Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy Lạp |
Việt |
Τῇ δὲ μιᾷ τῶν σαββάτων Μαρία ἡ Μαγδαληνὴ ἔρχεται πρωῒ σκοτίας ἔτι οὔσης εἰς τὸ μνημεῖον καὶ βλέπει τὸν λίθον ἠρμένον ἐκ τοῦ μνημείου. 2 τρέχει οὖν καὶ ἔρχεται πρὸς Σίμωνα Πέτρον καὶ πρὸς τὸν ἄλλον μαθητὴν ὃν ἐφίλει ὁ Ἰησοῦς καὶ λέγει αὐτοῖς· ἦραν τὸν κύριον ἐκ τοῦ μνημείου καὶ οὐκ οἴδαμεν ποῦ ἔθηκαν αὐτόν. 3 Ἐξῆλθεν οὖν ὁ Πέτρος καὶ ὁ ἄλλος μαθητὴς καὶ ἤρχοντο εἰς τὸ μνημεῖον. 4 ἔτρεχον δὲ οἱ δύο ὁμοῦ· καὶ ὁ ἄλλος μαθητὴς προέδραμεν τάχιον τοῦ Πέτρου καὶ ἦλθεν πρῶτος εἰς τὸ μνημεῖον, 5 καὶ παρακύψας βλέπει κείμενα τὰ ὀθόνια, οὐ μέντοι εἰσῆλθεν. 6 ἔρχεται οὖν καὶ Σίμων Πέτρος ἀκολουθῶν αὐτῷ καὶ εἰσῆλθεν εἰς τὸ μνημεῖον, καὶ θεωρεῖ τὰ ὀθόνια κείμενα, 7 καὶ τὸ σουδάριον, ὃ ἦν ἐπὶ τῆς κεφαλῆς αὐτοῦ, οὐ μετὰ τῶν ὀθονίων κείμενον ἀλλὰ χωρὶς ἐντετυλιγμένον εἰς ἕνα τόπον. 8 τότε οὖν εἰσῆλθεν καὶ ὁ ἄλλος μαθητὴς ὁ ἐλθὼν πρῶτος εἰς τὸ μνημεῖον καὶ εἶδεν καὶ ἐπίστευσεν· 9 οὐδέπω γὰρ ᾔδεισαν τὴν γραφὴν ὅτι δεῖ αὐτὸν ἐκ νεκρῶν ἀναστῆναι. ἀπῆλθον οὖν πάλιν πρὸς αὐτοὺς οἱ μαθηταί. (Jn 20:1-10 BGT) |
1 Vào ngày thứ nhất trong tuần, Maria Magđalênê đến vào trong mộ vào
buổi sáng tinh sương, lúc trời còn tối và chị thấy tảng đá đã được lấy khỏi
ngôi mộ. 2 rồi, chị chạy và đến cùng Simôn Phêrô và một môn đệ khác người được
Đức Giêsu yêu và nói cùng họ: “Người ta đã lấy Chúa ra khỏi mồ và chúng tôi
không biết họ đã đặt Người ở đâu”. 3 rồi, Phêrô cùng với môn đệ kia đi ra và họ đi đến ngôi mộ 4 cả hai người đều chạy với nhau, nhưng người môn đệ kia chạy trước
cách nhanh chóng hơn Phêrô và anh ta đến ngôi mộ trước. 5 Sau khi cúi xuống nhìn vào, anh ta thấy băng vải liệm được đặt nằm
đó, nhưng chưa đi vào trong. 6 Rồi, Simon Phêrô cũng đến, theo sau anh ta, đi vào trong mộ, và anh
ta nhìn băng vải đặt nằm đó. 7 và khăn mặt, cái mà ở trên đầu của Người, không đặt nằm chung với
những băng vải, nhưng không được cuộn lại ở một nơi. 8 rồi, vào lúc đó, người môn đệ kia, người đã đến trước cũng đi vào
trong mộ và anh đã thấy và đã tin, 9 vì họ chưa hiểu biết Thánh Kinh rằng Người phải chỗi dậy từ cõi chết. 10 rồi, các môn đệ lại đi về nhà mình |
Bối cảnh bản văn
Bản văn Ga 20,1-9 là trình thuật
đầu tiên về biến cố Phục Sinh trong Tin Mừng thứ tư. Trước đó là cảnh Đức Giêsu
được mai táng trong một ngôi mộ mới (19,38-42). Sau đoạn này là trình thuật về
sự hiện ra của Đức Giêsu với bà Maria Magđalênê (Ga 20,11-18). Rõ ràng đoạn Ga
20,1-9 nối kết chặt chẽ với đoạn trước đó bởi từ ngữ và ý tưởng: ngôi mộ và
chôn cất. Hình ảnh “ngôi mộ mới” ở 19,41.42 được lặp lại trong 20,1-9 đến 7 lần
(Ga 20,12.2.3.4.6.8.) với mạo từ xác định, ngụ ý đến ngôi mộ đã được
đề cập trước đó. Ngôi mộ này cũng được nhắc đến hai lần nữa trong trình thuật
sau đó (20,112). Hình ảnh Đức Giêsu đã được chôn trong mồ (19,42) nối
kết với việc Maria giờ đây không thấy xác Chúa ở trong ngôi mộ ấy. Cô Maria này
lại cũng xuất hiện trong đoạn sau (20,11-18) trong bộ dạng “đang đứng khóc ở
bên ngoài ngôi mộ” (20,11). Ngôi mộ trống trong đoạn này chắc chắn có sự nối kết
chặt chẽ với trình thuật những lần hiện ra của Đức Giêsu sau đó (20,11-18;
20,19-29 và 21,1-23) để làm lên một hệ thống chứng từ đầy đủ cho Mầu Nhiệm Phục
Sinh của cộng đoàn Gioan. Chủ đề “chỗi dậy từ cõi chết” (20,9) rõ ràng là một
chủ đề rất quan trọng trong mạc khải và mầu nhiệm cứu độ của Đức Giêsu. Chủ đề
này đã được tác giả Tin Mừng thứ tư nhắc đến rất sớm, ngay trong trình thuật về
