Bản văn và dịch sát
nghĩa
Hy
Lạp |
Việt |
33 Καὶ ἀναστάντες αὐτῇ τῇ ὥρᾳ ὑπέστρεψαν εἰς Ἰερουσαλὴμ καὶ εὗρον ἠθροισμένους τοὺς ἕνδεκα καὶ τοὺς σὺν αὐτοῖς, 34 λέγοντας ὅτι ὄντως ἠγέρθη ὁ κύριος καὶ ὤφθη Σίμωνι. 35 καὶ
αὐτοὶ ἐξηγοῦντο τὰ ἐν τῇ ὁδῷ καὶ ὡς ἐγνώσθη αὐτοῖς ἐν τῇ κλάσει τοῦ ἄρτου. 36 Ταῦτα δὲ αὐτῶν λαλούντων
αὐτὸς ἔστη ἐν μέσῳ αὐτῶν
καὶ λέγει αὐτοῖς· εἰρήνη ὑμῖν. 37 πτοηθέντες δὲ καὶ ἔμφοβοι γενόμενοι ἐδόκουν πνεῦμα
θεωρεῖν. 38 καὶ εἶπεν αὐτοῖς· τί
τεταραγμένοι ἐστὲ καὶ διὰ τί διαλογισμοὶ ἀναβαίνουσιν ἐν τῇ καρδίᾳ ὑμῶν; 39 ἴδετε
τὰς χεῖράς μου καὶ τοὺς πόδας μου ὅτι ἐγώ εἰμι αὐτός· ψηλαφήσατέ με καὶ
ἴδετε, ὅτι πνεῦμα σάρκα καὶ ὀστέα οὐκ ἔχει καθὼς ἐμὲ θεωρεῖτε ἔχοντα. 40 καὶ τοῦτο εἰπὼν ἔδειξεν αὐτοῖς τὰς χεῖρας καὶ τοὺς πόδας. 41 ἔτι δὲ ἀπιστούντων αὐτῶν
ἀπὸ τῆς χαρᾶς καὶ θαυμαζόντων εἶπεν αὐτοῖς· ἔχετέ τι βρώσιμον ἐνθάδε; 42 οἱ δὲ ἐπέδωκαν αὐτῷ ἰχθύος
ὀπτοῦ μέρος· 43 καὶ λαβὼν ἐνώπιον αὐτῶν ἔφαγεν. 44 Εἶπεν δὲ πρὸς αὐτούς·
οὗτοι οἱ λόγοι μου οὓς ἐλάλησα πρὸς ὑμᾶς ἔτι ὢν σὺν ὑμῖν, ὅτι δεῖ πληρωθῆναι
πάντα τὰ γεγραμμένα ἐν τῷ νόμῳ Μωϋσέως καὶ τοῖς προφήταις
καὶ ψαλμοῖς περὶ ἐμοῦ. 45 τότε διήνοιξεν
αὐτῶν τὸν νοῦν τοῦ συνιέναι τὰς γραφάς· 46 καὶ εἶπεν αὐτοῖς ὅτι οὕτως
γέγραπται παθεῖν τὸν χριστὸν καὶ ἀναστῆναι ἐκ νεκρῶν
τῇ τρίτῃ ἡμέρᾳ, 47 καὶ κηρυχθῆναι ἐπὶ τῷ ὀνόματι
αὐτοῦ μετάνοιαν εἰς ἄφεσιν ἁμαρτιῶν εἰς πάντα τὰ ἔθνη. ἀρξάμενοι
ἀπὸ Ἰερουσαλὴμ 48 ὑμεῖς μάρτυρες τούτων. (Lk. 24:35-48 BGT) |
33 Sau khi đứng dậy ngay
giờ ấy, họ (hai môn đệ Emmaus) quay trở về Jêrusalem
và tìm gặp nhóm Mười Một đang tụ họp và những người ở với họ, 34 Những người này nói rằng Chúa đã được chỗi dậy
và đã cho ông Phêrô gặp. 35 Và họ (hai môn đệ Emmaus) tường thuật cho họ
(nhóm Mười Một) điều xảy ra trên đường và họ đã được tỏ cho biết thế nào khi Người bẻ bánh. 36 Đang khi họ đang nói những điều này, Người đứng giữa họ và nói cùng họ: “Bình an
cho anh em” 37 Họ hoảng hồn và
trở nên kinh khiếp vì họ nghĩ là thấy hồn ma. 38 Nhưng Người nói cùng họ: “Tại sao anh em lại
kinh sợ và vì cớ gì mà sự nghi ngờ nảy lên trong lòng anh em?” 39 “Hãy nhìn xem những bàn tay và những bàn chân của Thầy, chính Thầy đây. Hãy chạm vào
Thầy và hãy xem, hồn ma đâu có xác và xương như anh em thấy Thầy đang có”. 40 Và khi nói điều này Người cho họ xem những bàn tay và những bàn
chân. 41 Nhưng vì họ chưa tin vì sự vui mừng và kinh ngạc.
Người nói cùng họ: “Anh em có gì có thể ăn không?” 42 Họ đưa cho Người một phần cá nướng. 43 Và sau khi nhận lấy, Người ăn trước mặt họ. 44 Rồi Người nói cùng họ: “Những lời của Thầy, những
lời mà Thầy đã nói cùng anh em khi Thầy còn ở với anh em rằng: tất cả những lời
đã được viết trong luật Môsê và các Ngôn Sứ và các
Thánh Vịnh về Thầy phải được hoàn trọn.” 45 Rồi Người mở trí cho họ hiểu Thánh Kinh 46 Và Người nói cùng họ rằng như đã được chép, Đấng
Kitô phải chịu đau khổ và chỗi dậy từ cõi chết vào
ngày thứ ba. 47 Và sự hoán cải để được
ơn tha thứ nhờ danh Người phải được loan báo cho tất cả các dân tộc, bắt đầu từ Jêrusalem. 48 Anh em là những chứng nhân của
những việc này. |
Bối cảnh bản văn:
Lc 24,35-38 nằm
ngay sau và tiếp nối trình thuật về sự kiện Đức Giêsu hiện ra cho hai môn đệ
trên đường trở về Emmaus (24,13-32) và cuộc gặp gỡ giữa hai ông và nhóm Mười Một
tại Jêrusalem (Lc 24,33-35). Đoạn văn này cũng nằm ngay trước đoạn văn kết thúc
của Tin Mừng Luca (Lc 24,49-53). Trình thuật này nằm trong tổng thể những trình
thuật nói về những lần hiện ra của Đức Giêsu. Nó kết hợp chặt chẽ với đoạn văn
nói về “ngôi mộ trống” và lời chứng của những người phụ nữ (Lc 24,1-12) để hoàn
trọn những bằng chứng về sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh. Nghĩa là, không những Đức
Giêsu không còn ở trong mồ, các thiên sứ đã hiện ra loan báo rằng Người
đã sống lại, mà chính Người còn hiện ra cho các môn đệ. Người không những
hiện ra một lần mà còn nhiều lần, nhiều cách khác nhau. Người đã không biến mất
cách bí ẩn. “Xác chết” của Người cũng không bị các môn đệ lấy cắp như người ta
vẫn đồn thổi (Mt 28,11-15). Bằng chứng Người đã Phục Sinh là quá tỏ tường và chắc
chắn. Chủ đề “sai đi” và “làm chứng nhân” vào cuối đoạn văn này (Lc 24,47-48)
rõ ràng nối kết cách chặt chẽ với lời hứa “gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa”
hay là “quyền năng từ trời cao”. Những điều này ngụ ý đến Thần Khí. Chủ đề này
cũng liên kết không rời đến những hoạt động của các Tông Đồ và Giáo Hội Sơ Khai
được tường thuật cách chi tiết trong sách Công Vụ Tông Đồ (được xem là phần thứ
hai của tác phẩm của Luca). Chủ đề mạc khải Thánh Kinh về việc Đấng Kitô phải
chịu khổ hình rồi ngày thứ ba sẽ chỗi dậy (Lc 24,46) đã được nói đến trong
trình thuật về “Ngôi Mộ trống” trước đó (Lc 24,7) và trong trình thuật về hai
môn đệ Emmaus (Lc 24,26-27). Lời chúc bình an và cho xem bàn tay, bàn chân có mối
liên hệ gần gũi với trình thuật của Gioan về việc Đức Giêsu hiện ra với nhóm Mười
Một (Ga 20,19-23) và với nhóm Mười Một cùng với Tôma (Ga 20,24-29). Cũng cần biết
thêm, trong bốn tác giả Tin Mừng, chỉ có Luca và Gioan đề cập đến lời chúc bình
an của Đấng Phục Sinh. Gioan dùng nhiều lần hơn lời chúc này (Gioan dùng 3 lần
Ga 20,19.21.26, trong khi Luca chỉ có một lần Lc 24,36). Hơn nữa, cũng chỉ có
Luca và Gioan nói đến việc Đức Giêsu cho các môn đệ xem những bàn tay, những
bàn chân (Luca) và cạnh sườn (Gioan). Những đoạn này của Luca và Gioan dường
như có chung truyền thống. Kiểu nói “Sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các
sách Thánh Vịnh” cho phép sự kiện, trình thuật này nối kết với toàn bộ Cựu Ước.
