Bản văn và dịch sát
nghĩa
Hy
Lạp |
Việt |
11 Ἐγώ
εἰμι ὁ ποιμὴν ὁ καλός.
ὁ ποιμὴν ὁ καλὸς τὴν
ψυχὴν αὐτοῦ τίθησιν ὑπὲρ τῶν προβάτων· 12 ὁ μισθωτὸς καὶ οὐκ ὢν ποιμήν, οὗ οὐκ ἔστιν τὰ πρόβατα ἴδια, θεωρεῖ τὸν λύκον
ἐρχόμενον καὶ ἀφίησιν τὰ πρόβατα καὶ φεύγει- καὶ ὁ λύκος ἁρπάζει αὐτὰ καὶ
σκορπίζει- 13 ὅτι μισθωτός ἐστιν καὶ οὐ μέλει αὐτῷ περὶ τῶν προβάτων. 14 Ἐγώ εἰμι ὁ ποιμὴν ὁ καλὸς καὶ γινώσκω
τὰ ἐμὰ καὶ γινώσκουσίν με τὰ ἐμά, 15 καθὼς γινώσκει με ὁ πατὴρ κἀγὼ γινώσκω τὸν πατέρα, καὶ τὴν ψυχήν μου
τίθημι ὑπὲρ τῶν προβάτων. 16 καὶ ἄλλα πρόβατα ἔχω ἃ
οὐκ ἔστιν ἐκ τῆς αὐλῆς ταύτης· κἀκεῖνα δεῖ με ἀγαγεῖν καὶ τῆς φωνῆς μου ἀκούσουσιν,
καὶ γενήσονται μία ποίμνη, εἷς ποιμήν. 17 Διὰ τοῦτό με ὁ πατὴρ ἀγαπᾷ ὅτι ἐγὼ τίθημι
τὴν ψυχήν μου, ἵνα πάλιν λάβω αὐτήν. 18 οὐδεὶς αἴρει αὐτὴν ἀπ᾽
ἐμοῦ, ἀλλ᾽ ἐγὼ τίθημι αὐτὴν ἀπ᾽ ἐμαυτοῦ. ἐξουσίαν ἔχω θεῖναι αὐτήν, καὶ ἐξουσίαν
ἔχω πάλιν λαβεῖν αὐτήν· ταύτην τὴν ἐντολὴν ἔλαβον παρὰ
τοῦ πατρός μου. (Jn 10,11-18) |
11 Tôi là mục tử tốt lành. Mục tử tốt
lành hy sinh mạng sống vì những con
chiên của mình. 12 Người làm thuê không phải là một người mục
tử, những con chiên không thuộc về anh ta. Khi anh ta thấy sói đến,
anh ta để những con chiên lại và tẩu thoát, và sói vồ lấy chúng và chúng phân
tán. 13 Vì anh ta chỉ là người làm thuê, anh ta không bận tâm về những con
chiên. 14 Tôi là mục tử tốt lành và tôi biết
những con chiên của tôi và những con chiên của tôi biết tôi. 15 Hệt như Người Cha biết tôi và tôi biết
Người Cha, và tôi hy sinh mạng sống vì những
con chiên. 16 Tôi có những con chiên
khác, những con không thuộc đàn này. Tôi phải dẫn chúng về và chúng nghe tiếng tôi, và sẽ trở thành một đàn chiên và
một mục tử. 17 Sở dĩ Người Cha yêu thương tôi là vì tôi hy sinh mạng sống của tôi để rồi tôi lấy lại nó. 18 không ai lấy nó khỏi
tôi, tôi có quyền hy sinh nó và tôi có quyền lấy
lại nó. Đây là mệnh lệnh tôi nhận từ Cha của tôi. |
Bối cảnh
Đoạn văn Ga
10,11-18 nằm trong đoạn lớn 9,1 – 10,21, đoạn dài nói về việc một người mù từ
thuở mới sinh được sáng mắt, trong khi đó những lãnh đạo Do Thái lại trở nên mù
lòa (9,1-38). Tiếp theo sau đó, song song với việc mặc khải mình là một mục tử
đích thực, Đức Giêsu quở trách cách ý nhị các lãnh đạo Do Thái là những người
mù, những kẻ trộm, những tên cướp, những kẻ xa lạ và những kẻ chăn thuê, những
người không quan tâm đến những con chiên họ chăn (9,39 – 10,13). Bối cảnh cử
hành Lễ Lều của người Do Thái (Ga 7,2) kéo dài cho đến Ga 10,21 là bối cảnh phù
hợp cho những diễn từ nói về một Mục Tử Tốt Lành mang tính Mêsia.[1] Chủ
đề về một Mục Tử tốt lành nối kết chặt chẽ với phần đầu của chương 10 nói về mục
tử (Ga 10,2); Đức Giêsu là “cửa chuồng chiên” (Ga 10,7). Chủ đề “mục tử” cũng
được Tin Mừng Mátthêu nhắc đến ngay từ đầu. Đức Giêsu chính là “vị mục tử chăn
dắt dân ta, Israel” (Mt 2,26). Người cũng được ví như người “mục tử” bỏ chín
mươi chín con chiên lạc được nói đến trong Mátthêu và Luca (Mt 18,12-14; Lc
15,4-7); là vị “mục tử” chạnh lòng thương đám dân chúng vì họ bơ vơ không người
chăn dắt (Mt 9,36; Mc 6,34). Đức Giêsu cũng là vị mục tử cánh chung, Người phân