“Thanh Tẩy Đền Thờ” (Ga 2,13-22). Ý tưởng “xây lại đền thờ trong ba ngày” rõ
ràng là nói đến “sự phục sinh” của thân xác Đức Giêsu. Ông Ladarô được Đức Giêsu
làm cho sống lại từ cõi chết (Ga 12,1.9.17), là một trình thuật độc quyền của
Gioan về sự Phục Sinh. Chủ đề này lại được nhắc lại trong chương cuối cùng (được
cho là thêm vào sau) của Tin Mừng Gioan: “Đó là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra
cho các môn đệ sau khi từ cõi chết chỗi dậy” (21,14). Động từ “chỗi dậy” (ἀναστῆναι)
cũng là động từ được dùng trong Tin Mừng Nhất Lãm khi tường thuật về nhưng lần
tiền báo về mầu nhiệm “Khổ nạn và Phục Sinh” của Đức Giêsu” (Mc 8,31; 9,9.10.31;
10,34; Lc 10,33; 24,7.46). Chủ để “Phục Sinh” là một trong những chủ đề quan trọng
nhất của toàn bộ các sách Tân Ước, chứ không riêng gì các sách Tin Mừng. Ngoài
hai nhân vật Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến, Maria Magđalênê nối kết
chặt chẽ với biến cố Thương Khó. Bà là một trong những người phụ nữ hiện diện
dưới chân thập giá cùng với Mẹ Maria (Ga 19,25).
Giới hạn và cấu trúc
Giới hạn: Ga 1,1-9 bắt đầu
bằng dấu hiệu chuyển đoạn khá rõ ràng: Có một sự thay đổi về thời gian và cả
nhân vật so với đoạn trước đó. Thời gian là: “vào ngày đầu tiên trong tuần”.
Nhân vật mới là Maria Magđalênê, cùng với Simon Phêrô và “Người môn đệ Chúa
yêu” được nói đến sau đó. Nơi chốn là “ngôi mộ” và thời gian là “vào sáng tinh
sương” lúc trời còn tối. Đoạn văn nên kết thúc ở 20,10 vì nó đóng khung câu
chuyện bởi không gian là nhà của các môn đệ: “họ đi từ nhà ra mộ 20,2 và lại
“trở về nhà của họ” (20,10), kết thúc hành trình viếng thăm “ngôi mộ” của hai
môn đệ. Ga 20,11 là một câu chuyện mới của riêng Maria và Đức Giêsu Phục Sinh.
Cấu trúc: Sự chuyển động của
câu chuyện này có thể được định dạng theo nhiều chiều kích khác nhau. Theo
không gian: Đi ra khỏi nhà – đến ngôi mộ – trở về nhà. Theo vận động của các
nhân vật: Đi ra – chạy – dừng xem – đi về; theo thời gian: từ tối – đến sáng;
theo nhân vật: từ Maria – hai môn đệ; theo cảm nghiệm thiêng liêng: từ nghi ngờ
– tin. Bản văn được cấu trúc hóa bởi hai câu chuyện: (A) Chuyện của Maria Magđalênê
(20,1-2). Phần này có thể được xem là bối cảnh cho phần (B). Tuy vậy, nó cũng
có đầy đủ các yếu tố của một câu chuyện với 2 thành phần: A1. Đi ra mộ // (A1’)
Chạy về từ mộ và (A2) Thấy tảng đã đã bị lấy đi // (A2’) Báo tin. Vai trò của Maria
Magđalênê ở đây chỉ dừng lại ở mức độ thông tin, nhưng cũng có thể ngụ ý cho một
hành trình đức tin dang dở của chị sẽ được hoàn tất ở trình thuật sau (20,11-18).
Câu chuyện của riêng chị với Đấng Phục Sinh, sẽ được tiếp tục sau khi câu chuyện
của hai môn đệ kết thúc bằng việc “trở về nhà”. Phần (B) Chuyện của hai môn đệ (20,3-10).
Phần này có cấu trúc inclusion (đóng khung). Câu chuyện được đóng khung bằng
không gian “ngôi nhà” của hai môn đệ. Họ đi ra (khỏi nhà) đến với “ngôi mộ” rồi
lại trở về “ngôi nhà” (B1//B1’). Phần chi tiết của câu chuyện của “hai người
môn đệ” được kết nên bằng nhiều yếu tố song song. (B2) Người chạy trước// (B2’)
người chạy sau; (B3) Người đến trước nhưng chưa vào trong// (B3’) Người đến
sau, đi vào trong// (B3’’) Người đến trước đi vào trong; (B4) Người đến trước
thấy băng vải đặt nằm đó// (B4’) Người đến sau nhìn băng vải đặt nằm đó + khăn
che đầu không lẫn vào băng vải// (B4’’) Người đến trước thấy // (B4’’’) và Anh
ta đã tin. Ngoài ra, bản văn còn có lời ghi chú quan trọng của người thuật chuyện
(B5): Họ chưa hiểu lời Thánh Kinh rằng: Người phải chỗi dậy.