Trong bối cảnh trực tiếp, Lc 24,35-38 hoàn tất, tổng hợp tất cả những lần hiện
ra của Đức Giêsu. Nó là tổng hợp của lần hiện ra cho cá nhân hai môn đệ (Lc
24,13-32), và lần hiện ra với cá nhân Phêrô và được nhóm Mười Một làm chứng (Lc
24,33-34). Lần này, Đức Giêsu hiện ra với toàn bộ các môn đệ cách long trọng và
cụ thể hơn. Vậy là không còn ai không được nhìn thấy Đấng Phục Sinh. Sứ vụ sẽ
được trao cho tất cả, sau khi tất cả họ đều đã thấy Chúa Phục Sinh.
Giới hạn và cấu trúc:
Giới hạn: Lc 24,35-38 được
khởi đầu bằng việc các ông (hai môn đệ Emmaus) tường thuật lại những gì đã xảy
ra dọc đường. Lc 24,35 xem ra không phải là một câu khởi đầu lý tưởng cho một
đoạn văn bởi vì nó không mang một dấu hiệu chuyển đoạn một cách rõ rệt. Hơn nữa,
Lc 24,35 làm gián đoạn cuộc đối thoại giữa nhóm Mười Một và Hai Môn đệ Emmaus
(Hai nhóm này đang kể cho nhau nghe về cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Phục Sinh).
Thiết nghĩ, đoạn văn này nên được mở rộng ra phía trước ít nhất đến Lc 24,33: “Họ
đứng dậy, quay trở lại Jêrusalem, gặp nhóm Mười Một và các bạn hữu”. Về văn
chương, Lc 24,33 mới có những dấu hiệu chuyển đoạn rõ rệt: Nơi chốn (Jêrusalem),
thời gian: “Ngay lúc ấy”; nhân vật (nhóm Mười Một và các bạn hữu). Về nội dung,
nếu lùi lại phía trước đến Lc 24,33 như thế đoạn này mới bao hàm được cuộc đối
thoại giữa hai nhóm (Nhóm Mười Một và nhóm hai môn đệ Emmaus). Câu kết của đoạn
văn: “Chính anh em là những chứng nhân của những điều này” (Lc 24,38) xem chừng
cũng không hợp lý lắm, bởi nó cũng cắt đứt sự liền mạch trong lời nói của Đức Giêsu
với các môn đệ. Trong câu văn sau đó (Lc 24,49), Đức Giêsu vẫn tiếp tục nói
trong mạch văn rằng: “Để ý (này)! Thầy sẽ gửi cho anh em lời hứa của cha Thầy”.
Vì thế, đoạn văn nên được kéo dài đến hết Lc 24,49 mới kết thúc lời căn dặn của
Đức Giêsu. Hơn nữa, Lc 24,50 mới có dấu hiệu chuyển đoạn cho một đoạn mới. Một
cách lý tưởng hơn, câu chuyện này nên được kết thúc ở câu cuối cùng của Tin Mừng
Luca, vì tới đây thì mới kết thúc câu chuyện Đức Giêsu hiện ra với nhóm Mười Một
và những người đồng bạn. Câu chuyện kết thúc bằng việc, họ nhìn nhận Đức Giêsu
Phục Sinh bằng hành động “bái thờ” Người, “lòng đầy hoan hỷ” và “hằng ở trong đền
thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24,52-53).[1]
Cấu trúc: Lc 24,35-48 có
thể được chia làm 3 phần:
Phần đầu tiên được nới rộng ra
cho trình thuật về cuộc hội ngộ giữa hai nhóm chứng nhân: nhóm Emmaus và nhóm
Mười Một cũng như những người đang tụ họp với họ. Phần này gồm ba tiểu phần: Ngoài
phần bối cảnh, hai tiểu phần song song (A) Lời chứng của nhóm Mười Một
// (A’) Lời chứng của nhóm Emmaus. Phần II cũng gồm hai tiểu phần chính
song song với nhau. Tiểu phần (A) Cảm xúc
của các môn đệ // (A’) Cảm xúc của
các môn đệ. Phần III gồm 3 tiểu phần khác nhau. Tiểu phần (A) Gợi nhớ; tiểu phần (B) Mở trí; tiểu phần (C) Lời Chứng; và tiểu phần (D) Chứng nhân – Các môn đệ.
I.
Cuộc đối thoại giữa nhóm Emmaus và nhóm
Mười Một (24,33-35) Bối cảnh: Thời gian, nơi chốn, nhân vật (24,33) A. Lời chứng của nhóm Mười Một
(24,34) A’. Lời chứng của nhóm Emmaus
(24,35) II.
Cuộc hiện ra cho cả hai nhóm
(24,36-43) Bối cảnh: Hiện đến – chúc bình an
(24,36) A. Cảm xúc của các môn đệ: kinh hồn,
bạt vía (24,37) A1. Trấn an của
Đức Giêsu: Sao lại hoảng hốt? Hãy nhìn xem (24,38-39) A2. Chứng minh:
Cho xem tay và chân (24,40) A’. Cảm xúc của các môn đệ: Chưa
tin – mừng – ngỡ ngàng (24,41a) A1’. Hỏi xin thức
ăn (24,41b) A2’. Chứng minh:
Ăn cá nướng (24,41b-43) III.
