ được dùng trong câu này: “Quăng ra ngoài”; “Bị khô héo”; “Gom lại”;
“bị đốt cháy”. Trong bốn động từ được dùng đó có đến ba động từ diễn tả sự loại
bỏ và tận diệt rất mạnh. Thậm chí, động từ “quăng, ném” (βάλλω) được dùng đến 2 lần: “Quăng ra ngoài” và “ném vào lửa”. Phải
nói đây là sự tận diệt bởi nó đi đến bước cuối cùng là “đốt cháy” thành tro.
Đây là tiến trình bình thường mà người nông dân xử lý những cành nho “không hoa
trái” của mình. Đức Giêsu đã khéo dùng hình ảnh tự nhiên đời thường để diễn tả
một số phần nghiệt ngã của những người “không ở lại” trong Chúa. Ngôn từ “gom lại”,
“quăng vào lửa” và “đốt đi” phảng phất tư tưởng dứt khoát mạnh mẽ của Gioan Tẩy
Giả trong Tin Mừng Nhất Lãm: “Cây rìu đã được đặt dưới gốc cây, vì thế bất kỳ
cây nào không sinh hoa trái thì bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10; Lc 3,9)[15];
“Tay Người cầm nia, thóc mẩy thì bỏ vào kho còn vỏ trấu thì Người sẽ đốt đi bằng
lửa không hề tắt” (Mt 3,12; Lc 3,17). Đức Giêsu cũng nói đến việc “cỏ lùng sẽ
được gom lại và đốt đi”, tương tự “những nguyên nhân tội lỗi và người làm điều
xấu sẽ bị ném vào lò lửa” (Mt 13,40.42.50). Đây là những hình ảnh của ngày cánh
chung (tận thế). R. Brown ghi chú, khi dùng danh từ “lửa” với mạo từ xác định (τὸ
πῦρ), có thể tác giả có ý đề cập đến lửa của sự trừng phạt thời cánh
chung.[16]
(b) Song
song nhưng đối lại về nghĩa với 15,7: 15,7 Nói đến điều kiện “nếu như anh
em ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong anh em thì hãy xin điều anh em muốn, nó
sẽ xảy ra” trong khi đó 15,6 nói về việc “không ở lại trong”: quăng ra ngoài,
khô héo, gom lại, quăng vào lửa và bị đốt. Kiểu hành văn song đối làm nỗi bật
hai hình ảnh trái ngược giữa hai chọn lựa khác nhau của những người tin.
6. “Ở
lại trong” (μένω ἐν):
Theo cấu trúc, trong phần (A’), Đức Giêsu mời gọi các môn đệ “hãy ở lại trong
Thầy”. Động từ “μένω” được sử dụng với mật
độ dày đặc trong đoạn văn này. Có ít nhất 7 lần động từ này được dùng trong đoạn
văn chỉ có 8 câu (“Hãy ở lại trong Thầy như Thầy trong anh em”; “trừ khi cành
nho ở lại trong cây nho”; “trừ khi anh em ở lại trong Thầy” (15,4); “Ai ở lại
trong Thầy và Thầy trong người ấy” (15,5); “Nếu ai đó không ở lại trong Thầy”
(15,6); “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy trong ở lại trong anh em”
(15,7). Mạch chảy của động từ “ở lại trong” vẫn tiếp tục cho đến những câu sau
đoạn này: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (15,9); “nếu anh em giữ những điều
răn của Thầy, anh em ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy giữ điều răn của Cha
Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (15,10). Đó là chưa tính đến những lần
tác giả ngụ ý để tránh lặp lại động từ này. Rõ ràng, chủ đề “ở lại trong” là một
chủ đề trọng yếu trong đoạn này. Chủ đề “ở lại trong” kéo dài đến Ga 15,16.