biệt “chiên” và “dê” trong ngày cánh chung (Mt 25,32). Chủ đề “người mục tử”
cũng là một trong những chủ đề nổi bật trong các sách Cựu Ước. Chúa là mục tử
(St 48,15; Tv 23,1). Vua Đavít là mục tử chăn dắt dân Ítrael (2 Sm 5,2; 1 Sbn
11,2; Tv 78,71). Các ngôn sứ nói về những ngôn sứ Chúa ban (Gr 3,15; 23,4; Mk
5,5;) và những ngôn sứ xấu xa, bị Chúa lên án (Gr 10,21; 12,10; 23,1-2; 50,6;
Ed 34; Dcr 10,3; 11,8). Chủ đề “hy sinh mạng sống” vì đàn chiên gợi nhớ và tiền
báo về cái chết đau khổ mà Đức Giêsu đã trải qua. Điều đó đã được Đức Giêsu nói
trước trong khi Người lập Bí Tích Thánh Thể: “đây là mình Thầy, mình được trao
ban vì anh em” (Lc 22,19). Cách Gioan mô tả cảnh Đức Giêsu bị bắt trong vườn
Cây Dầu cho thấy Đức Giêsu tự ý hiến mạng sống mình, như Người đã nói ở trong
trình thuật này (Ga 10,18). Chỉ có Tin Mừng Gioan ghi lại chi tiết rằng: sau
khi Đức Giêsu nói: “Chính là tôi đây” thì tất cả quân lính đều “lùi lại và ngã
xuống đất” (Ga 18,6). Điều này chứng tỏ rằng nếu Đức Giêsu không tự hiến mạng sống
mình thì chẳng có ai có thể bắt Người được. Ngoài ra, chủ đề Đức Giêsu nối kết
với Chúa Cha qua sự hiểu biết cũng liên kết với nhiều đoạn trong Tin Mừng thứ
tư. Đức Giêsu biết Cha vì Người đến từ Cha (Ga 7,29; Cf. 17,25). Ai biết Đức Giêsu
thì cũng biết Chúa Cha (Ga 8,18; 14,7). Trong câu chuyện “chữa lành người mù từ
thuở mới sinh” trước đó (Ga 9,1-41), những người Do Thái, cũng chất vấn anh mù
về sự hiểu biết của anh ta về người đã chữa lành cho anh ta. Anh ta đã từng bước
tiến triển trên con đường nhận thức về Đức Giêsu để rồi đạt đến đỉnh cao là
tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu. Từ sự mù mờ: “Tôi không biết” (Ga 9,12), đến
phủ nhận Đức Giêsu là một tội nhân, và khẳng định “một điều tôi biết là tôi dù
đã bị mù nhưng giờ tôi thấy” (Ga 9,25); cuối cùng nhận ra Đức Giêsu là Đức Chúa
(Lord) và tuyên xưng niềm tin và thờ lạy Người (Ga 9,38). Trong bối cảnh trực
tiếp, vào đầu chương 10, đoạn ngay trước đoạn này diễn tả rằng những con chiên
“theo người mục tử vì chúng biết giọng nói của anh ta” (Ga 10,4). Chúng không
“theo người lạ vì chúng không biết tiếng của người lạ” (Ga 10,5). Trong đoạn
này (Ga 10,11-18), Đức Giêsu khẳng định là Người biết chính những con chiên của
Người và chúng biết Người (Ga 10,14), như thể là Người Cha biết Người và Người
biết Người Cha (Ga 10,15). Đó là một cái nhìn sơ lược về bối cảnh để thấy được
sự nối kết những chủ đề của bản văn này với những đoạn trước đó và sau đó, với
toàn bộ Tin Mừng thứ tư và Tin Mừng Nhất Lãm, cũng như với các Sách Cựu Ước.
Giới hạn và cấu trúc
Giới hạn
Đoạn văn được
đánh dấu bằng lời tự bạch của Đức Giêsu (Ga 10,11a). Lời tự bạch này được nhắc
lại nhiều lần trong đoạn này (10,11b.14). Vì thế, nó làm cho đoạn văn thống nhất
về mặt chủ đề. Ga 10,18 có thể được xem là câu kết của đoạn văn này vì nó đóng
lại chủ đề nói về tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giêsu khởi đầu bằng sự hiểu
biết giữa Người Cha và Người Con (Ga 10,15). Hơn nữa, câu văn tiếp theo sau đó
(Ga 10,16) đã có dấu hiệu thay đổi về nhân vật và chủ đề, nên đoạn văn này nên
kết thúc ở 10,18.