Giải thích biến cố Tử Nạn – Phục Sinh
(24,44-48) A. Gợi nhớ (24,44) B. Mở trí (24,45a) C. Lời chứng (24,46-47) C1. Khổ nạn – Phục Sinh
(24,46) C2. Mệnh lệnh rao giảng
(24,47) D. Chứng nhân: Các tông đồ (24,48) |
Một số điểm chú giải
1. Chúa
đã chỗi dậy:[2]
Đây là thông tin ‘hót’ có khả năng thay đổi cả vận hạn cuộc đời của các
Tông Đồ và những ai tin theo Đức Giêsu. Họ không mong chờ tin này, bởi vì họ
không hiểu lời Thánh Kinh mà Đức Giêsu phải làm cho họ nhớ lại như sẽ thấy sau.
Đối với họ đây là thông tin bất ngờ và không tưởng mà khi đối diện họ thường “sửng
sốt”, “hoảng sợ”, hoặc “kinh ngạc”. Thật ra, trong Tin Mừng Nhất Lãm Đức Giêsu
đã tiền báo việc Người “sẽ chỗi dậy” không phải một lần mà đến ba lần (Mc
8,31-33; 9,31-32; 10,33-34; Mt 16,21-23; 17,22-23; 19,27-30; Lc 9,22; 9,43b-45;
18,27-30). Thế mà, chẳng hiểu sao họ chẳng nhớ gì về lời tiền báo được lặp lại
với mật độ dày đặc này. Có thể cái chết của Đức Giêsu là cú sốc quá lớn đối với
họ vì họ không bao giờ tưởng tượng được là Đấng Mêsia phải chết. Tất cả những đều
hy vọng vào một Đấng Mêsia quyền năng bách chiến bách thắng trên ma quỷ, bệnh tật
và mọi ách thống trị.
2. “Những
gì đã xảy ra dọc đường”: Cách diễn tả này là tóm gọn cho tất cả câu chuyện
dài nói về việc Đức Giêsu hiện ra đồng hành, lắng nghe, đặt câu hỏi, khiển
trách và giải thích toàn bộ Thánh Kinh cho hai môn đệ trên đường Emmaus (Lc
24,13-32). “Những gì xảy ra dọc đường” là tiền đề cũng như là phong nền cho việc
“họ nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh”.
3. “Khi
Người bẻ bánh”: Đây là khoảnh khắc mấu chốt của trình thuật Emmaus mà nếu
không có nó thì hai môn đệ Emmaus vẫn còn “buồn rầu” như lúc họ rời Jêrusalem về
Emmaus, và sẽ không có cuộc trở lại Jêrusalem ngay lập tức. Khoảnh khắc “khi
Người bẻ bánh” đã làm cho “mắt của họ được mở ra và họ nhận ra Người” (Lc
24,31). Không những thế, khoảnh khắc ấy còn giúp họ nhận ra rằng “lòng của họ
đã bừng cháy lên” khi họ nghe Người nói chuyện và giải thích Thánh Kinh (Lc
24,32). Không có khoảnh khắc “khi Người bẻ bánh” thì “sự bừng cháy kia” cũng đi
vào quên lãng và chẳng có tác dụng gì. “Khoảnh khắc ấy” bây giờ lại trở nên lời
chứng của hai môn đệ Emmaus cùng với “những chuyện xảy ra dọc đường”. Cả hai
làm nên một lời chứng sống động cho sự hiện hữu cách sống động và gần gũi của Đức
Kitô Phục Sinh.
4. “Đứng
giữa các ông”: Tương tự như Gioan (Ga 20,19.26), Luca cũng cho thấy Đức Giêsu
“đứng giữa” các tông đồ. Vị trí “đứng giữa” này vừa cho thấy Đức Giêsu chính là
trung tâm điểm và là điểm hội tụ của cộng đoàn các Tông Đồ, vừa cho thấy rằng tất
cả các Tông Đồ, cũng như những người ở cùng các ông đều có thể nhìn thấy Đức Giêsu
Phục Sinh cách tỏ tường. Luca dùng động từ “ἀθροίζω” (quy tụ) ở thể bị động, thì hoàn thành và lối phân từ (ἠθροισμένους – đang được quy tụ với nhau) để diễn
tả cách thức nối kết của các Tông Đồ và những người cùng ở với họ (Lc 24,33). Họ
đang được Thiên Chúa quy tụ lại với nhau và Đức Giêsu chính là điểm quy chiếu, nơi
quy tụ cho cộng đoàn này.
5. “Bình
an cho anh em”:[3]
Như đã nói trên, chỉ có Luca và Gioan ghi lại lời chúc bình
an này của Đức Giêsu. Gioan ghi lại nhiều lần hơn (3 lần: Ga 20,19.21.26) trong
khi đó Luca chỉ có một lần, chính là lần này (Lc 24,36). Tuy nhiên, ý nghĩa của
lời chúc bình an này hơi khác nhau giữa Luca và Gioan. Trong Gioan, các môn đệ
đang ở trong tình trạng “cửa đóng then cài” vì “sợ những Người Do Thái”. Đức Giêsu
đến và trấn an các ông bằng lời chúc bình an. Kết quả là, các môn đệ “vui mừng
vì được thấy Chúa” (Ga 20,20). Luca không nói gì đến tình trạng “cửa đóng then
cài” và nỗi sợ “những người Do Thái” của các Tông Đồ. Ngay cả trong sách Công Vụ,
đoạn nói về Lễ Ngũ Tuần, Luca cũng chỉ nói là “mọi người đang quy tụ ở một nơi”
(Cv 2,1). Lối giải thích rằng các Tông Đồ “bung cửa ra”, ra đi rao giảng, sau
khi nhận Thánh Thần, xem ra chỉ là một sự suy đoán, diễn giải mà thôi, vì theo
Luca, họ có đóng cửa đâu mà “bung ra.” Luca cũng cho biết rằng các Tông Đồ “hằng
ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24,52). Sự đe dọa của người Do
Thái hình như không tồn tại trong tác phẩm của Luca. Rõ ràng, Luca nhấn mạnh đến
sự quy tụ hơn là tình trạng sợ hãi “những Người Do Thái” của nhóm các môn đệ và
những người ở với họ. Trong dịp quy tụ và bàn luận về sự phục sinh của Đức Giêsu,
Người xuất hiện và ban bình an cho họ.
6.
“Hoảng hồn và trở nên kinh khiếp”: Ngạc
nhiên thay, sau lời chúc bình an của Đức Giêsu, tâm trạng các môn đệ dường như
không những không được bình an hơn mà còn vô cùng hoảng loạn. Luca dùng hai động
từ với nghĩa tương tự nhau đề diễn tả tâm trạng của các môn đệ. Cả hai động từ
đều diễn tả nỗi sợ hãi ở mức độ mạnh: “πτοέω” (kinh sợ, giật
mình) và động từ trạng thái “γίνομαι”
+ tính từ “ἔμ-φοβος” (trở nên kinh
hãi). Có thể dịch nôm na rằng: “Họ giật bắn cả mình và trở nên kinh hãi”. Bản
Việt Ngữ (CGKPV) dịch rằng “các ông kinh hồn bạt vía” hay là “kinh hoàng khiếp
đảm” (NTT), đều là cách dịch ghép cả hai động từ lại. Cách diễn tả của Luca cho
thấy đó là nỗi sợ hãi ở mức độ cao nhất trong cuộc đời các môn đệ. Chưa bao giờ
mà các ông kinh hãi như thế. Cảm xúc này cho thấy sự nghịch lý, mức độ không tưởng
trong suy nghĩ của các môn đệ trước biến cố Phục Sinh và khi đối diện với Đấng
Phục Sinh. Phản ứng của họ cho thấy một bản chất không thể khôi phục của những
thế giới quan của họ, sự thiếu chấp nhận tất cả những lời dạy của Đức Giêsu về
cách thức mà mục đích thần linh sẽ được hoàn trọn nơi Người.[4]
7. “Hồn Ma”: “πνεῦμα” trong tiếng
Hy Lạp thường có nghĩa là “tinh thần”, “gió”, “hơi thở” (Lc 23,46), “linh hồn”
(Lc 1,47). Danh từ này dùng để nói về Chúa Thánh Thần (Lc 1,35; 2,25;
3,22;11,13; 12,10.12) hay là Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tinh thần, (thần khí)
(Ga 4,24). Nó cũng được dùng để diễn tả quỷ (Lc 4,33; 9,39; 11,24). Trong bối cảnh
này, với sự giải thích mang tính trấn an của Đức Giêsu: “Hồn ma đâu có xương và
có thịt như anh em thấy Thầy có đây”, danh từ này nên hiểu là “hồn” của Đức Giêsu
thì hợp lý nhất. Họ tưởng là “hồn” của Đức Giêsu hiện về, nên họ “kinh hãi”.
