Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật VI TN B (Mc
1,40-45)
Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy Lạp |
Việt |
40 Καὶ ἔρχεται πρὸς αὐτὸν λεπρὸς παρακαλῶν
αὐτὸν [καὶ γονυπετῶν] καὶ λέγων αὐτῷ ὅτι ἐὰν θέλῃς
δύνασαί με καθαρίσαι. 41 καὶ σπλαγχνισθεὶς ἐκτείνας τὴν χεῖρα αὐτοῦ ἥψατο
καὶ λέγει αὐτῷ· θέλω, καθαρίσθητι· 42 καὶ εὐθὺς ἀπῆλθεν ἀπ᾽ αὐτοῦ ἡ λέπρα, καὶ ἐκαθαρίσθη. 43 καὶ ἐμβριμησάμενος
αὐτῷ εὐθὺς ἐξέβαλεν αὐτὸν 44 καὶ λέγει αὐτῷ· ὅρα μηδενὶ μηδὲν εἴπῃς, ἀλλ᾽ ὕπαγε
σεαυτὸν δεῖξον τῷ ἱερεῖ καὶ προσένεγκε
περὶ τοῦ καθαρισμοῦ σου ἃ προσέταξεν Μωϋσῆς, εἰς μαρτύριον αὐτοῖς. 45 Ὁ δὲ ἐξελθὼν ἤρξατο κηρύσσειν πολλὰ καὶ διαφημίζειν τὸν λόγον, ὥστε
μηκέτι αὐτὸν δύνασθαι φανερῶς εἰς πόλιν εἰσελθεῖν, ἀλλ᾽ ἔξω ἐπ᾽ ἐρήμοις τόποις ἦν· καὶ ἤρχοντο πρὸς αὐτὸν πάντοθεν. (Mk. 1:40-45 BGT) |
40 Rồi, một người cùi đến với Người, kêu cầu Người [quỳ gối
xuống] và nói cùng Người rằng: “Nếu Ngài muốn Ngài có thể làm cho tôi được sạch” 41 Và vì thương xót, Người giơ tay ra, đụng vào anh ta và nói: “Tôi muốn, anh hãy được sạch” 42 Và ngay lập tức bệnh cùi rời khỏi anh ta và anh ta được thanh tẩy. 43 Và sau khi nghiêm cấm anh ta, Người đuổi anh ta đi. 44 Người nói cùng anh
ta: “Coi chừng! không được nói điều gì với một ai (sát
chữ: nói không gì với không một ai) nhưng anh hãy đi
trình diện cho các tư tế và dâng lễ vật liên
quan đến sự thanh tẩy của anh, điều mà ông
Môsê đã truyền lệnh, để làm bằng chứng cho họ” 45 Nhưng sau khi ra khỏi
đó anh ta bắt đầu rao giảng rất nhiều và nói với
mọi người sự kiện đó, đến nỗi Người không thể đi vào thành nào một cách công
khai, nhưng Người ở ngoài những nơi hoang vắng.
Và họ đến với Người từ các hướng khác nhau. |
Bối cảnh
Đoạn văn trước kết
thúc bằng một câu tóm kết tổng quát về hành trình rao giảng và trừ quỷ của Đức
Giêsu: “Người đi khắp cả vùng Galilê rao giảng trong các hội đường của họ và trừ
quỷ” (1,39). Mc 1,40-45 tách biệt khỏi trình thuật trước đó bằng sự chuyển đổi
về nhân vật và cốt truyện. Nó khởi đầu bằng việc một bệnh nhân phong cùi đến với
Đức Giêsu. Tiếp theo đó là phép lạ chữa lành và lệnh cấm không được nói cho ai
về sự việc. Đoạn văn lại kết thúc bằng câu tóm kết: Đức Giêsu ở trong những nơi
sa mạc và người ta khắp các ngả đường đến với Người. Đoạn sau đó lại đánh dấu sự
thay đồi về nơi chốn khi Đức Giêsu quay về nhà ở Caphácnaoum. Như thế, đoạn văn
này nằm cuối chương một, là đoạn kết của hành trình rao giảng thứ nhất của Đức Giêsu
ngoài thành Caphácnaoum. Hành trình này được tóm kết bằng việc rao giảng và trừ
quỷ, chỉ có một phép lạ chữa bệnh duy nhất được ghi lại. Đó là phép lạ thanh tẩy
người phong cùi.