A. Chuyện
của người phụ nữ (20,1-2): A1. Đi ra mộ: Đi trong bóng đêm A2. Thấy tảng đá đã được lấy đi A1’. Trở về: Chạy trong bóng đêm A2’. Báo tin B. Chuyện
của hai môn đệ (20,3-10): B1. Ra khỏi nhà: B2. Người chạy trước B2’. Kẻ chạy sau B3. Người đến trước,
chưa vào trong B4. Thấy: Băng vải
đặt nằm đó B3’. Kẻ đến sau, đi
vào trong B4’. Nhìn: Băng vải đặt nằm đó, khăn
che mặt không lẫn vởi băng vải B3’’. Người đến trước
đi vào trong B4’’. Thấy: (Băng vải đặt nằm đó,
khăn che mặt không lẫn với băng vải) B4’’’. Tin: B5.
Nhận xét của người thuật chuyện: Chưa hiểu Thánh Kinh: Người phải chỗi dậy B1’. Trở về nhà (20,10) |
Một số điểm chú giải
1. Maria
Magđalênê[1]
(Μαρία ἡ Μαγδαληνὴ): Maria Magđalênê là
một nhân vật được cả bốn tác giả sách Tin Mừng nhắc đến trong biến cố Thương
Khó – Phục Sinh của Đức Giêsu. Mátthêu ghi lại có nhiều phụ nữ hiện diện xa xa
dưới chân thập giá Đức Giêsu. Họ theo Đức Giêsu từ Galilê. Trong số họ có Maria
Magđalênê và Maria mẹ của Gia-cô-bê và Giu-se và mẹ của những người con trai của
ông Dê-bê-đê (Mt 27,55-56; Cf. Mc 12,40). Maria Magđalênê và một bà Maria khác
ngồi đối diện với ngôi mộ sau khi đã cửa mồ đã đóng (Mt 27,61). Máccô cho biết
rằng Maria Magđalênê và Maria, mẹ của Giuse nhìn nơi đặt thi hài Đức Giêsu (Mc
15,47). Cả 4 tác giả Tin Mừng đều ghi lại cảnh Maria Magđalênê đi đến mồ Chúa
(Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,10; Ga 20,1). Ngoài cảnh Maria Magđalênê đi đến mộ
Chúa, Gioan còn ghi lại cuộc gặp gỡ riêng ly kỳ của cô với Đức Giêsu Phục Sinh (Ga
20,11-18). Sau đó cô đã đi thông báo cho các môn đệ: “tôi đã thấy Chúa” (Ga
20,18; Cf. Mc 16,9). Luca cho biết thêm căn tính của Maria Magđalênê. Cô là người
được thoát khỏi bảy quỷ (Lc 8,2). Cô là một trong những người phụ nữ cung cấp
cho Đức Giêsu và các môn đệ từ tài chính của họ. Máccô cho độc giả biết rằng: Họ
rong ruổi theo Đức Giêsu từ Galilê đến Jêrusalem (Mc 15,41; Cf. Lc 23,49). Quan
trọng hơn cả Maria Magđalênê và các bà đã theo chân Chúa đến dưới chân thập tự.
Phải nói là họ là những môn đệ đích thực, những người không ngại khổ, không ngại
khó để theo Chúa cho đến cùng. Động từ Maria dùng sau đó “chúng tôi (số nhiều)
không biết người ta đặt Người ở đâu” (20,2) khiến cho các chuyên gia phải suy
nghĩ bàn luận không biết là Maria đã đi một mình hay với ai đó. Nếu đi một mình
thì sao lại xưng là “chúng tôi”. Buttman cho rằng đây là “số nhiều” được dùng để
diễn tả sự long trọng. Hoặc có thể là Gioan có trong đầu câu chuyện của các Tin
Mừng Nhất Lãm, nơi mà đã tường thuật bà Maria đi với một vài bà khác.[2] Số nhiều này cũng có thể
có ý nghĩa xác thực cho lời chứng của cô. Lời chứng thực phải có từ 2 người trở
lên theo truyền thống Torah (Đnl 19,15).
2. Vừa
tảng sáng, lúc trời còn tối (πρωῒ σκοτίας ἔτι οὔσης): Khoảng thời gian tảng
sáng để cho thấy rằng người ta có thể đã kết thúc ngày nghỉ Lễ và có thể khởi đầu
của một ngày mới. Và đó là khoảnh khắc mà Maria Magđalênê đã chờ đợi từ lúc
chôn Chúa cho đến giây phút được phép viếng thăm mồ Chúa. Mệnh đề “khi trời còn
tối” trước hết cho thấy sự vội vã, háo hức của Maria. Cô đã chờ đợi được viếng
mồ Chúa khá lâu và không muốn chờ thêm giây phút nào. Tuy nhiên, “trời tối”
trong bối cảnh này còn diễn tả một ý nghĩa ẩn dụ. Đó là “bóng tối” của sự chết,
của sự thất vọng, buồn sầu, đau khổ vì vắng bóng Chúa mấy ngày qua. J. Moloney
hiểu rằng bóng tối là bối cảnh của sự “không tin”.[3] Lối hiểu này có vẻ hợp lý
khi câu chuyện được kết thúc bằng niềm tin của “người môn đệ Chúa yêu”: Ông đã
thấy và đã tin. Nên nhớ rằng, các Tin Mừng Nhất Lãm dường như đồng ý với nhau
là trời đã sáng. Lc 24,1 nói về “bình mình đầu tiên”. Mc 16,1-2 nói rằng các bà
đến mộ vào sáng Chúa Nhật “rất sớm … khi mặt trời đã mọc”. Mt 28,1: “sau ngày
Sabát khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng”. Sự khác biệt này càng làm cho ý
niệm “trời tối” mang đậm dấu ấn thần học của Gioan. Ông cũng từng mô tả câu
chuyện một người Pharisêu, thủ lãnh của những người Do Thái, tên là Nicôđêmô đến
gặp Đức Giêsu ban đêm để thảo luận về ơn tái sinh (Ga 3). Rất có thể đây cũng là
một ẩn ý về hành trình đức tin từ tối đến sáng.