Máccô, Mátthêu và Gioan dùng một danh từ khác nữa để diễn tả “ma”. Đó là “φάντασμά”
(ma, ghost). Danh từ này được cả Máccô, Mátthêu và Gioan dùng trong trình thuật
Đức Giêsu đi trên mặt nước (Mc 6,45-52; Mt 14,22-33; Ga 6,16-21). Trong trình
thuật ấy, các Tông Đồ cũng tưởng Đức Giêsu là “ma”, có lẽ vì chưa xác tín về khả
năng siêu phàm của bản tính thần linh nơi Đức Giêsu. Luca không có trình thuật
này. Tuy nhiên, chỉ có trong Luca, độc giả mới biết là các Tông Đồ nghĩ rằng Đức
Giêsu Phục Sinh là “hồn ma”.
8. “Hãy
chạm Thầy và hãy xem”: Lời mời gọi này nằm trong toàn bộ nỗ lực trấn an, giải
thích của Đức Giêsu cho các môn đệ rằng Người không phải là “hồn ma”.[5]
Người là người thật, bằng xương và bằng thịt (σάρκα καὶ ὀστέα Lc 24,39).
Xương và thịt này có thể vừa xem thấy bằng mắt vừa có thể chạm và cảm nhận bằng
xúc giác. Sự đáp ứng này của Đức Giêsu dành cho các môn đệ ở đây tương tự như
cách mà Đức Giêsu đáp ứng đòi hỏi của Tôma trong Tin Mừng Gioan (Ga 20,25.27).
Tô-ma đòi hỏi phải xỏ ngón tay vào những lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn.
Nghĩa lã đụng chạm, kiểm chứng được những vết thương của Người. Tuy nhiên, nói
thế thôi, chứ Tôma chưa bao giờ xỏ ngón tay vào những lỗ đinh và đặt bàn tay
vào cạnh sườn Đức Giêsu. Chỉ cần thấy Chúa thì ông đã tin rồi (Ga 20,28).[6]
9. “Cho
họ xem những bàn tay và những bàn chân”: Bằng chứng cụ thể nhất chứng tỏ rằng
đây là Đức Giêsu “chính hiệu” không phải “ma”, cũng không phải “hàng nhái”,
không có gì khác hơn là những vết thương trên cơ thể Người. Bất cứ người tử tội
bị đóng đinh nào cũng để lại những vết thương trên hai bàn tay và hai bàn chân.
Luca không đề cập đến vết thương bên cạnh sườn. Vết thương này chỉ có Đức Giêsu
mới có. Tuy nhiên, trong cả bốn tác giả sách Tin Mừng, chỉ có tác giả Tin Mừng
thứ tư ghi lại sự kiện Đức Giêsu bị đâm thâu vào cạnh sườn khiến “máu cùng nước
chảy ra” (Ga 19,34). Luca không nhắc đến vết thương này xem ra cũng hợp lý, vì
ông đã không có tường thuật về việc Đức Giêsu bị đâm vào cạnh sườn. Gioan nhắc
đến ba lần những lỗ đinh trên những bàn tay và vết thương ở cạnh sườn, nhưng
không đề cập đến những vết thương trên những bàn chân (Ga 20,20.25.27). Như thế,
có lẽ phải kết hợp cả hai nguồn của Gioan và Luca, người ta mới có đầy đủ 5 vết
thương trên cơ thể của Đức Giêsu. Tuy nhiên, số lượng vết thương không quan trọng.
Điều quan trọng hơn là những vết thương ấy chứng tỏ ít nhất hai điều: (1) Đức Giêsu
đã Phục Sinh; (2) Người mang chính thân xác khi Người chịu khổ hình và chết.
10. “Nhưng
vì họ chưa tin”: Đức Giêsu phải đi xa hơn một tý nữa để chứng minh cho các
môn đệ, vì có lẽ Người vẫn thấy dấu hiệu của sự nghi ngờ trong lòng họ. “Sự
nghi ngờ nảy lên trong lòng” lòng họ. Chữ “tâm” (lòng) được nhắc đến ở đây cũng
như trước đó (Lc 24,25.32) nhắc nhở thính giả của Luca về sự quan trọng trong
những cảnh này. Đó là sự cần thiết phải có những cam kết nội tâm của những con
người này để tái định hình trong ánh sáng của sự Phục Sinh của Chúa.[7] Họ
phải hoàn toàn chuyển đổi nhưng họ tiếp tục thiếu những tố chất để đón nhận
kinh nghiệm mới này của Đức Giêsu trong một cách thức đầy ý nghĩa. Luca giải
thích lý do họ “chưa tin” là “vì vui mừng và kinh ngạc” (χαρᾶς καὶ θαυμαζόντων).
Cảm xúc các môn đệ sau sự trấn an của Đức Giêsu bằng lời giải thích và được xem
những bàn tay và những bàn chân của Người. Họ đã chuyển từ cảm xúc “kinh sợ và
hết hồn” thành cảm xúc “vui sướng và ngạc nhiên”. Sự chưa tin của các môn đệ ở
đây có thể nói nôm na là “chưa tin vào mắt mình”. Sự chuyển đổi tình huống là
quá nhanh chóng. Họ tưởng mình đang mơ, vì niềm vui quá lớn và đến quá bất ngờ.
Có thể sánh như là một người mê tiền trúng số vài trăm tỷ đồng (tuy hơi khập
khiểng). Đức Giêsu chính là nguồn sống, là lý tưởng, là cùng đích của toàn bộ đời
sống của họ. Khi Người chết, đối với họ, mọi sự coi như chấm hết. Nay Người sống
lại, mọi sự được phục hồi lại, tất cả niềm hy vọng của họ và nhất là sự sống
vĩnh cửu được hồi sinh (Lc 18,30; Ga 3,16.36; 5,24; 6,40; Rm 6,23; 1 Tm 1,16).