Nghĩa là thêm 8 câu sau đoạn này nữa. C. Keener gọi chủ đề này là thần học chủ
đạo của đoạn này hệt như là “cây nho” và “hoa trái” là hai hình ảnh chủ đạo.[17] Việc
so sánh sự “ở lại trong Thầy” giống như “cành nho ở lại” trong cây nho, cho thấy
một sự gắn bó tự nhiên, cố hữu quyết định sự sống chết của cây nho. Khi cành nho
tách khỏi cây nho, nó sẽ chết. Cũng vậy, nếu không “ở lại trong” Đức Giêsu các
môn đệ cũng sẽ chết. Như thế, người tín hữu không phải là một con người tự quyết
theo kiểu muốn làm gì thì làm theo ý mình nhưng là người luôn lãnh nhận điều mới
từ Đức Giêsu, cũng như Đức Giêsu không nói và làm điều gì tự mình. Người làm điều
Người thấy Chúa Cha làm (Ga 5,19.36; 8,28; 10,25.37) và nói những điều Chúa Cha
trao phó (“Điều tôi nói, tôi nói như là Chúa Cha đã bảo tôi” (Ga 12,50). “Chúa
Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ờ trong Chúa Cha” (Ga 14,11).
7. “Sinh
hoa trái… sinh nhiều hoa trái”: Chủ đề “ở lại trong” đi liền sát bên chủ đề
“sinh hoa trái”. Có thể nói rằng, hai chủ đề này như là một “cặp bạn nhảy” ăn ý
lầu năm trong đoạn Tin Mừng này. Cụm động
từ “sinh hoa trái” (φέρον καρπὸν) xuất hiện đến 6 lần (động từ “ở lại”
cũng xuất hiên 7 lần) trong đoạn văn gồm 8 câu (câu 2: 3 lần; câu 4: 1 lần; câu
5: 1 lần; câu 8: 1 lần). Ngoài ra, có một lần nó xuất hiện cách ẩn ý nữa: “Cành
nho không tự mình sinh hoa trái nếu không gắn liền với cây nho; cũng như vậy,
anh em cũng không (sinh hoa trái) nếu không ở lại trong Thầy”. Hành động “sinh
hoa trái” có hai cấp độ: (1) Sinh hoa trái và (2) “Sinh nhiều hoa trái” (καρπὸν
πολύν: 15,2.5.8). Nghĩa là luôn có mức độ tiến triển
trong việc “sinh hoa trái”. E. Haenchen – R. Funk – U. Busse cho rằng tác giả
có sự phân biệt giữa hai sự (có thể là 3) “không hoàn hảo” của những người tin
vào Chúa: Từ mức độ khô héo đến mức độ sinh hoa trái và đến sinh nhiều hoa
trái.[18] Muốn
“Sinh nhiều hoa trái” phải chịu sự cắt tỉa (15,2). Ai muốn “sinh nhiều hoa
trái” phải ở lại trong Đức Giêsu và Đức Giêsu ở lại trong anh ta/chị ta. Hơn nữa,
“sinh nhiều hoa trái là một trong những điều “làm cho Chúa Cha được tôn vinh.
Danh từ “hoa trái” trong cụm động từ “sinh hoa trái” hay “sinh nhiều hoa trái”
nên hiểu theo nghĩa nào vẫn là một đề tài đáng bàn luận. C. Keener không ngần
ngại gọi đó là “hoa trái của tình yêu” nối kết với đề tài “ở lại trong tình
yêu” được nói đến ngay sau đó (15,10).[19]
Ngoài ra, ông còn đề xuất một số loại “hoa trái” khác trong bối cảnh toàn Tin Mừng
Gioan: (1) Hoa trái của chứng từ Kitô hữu được nói đến trong (Ga 4,36: “Người
thu hoạch đã được nhận phần thường và thu lượm hoa trái cho sự sống đời đời”;
Ga 12,4: “nếu hạt lúa rơi xuống đất mà thối đi thì “nó mới sinh nhiều bông hạt”);
(2) Hoa trái về luân lý đạo đức. Trong bối cảnh Tin Mừng Nhất Lãm có thể nói đến
lời rao Giảng của Gioan Tẩy Giả: “Hãy sinh hoa trái xứng với lòng hoán cải” (Mt
3,8.10; Lc 3,8-9). Trong bối cảnh trực tiếp của đoạn văn, “Sinh nhiều hoa trái”
có liên quan đến “trở thành môn đệ của” Đức Giêsu và liên quan đến sự tôn vinh
của Chúa Cha.