3. Đi
ra vào mộ: Gioan không cụ thể lý do tại sao cô Maria đi ra mộ. Máccô và
Luca cho rằng các phụ nữ mang “thuốc thơm” và đến để xức dầu cho xác Chúa. Mátthêu
nói rằng họ đến để thăm ngôi mồ. Có lẽ, trong Tin Mừng Gioan, Maria cũng có ý
này khi đi ra mộ vì trước đó Gioan đã tường thuật về việc ướp xác Đức Giêsu trước
khi đi chôn (Ga 19,39-40). Nghĩa là lý do thăm viếng vì nhớ thầy Giêsu có thể là
một giải pháp. Tuy nhiên, lý do là điều mà tác giả không nhắm đến cho bằng các
chi tiết liền sau đó.
4. Chạy:
Maria không nhìn vào mộ. Bà chỉ thấy tảng đá che cửa mồ bị lấy đi thì lập tức
“chạy”. Dĩ nhiên, Gioan ngụ ý rằng tảng đá lấp cửa mộ đã được lấy đi bởi quyền
lực thần thiêng, nhưng Maria thì suy đoán một ai đó đã lấy đi. Sự suy đoán của
Maria về sự biến mất của xác Đức Giêsu là một suy đoán hết sức tự nhiên.[4] Suy nghĩ này lại được tiếp
nối và cũng cố trong trình thuật sau đó khi cô ngồi bên mộ mà khóc vì nghĩa rằng
xác Chúa đặ bị lấy đi (Ga 20,11-18). Những bước đi bình thường của cô lập tức đã
chuyển thành những bước chạy thoăn thoắt. Tâm trạng của cô lúc bấy giờ hẳn trộn
lẫn sự lo âu và hoảng sợ bởi vì bà nghĩ rằng ai đó đã lấy xác của Đức Giêsu.
Xác Đức Giêsu lúc bấy giờ là niềm an ủi còn lại duy nhất của cô. Thế mà, giờ
đây cô đã không thấy nữa. Thông tin từ cái nhìn và suy nghĩ của cô, dẫu không
hoàn toàn chính xác, cũng đủ làm cho các môn đệ thân tín của Đức Giêsu hoảng hốt.
Họ cũng bị cuốn hút để rồi từ bất động và bị động, họ chủ động đứng lên và hành
động. J. Moloney gọi phản ứng của các môn đệ là “một khởi đầu mới”.[5] Đó là khởi đầu cho hành
trình tìm kiếm đức tin vào Đức Kitô Phục Sinh.
5. Simon
Phêrô và Người môn đệ Đức Giêsu yêu: Cặp hai môn đệ này chỉ xuất hiện trong
Tin Mừng thứ tư kể từ chương 13, tức là trong bối cảnh Bữa Tiệc Ly, nơi kỷ niệm
việc Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Trong bữa tiệc hôm ấy chỉ có người môn
đệ được gọi là, “người môn đệ Đức Giêsu yêu”, ngồi “trong lòng của Đức Giêsu”.
Tự tên gọi này đã cho thấy vị trí ưu việt của ông trong tương quan với Đức Giêsu
so với các môn đệ còn lại. Nhân vật này chỉ xuất hiện trong Tin Mừng Gioan và vị
trí của ông dường như trội vượt hơn cả Phêrô nữa. Ông “ngồi trong lòng Chúa”
còn Phêrô thì ngồi xa. Khi Đức Giêsu tiền báo rằng có một người trong Nhóm Mười
Hai sẽ nộp Người, Phêrô phải ra dấu, làm hiệu cho người môn đệ này hỏi Đức Giêsu
xem Người có ý nói về ai. Và qua ông này Đức Giêsu cũng bật mí người sẽ nộp Người.
Đó là người mà Đức Giêsu chấm miếng bánh và trao cho (Ga 13,23-26). Cặp môn đệ
này lại cùng nhau xuất hiện trong chương cuối cùng của Tin Mừng thứ tư. Trong
trình thuật ấy, chính “người môn đệ được Chúa yêu” lại phát hiện ra Đấng Phục
Sinh trước Phêrô. Chỉ đến lúc người môn đệ này nói với Phêrô rằng “Chúa đó!”
thì Phêrô mới chợt nhận ra. Ông mặc áo lại, nhảy xuống biển để bơi vào bờ (Ga
21,7). Nếu như trong Tin Mừng Mátthêu, Phêrô được trao quyền lãnh đạo Giáo Hội
ngay từ chương 16 (16,9), thì theo Gioan, Phêrô chỉ được trao quyền “chăm sóc
những con chiên” của Đức Giêsu vào đoạn cuối cùng của chương cuối cùng mà thôi.
Người môn đệ này cũng là người môn đệ duy nhất hiện diện dưới chân thập giá của
Đức Giêsu cùng với Đức Maria và được Đức Giêsu long trọng trao gửi thân mẫu của
Người (Ga 19,26-27). Trong trình thuật này, độc giả sẽ thấy sự trội vượt của
người môn đệ này so với Phêrô.
6. Đi
ra khỏi… đi đến mộ…Chạy: Gioan dùng 3 động từ khác nhau để diễn tả sự thay
đổi trạng thái của các môn đệ từ tĩnh sang động trước tin báo của cô Maria Magđalênê.