Cấu trúc
Trình thuật Mc
1,40-45 có những yếu tố song song với nhau. Bản văn khởi đầu và kết thúc bằng động
từ đến (erkhomai). Đây là cấu trúc đóng khung inclusio: mở đầu và kết thúc bằng
cùng một yếu tố. 1,40 mở đầu việc người phong hủi đến với Đức Giêsu. 1,45 kết
thúc với việc nhiều người từ nhiều ngả đến với Đức Giêsu. Diễn tiến câu chuyện
được nối kết chặt chẽ bằng những yếu tố song song. Người phong hủi xin Đức Giêsu
làm cho anh ta được sạch theo như ý Người muốn// Đức Giêsu bày tỏ ý muốn và làm
cho anh ta được sạch. Tiếp theo sau đó là lệnh cấm của Đức Giêsu: không được
nói với ai về bất cứ chuyện gì (1,42)// lệnh cấm không được thi hành: rao giảng
và nói với mọi người về mọi chuyện (1,45a). Sau đây là một phác họa để độc giả
thấy phần nào cấu trúc của câu chuyện.
A. Người phong cùi đến với
Đức Giêsu B. Xin tẩy sạch: nếu Thầy
muốn – hãy làm cho tôi được sạch (1,40) B’. Tẩy sạch: Ta muốn – hãy
được sạch (1,41) C. Đức Giêsu: Nghiêm cấm – đuổi đi: Không được nói vơi bất kỳ ai về bất cứ điều gì (1,42) C’. Người cùi: Đi ra – rao giảng – nói với mọi người về mọi chuyện (1,45a) A’. Nhiều người từ nhiều ngả đến với
Đức Giêsu (1,45b) |
Một số điểm chú giải
1.
“Một người cùi kêu cầu Người”: “λεπρὸς”, một người mắc bệnh phong cùi trong tiếng
Việt. Thật ra, từ nay trong tiếng Hy Lạp diễn tả nhiều tình trạng khác nhau
trong đó da bị nổi vảy sần sùi, hoặc tấy đỏ, chảy nước. Nó không phải là là bệnh
liên quan đến trùng Hansen như người ta gọi ngày này. Như sách Lêvi chương
13-14 diễn tả, bệnh thường là bệnh phát triển nhanh và người ta sẽ khỏi, còn bệnh
cùi hủi kéo dài nhiều nằm và không thể chữa khỏi.[1]
Sách Lêvi (sách thứ 3 trong Bộ Ngũ Thư), liệt kê rất nhiều chứng bệnh ngoài da
và Đức Chúa nói với ông Môsê hướng dẫn cụ thể cho từng trường hợp. Họ sẽ được
tư tế Aharon thăm khám và tuyên bố là ô uế hay không (Lv 13,3). Những người được
xem là có bệnh hủi và bị tuyên bố là ô uế thì bị cách ly bảy ngày. Sau bảy ngày
lại được thăm khám nếu vết lở loét còn thì lại cô lập cách ly thêm bảy ngày nữa
(Lv 13,4-5). Người phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: “Ô
uế, ô uế!” bao lâu còn mắc bệnh thì nó còn ô uế; khi nó ô uế thì nó phải ở
riêng ra, chỗ của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13,45-46). Như vậy, nỗi đau
đớn khốn cùng của người bệnh hủi không chỉ là đau đớn về thể xác, nhưng còn là
đau đớn về tinh thần tâm linh. Họ không được ở chung với người thân, dân làng.
Họ bị xem là ô uế. Mà ô uế là ngược lại với thánh thiện, không thuộc về Thiên
Chúa. Người đàn ông này chắc chắn không ở trong làng cùng với người ta. Anh ta
tiếp cận với Đức Giêsu ở một nơi nào đó ngoài khu dân cư. So với các tác giả
Tin Mừng Nhất Lãm, Luca có thêm một câu chuyện chữa lành mười người phong hủi.
Mười người này phải đứng xa xa và kêu lớn tiếng, chứ không được tiếp cận
(17,13). Trong trình thuật này người này không phải đứng xa và kêu lớn tiếng.