Cấu trúc
Sau khi quan sát
bản văn, xin đề xuất hai loại cấu trúc: (1) Cấu trúc chi tiết bốn tiểu đoạn;
(2) Cấu trúc tổng thể. Đoạn 10,11-18 có thể được chia thành 4 tiểu đoạn. Hai tiểu
đoạn đầu tiên được cấu trúc theo lối diễn dịch: bắt đầu bằng một câu chủ để sau
đó là những phát triển xoay quanh ý tưởng chủ đề trong câu đó. Tiểu đoạn I gồm
hai thành phần song song nhau. Hành động của người mục tử tốt lành: chết cho
chiên (A) // (A’) Hành động của người làm thuê: bỏ chiên lại và tẩu thoát. Tiểu
đoạn II gồm hai cặp thành phần song song với nhau. Hành động của người mục tử tốt
lành: Biết chiên (A) // (A’) Hành động của những con chiên: Biết mục tử. Hành động
của Người Cha: Biết Người Con (B) // (B’) Hành động của Người Con: Biết Người
Cha. Tiểu đoạn III có cấu trúc đối xứng quy tâm với hai cặp thành phần song
song với nhau và hướng vào phía trung tâm. Những con chiên lạc (A) // (A’) Những
con chiên đã được quy tụ. Sở dĩ những con chiên lạc được quy tụ là nhờ vào hai
hành động: Hành động của người mục tử tốt lành: Tìm kiếm (B) // (B’) Hành động
của những con chiên: Lắng nghe. Tiểu đoạn IV gồm có 5 thành phần, cấu trúc theo
lối song song. Hành động của Người Cha: Yêu Người Con (A) // (A’) Hành động của
không ai: Lấy mạng Người Con. Hành động của Người Con: Tự hiến mạng sống và lấy
lại (B’) // (B’) Quyền của Người Con: Tự hiến mạng sống và lấy lại // (B’’) Mệnh
lệnh từ Người Cha. Cấu trúc của toàn bộ bốn tiểu đoạn này có thể định dạng bằng
hai cặp thành phần song song với nhau: A (I) Mục Tử hy sinh vì những con chiên
// A’ (IV) Người Con tự hiến mạng và lấy lại. B (II) Mục tử biết những con
chiên // B’ (III) Mục tử biết chiên lạc và tìm chiên lạc.
(1) Cấu trúc chi tiết 4 tiểu đoạn
Tiểu đoạn I: Giới thiệu: “Tôi là mục tử tốt lành” (10,11a) (A)
Hành động Mục Tử Tốt Lành: Hy sinh mạng sống vì những
con chiên (10,11b) Giới thiệu: Người làm thuê, không phải là một người mục tử (10,12a) (A’) Hành động của anh ta: Để những con
chiên lại và tẩu thoát (10,12b) &
không bận tâm về những con chiên (10,13) |
Tiểu đoạn II: Giới thiệu: “Tôi là mục tử
tốt lành” (10,14a) (A)
Hành động của Người Mục Tử tốt lành: Biết những con chiên (10,14b) (A’)
Hành động của chiên: Biết mục tử (10,14c) (B)
Hành động của Người Cha: Biết Người Con (10,15a) (B’)
Hành động của Người Con: Biết Người Cha (10,15b) &hy sinh mạng sống vì những con chiên |
Tiểu đoạn III: (A)
Những con chiên lạc (10,16a) (B)
Hành động của Người Mục Tử Tốt Lành: Dẫn chúng
về (10,16b) (B’)
Hành động của con chiên: Nghe tiếng tôi (10,16c) (A’)
Những con chiên quy tụ: Một đàn chiên và một mục tử (10,16d) |
Tiểu đoạn IV: (A)
Hành động của Người Cha: Yêu Người Con (10,17a) (B) Vì hành động của Người
Con: Tự hiến và lấy lại (10,17b) (A’) Hành động của không ai: Lấy mạng Người Con (10,18a) (B’)
Quyền của Người Con: Tự hiến và lấy lại (10,18b) (B’’)
Mệnh lệnh của Người Cha (10,18c) |
(2) Cấu trúc tổng thể:
A (I)
Hành Động của Mục tử tốt lành: Hy sinh vì những con
chiên (Ga 10,11-13) B (II)
Hành động của mục tử tốt lành: Biết chiên (Ga 10,14-15) B’
(III) Hành động của mục tử tốt lành: Biết chiên lạc và tìm chiên lạc (Ga 10,16) A’
(IV) Hành động của Người Con: Tự hiến mạng sống và lấy
lại (Ga 10,17-18) |
Một
số điểm chú giải
1. Mục
tử tốt lành (ὁ ποιμὴν ὁ καλός): Danh từ mục tử (ὁ
ποιμὴν), đi chung với tính từ “tốt lành” (ὁ καλός) chỉ xuất
hiện trong Tin Mừng Gioan và chỉ xuất hiện trong đoạn này. Nó xuất hiện một
cách dày đặc. Có đến 3 lần cụm danh từ này được dùng trong đoạn này
(10,11a.11b.14). Danh từ “mục tử” được đi kèm với phẩm tính “tốt lành”. Tính từ
này bổ nghĩa cho danh từ “mục tử”. Đức Giêsu không phải là bất cứ một mục tử
nào nhưng là “mục tử tốt lành”. Chính Đức Giêsu thừa nhận điều này bằng một
cách nói long trọng “ego eimi”, “tôi là” (Ἐγώ εἰμι). Động từ “eimi” kéo
vị ngữ đến đồng hóa với chủ ngữ: ego (tôi) = “mục tử tốt lành”. Trong toàn bộ
các sách Tin Mừng, chỉ có Đức Giêsu mới là “mục tử tốt lành”. Tính từ “καλός”
trong tiếng Hy Lạp vừa có nghĩa là đẹp bề ngoài, vừa có nghĩa là tốt bề trong,
và là mẫu mực hoàn hảo cho người khác. R. Brown dịch tính từ này là “model”
(người mẫu, vật mẫu).[2] Có
lẽ ông muốn hiểu Đức Giêsu là hình mẫu cho các mục tử khác Danh từ “mục tử” đứng
riêng một mình còn xuất hiện 3 lần khác trong chương 10 (Ga 10,2.12.16). Ga
10,2 nói đến “người đi qua cổng (chứ không trèo rào) là “người mục tử”, “chiên
nghe tiếng anh; anh gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra” (Ga 10,2-3). Ga 10,16
nói đến một mục tử và một đàn chiên. Mục tử này có lẽ cũng ám chỉ Đức Giêsu. Ga
10,12, người làm thuê không phải là một mục tử và không sở hữu những con chiên.