Trước nhất họ đang ở trong căn nhà cửa phòng đóng kín, nên họ phải đi ra, và mục
đích họ đi ra là để đi về ngôi mộ, hướng thẳng tiến về ngôi mộ. Động từ đi đến
ngôi mộ được Gioan dùng ở thì “vị hoàn” (chưa hoàn thành) (ἤρχοντο), diễn tả
một hành động kéo dài và chưa chấm dứt. Hành trình đi đến mộ của họ đã bắt đầu
nhưng chưa hoàn thành. Nó vẫn đang tiếp diễn. Tiếp theo, họ thay đổi tốc độ của
hành trình này, từ “đi” chuyển qua “chạy”. Tin báo của Maria rõ ràng đã làm các
ông trở nên năng động vội vã hẳn lên. Họ không thể ngồi ở nhà, cũng không thể
bước đi thư thả được. Họ phải chạy. Cả hai cùng chạy. Động từ “chạy” lại được
dùng ở thì “vị hoàn”, diễn tả một hành động kéo dài. Những bước chạy thoăn thoắt
chắc chắn sẽ làm cho hành trình bớt thời gian nhưng nó vẫn chưa kết thúc, vẫn
kéo dài.
7. Môn
đệ kia chạy trước một cách nhanh chóng: Sự tách biệt đã diễn ra. Người môn
đệ “được Chúa yêu” chạy trước, một cách nhanh chóng so với Phêrô. Một số tác giả
cho rằng có lẽ Phêrô tuổi già sức yếu nên thể lực kém hơn so với “người môn đệ
Chúa yêu” còn trai trẻ. Thế nhưng, chẳng có đoạn Tin Mừng nào nói rõ về sự già
nua tuổi tác của Phêrô hay sự trẻ trung phong độ của người môn đệ này. Thiết
nghĩ Gioan không có ý nói về thể lực cho bằng nói về hành trình tình yêu và Đức
Tin. Như đã nói trên, người môn đệ này được diễn tả trội vượt hơn Phêrô trong
tương quan với Đức Giêsu. Ông chạy trước và nhanh hơn vì ông háo lức, lo lắng
hơn cho xác của Chúa, vì ông đã yêu Chúa nhiều hơn. Hành trình đức tin của người
môn đệ này sớm đến đích hơn Phêrô như sẽ thấy sau. Lc 24,12a cũng kể rằng Phêrô
chạy ra mộ, nhưng một mình thì phải, không có ai chạy nhanh hơn ông.
8. Đến
trước… cúi xuống nhìn… thấy … nhưng chưa vào. Chạy nhanh hơn dĩ nhiên là đến
sớm hơn. Việc người môn đệ này thấy khăn liệm từ ngoài mộ cho thấy trời đã bắt
đầu sáng và đủ để cho ông thấy bên trong. Người Do Thái chôn nhiều người trong
một hóc đá được đục sẵn. Cách diễn tả của tác giả Tin Mừng cho thấy dường như
là chỉ có một mình Đức Giêsu chôn trong hóc huyệt đá mới này. Họ có thể nhìn thấy
từ ngoài vào, chỉ cần cúi xuống một tý. Sự chờ đợi, không vào bên trong trước của
người môn đệ này cho thấy ông vẫn tôn trọng vị trí tông đồ trưởng của Phêrô. Theo
J. Moloney, tác giả Tin Mừng thứ tư muốn phác họa hai hình ảnh: Một là của người
được Đức Giêsu yêu cách đặc biệt và một là của thẩm quyền của các môn đệ.[6] Hành động “thấy” của người
môn đệ này ở đây chỉ là khởi đầu cho hành động “thấy” sau đó khi ông đã bước
vào trong.
9. Đến
theo sau … đi vào … nhìn: Phêrô đến sau, nhưng ông đi vào ngay bên trong và
quan sát. Động từ dùng để diễn tả hành động của Phêrô khác với động từ dùng cho
hành động của “người môn đệ Chúa yêu”. Người môn đệ này “nhìn” (βλέπει) thấy trong
khi Phêrô “nhìn” (θεωρεῖ) có tính cách quan sát, nhận thức. Phêrô
nhìn thấy nhiều thứ hơn: “băng vải đặt nằm ở đó” và “khăn che mặt” để riêng ra
một nơi. “Băng vải liệm và khăn che mặt” này nối kết với hình ảnh sống lại của Ladarô.
Trong khi anh ta đi ra khỏi mồ với băng vải còn quấn đầy mình và Đức Giêsu phải
ra lệnh tháo băng vải cho anh, thì nơi ngôi mộ của Đức Giêsu các môn đệ chỉ thấy
băng vải mà thôi.[7]
10. Thấy
và tin: Sau khi đi vào, người môn đệ ấy cũng “thấy”, nhưng động từ lại
không giống với “cái thấy” lúc ông ta nhìn từ bên ngoài và cũng không giống động
từ “thấy” dùng cho Phêrô. Động từ “εἶδεν” (aorist của động từ hôraô)
có nghĩa là “thấy và nhận ra” sau khi đã trải nghiệm. “Cái thấy” của ông giờ
đây chắc chắn khác “cái thấy” của ông Phêrô. Hành động “thấy” của ông không có
túc từ. Có nghĩa là ông không chỉ “thấy” băng vải liệm và khăn che đầu được đặt
nằm riêng ra, nhưng ông thấy tất cả. Ông nhận thức được toàn cảnh những gì đã
và đang xảy ra cho thầy yêu dấu của mình. Sự hiểu biết rộng rãi thấu đáo của
ông đã dẫn đến niềm tin của ông. Song song với hành động “thấy” không giới hạn
túc từ, hành động “tin” của ông cũng mở rộng ra vô hạn. Nó không cụ thể cái gì
nhưng lại mở ra vô tận. Ông tin vào Đức Giêsu, căn tính Chúa Con của Người, tin
vào những gì Người nói và làm. Niềm tin của ông bao trùm tất cả niềm tin của
các môn đệ. Khi họ thấy dấu lạ tại Tiệc Cưới Cana, họ đã tin vào Người (Ga
2,11). Khi Người mạc khải về khả năng người sẽ “khôi phục lại đền thở bị phá hủy”
trong vòng 3 ngày, “họ tin vào Thánh Kinh và tin vào Người” sau khi Người từ
cõi chết chỗi dậy (Ga 2,22). Có thể nói rằng, niềm tin của người môn đệ này đạt
đến mục đích của toàn thể Tin Mừng: “còn những gì chép ở đây là để anh chị em
tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống
đời đời nhờ danh Người” (Ga 20,31).