8. “Cha
được tôn vinh”: Chủ đề “sinh nhiều hoa trái” khép lại đoạn văn. “Sinh nhiều
hoa trái”, cùng với việc “trở thành môn đệ” là hai tiêu chuẩn để Chúa Cha được
tôn vinh. Như đã nói trên, trong phần “bối cảnh”, đoạn 15,1-8 nằm trong “Sách của
sự tôn vinh”. Vì thế, chủ đề tôn vinh được nhắc đến ở đây cũng là điều dễ hiểu.
Chỉ có một điều khác biệt là sự kết hợp giữa “sinh hoa trái” và “trở thành môn
đệ” là những điều làm cho Chúa Cha được tôn vinh. Nếu xâu chuỗi toàn bộ các
hình ảnh liên quan đến nhau từ đầu đến giờ lại. Ta có thể nói như sau: Chúa Cha
là người trồng và chăm sóc cây nho Giêsu – cây nho Giêsu là nơi để cho các
“cành cây” môn đệ “ở lại” – và nếu “ở lại trong cây nho” Giêsu thì nó sẽ sinh
nhiều hoa trái – “Sinh nhiều hoa trái” và “ở lại trong” Giêsu là những đặc tính
của những người môn đệ - Và những đặc tính này làm cho Chúa Cha được tôn vinh.
Nói gọn lại: Chúa Cha trồng cây nho Giêsu
là để cho các môn đệ nhờ Người mà sinh hoa trái và họ càng sinh nhiều hoa trái
tốt thì Chúa Cha lại được tôn vinh. Đó là vòng tuần hoàn trong mối tương quan
yêu thương cứu độ Chúa Cha dành cho nhân loại. Động từ “tôn vinh” được dùng ở thì
aorist có thể ngụ ý hai nghĩa: (1) Sẽ được tôn vinh và (2) Luôn luôn được tôn
vinh. Mỗi khi các môn để thể hiện “căn tính” môn đệ nơi mình bằng cách sinh nhiều
hoa trái tốt lành, thì Chúa Cha sẽ được tôn vinh. R. Brown cho rằng, nó có thể
có yếu tố “một lần cho tất cả” trong thì aorist này, bởi vì các môn đệ tiếp tục
sứ vụ của Đức Giêsu và duy trì hiệp thông với Người, vậy nên, chỉ có một sứ vụ
được chia sẻ bời Người Con và các môn đệ. Trong một sứ vụ này, Chúa Cha được
tôn vinh.[20]
9. “Trở
thành môn đệ của Tôi”: Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giêsu gọi các môn đệ là
“môn đệ của tôi” trong 3 dịp. Ngoài lần này (15,8), “trở thành môn đệ của tôi”
đi đôi với “sinh nhiều hoa trái” làm thành hai đặc tính để Chua Cha “được tôn
vinh”, Đức Giêsu còn đề cập đến 2 điều kiện để được gọi là môn đệ của Người. Thứ
nhất, “Ở lại trong lời của Người” (“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, các
ông thật là môn đệ của tôi: Ga 8,31). Thứ hai, “Có tình yêu thương lẫn nhau”
(“mỗi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của thầy, nếu anh em có lòng yêu
thương nhau”: Ga 13,35). Điểm quy chiếu của mức độ yêu thương của các môn đệ
dành cho nhau là “như Thầy đã yêu”. “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu” là
“điều răn mới” Đức Giêsu ban cho các môn đệ. “Điều răn mới” cũng là “lời” đã được
Đức Giêsu ban ra. Nghĩa là hai điều kiện mà Đức Giêsu đưa ra ở hai dịp khác
nhau, có một sự nối kết mật thiết với nhau. “Ở lại trong lời” và “yêu thương
nhau như Thầy đã yêu” là hai cách diễn tả của cùng một nội dung. “Ở lại trong lời”
nghĩa là hòa làm một với “lời” trở thành “con của lời” và lời trở thành lẽ sống,
lối sống của người môn đệ. Lẽ sống, lối sống căn bản, nền tảng, bao trùm mọi “lời”
của Đức Giêsu là điều răn mới: “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”.