11. “Lấy
… Ăn trước mặt họ”: Ứng với một cảm xúc của các môn đệ là một hành động nỗ
lực giải thích và chứng minh của Đức Giêsu. Khi các ông “kinh hãi”, Người đã cố
gắng mời gọi các ông hãy nhìn xem, hãy chạm vào Người. Rồi Người tiếp tục giải
thích rằng “hồn ma” đâu có xương có thịt như các ông đang thấy Người. Khi họ vẫn
còn “chưa tin vì mừng vui và kinh ngạc”, Người lại hỏi xin một phần cá nướng và
ăn trước mặt các ông. Giới từ “trước mặt” diễn tả sự cụ thể, mang tính chứng
minh cho mọi người đều thấy. Nó hòa hợp với những mời gọi, “hãy xem”, hãy “chạm”
trước đó của Đức Giêsu để làm thành những chứng cứ đầy đủ mang tính mắt thấy,
tai nghe, tay sờ.[8]
Hai hành động “sau khi nhận lấy” và “ăn” cho thấy Đức Giêsu đang sống thật sự
như một người bình thường. Người có thể sử dụng tay và ăn uống rất bình thường.
Hành động này cho thấy Đức Giêsu đang làm hết sức có thể để các môn đệ có thể
tin trọn vẹn vào sự sống lại và xuất hiện tỏ tường của Người. Sự kiện Đức Giêsu
xin phần cá nướng và ăn trước mặt các Tông Đồ và những đồng bạn chỉ có trong
Tin Mừng Luca. Luca diễn tả Đức Giêsu chủ động và nỗ lực hết mình để minh chứng
cho nhóm các Tông Đồ về thân thế Phục Sinh của Người. Tường thuật Đức Giêsu ăn
cá nướng, Luca chỉ muốn nhấn mạnh đến rằng thân xác Đức Giêsu Phục Sinh không
phải là “ma” nhưng là một thực tại có thể cảm nghiệm được bằng giác quan.[9]
12. “Những
lời mà Thầy đã nói cùng anh em”: Sau khi chứng minh cho các môn đệ thấy rằng
Người đang hiện diện thật bằng xương bằng thịt. Đức Giêsu tiếp tục gợi nhớ cho
các ông về những điều mà Người đã nói trước về việc ứng nghiệm của Luật Môsê,
Các Ngôn Sứ và Thánh Vịnh. Có rất nhiều Thánh Vịnh đề cập đến Đấng Mêsia (Tv
2,2; 18,51; 20,7; 28,8; 84,10; 89,39.52; 132,10.17).[10]
13.
“Luật Môsê và các ngôn sứ và các Thánh Vịnh”:
Đây rõ ràng là cách nói tổng quát cho toàn bộ Sách Thánh Cựu Ước. Luật
Môsê là Bộ Ngũ Thư (5 cuộn): Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số, Đệ Nhị Luật. Bộ
này thường được gọi là “Tô-rah” (תורה), tiếng Hy Lạp là “νόμος” (luật). Thật ra, chữ Tôrah
trong tiếng Do Thái có nghĩa là “chỉ dẫn, hướng dẫn, lời dạy” chứ không chỉ có
nghĩa là cứng nhắc là “Luật”. Đó là những chỉ dẫn, lời dạy của Chúa. Năm cuộn
sách này trước đây thường được hiểu là do ông Môsê ghi lại vì thế giá của ông,
vị ngôn sứ vĩ đại được thấy Chúa mặt giáp mặt (Ex 33,11; Ds 12,8; Đnl 5,4;
34,10) và trực tiếp nhận “Mười Lời” (Điều Răn) từ Chúa trên núi Sinai (Xh
31,18; 34,29). Ngày nay, với phương pháp nghiên cứu phê bình văn chương, các
chuyên qua khám phá ra rằng 5 cuộn sách này không thể được viết nên bởi một người,
vào một khoảng thời gian nhất định. Đó là tác phẩm được hình thành qua nhiều thế
hệ, bởi sự gom góp nhiều câu chuyện, nhiều sự kiện; được trình bày bằng nhiều
thể loại văn chương khác nhau, bởi nhiều người, qua nhiều thế hệ. Thuyết bốn
nguồn văn (J, E, P, D) được Julius Wellhausen giới thiệu vào giữa thế kỷ 19, đã
phần nào giải thích được sự kết hợp của các loại văn phong, từ ngữ khác nhau, sự
lặp lại, gấp đôi các câu chuyện, trong bộ Ngũ Thư này.[11]
Thuyết này tuy có vài chuyên gia phản bác và phê bình nhưng hiện nay vẫn còn
giá trị ảnh hưởng và được đa số các chuyên gia hàng đầu đón nhận. Phần thứ hai
của Sách Thánh Do Thái được gọi cá “các Ngôn sứ” (Neviim: Gs; Tl; 1&2 Sm;
1&2 V; Is; Gr; Ed; Hs; Ge; Am; Ôv; Gn; Mk; Nh; Kb; Xp; Kg; Dcr; Ml) và phần
thứ ba gọi là “các văn phẩm” (Ketuvim: Tv; G; Cn, R, Dc, Hc, Ac, Et; Dn; Er;
Nh; Sb).[12]
Khi nói “các Thánh Vịnh”, có thể Đức Giêsu muốn nói chung đến toàn bộ thể loại
“các văn phẩm” đã liệt kê trên. Trước đó, Luca đã ghi lại một lần Đức Giêsu đề
cập đến “Lề Luật” và “các ngôn sứ” (Lc 16,16; Cf. Mt 11,12-13); một lần đề cập
đến riêng “Lề Luật” (Lc 16,17; cf. Mt 5,18); và hai lần ông Ápraham nói đến “Môsê”
và “các Ngôn Sứ” (Lc 16,29.31). “Môsê” và “tất cả các Ngôn sứ” lại được nhắc lại
một lần nữa trong trình thuật về các môn đệ Emmaus (Lc 24,27). Tuy nhiên, trong
tất cả những lần ấy, “các Thánh Vịnh” không được nhắc đến. Xem ra, đây là lần lọng
trọng mà Luca cho thấy Đức Giêsu bao hàm tất cả các sách Cựu Ước, bao gồm cả
“các Thánh Vịnh”. Khi nhắc nhớ như thế, Đức Giêsu cho thấy câu chuyện của Người,
của giáo hội sơ khai và câu chuyện của dân Ítrael xưa không khác nhau. Đức Giêsu
lồng câu chuyện của mình vào trong câu chuyện Sách Thánh và sự đau khổ, Phục
Sinh của Người là điểm quy chiếu và ánh sáng cho toàn bộ Sách Thánh.[13]
Hơn thế nữa, sứ vụ chứng nhân của các Tông Đồ sẽ đưa mầu nhiệm của Người vươn đến
tương lai nữa.
14. “Hoàn
trọn”: Động từ “hoàn trọn” được dùng ở dạng nguyên mẫu (πληρωθῆναι, Lc 24,44) theo sau động từ không ngôi (δεῖ)
diễn tả sự bắt buộc trong kế hoạch cứu độ (“phải được hoàn trọn”). Luca là tác
giả Tin Mừng sử dụng nhiều nhất cấu trúc “phải” + “động từ nguyên mẫu” (Lc: 12
lần; Mt 4 lần; Mc: 5 lần; và Ga: 4 lần). Có thể nói đây là cấu trúc được Luca
ưa chuộng. Trong 12 lần cấu trúc này được sử dụng trong Tin Mừng Luca, có 9 lần
được áp dụng cho Đức Giêsu.[14]
Có hai lần ý tưởng “Sách Thánh” (Điều đã được viết) “phải được hoàn trọn” được
Luca dùng. Ngoài lần này ra, Đức Giêsu còn nhắc đến việc Người sẽ bị liệt vào
hàng “những tên tội phạm” để hoàn trọn lời Thánh Kinh (Lc 22,37). Trong bối cảnh
ấy có lẽ Đức Giêsu ám chỉ đến Is 53,12.