11. Lời
Thánh Kinh (τὴν γραφὴν): Mệnh đề chỉ lý do bắt đầu bằng liên từ
“γὰρ”
được đặt ngay sau mệnh đề “ông đã thấy và đã tin”, chứng tỏ rằng đây chính là
lý do cho hành động thấy và tin của người môn đệ này. Trong mệnh đề lý do này
có nhắc đến Thánh Kinh và mạc khải của Thánh Kinh về tính bắt buộc của của việc
Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết. Mệnh đề “chỗi dậy từ cõi chết” được nhấn mạnh
bởi động từ không ngôi “δεῖ” (phải), diễn tả sự bắt buộc trong sứ vụ thần
linh của Đức Giêsu. Lời Thánh Kinh nào nói đến điều này đây? Đó có thể là lối
diễn tả chung chung về việc hoàn tất lời Thánh Kinh, như được nói đến trong thư
thứ nhât Côrintô: “rằng Người được chôn, được chỗi dậy vào ngày thứ ba theo như
lời Thánh Kinh (1 Cr 15,4). Những đoạn cụ thể có thế nhắc đến trong Cựu Ước là
Tv 16,10; Hs 6,2; Gn 1,16; 2,2. Lý Do này giải thích cho niềm tin của “người
môn đệ Chúa yêu” bao hàm niềm tin vào sự sống lại của Đức Giêsu và điều mà ông
“đã thấy”, hay là “đã nhận ra”, đó là lời được viết trong Thánh Kinh. Có thể diễn
tả nôm na thế này: trước kia chưa “thấy” (chưa nhận ra, chưa hiểu) lời Thánh
Kinh nên ông chưa tin vào biến cố Phục Sinh, nay, sau khi “đã thấy” (đã hiểu) lời
Thánh Kinh về Sự Phục Sinh nên ông đã “tin” vào mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu.
Câu lý giải của người thuật chuyện giúp độc giả phần nào hiểu được túc từ còn bỏ
ngỏ của cả hai động từ “đã thấy” và “đã tin” của “người môn đệ Chúa yêu”. Thánh
Kinh vẫn là phương tiện cần thiết cho việc giải thích mầu nhiệm và chứng từ.[8]
Bình luận
Tin Mừng Chúa Nhật Phục
Sinh hướng chúng ta về Ngôi Mộ, nơi đã an táng Đức Giêsu vào chiều Thứ Sáu tưởng
niệm cuộc Thương Khó. Hành trình đi đến mộ đã bắt đầu từ những bước chân âm thầm
có phần nặng nề của Maria Magđalênê. Đó là một trong những người phụ nữ đã từng
theo Chúa từ Galilê và lên đến trên đồi Golgotha vào lúc Đức Giêsu chịu tử nạn.
Cô cũng đã theo Đức Giêsu cho đến lúc Người được mai táng trong mộ. Hy vọng có
lẽ chẳng còn đối với cô vì thầy đã chết, nhưng tình thương cô dành cho Chúa thì
vẫn còn nguyên vẹn. Khung cảnh thời gian buổi sáng tinh sương, lúc trời còn tối
vừa là biểu tượng cho sự tối mờ trong khoảng thời gian đau thương của cô, vừa
cho thấy sự háo hức đi viếng mộ thầy Giêsu ngay sau khi kết thúc kỳ Lễ. Cô
không thể chờ thêm phút giây nào. Thế nhưng, niềm an ủi duy nhất của cô dường
như cũng tan biến khi cô thấy tảng đá đóng ngôi mộ đã bị ai đó lấy đi. Những bước
đi âm thầm lập tức trở thành những bước chạy thoăn thoắt hoảng loạn: “Người ta
đã lấy Chúa ra khỏi mồ” và “chúng tôi không biết họ đã đặt Chúa ở đâu”. Cách
Maria dùng từ thật là tinh tế. Dù Đức Giêsu đã chết, đã được chôn, thế nhưng cô
vẫn gọi đó là “Chúa” (τὸν κύριον) chứ không phải xác chết của Chúa. Đối với
cô dù chết hay là sống thì Đức Giêsu vẫn mãi là Chúa của cô. Cách dùng đại từ
ngôi thứ nhất số nhiều “chúng tôi” mở đường cho nhiều cách hiểu. Đó có thể là
kiểu nói long trọng, khi dùng chúng tôi, thay vì tôi. Đó cũng có thể ngụ ý rằng
cô đã đi chung với những bà khác như Tin Mừng Nhất Lãm hiểu.[9] Đó cũng có thể là đại từ dùng
bao hàm cô và hai môn đệ. Theo tiếng Việt có thể dịch là: “chúng ta” (tôi và
các ông) không biết họ để Người ở đâu. Cách hiểu nào cũng có khả năng. Tuy
nhiên, quan trọng hơn hết là sự tác động của thông tin giật gân mà cô mang lại.