Như đã nói trên, Tin Mừng Mátthêu giới thiệu ngay từ đầu, Hài Nhi Giêsu chính
là một thủ lãnh “chăn dắt” dân Chúa đã được sinh ra trong thành Bếtlehem (Mt
2,6). Mátthêu cũng nói đến một vị mục tử để 99 con chiên ở đồng hoang để đi tìm
một con chiên lạc (Mt 18,12-14; Cf. Lc 15,4-7). Mátthêu còn nói đến một vị mục
tử của thời cánh chung, tách biệt chiên với dê (Mt 25,32). “Mục tử tốt lành” của
Gioan trong bối cảnh trực tiếp đối nghịch lại với những vị mục tử lãnh đạo dân
Do Thái thời bấy giờ. Họ không đồng cảm với “người mù từ thuở mới sinh”. Thay
vì họ chia sẻ niềm vui với anh vì anh đã được sáng mắt, họ lại tìm cách bắt bớ
anh và ngay cả cha mẹ anh cũng bị họ tra hỏi. Họ sợ phải bị trục xuất ra khỏi hội
đường nếu họ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Ga 9,22). Nhiều quan quyền tin
vào Đức Giêsu nhưng không tuyên xưng vì họ sợ những người Pharisêu sẽ trục xuất
họ ra khỏi hội đường (Ga 12,42). Chính “anh mù” cũng bị “trục xuất ra ngoài” vì
đã tuyên xưng Đức Giêsu “bởi Thiên Chúa mà đến” (Ga 9,34-35). Hình ảnh “mục tử
tốt lành” dĩ nhiên làm người ta nhớ đến hình ảnh đối nghịch với những mục tử
“không tốt lành” mà Êdêkiel được lệnh phải nguyền rủa: “Khốn cho các mục tử Ítrael,
những kẻ chỉ biết lo cho mình” (Ed 34,2); “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc,
chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên thì không lo chăn dắt” (Ed
34,3).
2. Hy
sinh mạng sống (τὴν ψυχὴν αὐτοῦ τίθησιν): Phẩm chất “tốt lành”
(καλός)
được thể hiện một cách mỹ mãn bằng hành động “hy sinh tính mạng” cho những con
chiên. Hy sinh mạng sống rõ ràng là sự hy sinh ở mức độ cao nhất, không còn gì
để hy sinh nữa. Đây là kiểu nói mang đặc trưng Gioan. Chúng ta tìm thấy cách
nói này trong Ga 15,13: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của kẻ dám
thí mạng vì bạn hữu của mình”. Trong thư thứ nhất Gioan chúng ta cũng gặp thấy
tư tưởng này: “Chúng ta biết tình yêu bằng cách này, Người đã hy sinh tính mạng
cho chúng ta, và chúng ta cũng có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau” (1 Ga
3,16).[3] Đức
Giêsu khi đứng trước cuộc tử nạn đã xin cho các môn đệ: “nếu các anh tìm bắt
tôi thì hãy để cho những người này đi”. Tác giả Tin Mừng còn thêm “thế là ứng
nghiệm lời Đức Giêsu đã nói: ‘Những người Cha đã ban cho con, con không để mất
một ai’” (Ga 18,8-9). Hành động chết thay cho các môn đệ không chỉ ở tầm mức bảo
tồn tính mạng tạm thời của các môn đệ, nhưng sâu xa hơn là cái chết của Người
trên thập giá đã chuộc tội cho nhân loại, và mang lại cho họ ơn cứu độ, để họ
có thể chia sẻ sự sống đời đời với Người. Máu Đức Giêsu là “máu giao ước” đã đổ
ra cho “nhiều người được tha tội” (Mt 26,28; Mc 14,24; Lc 22,20; 1 Cr 11,25).
Các tín hữu được công chính hóa nhờ máu Đức Giêsu (Rm 5,9). Họ được cứu độ nhờ
máu của Người (Eph 1,7; 2,3). Chính máu của Đức Giêsu rửa sạch muôn vàn tội lỗi
của chúng ta (1Ga 1,7). Đức Giêsu Kitô đã trao ban chính mình cho chúng ta để
Người có thể cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi và thanh tẩy cho Người một dân,
dân nhiệt thành với những việc tốt lành (Tt 2,14). Thánh Phaolô cũng xác tín rằng:
“Khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô đã chết cho chúng ta” (Rm 5,8; 1 Cr
15,3).
3. “Người
làm thuê” (ὁ μισθωτὸς):
Đối lại với “người mục tử” (người đi qua cổng chính) (Ga 10,3) là kẻ trộm, kẻ
cướp (trèo qua lối khác) (Ga 10,2). Đối lại với “người mục tử tốt lành” là “người
làm thuê”. Danh từ “người làm thuê” được nhắc đến hai lần trong toàn Tin Mừng
Gioan, và đều ở trong đoạn này, ở hai câu liên tục, với ý định nhấn mạnh (Ga
10,12.13). Máccô và Luca cũng nói đến một người làm thuê theo nghĩa chung
chung: người làm công của gia đình ông Dêbêđê (Mc 1,20); Người con hoang đàng
muốn trở thành người làm công của cha mình (Lc 15,17.19). Người làm thuê của
Gioan trong bối cảnh này là người chăn chiên mướn. Anh ta có thể chăn mướn theo
ngày hoặc theo tháng, nhưng chắc chắn “những con chiên không thuộc về anh ta”
(Ga 10,12). Tác giả Gioan phân biệt rõ 3 điều liên quan đến “người chăn thuê” bằng
ba câu phủ định: (1) Anh ta không phải là một mục tử (οὐκ ὢν ποιμήν), khác với Đức Giêsu
là một mục tử; (2) Những con chiên không thuộc về anh ta (3) Anh ta không bận
tâm đến những con chiên. Ba cái “không” đó đã chi phối hoàn toàn hành vi bỏ
chiên lại và tẩu thoát của anh ta. Mục Tử Giêsu được định nghĩa là “tốt lành”
trong khi đó “người chăn thuê” không được định nghĩa gì cả. Như thế mới hiểu rằng,
không phải bất cứ ai chăn chiên, đều là người mục tử. Họ có thể chỉ là “người
chăn thuê”.