15. “Mở
trí cho họ hiểu Thánh Kinh”: Hành động mở trí này có lẽ không có ý nói đến
một tác động “bấm nút mở cảm ứng” kiểu điện tử kỹ thuật số, cho bằng là sự giải
thích của chính Đức Giêsu. Hành động mở trí có vẻ giống như cách mà Đức Giêsu từng
làm với hai môn đệ trên đường Emmaus: “Bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các Ngôn Sứ,
Người giải thích cho họ hiểu những gì liên quan đến Người trong tất cả các Sách
Thánh” (Lc 24,27). J. Fitzmyer nghĩ rằng cảnh này dường như đề nghị rằng chính
đức tin vào chính Đấng Kitô là mấu chốt.[15]
F. Bovon tổng hợp rằng Phục Sinh là ngày của những sự mở ra: mở ngôi mộ (24,2);
mở đôi mắt (24,31); mở Thánh Kinh (24,32) và mở trí (24,45). “Trí” (νοῦς) ở đây bao hàm cả lòng (καρδία, 24,25.32).[16]
16. “Đấng
Kitô phải chịu đau khổ và chỗi dậy từ cõi chết”: Tất cả những điều
Luật Môsê, các ngôn sứ và các Thánh Vịnh nói về Đức Giêsu là một lối nói bao
hàm rất rộng. Điều Đức Giêsu muốn giới hạn và cụ thể ở trong bối cảnh này là
câu Người đã trích ra: “Đấng Kitô phải chịu đau khổ và chỗi dậy từ cõi chết”.
Đây cũng chính là nội dung mấu chốt mà Người đã nhắc với hai môn đệ trên đường
về Emmaus (Lc 24,26). Qua hai cách diễn tả ở hai dịp khác nhau với hai nhóm người:
(1) Nhóm Hai môn đệ và (2) Nhóm tổng hợp “hai môn đệ, Nhóm Mười Một, những đồng
bạn”, Luca như diễn tả cùng một nội dung, tuy thứ tự các câu văn có bị đảo lỗn.
Ở câu chuyện hai môn đệ Emmaus, Đức Giêsu khởi đầu bằng việc đặt câu hỏi rằng:
“Nào Đấng Kitô chẳng phải chịu khổ hình như thế rồi mới vào vinh quang của Người
hay sao?” “Rồi, bắt đầu từ Môsê và tất cả các ngôn sứ Người giải thích cho hai
ông hiểu những gì liên quan đến Người trong Sách Thánh” (Lc 24,26-27). Người giải
thích như thế như là một cách “mở trí” vì lòng trí của họ thật “chậm tin vào lời
các ngôn sứ” (Lc 24,26). Trong trình thuật này, Luca bắt đầu bằng lời gợi nhớ của
Đức Giêsu về việc tất cả những gì Luật Môsê, các Ngôn Sứ và các sách Thánh Vịnh
đã chép về Người phải được hoàn tất. Rồi, tiếp theo, Đức Giêsu mở trí cho họ hiểu
Thánh Kinh. Rồi Đức Giêsu nói nội dung lời Thánh Kinh cụ thể: “Đấng Kitô phải
chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại”. Điều khác biệt duy nhất
là trong lời trích Thánh Kinh ở đây Đức Giêsu thêm vào mệnh lệnh loan báo: “và
sự hoán cải để được tha thứ nhờ danh Người phải được loan báo cho tất cả các
dân tộc, bắt đầu từ Jêrusalem” (Lc 24,47). Nội dung rao giảng là “sự hoán cải để
được tha thứ nhờ danh Người”. Câu này không hề có trong trình thuật về hai môn
đệ Emmaus. Thật khó để tìm ra trong Luật Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh một
lời tiền báo như thế liên quan đến mệnh lệnh rao giảng.[17] Một
mệnh lệnh loan báo như thế có lẽ là cách thức mà Luca diễn sứ vụ của các Tông Đồ
và Giáo Hội sơ khai. Luca xem đó cũng là ứng nghiệm lời Sách Thánh đã nói trước,
và sẽ được hoàn trọn nơi các hoạt động của được ghi lại nơi sách Công Vụ Tông Đồ.[18]
17. “Sự
hoán cải để được ơn tha thứ” (μετάνοιαν εἰς ἄφεσιν ἁμαρτιῶν Lc
24:47). Nội dung lời rao giảng mà Đức Giêsu buộc các môn đệ phải
rao giảng rõ ràng làm người ta nhớ đến Phép Rửa do Gioan Tẩy Giả đã rao giảng
vào đầu sách Tin Mừng. Ông Gioan cũng rao giảng một “Phép Rửa của lòng hoán cải để được ơn tha thứ”
(βάπτισμα μετανοίας εἰς ἄφεσιν ἁμαρτιῶν Lc 3:3; Cf. Mc
1,4). Đây là thông điệp trọng yếu mà Đức Giêsu muốn các Tông Đồ rao giảng.
Trong thời kỳ rao giảng Đức Giêsu cũng thường đến gặp gỡ và ăn uống với những
người thu thuế và những người tội lỗi (Lc 5,29-31). Khi Người bị “lẩm bẩm
trách” bởi những người Pharisêu Đức Giêsu lý giải rằng: Kêu gọi người tội lỗi hoán cải (ἁμαρτωλοὺς
εἰς μετάνοιαν) là mục đích của Người khi đến trần gian (Lc 5,32; Cf. Mt
9,13; Mc 2,17). Sau này, sách Công Vụ Tông Đồ ghi lại lời rao giảng của các môn
đệ cũng căn cứ trên mệnh lệnh này. Phêrô và các Tông Đồ rao giảng rằng “Thiên
Chúa đã nâng Đức Giêsu, Người mà các ông treo lên cây gỗ mà giết đi, làm thủ lãnh
và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ítrael “ơn
hoán cải” và “ơn tha tội”
(Cv 5,30-31). Khi các thính giả ở Jêrusalem hỏi Phêrô họ phải làm gì, Phêrô đã
nói rằng: “Anh chị em hãy hoán cải, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân
danh Đức Giêsu để được ơn tha tội” (Cv 2,37-38). Thánh Phaolô cũng được
Đức Giêsu sai đi “để mở mắt cho dân ngoại và dân Do Thái, khiến họ rời bóng tối
mà trở về cùng ánh sáng, thoát khỏi quyền lực Xatan mà trở về cùng Thiên Chúa,
nhờ tin vào Đức Giêsu mà được ơn tha tội và được hưởng gia tài cùng với
các người đã được thánh hiến” (Cv 26,18). Hoán cải, để được ơn tha tội rõ ràng
là một sợi chỉ đỏ nối kết sứ vụ của Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu, Các Tông Đồ và
toàn thể Giáo Hội.