Nó đã khuấy động lòng các môn đệ. Họ đã chuyển từ trạng thái bất động sang trạng
thái chuyển động. Từ trong nhà, họ đã đi ra khỏi và đến ngôi mộ. Từ “đi” họ
chuyển qua “chạy”. Cũng như
cô Maria. Họ không thể không chạy trước một thông tin liên quan đến xác của thầy
mình bị mất. Hành động “đi” và “chạy” của họ đều là những hành động kéo dài, bởi
vì cả hai động từ đều được dùng ở thì vị hoàn (chưa hoàn thành). Họ chạy cùng
nhau cùng điểm xuất phát nhưng tốc độ không giống nhau. Người chạy trước kẻ chạy
sau dẫn đến người đến trước kẻ đến sau. Cái mà họ thấy cũng hơi khác nhau, khi
các động từ Gioan dùng để diễn tả hành động “thấy” của cả hai người, trong tiếng
Hy Lạp, cũng khác nhau. “Người môn đệ Chúa yêu” chạy trước, chạy nhanh hơn và
đã đến mộ trước. Đó không phải là nhờ vào sức mạnh thể lý và cơ bắp cho bằng sức
khỏe tâm linh và tình yêu ông dành cho Đức Giêsu. Sự trổi vượt về đức tin và mối
tương quan giữa ông và Đức Giêsu là không cần bàn cãi. Ngay cả cái tên đã cho
thấy điều đó. Ngoài ra, ông là người duy nhất đã tựa đầu vào lòng Đức Giêsu
trong đêm Tiệc Ly (Ga 13,23). Người môn đệ duy nhất đi cùng Chúa đến tận dưới
chân thập giá. Ông cũng là người được Đức Giêsu tin tưởng trao gửi mẹ của mình
trong buổi lâm chung (Ga 19,25-27). Người đầu tiên nhận ra Chúa Phục Sinh trên
bờ hồ Tibêria (Ga 21,7) cũng chính là ông. Tất cả những dẫn chứng ấy cho thấy
ông chạy nhanh hơn Phêrô vì ông có động lực lớn hơn, có mối tương quan gần gũi
hơn với thầy Giêsu. Sự nhanh nhẹn tuyệt vời nhất của ông trong đoạn Tin Mừng
này là “ông đã thấy và đã tin” trong khi cái “nhìn thấy” của Phêrô chỉ dừng lại
ở những băng vải liệm và khăn che đầu được để riêng ra. Maria Magđalênê cũng thấy
“ngôi mộ trống” như hai môn đệ Phêrô và “người môn đệ Chúa yêu” nhưng cô vẫn
chưa tin. Có thể nói rằng, cái nhìn thấy của “người môn đệ Chúa yêu” khác biệt
vì nó được mở rộng ra vô tận. Ông nhìn thấy và hồi tưởng lại tất cả những điều
Đức Giêsu dạy, những dấu lạ Người làm cho dân, đặc biệt là biến cố tử nạn. Từ sự
“nhìn thấy” và hiểu biết vô tận ấy ông vươn đến đức tin vô hạn, ông tin vào mầu
nhiệm Phục Sinh, tin vào con người và giáo huấn của Đức Giêsu. C. Barrett gọi
đó là niềm tin siêu việt.[10] Đức tin của “người môn đệ
Chúa yêu” chính là nền tảng cho đức tin của các Kitô hữu sơ khai và cho mỗi Kitô
hữu qua mọi thời đại. Rồi đây, ở trình thuật sau, Đức Giêsu sẽ nói cùng Tôma rằng:
“vì anh đã thấy Thầy, nên anh đã tin, phúc cho những ai đã không thấy (Thầy) mà
tin” (Ga 20,29). “Người môn đệ Chúa yêu” chính là người đầu tiên không thấy Đức
Giêsu Phục Sinh và đã tin. Vô số tín hữu thời sơ khai đã không thấy Chúa Phục
Sinh và đã tin, và hầu hết các tín hữu qua các thời đại đã không thấy Chúa mà
tin. Thật là phúc cho họ.
Bài Tin Mừng
ngày Lễ Phục Sinh (Ga 20,1-9) này dẫn chúng ta đi từ đêm tối đến sáng ngày; từ
bóng đêm đến ánh sáng; từ bóng đêm của thất vọng đến ánh sáng của niềm hy vọng;
từ bóng tối của đau buồn, sầu khổ đến ánh quang của niềm vui sướng, hân hoan.
Bà Maria Magđalênê bước ra khỏi cửa nhà khi trời còn tối. Đó không chỉ là bóng
tối của thời gian, của không gian, nhưng là bóng tối của sự đau buồn thất vọng,
bóng tối của sự thiếu niềm tin. Buồn đau thất vọng vì thiếu ánh sáng của Đức
Kitô. Bà đến thăm mộ Chúa với cõi lòng nặng trĩu, bước chân nặng nề, lê bước,
có khi vừa đi vừa khóc. Thế rồi Tin Mừng cho chúng ta biết khi thấy tảng đá lăn
ra khỏi mộ, bà bắt đầu chạy về báo tin, những bước chạy vội vã, hối hả, tất tưởi.