4. Để
những con chiên lại… tẩu thoát: Dấu hiệu để nhận ra người đang chăn bầy
chiên là “một mục tử” hay là “một người chăn thuê” được bộc lộ rõ nét khi đàn
chiên gặp nguy hiểm. Nếu như người mục tử “hy sinh tính mạng” để bảo vệ đàn
chiên, thì “người chăn thuê” bỏ những con chiên lại, mặc cho sói vồ lấy chiên
và làm cho chúng tan tác. Lý do được đưa ra là vì anh ta không “bận tâm đến” sự
sống chết của những con chiên, vì những con chiên “không thuộc về anh” và vì
anh chỉ là “người chăn thuê”. Dĩ nhiên, con sói ở đây mang ý nghĩa biểu tượng
cũng như vị mục tử cũng mang ý nghĩa biểu tượng. Những người “chăn thuê” ở đây
có thể là những lãnh đạo Do Thái, đối lại với vị mục tử tốt lành là Đức Giêsu.
Những người lãnh đạo này bảo tồn cuộc sống của họ trong khi những cư dân Jêrusalem,
“chiên của đàn” bị “vồ” và “phân tán”.[4]
Con sói có thể là biểu tượng của thế lực ngoại bang xâm chiếm và phân tán người
dân thường. “Con sói” cũng có thể là biểu tượng của quỷ có nguy cơ làm cho những
tín hữu mất đức tin, lạc xa Chúa và đưa đến diệt vong. Đức Giêsu nói với những
“Người Do Thái” rằng: “Cha các ngươi là quỷ và các ngươi chọn làm theo sở thích
của cha các ngươi” (Ga 8,44).[5]
Tin Mừng Gioan cũng cho thấy hành động “nộp” Thầy của Giuđa có tác động lớn bởi
quỷ: “Ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con trai của ông Simon Ítcariốt ý định nộp
Người” (Ga 13,2). Cuộc chiến giành giật mạng sống của “những con chiên” thật sự
là một cuộc chiến với ma quỷ. Đức Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở Giuđa nhưng không
có kết quả gì (Ga 6,64; 13,11; 13,21.26).
5. Biết chiên… chiên biết: Đặc tính, biểu hiện tiếp theo của vị “mục tử tốt lành” là “biết những con chiên” của mình. Gioan dùng một cấu trúc song song để diễn tả mối quan hệ hỗ tương giữa “người mục tử tốt lành” và “những con chiên của mình”. Cấu trúc trong tiếng Hy Lạp cho thấy tính song song rất rõ, nhưng khi diễn tả qua tiếng Việt rất khó giữ cấu trúc này.
γινώσκω τὰ ἐμὰ tôi biết những con chiên của tôi καὶ
γινώσκουσίν
με τὰ ἐμά và biết tôi những con chiên của tôi |
Động từ biết (γινώσκω) diễn tả một sự hiểu biết
sâu sắc, qua quá trình tìm hiểu và nhận ra. Mục tử Giêsu biết những con chiên của
mình một cách tường tận. Người mục tử Giêsu “gọi tên từng con một, rồi dẫn” những
con chiên ra khỏi ràn (Ga 10,3). Khi chiên đã ra hết, anh ta đi trước” (Ga
10,4). Những con chiên đích thực, ngoan hiền cũng có một sự hiểu biết người mục
tử y chang như người mục tử hiểu chúng. Liên từ “và” (καὶ) nối hai vế ngang nhau của một câu ghép. Động từ
dùng diễn tả sự hiểu biết của Đức Giêsu đối với những con chiên (γινώσκω) cũng là động từ dùng để diễn tả sự hiểu biết của
những con chiên đối với Đức Giêsu. Nghĩa là sự hiểu biết này trên lý thuyết là
không khác nhau. Khi vị mục tử đi trước thì đàn chiên theo sau (ἀκολουθεω) anh ta (Ga 10,4). Những con chiên “nghe tiếng” (ἀκούω) vị mục tử (Ga 10,3) và “nhận biết tiếng” (οἶδα) của anh (Ga 10,4). Ngay cả những con chiên lạc
khi đã được đưa về thì cũng “nghe tiếng” (ἀκούω) mục tử Giêsu (Ga 10,16). “Lắng nghe”, “hiểu biết”,
“đi theo sau” là những đặc tính không thể thiếu của những con chiên “biết” vị mục
tử của mình.