Nhiều bản thảo còn thêm hành động “anh ta quỳ xuống” và trong bản của Mátthêu,
cũng ghi lại hành động quỳ xuống này (Mt 8,2).
2.
“Nếu Ngài muốn… Ta muốn”: Điều
đáng ghi nhận ở đây là anh ta cầu xin trong tư thế hỏi ý của Đức Giêsu. Sự cầu
xin đã giả thiết một niềm tin tưởng thật sự vào khả năng chữa lành của Đức Giêsu.
Trước đó Máccô đã cho độc giả biết là Đức Giêsu đã chữa lành mẹ vợ của Simon và
vô số bệnh nhân đủ các loại (Mc 1,31.34). Danh tiếng Người được truyền ra khắp
vùng lân cận miền Galilê (1,28). Người hủi này chắc chắn đã nghe và đã tin và
hy vọng vào Đức Giêsu. Nhưng điều đáng nói là anh ta nói rằng “nếu Ngài muốn”.
Mẫu thức này gợi nhớ độc giả về lời cầu nguyện của Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu,
trong giây phút khốn cùng Đức Giêsu cũng xin cùng Chúa Cha là “hãy theo ý Cha” (Mt
26,42; Cf. Lc 22,42). Đức Giêsu xem việc thi hành ý muốn của Đấng đã sai Người
là lương thực của chính mình (Ga 4,34). Sự đau đớn về bệnh tật không làm cho
người đàn ông này quên đi nhân cách sống của một tín hữu, thể hiện qua việc đặt
ý muốn của Đấng Chúa sai đến trên ý muốn của riêng mình. Đáp trả lại đức tin
trưởng thành của anh ta, Đức Giêsu không ngần ngại đáp trả: “Ta muốn”. Đó là một
lời đáp trả hoàn hảo cho một lời cầu xin hợp lòng Chúa. Chúa, dĩ nhiên, muốn
ban ơn chữa lành cho những người có niềm tin tưởng phó thác vào Chúa, dù Chúa
có làm hay không.
3. “Chạnh lòng thương…
đưa tay ra…chạm lấy anh”: Sau khi nghe lời cầu xin của anh ta, Đức Giêsu thực
hiện một loạt 3 hành động. Động từ “σπλαγχνίζομαι” có nghĩa là (chạnh lòng thương,
cảm thông, thương xót), được chia ở dạng phân từ (V-ing trong tiếng Anh), rất
có thể là diễn tả nguyên nhân: “vì Người chạnh lòng thương nên…”. Các bản dịch
hiện đại đều bỏ qua cách dùng của phân từ này. Họ chỉ dịch hành động chung
chung: “Người chạnh lòng thương” (CGKPV); “Pris de Pitié” (TOB) ; “moved
with pity” (ESV) ; “ne ebbe compassione” (CEI). Động từ này được dùng đa số
cho Đức Giêsu cách trực tiếp hoặc ám chỉ. Nó được dùng để diễn tả lòng xót
thương của người cha trong dụ ngôn “người cha nhân hậu” (Lc 15,20). Người
Samaritano nhân hậu trong dụ ngôn cũng “chạnh lòng thương” khách bị nạn (Lc
10,33). Đức Giêsu “chạnh lòng thương” vì đám đông bơ vơ như đàn chiên không có
mục tử (Mt 9,36; cf. 14,14; Mc 6,34). Đức Giêsu cũng “chạnh lòng thương” bà góa
thành Nain có con trai một bị chết. Rõ ràng, động từ “chạnh lòng thương” là động từ mang nhãn hiệu độc quyền của Đức Giêsu.
Mỗi khi Người “chạnh lòng thương”, Người đều làm những phép lạ cụ thể và cao cả.