Rồi những bước chạy của bà, tin báo của bà đã kéo theo những bước chạy của
Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Đó là một cuộc chạy đua mà chúng ta
thấy có kẻ trước người sau. Phêrô dường như là người thất thế trong cuộc chay
đua này. Người ta đoán là Phêrô chắc là vì tuổi già sức yếu nên chạy chậm hơn.
Có thể là thế. Nhưng theo tôi, sự thua kém của Phêrô so với người môn đệ Đức
Giêsu thương mến không đơn giản chỉ là thua kém về thề chất, thể lý nhưng sâu
xa hơn là sự thua kém trong mối tương quan gần gũi với Đức Giêsu, một sự thua
kém về tình yêu, tình thầy trò. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ông là người chạy
nhanh hơn, đến mộ trước (Ga 20,4), nhưng quan trọng nhất vẫn là ‘Ông đã thấy và
đã tin’ (20,8). Niềm tin ấy là điểm sáng
rực nhất trong bài Tin Mừng hôm nay khởi đầu bằng đêm tối. Ông đã thấy gì vậy? Thưa
là ‘Ngôi mộ trống’. Trên thực tế điều ông thấy cũng giống hệt như điều Maria Magđalênê
và Phêrô thấy: Một ngôi mộ trống, băng vải và khăn che đầu của Đức Giêsu. Sự
khác biệt ở chỗ là ‘ông đã thấy và đã tin.’ Niềm tin mãnh liệt ấy vượt mọi
không gian thời gian, vượt qua bao nhiêu chướng ngại vật để loan truyền cho
không biết bao nhiêu người, qua biết bao thế hệ và cho cả chúng ta ngày nay.
Bất động sản
“ngôi mộ trống” ấy, chứng cứ niềm tin của sự Phục Sinh ấy vẫn còn đứng vững hơn
2000 năm nay giữa trung tâm của Kinh Thành Giêrusalem cho đến ngày nay. Đó chỉ
là một ngôi mộ trống, một hóc đá bất động nhưng lại sống động, lung linh hơn bất
cứ thứ gì khác trên thế gian này. Hằng ngày có hàng ngàn người từ khắp nơi trên
toàn thế giới đến xếp hàng để được nhìn thấy, được chạm vào Ngôi mộ trống ấy.
Chúng tôi, các linh mục đến đó, nếu muốn dâng Lễ ở đó phải đăng ký trước ba
tháng. Từng phút từng giây trong ngày đều có người đứng xếp hàng ở đó. Và biết
bao nhiêu tín hữu trên thế giới ao ước được một lần đến đó và chạm vào đó. Đó
là bằng chứng mãnh liệt, xác thực rằng Đức Kitô Phuc Sinh đang sống. Ngôi mộ trống
nhưng lại chứa đựng tròn đầy hình tượng Đức Kitô Phuc Sinh. Ngôi mộ trống nhưng
chứa đựng niềm tin vô hạn của Kitô giáo, của mỗi người chúng ta.
Mừng vui lên!
Chúa sống lại rồi. Mừng Lễ Phục sinh chúng ta được mời gọi hãy vui mừng, loan
tin vui khắp nơi. Chúng ta được mời gọi nhận ra Đức Kitô Phục Sinh đang sống
quanh ta và ngay trong tâm hồn mỗi người. Ngài đã hiện ra với nhiều người nhưng
không phải ai cũng đã được nhìn thấy Chúa. Niềm tin của chúng ta, căn bản, nền
tảng vẫn là niềm tin dựa vào chứng cứ “ngôi mộ trống”. Chúng ta dược mời gọi
tin ngay cả khi mình không thấy Chúa. Cầu chúc và ước mong rằng tất cả các tín
hữu có thể nhận ra Đức Kitô Phục Sinh hiện diện và đang sống trong gia đình,
nơi hàng quán, nơi công sở, nơi học đường. Ước mong rằng niềm tin vào Chúa Phục
Sinh, sự sống đời sau sẽ thay đổi triệt để cách sống, cách kiếm tiền, cách cư xử
của mỗi người chúng ta. Cũng là mưu sinh kiếm tiền, nhưng tôi nguyện mưu sinh
kiếm tiền cách lương thiện theo lời Chúa dạy, không mua gian, bán lận, lừa lọc.
Cũng là yêu thương nhưng tôi chọn yêu thương theo cách của Đức Kito, cho đi tất
cả và hiến thân vì người khác, không ích kỷ, chỉ nghĩ cho riêng mình. Cũng có
nhà cửa hàng quán, công sở, nhưng tôi được mời gọi nhận ra, nhìn thấy những nơi
ấy như những không gian của ngôi mộ trống thánh, nơi đó Đức Kitô Phục Sinh hằng
hiện trị, hướng dẫn và ban ơn cho mỗi người chúng ta. Amen.
Lm. Giuse Phạm Duy Thạch, SVD
[1] Tên gọi được phiên âm theo
tiếng Hy Lạp. Tiếng Việt: Mác-đa-la, (NTT, CGKPV), tiếng Anh: Magdalene (ESV),
tiếng Pháp: Magdala (TOB), tiếng Ý: Màgđala (CEI).
[2] C.S Keener, The Gospel
of John. A Commentary (Peabody 2003) II, 1178.
[4] C.S Keener, The Gospel
of John, 1179.
[5] F.J. Moloney, The
Gospel of John, 519.
[6] F.J. Moloney, The
Gospel of John, 519.
[7] C.S Keener, The Gospel
of John, 1182.
[8] C.S Keener, The Gospel
of John, 1184.
[9] C.K. Barrett, The
Gospel According to St. John. An Introduction with Commentary and Notes on
Greek Text (Philadelphia 1978) 563.
[10] C.K. Barrett, The
Gospel According to St. John, 561.