6. Biết Cha… Cha biết: Bằng một liên từ so sánh “hệt như” (καθὼς), Đức Giêsu đồng hóa sự hiểu biết giữa Người và những con chiên với sự hiểu biết giữa Người với Cha Người. Dưới đây là sơ đồ về sự đồng hóa của hai sự hiểu biết của hai cặp nhân vật: Mục tử Giêsu – chiên và Người Cha – Người Con. Động từ dùng diễn tả sự hiểu biết của tất cả các nhân vật là như nhau. Động từ “biết” (hiểu, nhận ra) được dùng với mật độ vô cùng dày đặc. Độc giả nghe có cảm giác như là: “biết”, “biết”, “biết” rồi “biết”, một điệp khúc của động từ biết. Điệp từ này cùng với liên từ “hệt như” (καθὼς) góp phần thắt chặt mối tương quan giữa bốn loại nhân vật này lại gần nhau nhất có thể qua sự thấu hiểu lẫn nhau. Hai câu này có cấu trúc như một bài thơ vậy, với hai loại cấu trúc được sử dụng. Cấu trúc của mối tương quan giữa mục tử Giêsu và chiên là cấu trúc song song (A//B), trong khi đó cấu trúc của mối tương quan giữa Cha và Con là cấu trúc giao thoa (Chiasm) (ABBA). Hai cấu trúc này lại được nối với nhau bằng liên từ “hệt như” (καθὼς). Nghĩa là (A//B) = (ABBA). Mối tương quan giữa mục tử - chiên cũng khăng khít như mối tương quan giữa Cha – Con vậy. Đây quả là một lý tưởng đỉnh cao cho cộng đoàn Gioan vươn tới, bởi lẽ sự thấu hiểu giữa Cha – Con là sự thấu hiểu ở mức độ sâu xa nhất trên trần gian này. Đó là nền tảng là điểm quy chiếu cho mọi sự thấu hiểu.
γινώσκω τὰ ἐμὰ tôi biết (A) những con chiên của tôi (B) καὶ
γινώσκουσίν
με τὰ ἐμά, và biết tôi (A) những con chiên của tôi (B) καθὼς γινώσκει με ὁ πατὴρ hệt như biết tôi (A) Người Cha
(B) κἀγὼ γινώσκω τὸν
πατέρα và Tôi (B) biết Người
Cha (A) |
7. Những
con chiên khác (ἄλλα πρόβατα): Sau khi bày tỏ bộc bạch về mối tương quang khăng khít giữa chiên
và “người mục tử tốt lành”. Giờ đây, “người mục tử tốt lành” hướng đến những
con chiên không thuộc đàn này. Người mục tử này tự cảm thấy có trách nhiệm phải
dẫn đưa chúng về. Lối diễn tả “Tôi còn có những
con chiên khác” (ἄλλα πρόβατα ἔχω)
cho thấy Mục tử Giêsu xem những con chiên lạc cũng thuộc sở hữu của Người, dẫu
cho những con chiên ấy nhiều khi chẳng biết đến vị mục tử của mình. “Những con
chiên khác” cũng có thể là cộng đoàn dân ngoại rộng lớn chưa tin vào Đức Giêsu.[6]
8. “Phải
đưa chúng về”: Động từ không ngôi “phải” (δεῖ)[7] diễn
tả một sự bắt buộc trong sứ vụ mục tử của Đức Giêsu. Sứ vụ này gợi nhớ đến lời
căn dặn của Đức Giêsu dành cho các Tông Đồ khi Người sai các ông đi: “Hãy đến với
những con chiên lạc của nhà Ítrael”. Đó cũng chính là sứ vụ của Đức Giêsu: “Tôi
chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Ítrael” (Mt 15,24). Một người mục
tử bình thường có 100 con chiên mà lỡ mất một con thì anh ta cũng bỏ 99 con lại
trên núi để tìm cho được con chiên lạc ấy (Mt 18,10-14; Lc 15,4-7). Bởi lẽ, “ý
định của Chúa Cha là không để cho một trong những kẻ bé mọn này bị lạc mất”
(Mt18,14). Đức Giêsu đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng là để kêu
gọi người tội lỗi (Lc 5,32; Mc 2,17; Mt 9,13). “Phải đưa chúng về” cũng là cách
nói về sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Đức Giêsu như người mục tử sẽ
quy tụ tất cả về một “đàn chiên” và “một mục tử”. Đó cũng là sứ vụ của Giáo Hội
mà Đức Giêsu là đầu. Đây cũng có thể là sự phân biệt thời sơ khai được đưa ra bởi
cộng đoàn Do Thái Kitô giáo có Đức Giêsu là mục tử với những Kitô hữu gốc dân
ngoại. Đức Giêsu sẽ làm cho họ trở thành một đàn chiên để xóa tan sự khác biệt.[8]
Tuy nhiên, xem ra cho đến ngày nay sự phân rẽ ngày càng nhiều giữa các đàn
chiên của Đức Giêsu và vẫn chưa có một đàn chiên và một người mục tử. Có chăng
là một mục tử và nhiều đàn chiên.
9.
Hy sinh mạng sống … quyền hy sinh mạng sống…
Mệnh lệnh từ Cha:
Nhìn vào cấu trúc chi tiết
phần IV ở trên, độc giả sẽ thấy 3 thành phần đi song song với nhau: phần (B) Hy
sinh mạng sống & lấy lại // Phần (B’) Quyền hy sinh mạng sống & lấy lại
// Phần (B’’) Mệnh lệnh từ Chúa Cha. Sự hy sinh mạng sống của vị mục tử tốt
lành là vì và cho những con chiên (Ga 10,11.15). Sự hy sinh mạng sống và lấy lại
của mục tử Giêsu được lý giải là quyền tự hiến của chính Người (Ga 10,18c). Cuộc
gặp giữa Đức Giêsu với quân lính trong “khu vườn” bên kia suối Kítrôn đã cho thấy
rõ điều ấy. Quân lính và các thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu “đã
lùi lại và ngã xuống đất” khi Đức Giêsu chỉ trả lời là “Ta đây!” (Ga 18,6). Trước
quan Philatô, kẻ tự cho mình có quyền tha hay đóng đinh Đức Giêsu (Ga 19,10), Đức
Giêsu đã khẳng định rằng “Ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu không được ban xuống
từ trên” (Ga 19,11).