Bình luận chung
Phụng vụ tuần
IV Phục Sinh cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về Mục Tử Tốt Lành Giêsu. Vị Mục Tử
ấy tốt lành ở 3 điểm chính: (1) Người dám hy sinh tính mạng vì đoàn chiên. Đây
là đặc tính làm cho Cha yêu mến vị mục tử và cũng là mệnh lệnh của Cha; (2) Người
biết chiên của Người mà chiên của Người biết Người, một sự hiểu biết đỉnh cao hệt
như Con biết Cha và Cha biết Con; (3) Vị mục tử có hoài bảo tìm kiếm, quy tụ tất
cả các con chiên thành một đàn chiên duy nhất và một vị mục tử. Trong đoạn Tin
Mừng tuần V Phục Sinh, độc giả cũng tìm thấy cách hành văn và lối diễn tả tương
tự về một vai trò khác của Đức Giêsu: “Người là cây nho đích thực”. Trong truyền
thống Cựu Ước, Ítrael là một vườn nho được Thiên Chúa trồng và chăm sóc, nhưng
nhiều khi nó sinh nho dại chứ không sinh trái ngọt trái ngon. Trong bối cảnh
đo, Đức Giêsu tự bạch rằng “Người là cây nho thật”. Từ cây nho này, hoa trái tốt
lành sẽ được sinh ra. Cây nho thật có nguồn gốc từ Cha, được Cha trồng và chăm
sóc. Chính Chúa Cha là người chịu trách nhiệm tối cao cho tất cả những gì Đức Giêsu
nói và mạc khải.[21]
Nguồn gốc và cách thức chăm sóc của Cha làm cho “cây nho” Giêsu trở thành cây
nho độc nhất vô nhị. Với cây nho chính hiệu, phẩm chất tốt như thế thì lẽ ra bất
cứ “cành cây nào gắn liền” với nó đều phải sinh hoa trái. Tuy nhiên, thực tế,
không phải bất cứ “cành nho” gắn liền với cây nho đều sinh hoa trái. Một cách tự
nhiên, có những cành không sinh hoa trái và bị lấy đi; và nhiều cành sinh hoa
trái thì được để lại. Muốn sinh được nhiều hoa trái những cành này phải được cắt
tỉa, làm sạch những nhánh con không cần thiết. Sự cắt tỉa những nhánh cây được
ví như sự thanh tẩy, làm sạch cho người môn đệ. Và công cụ, tác nhân làm sạch
cho người môn đệ không gì khác hơn là lời Đức Giêsu đã nói. Nếu họ ở lại trong
Đức Giêsu thì được lời Người làm cho sạch trong và sinh được nhiều hoa trái
thiêng liêng tốt lành. Yếu tố căn bản tiên quyết để sinh hoa trái là phải “ở lại
trong Đức Giêsu” và để cho “những lời” của Người ở trong mình. Bất cứ ai không ở
lại trong Đức Giêsu thì bị quăng ra ngoài, bị khô héo, bị gom lại, bị ném vào lửa
và bị đốt đi, cháy rụi. Đó là hình ảnh hình phạt thời cánh chung. Hình phạt ấy
có thể bắt đầu từ thời này, lúc này. Một khi người ta không ở lại trong Đức Giêsu
và không chịu để cho lời của Người cắt tỉa, Người ta sẽ tự nhiên thiếu nhựa sống
và khô héo, chết queo. Những cành nho gắn liên với thân cây nho, chịu cắt tỉa bởi
Người Cha, và sinh nhiều hoa trái; sinh nhiều hoa trái tình yêu cũng là biểu hiện
của người môn đệ của Đức Giêsu. “Sinh nhiều hoa trái” và “trở thành môn đệ” của
Đức Giêsu là những điều làm cho Chúa Cha được tôn vinh. Nói cách khác, việc trở
thành môn đệ, đồng nghĩa với việc các tín hữu ở lại trong Đức Giêsu, và ở lại
trong Đức Giêsu thì sinh nhiều hoa trái tình yêu. Điều này làm cho Chúa Cha được
tôn vinh. Tương tự như kiểu nói: “mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của
Thầy nếu anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Đoạn Tin Mừng này được cấu
trúc theo một vòng tròn khép kín biểu lộ tương quan tình yêu cứu độ: Cha trồng