Phát xuất từ con tim yêu thương, Đức Giêsu đã không ngần ngại đưa tay ra, và chạm
vào anh ta. Như đã nói trên, theo luật của sách Lêvi, người ta phải tránh lại gần
hay tiếp xúc những người bệnh này, nhưng Đức Giêsu chẳng những tiếp xúc mà Người
còn chạm vào anh ta. Đức Giêsu khác với ngôn sứ Êlisa, người cũng chữa bệnh cùi
cho ông Naaman. Ông tránh tiếp xúc với người đàn ông bị bệnh hủi (1 V 5,1-14).[2] Đụng
chạm vào người bị ô uế làm cho người ta ra ô uế.[3] Trong
Phép lạ chữa lành cho mười người phong hủi, Đức Giêsu cũng đứng từ xa và bảo mười
người ấy “hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17,11). Đụng chạm vào Đức Giêsu là
một trong những dấu chứng chữa lành. Người đàn bà bị bệnh băng huyết chạm vào
áo choàng của Đức Giêsu đã được chữa lành (Mc 5,27.30.31; Mt 9,20; Lc
8,44.46.47). Đức Giêsu chạm vào lưỡi người bệnh câm điếc, sau khi nhổ nước miếng
nhằm chữa lành anh ta (Mc 7,33). Người chạm vào mắt hai người mù để chữa lành họ
(Mt 9,29). Người chữa lành một người mù khác ở Jericho cũng cùng một phương thức
(Mt 20,34). Tuy chạm vào một người phong hủi là một điều cấm kỵ, nhưng Người đã
làm thế để chứng tỏ lời nói của Người là: “Ta muốn” (1,41).[4]
4.
“Sạch”: Động từ “làm cho sạch” được
sử dụng 3 lần trong một đoạn văn ngắn và thêm một danh từ “sự sạch”. Đây là động
từ lặp lại nhiều nhất trong đoạn này. Đây có thể được xem là động từ chủ đạo
trong đoạn văn này. Bệnh phong hủi không chỉ là một loại bệnh thông thường
nhưng nó liên quan đến yếu tố thanh sạch. Đối lại với yếu tố thanh sạch là sự ô
uế. Sự thanh sạch được nói đến trong sách Lêvi như một yếu tố của sự thánh thiện,
thuộc về Thiên Chúa, hoặc dành riêng cho Chúa. Ngược lại sự ô uế là yếu tố tách
rời khỏi Thiên Chúa. Người bị ô uế như mắc loại bệnh này không được tham dự vào
bất cứ nghi lễ cộng đồng nào và dĩ nhiên họ bị tách rời khỏi dân thánh (Lv
13,3-4.7.45-46). Người chịu trách nhiệm thăm khám và tuyên bố về tình trạng ô uế
của một người bệnh hủi là các tư tế. Tư tế là những chức sắc đại diện dân để
dâng lễ tế lên Thiên Chúa. Chính vì thế mà sau khi khỏi bệnh họ phải dâng lễ tế
để đền tội và được thánh hiến trở lại (Lv 14,2-19). “Trở nên sạch” có ý nghĩa về
mặt nghi lễ và đức tin hơn là về bệnh tật. Chính vì thế mà bệnh nhân này xin Đức
Giêsu làm cho anh ta được sạch chứ không xin được khỏi bệnh. Và Đức Giêsu cũng
đáp trả lại với anh ta là: hãy được sạch chứ không phải là hãy được lành bệnh. Nghĩa
là anh ta mong ước được trở lại thuộc về Thiên Chúa, không muốn rời xa Thiên
Chúa nữa. Và mong ước này dĩ nhiên là đẹp lòng Đức Giêsu.
5.
“Bệnh cùi rời khỏi anh”: cách diễn
tả này giống với lối diễn tả trong phép lạ chữa lành mẹ vợ của ông Simon. “Cơn
sốt rời khỏi” mẹ vợ của Phêrô (Mc 1,31) giống như “bệnh cùi” rời khỏi anh ta. R.