10.
“Đây là mệnh lệnh tôi nhận từ Cha Tôi”:
Lý do mà Người Cha yêu thương Người Con là vì Người Con hy sinh mạng sống mình
và lấy lại theo “chỉ dẫn” của Chúa Cha. Sự hy sinh mạng sống cách tự nguyện, tự
do này là làm theo “mệnh lệnh” (τὴν ἐντολὴν) của Chúa Cha.
Danh từ “ἐντολὴν” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “điều răn”, “mệnh lệnh”,
“giáo huấn”, “giới luật” (Lc 23,56). Danh từ này xuất hiện 8 lần trong Tin Mừng
thứ tư. Nhiều lần khác, điều răn có nguồn gốc từ Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu ban
truyền “một điều răn mới (Ἐντολὴν καινὴν) để mà ‘anh em có thể yêu thương
nhau, hệt như Thầy đã yêu thương anh em để mà anh em cũng có thể yêu thương
nhau’” (Ga 13,34). Đức Giêsu cũng nói rằng: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì anh em
giữ điều răn của Thầy” (Ga 14,15.21; 15,10). Đây là điều răn của Đức Giêsu:
“Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Bốn lần
“lệnh truyền” này có nguồn gốc từ Chúa Cha. Ngoài lần này ra, Chúa Cha cũng ban
cho Đức Giêsu một “lệnh truyền” về “điều phải nói và điều phải kể” (Ga 12,49) và
lệnh truyền của Chúa Cha là sự sống vĩnh cửu (Ga 12,50). Đức Giêsu “giữ những
điều răn của” Cha Người (Ga 15,10). Nhiều lần Đức Giêsu nói gián tiếp về việc
Người làm có nguồn gốc từ Chúa Cha. “Người Con không thể tự mình làm điều gì
nhưng chỉ những điều anh ta thấy Người Cha làm; vì điều gì Người Cha làm, Người
Con cũng làm như thế” (Ga 5,19); “Những công việc Người Cha giao cho Tôi hoàn tất,
những công việc tôi đang làm minh chứng thay cho Tôi là Người Cha đã sai Tôi”
(Ga 5,36); “Tôi nói những điều này như Người Cha đã hướng dẫn Tôi” (Ga 8,28). Sự
hiểu biết Người Cha của Người Con được đề cập trước đó (Ga 10, 15) bao hàm cả
việc Người Con biết Người Cha muốn gì, và muốn Người Con làm gì. Do vậy, sự hy
sinh mạng sống của Người Con cũng là theo “ý định” của Người Cha. Tin Mừng thứ
tư không ghi lại khoảnh khắc Đức Giêsu cầu nguyện, đấu tranh nội tâm trong Vườn
Cây Dầu để “xin khỏi phải uống chén này”, nhưng rồi Người sẵn sàng chấp nhận
“xin đừng theo ý Con mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39; Cf. Mc 14,36; Lc 22,42). Tuy
vậy, cách nói “Chúa Cha yêu tôi vì tôi hy sinh mạng sống rồi lấy lại nó” và
“đây là mệnh lệnh của Cha Tôi” cho thấy Đức Giêsu sẵn sàng làm theo mệnh lệnh
Chúa Cha cho đến cùng như Tin Mừng Nhất Lãm đã diễn tả.
Tin mừng Gioan cũng ghi lại
khoảnh khắc Phêrô khẳng khái tuyên bố: “Con sẽ thí mạng con vì Thầy” (13,37-38)
nhưng rồi Đức Giêsu chặn đứng tuyên bố của ông bằng cách bật mí một sự thật phũ
phàng: “Trước khi gà gáy, con đã chối Thầy 3 lần” (Ga 13,38). Tuy nhiên, sau
này Phêrô cũng đã thực hiện tuyên bố của mình. Ông đã thực sự chết cho niềm tin
vào Đức Giêsu và làm chứng cho niềm tin ấy. Theo truyền thống, nơi ông bị đóng
đinh ngược là đồi Vatican, là nơi người ta xây Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô
ngày nay.
Bình
Luận Tổng Quát
Bối cảnh văn hóa chung của thời các tổ phụ trong Cựu Ước là
bối cảnh của những người du mục và chăn nuôi.[9] Cho
đến thời Đức Giêsu, nhiều người, nếu không muốn nói là đa số dân Do Thái còn sống
du canh, du cư. Vì thế, hình ảnh người mục tử là rất quen thuộc với họ. Mục tử
thường có những chức năng như cho ăn, cho uống, chăm sóc nói chung, và bảo vệ
đàn chiên trước nguy hiểm. Trong lịch sử dân thánh, các ngôn sứ đã cho thấy rằng,
bởi có những vị mục tử xấu xa, không bận tâm, chăm sóc những con chiên mà chỉ
kiếm lợi lộc trên chúng (Ed 34,2-8), nên Đức Chúa sẽ tự mình, tìm kiếm và chăm
nom, chăn nuôi đàn chiên (Ed 34,11-12.15). Người sẽ tập họp chúng lại và dẫn
đưa về lại thửa đất của chúng (Ed 34,13). Đức Giêsu chính là Thiên Chúa-mục tử.
Chính Người sẽ chăm sóc những con chiên của Người một cách chu đáo. Người không
chỉ chăm sóc chúng với những chu cấp bánh ăn nước uống, như đã xảy ra trong dấu
lạ hóa bánh ra nhiều (Ga 6,5-15), mà Người còn mang lại sự sống đời đời cho họ.