18. “Tất
cả các dân tộc” (πάντα τὰ ἔθνη): Danh từ τὰ ἔθνη,
ở số nhiều thường được sử dụng chỉ các dân ngoại, ngoài Do Thái, các quốc gia,
hay người nước ngoài. Tính từ bất định “πάντα” mở rộng biên giới rao
giảng của các Tông Đồ đến vô tận, không trừ một ai. Đức Giêsu đã được ông Simêon
xem như là ơn cứu độ cho “muôn dân” và là “ánh sáng cho sự mặc khải cho các dân
ngoại” (ἐθνῶν Lk 2,32).[19] Sứ
vụ vươn đến dân ngoại này được hiện thực hóa trong sách Công vụ Tông Đồ. Phêrô
được Thần Khí thúc đẩy đến nhà ông Cornêliô rao giảng và làm phép rửa cho cả
nhà ông này (Cv 10,3tt). Sách Công Vụ Tông Đồ ghi lại việc hồng ân Thánh Thần
tuôn đổ trên những người ngoại (τὰ ἔθνη) (Cv 10,45); những
người ngoại cũng đã lãnh nhận Lời Chúa (Cv 11,1). Phaolô với ba hành trình truyền
giáo nổi tiếng đã đem Tin Mừng của Đức Kitô đi khắp các vùng của đế quốc Rôma
thời bấy giờ (Cv 13,2tt; 15,36tt; 18,23). Đó là địa hình không gian tượng trưng
cho toàn thế giới. Phaolô lý giải rằng Lời Chúa phải được loan báo cho những
người Do Thái trước tiên, nhưng vì họ từ chối và tự xem mình không xứng đáng với
sự sống đời đời, nên ông quay về phía các dân ngoại (Cv 13,46). Khi nghe Phaolô
và Banaba rao giảng những người ngoại bắt đầu “vui mừng và tôn vinh lời Chúa”
(Cv 13,47). Các Tông đồ đã hoàn tất lời căn dặn của Đức Giêsu một cách tuyệt vời.
Mệnh lệnh “làm cho muôn dân (πάντα τὰ ἔθνη) trở thành môn đệ” cũng được nói
đến trong Tin Mừng Mátthêu (Mt 28,19).
19. “Những
chứng nhân… những việc này” (ὑμεῖς μάρτυρες τούτων Lc 24:48):
Các Tông đồ được trao sứ vụ rao giảng “sự hoán cải để được ơn tha tội”. Tuy
nhiên, họ không chỉ là những chiếc loa vô cảm có chức năng truyền đi thông điệp.
Họ là những chứng nhân cho những điều này. Chứng nhân theo hai nghĩa: (1) Họ là
những người đã thấy, chứng kiến, mắt thấy, tai nghe, tay sờ mầu nhiệm Đức Giêsu;[20]
(2) Họ phải làm chứng cho những lời họ rao giảng bằng chính đời sống đức tin sống
động của họ. Đại từ chỉ định, giống trung, số nhiều “τούτων” (những điều này) khá trừu tượng. Nó không diễn
tả cụ thể điều gì nhưng ngoại diên nghĩa của nó có thể mở ra vô hạn. “những điều
này” có thể là toàn bộ câu chuyện Đức Giêsu hiện ra với “nhóm tổng hợp”, những
điều Người làm, và dạy trong câu chuyện này. Đó cũng có thể là tất cả các câu
chuyện về những lần hiện ra của Người trong Tin Mừng, hoặc là toàn bộ mầu nhiệm
Tử Nạn – Phục Sinh của Người. “Những điều này” cũng có thể là toàn bộ mầu nhiệm
Cứu Độ được thực hiện qua Đức Giêsu, được toàn bộ Thánh Kinh nói đến, đặc biệt
là những gì Người nói và làm được ghi lại trong Bốn Sách Tin Mừng. J. Green cho
rằng “những điều này” có lẽ nên được hiểu cách rộng rãi bao hàm cả sự đau khổ
và phục sinh của Đấng Mêsia cũng như ý nghĩa của chúng trong tương quan với
toàn bộ Sách Thánh và với nhiệm vụ loan báo tiếp tục của Hội Thánh sơ khai.[21]
Bình luận tổng quát
Tin Mừng Chúa Nhật III Phục Sinh
tường thuật sự kiện hai nhóm chứng nhân của Đức Kitô Phục Sinh đã gặp gỡ nhau:
Nhóm hai môn đệ Emmaus và nhóm Mười Một và những đồng bạn. Họ đang kể cho nhau
nghe về cuộc gặp gỡ của họ với nhau. Đức Giêsu lại hiện ra với toàn bộ cả cộng
đoàn đang tụ họp. Người hiện diện ở giữa và ban bình an cho họ. Tuy nhiên, dường
như tức thời họ không thể đón nhận được sự bình an ấy bởi họ còn chưa nhận ra
Người. Họ đã trải qua một cảm giác kinh sợ nhất từ trước đến nay, theo cách diễn
tả của Luca. Trong nỗi sợ hãi của họ có lẫn những nỗi nghi ngờ. Họ sợ “hồn ma”.
Họ không tin đó là Đức Giêsu thật. Họ nghĩ rằng đó chỉ là hồn ma vất vưởng của
Đức Giêsu. Phản ứng này cho thấy họ chẳng hiểu Thánh Kinh cũng như chẳng nhớ gì
về những lời tiền báo của Đức Giêsu về biến cố Tử Nạn-Phục Sinh. Hoặc là, vì biến
cố Tử Nạn của Người quá khủng khiếp, chấn động khiến họ quên đi mọi sự, mất đi
cả niềm hy vọng. Nhưng không sao, Đức Kitô hiểu và kiên nhẫn đủ để từng bước dẫn
họ đi vào cuộc gặp gỡ thật sự với sự đón nhận biến cố Phục Sinh bằng cách cho họ
“mục sở thị” và “mở trí” cho họ. Khi họ “giật mình và trở nên kinh hãi”, Người
khởi đầu bằng cách mời gọi họ xem, và chạm vào Người. Những kiểm chứng thật sự
bằng giác quan có thể được áp dụng linh động. Khi họ còn chưa kịp tin vì quá
vui mừng và ngạc nhiên, Người hỏi xin một phần cá nướng và ăn trước mặt họ. Những
kiểm chứng về giác quan ấy dường như vẫn còn chưa đủ. Người muốn họ phải có một
sự hiểu biết thật sự tỏ tường về biến cố này. Đó là một sự đón nhận về trí
năng. Muốn được như vậy, Đức Giêsu tiếp tục gợi nhớ cho họ rằng, thực ra, Người
đã từng nói với họ về sự Phục Sinh của Người rồi. Người đã từng nói rằng tất cả
những gì Thánh Kinh (Môsê, các Ngôn Sứ và Thánh Vịnh) nói về Người phải được ứng
nghiệm. Một trong những điểm quan trọng nhất mà Sách Thánh nói về Người là: “Đấng
Kitô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy từ cõi chết” (Lc
24,46). Lời tiền báo tiêu điểm này của Sách Thánh không xa lạ với hai môn đệ
Emmaus. Họ cũng đã được nghe Đức Giêsu nói y chang như vậy. Qua việc gợi nhớ và
giải thích Sách Thánh, Đức Giêsu đã giúp cho cộng đoàn các môn đệ nối kết từ Cựu
Ước đến Tân Ước. Câu chuyện lịch sử thánh của dân thánh Ítrael được tiếp nối với
câu chuyện của Đức Giêsu và những gì Sách Thánh nói được hoàn trọn nơi Đức Giêsu.