và chăm sóc cây nho Giêsu – cây nho này sinh ra những cành nho môn đệ – những
cành nho này ở trong cây nho Giêsu và sinh nhiều hoa trái yêu thương – nhiều
hoa trái yêu thương làm cho Chúa Cha được tôn vinh. Dĩ nhiên, sự tôn vinh Chúa
Cha ở mức độ cao nhất phải là sự tôn vinh nơi Người Con chứ không phải nơi hoa
trái của các môn đệ. Trong Tin Mừng thứ tư, sự tôn vinh ấy bắt đầu khi Người
Con bước vào cuộc khổ nạn: “Giờ đây Con Người được tôn vinh cả Thiên Chúa cũng
được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31-32). Đức Giêsu sẽ làm bất cứ điều gì các môn
đệ cầu xin “để Chúa Cha được tôn vinh nơi Người Con” (Ga 14,13). Trong Tin Mừng
Nhất Lãm, Đức Giêsu làm cho Cha Người được tôn vinh qua những dấu lạ Người làm:
“Dấu lạ chữa người bất toại” (“Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên
Chúa”, Mt 9,8; Mc 2,12; Lc 5,25-26); “Phép lạ chữa con trai bà góa Nain” (“Họ sợ
hãi và tôn vinh Thiên Chúa, nói rằng: Một ngôn sứ đã xuất hiện giữa chúng ta và
Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người: Lc 7,16).
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1]
Chương 1, từ câu 1 đến câu 18, ghi chú: gạch ngắn ở giữa là dấu cách
từ câu này đến câu kia.
[2] Chương
1 câu 19 đến chương 12 câu 50, ghi chú: gạch dài ở giữa là dấu cách từ
chương này đến chương kia.
[3]
Xem F.J. Moloney, “John”, The Paulist Biblical Commentary (Ed., J.E.A. Chiu et
als) (New York 2018) 1110-1111.
[4] Ghi
chú: dấu chấm là dấu các giữa câu này với câu kia trong cùng một chương.
[5]
C.S. Keener, The Gospel of John. A Commentary (Grand Rapids 2012) I,
986.
[6] J.
Moloney chọn khối thống nhất của đoạn này là 15,1-11 và ông đề xuất cấu trúc gồm
3 phần: (1) Abiding in Jesus (vv.1-5a); (2) The results of abiding and not
abiding in Jesus (vv.5b-8); (3) Abiding in the love of Jesus (vv.9-11) [F.J.
Moloney, The Gospel of John (SP; Collegeville 2005) IV, 419].
[7] Một số đoạn
khác của Cựu Ước nói đến Ít-ra-el là vườn nho: Tv 80:8-16; Is 27,2-6; Ed 15,2-6; 17,5-10; 19,10-14.
[8]
F.J. Moloney, “John”, 1163; C.S. Keener, The Gospel of John, 993; Đây là
ngôn ngữ của hình thức bút chiến, F.J. Moloney, The Gospel of John, 419.
[9]
E.
Haenchen – R.W. Funk – U.
Busse, John:
a commentary on the Gospel of John (Hermeneia – CHCB; Philadelphia 1984) 131.
[10]
C.S. Keener, The Gospel of John, 989.
[11] R.E. Brown,
The Gospel
according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and
notes (AYB; New Haven – London 2008) 29A, 660.
[12]
C.K. Barrett, The Gospel According to St. John. An Introduction with
Commentary and Notes on the Greek Text (Philadelphia 1978) 474.
[13] R.E. Brown,
The Gospel
according to John (XIII-XXI), 660.
[15] Đức
Giê-su cũng lặp lại “cây nào không sinh hoa trái tốt lành thì bị chặt đi và
quăng vào lửa” (Mt 7,19).
[16] R.E. Brown,
The Gospel
according to John (XIII-XXI), 662.
[17]
C.S. Keener, The Gospel of John, 988.
[18] E. Haenchen – R.W. Funk – U. Busse, John: a commentary on the
Gospel of John,
131.
[19]
C.S. Keener, The Gospel of John, 988.
[20] R.E.
Brown, The Gospel
according to John (XIII-XXI), 662.
[21]
F.J. Moloney, The Gospel of John, 419.
No comments:
Post a Comment