Người tự bạch rằng “Tôi là mục tử tốt lành” đến hai lần trong đoạn văn này (Ga
10,11.14). Cùng với hai lần tự bạch, vị “mục tử tốt lành” diễn giải những phẩm
tính ưu việt của mình.[10]
Lần thứ nhất (Ga 10,11), vị mục tử Giêsu bộc lộ phẩm tính ưu
việt qua việc sẵn sàng “thí mạng vì những con chiên”. Người cho thấy hình ảnh của
Người hoàn toàn trái ngược với “người chăn thuê”. Trong khi “người chăn thuê”
không bận tâm, để chiên lại, và tẩu thoát trước sự đe dọa của sói rừng, mục tử Giêsu
sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đàn chiên. Sự hy sinh mạng sống này chính là phẩm
tính cao cả nhất mà chỉ duy mình Người mới có được. Cũng như trong toàn bộ Thánh
Kinh, không ai dám tự xưng mình là “mục tử tốt lành”, thì cũng chỉ có một mình
mục tử Giêsu dám hiến mạng vì đàn chiên. Đây chính là phẩm tính đáng yêu làm
cho Chúa Cha yêu thương người vị mục tử Giêsu (10,17). Bởi lẽ, “hy sinh mang sống
vì đàn chiên” cũng là “mệnh lệnh” mà mục tử Giêsu nhận từ Chúa Cha. “Sự hy sinh
mạng sống ấy” càng cao cả và đúng nghĩa khi nó đến từ sự tự hiến hoàn toàn của
Người Con chứ không phải là có ai có thể lấy mạng của Người được. Gioan đã cấu
trúc mầu nhiệm “hy sinh mạng sống” thật khéo léo. Đó là phẩm tính của vị mục tử
tốt lành (10,11); là nét đẹp của Người Con làm cho Chúa Cha yêu (10,17); đó
cũng là “quyền hy sinh” của Người Con (10,18b); và là “mệnh lệnh” đến từ Người
Cha (10,18c).[11]
Những cách nói này gợi nhớ đến mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh mà Đức Giêsu đã trải
qua.
Lần thứ hai (Ga 10,14), “mục tử tốt lành” gắn liền với điệp
khúc “biết”. Mục tử Giêsu là một mục tử thấu hiểu những con chiên của mình và
chiên của người mục tử này cũng thấu hiểu vị mục tử của chúng. Chưa hết, sự thấu
hiểu giữa mục tử – những con chiên, được đồng hóa với sự thấu hiểu giữa Người
Cha – Người Con. Đó là một sự thấu hiểu ở mức cao nhất. Mục tử Giêsu biết Chúa
Cha đồng nghĩa với việc biết Chúa Cha mong muốn Người hy sinh tính mạng cho đàn
chiên. Người biết những con chiên nghĩa là biết Người phải hy sinh tính mạng
cho chúng. Tất cả những sự hiểu biết này đều quy về mầu nhiệm “tự hiến của Người
Con”. Chính vì thế, kết thúc lần tự bạch lần 2 về “mục tử tốt lành” chỉ có thể
là câu: “Và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,15).
Ngoài ra, mục tử tốt lành còn phải có chức năng tìm kiếm và
quy tụ. Đó là sứ vụ bắt buộc của “mục tử tốt lành”: “Tôi phải dẫn chúng về” (δεῖ
με ἀγαγεῖ). Những con chiên khác có thể là những con chiên lạc đàn, đang
rong ruổi đâu đó và không biết đường về. “Những con chiên khác” cũng có thể là
những người dân ngoại vì chưa nhận biết Đức Giêsu, nên cũng chưa tin vào Người.
Mục tử Giêsu ao ước đưa chúng về và làm cho chúng nghe theo tiếng Người. Đức Giêsu
được sai đến trước hết cho những con chiên lạc nhà Ítrael nhưng Người cũng
không loại trừ sự rao giảng trong phạm vi của dân ngoại. Dân ngoại cũng nằm
trong kế hoạch tìm kiếm bắt buộc của Người. “Một đàn chiên và một mục tử” chính
là tâm huyết của cả đời Người.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[2] R.E. Brown,
The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes (AYB; New
Haven – London 2008) XXIX, 386.
[3]
Ibid.
[4]
F.J. Moloney, The Gospel of John, 310.
[5] R.
Brown nhận xét rằng không có lý do gì để tin rằng Đức Giê-su không tiếp tục những
ghi chú của mình về những người Phari-sêu được nói đến ở Ga 8,41 (R.E. Brown,
The Gospel according to John (I–XII), 388).
[6] R.E. Brown,
The Gospel according to John (I–XII), 396.
[7]
Gioan dùng rất nhiều lần động từ diễn tả sự bắt buộc này (Ga 3,7; 3,14.30;
4,4.20.24; 9,4; 10,16; 12,34; 20,9).
[8]E. Haenchen– R.W. Funk – U. Busse, John: a commentary on the Gospel of John
(Hermeneia; Philadelphia 1984) 49.
[9] R.E. Brown,
The Gospel according to John (I–XII), 397.
[10]
Xem thêm Joseph Phạm Duy Thạch, SVD, “Những Phẩm Tính của Mục Tử Tốt lành và
Chiên Ngoan”, HORIZON
MISSIONARY: NHỮNG PHẨM TÍNH CỦA MỤC TỬ TỐT LÀNH VÀ CHIÊN NGOAN
(josephpham-horizon.blogspot.com) (truy cập ngày 23/04/2021).
No comments:
Post a Comment