Người chính là đỉnh cao cũng như điểm quy chiếu của toàn bộ Sách Thánh. Đường
chỉ đỏ kết nối Cựu Ước và Tân Ước ấy sẽ còn tiếp diễn, bởi lẽ, theo Đức Giêsu,
Sách Thánh cũng nói đến mệnh lệnh: “Phải loan báo cho muôn dân lòng hoán cải để
được ơn tha thứ nhờ danh Người”. Mệnh lệnh này rõ ràng nối kết sứ vụ của Đức Giêsu
với sứ vụ của Giáo Hội. Hay nói cách khác, sứ vụ của Đức Giêsu, Tin Mừng Phục
Sinh của Người sẽ được loan truyền qua đời sống chứng nhân của các Tông Đồ, cộng
đoàn Kitô hữu sơ khai và tất cả các Kitô hữu qua muôn thế hệ. Khởi đầu từ Jêrusalem,
thành phố chứng kiến cái chết của Đức Giêsu và cũng là nơi chứng kiến sự Phục
Sinh của Người. “Ngã ở đâu thì đứng dậy ở đó”. Khởi đầu từ Jêrusalem là hợp lý,
bởi nơi đây, không ai không biết đến biến cố động trời: “Đấng Kitô bị kết án và
bị đóng đinh” (Lc 24,18). Các Tông Đồ là những chứng nhân đầu tiên, vì họ là những
người đã hiện diện ngày từ đầu với Đức Giêsu, và họ đã “mục sở thị” thân xác Đức
Kitô Phục Sinh. Tuy nhiên, để làm chứng cách mạnh mẽ và hiệu quả họ còn cần
lãnh nhận “quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24,49). Đó là quyền năng Thánh
Thần được ban xuống trên từng người dưới dạng hình “lưỡi lửa” trong ngày Lễ Ngũ
Tuần (Cv 2,1-4). Sau khi lãnh nhận Thánh Thần, Phêrô đứng chung với nhóm Mười Một,
đã giảng một bài giảng hung hồn chưa từng thấy. Qua bài giảng ấy, với quyền
năng Thánh Thần, Phêrô đã kéo được một mẻ lưới đầy chưa từng có, đến “3000 người
theo đạo” (Cv 2,41).
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV. Introduction,
translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) 28A, 1573.
[2] J.
Fitzmyer cho rằng Luca dùng dạng thức “kerygma” có lẽ, Luca đã thêm vào “ho
Kyrios” (Đức Chúa), nhưng cũng có thể danh xưng này là một phần nguyên thủy của
Kerygma [J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV,
1569.]
[3] Lời
chào “bình an” là lời chào mang tính truyền thống trong Cựu Ước (Tl 6,23;8,35;
18,6; 19,20; 1 Sm 16,5; 29,7; 1V 2,13; 2 V 9,11 [L.T. Johnson, The Gospel of
Luke (SP 3; Collegeville 2005) 400].
[4] J.B. Green,
The Gospel of Luke (NICNT; Grand
Rapids 1997) 853.
[5] J.
Fitzmyer cho rằng sự thách thức của Đức Giê-su đối với các môn đệ qua việc mời
gọi nhìn và chạm có mục đích thiết lập căn tính của Người (J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV,
1576).
[6]
Xem thêm, J.P.D. Thạch, “Từ Nghi Ngờ Sâu Thẳm Đến Niềm Tin Tuyệt Đỉnh”, HORIZON
MISSIONARY: TỪ NGHI NGỜ SÂU THẰM ĐẾN NIỀM TIN TUYỆT ĐỈNH
(josephpham-horizon.blogspot.com) (Truy cập 15/04/2021).
[7] J.B. Green,
The Gospel of Luke, 854.
[8] F.
Bovon cho rằng giới từ “phía trước” (ἐνώπιον) này được dùng với
nghĩa là cùng với (σύν) xem ra không có ý nghĩa lắm [F. Bovon,
Luke 3. A
Commentary on the Gospel of Luke 19:28–24:53 (ed. H. Koester) (Hermeneia; Minneapolis
2012) 393].
[9]
M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary (Ed., J.E.A. Chiu et
Al.) (New York 2018) 1102.
[10] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV,
1583.
[11]
X. J. E. A. Chiu et Al. (Ed.), The Paulist Biblical Commentary, 8-9.
[12]
Sách Thánh của Giáo Hội Công Giáo gồm có hai Phần: Cựu Ước và Tân Ước. Phần Cựu
Ước căn bản lấy từ Sách Thánh Do Thái và thêm vào một số sách, và bố trí lại
theo thứ tự hơi khác so với Sách Thánh Do Thái. Phần Cựu Ước của Công Giáo gồm
46 cuốn sách, chia làm 4 phần. Phần I: Ngũ Thư (St, Xh, Lv, Ds, Đnl); phần II:
Các Sách Lịch Sử (Gs, Tl, R, 1&2 Sm, 1&2 V, 1&2 Sb, Er, Nkm, Tb,
Gđt, Et, 1&2 Mcb); phần III: Sách Giáo huấn và thơ ca (G, Tv, Cn, Dc, Kn,
Hc); phần IV: Sách các Ngôn Sứ (Is, Gr, Ac, Br, Ed, Dn, Hs, Ge, Am, Ôv, Gn, Mk,
Nk, Kb, Xp, Kg, Dcr, Ml). Phần Tân Ước gồm 27 cuốn, chia làm 3 nhóm. Nhóm I:
Sách Tin Mừng (Mt, Mc, Lc, Ga) và Công Vụ Tông Đồ (Cv); nhóm II: 21 lá thư (Rm,
1&2 Cr; Gl, Ep, Pl, Cl, 1&2 Tx, 1&2 Tm, Tt, Plm, Hr, Gc, 1&2
Pr, 1,2&3 Ga, Gđ); nhóm III: Sách Khải Huyền (Kh).
[13] J.B. Green,
The Gospel of Luke, 855-856.
[14]
2,49; 4,43; 9,22; 13,33; 17,25; 19,5; 22,37; 24,7; 24,44.
[15] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV,
1583.
[16] F.
Bovon, Luke 3. A Commentary
on the Gospel of Luke 19:28–24:53 (ed. H. Koester)
(Hermeneia; Minneapolis 2012) 395.
[17]
J. Green nghĩ rằng khi đề cập đến việc loan báo “sự hoán cải để được ơn tha thứ”
cho muôn dân, Đức Giêsu muốn nói đến Is 49,6, đoạn nói về việc Chúa hứa là sẽ
khôi phục những người sống sót của Ítrael và sẽ làm cho Ítrael thành ánh sáng
cho các quốc gia, để ơn cứu độ có thế đi đến tận cùng trái đất (J.B. Green,
The Gospel of Luke, 857).
[18]
M.D. Hamm, “Luke”, 1102-1103.
[19] J.B. Green,
The Gospel of Luke (NICNT; Grand
Rapids 1997) 853.
[20]
Điều này làm cho độc giả nhớ đến Lời Tựa của Tin Mừng Luca, trong đó, thế hệ của
những người từ thuở ban đầu đã trở thành chứng nhân nhãn tiền, và những tôi tớ
của Lời (Lc 1,2) (F. Bovon, Luke 3, 396).
[21]
J. Green cho rằng “những điều này” có lẽ nên được hiểu cách rộng rãi bao hàm cả
đau khổ và phục sinh của Đấng Mê-si-ah cũng như ý nghĩa của chúng trong tương
quan với toàn bộ Sách Thánh và với nhiệm vụ loan báo tiếp tục của Hội Thánh sơ
khai (J.B. Green, The Gospel of Luke, 858).
No comments:
Post a Comment