France lý giải rằng cách nói này trong trường hợp bệnh phong có thể diễn tả các
triệu chứng ngoài da của người bị bệnh biến mất một cách tỏ tường.[5] Tuy
nhiên, không giống như căn bệnh của mẹ vợ ông Simon, sau khi bệnh hủi rời đi
thì cần thêm một tuyên bố nữa: “Anh ta được thanh sạch” (Mc 1,42) bởi vì mong
muốn cuối cùng của anh ta là “được thanh sạch”. R. Guelich cho rằng sự chữa
lành của Đức Giêsu vượt xa hơn là một tuyên bố mang tính cách tư tế về một sự
thanh sạch thuộc về nghi lễ. Phép lạ là công trình của Thiên Chúa, vì các tư tế
không có khả năng chữa lành bệnh. Họ chỉ xem xét, kiểm tra để biết là người ấy
có bệnh, và lành bệnh thế nào mà thôi. Theo Do Thái giáo, chỉ có Chúa mới có khả
năng chữa lành người phong hủi hoặc làm cho người chết sống lại.[6]
6. “Nghiêm cấm… đuổi đi”: Trước đó, độc giả đã
nghe hai lần Đức Giêsu cấm không cho quỷ lên tiếng. Khi Người trừ quỷ một người
trong hội đường Caphácnaoum. Thần ô uế đã nói là biết Người là ai. Nó nói “Ông
là Đấng Thánh của Thiên Chúa”(1,24) và Đức Giêsu đã quát nó là “im đi” (1,25).
Sau đó, Máccô lại cho độc giả biết rằng “Người trừ nhiều quỷ nhưng không cho quỷ
nói vì chúng biết Người” (1,34). Lần này Đức Giêsu lại nghiêm cấm một bệnh nhân
tiết lộ “bất cứ điều gì, cho bất cứ ai”(nghĩa là không gì cả). Động từ “ἐμβριμάομαι”(cấm đoán một cách gay gắt)
được dùng ở thể hiện tại phân từ, thì aorist một lần duy nhất trong Tân Ước (ἐμβριμησάμενος). Cách dùng này nhằm nhấn
mạnh mức độ nghiêm trọng của lệnh cấm của Đức Giêsu. Cách dùng của hiện tại
phân từ của động từ này rất có thể là chỉ thời gian: “Sau khi nghiêm cấm…”. Động
từ chính phía sau động từ này cũng rất mạnh: “Người đuổi anh ta ra khỏi”. Động
từ “đuổi đi” (ἐκβάλλω) được dùng nhiều lần để chỉ việc trục xuất quỷ (1,34.39;
3,15…). R. France ghi nhận sự lạ lùng đến mức ngạc nhiên trong cách dùng từ của
Máccô. Theo ông, động từ “ἐμβριμάομαι”cổ điển được dùng để diễn
tả “cơn thịnh nộ của động vật”(ngựa), ở đây được dùng diễn tả cảm xúc mạnh mẽ của
Đức Giêsu. Cùng với động từ ἐκβάλλω nó không cho thấy một cách đối xử
tử tế.[7] Lệnh
cấm này thuộc bí mật Mêsiya của Tin Mừng Máccô. Dường như Đức Giêsu không mong
muốn người ta nhận biết Người như là một người làm phép lạ chữa bệnh mà thôi. Nội
dung lệnh cấm là một lối dùng từ phủ định kép “μηδενὶ μηδὲν
εἴπῃς” (không
nói gì cho không ai). Hai từ phủ định được đặt trước động từ nói nhằm nhấn mạnh
mệnh lệnh. Đức Giêsu không cho anh ta nói nhưng lệnh cho anh ta đi trình diện với
tư tế. Vấn đề là anh ta được trở lại với cộng đoàn, được tuyên bố là thanh sạch
càng sớm càng tốt chứ không phải tôn vinh phép lạ của Đức Giêsu. Anh ta phải đi
trình diện với tư tế vì chỉ có các tư tế mới có quyền tuyên bố anh đã được sạch
và cho anh trở về với cộng đồng.
7.
“Dâng lễ vật theo luật Môsê”:
Sách Lêvi 14,1 – 31 chỉ dẫn rất cụ thể về những nghi thức và con vật phải dâng
theo luật thanh tẩy, bao gồm những lễ vật, với những tiêu chuẩn cụ thể dành cho
người nghèo. Lễ vật bao gồm: “Hai con chim còn sống và thanh sạch, gỗ bá hương,
phẩm cánh kiến và cành hương thảo” (Lv 14,5); “hai con chiên đực toàn vẹn, một
con chiên cái toàn vẹn, một tuổi, mười ba lít rưỡi tinh bột nhào với dầu làm lễ
phẩm” (Lv 14,10). Nếu nó nghèo “thì chỉ bắt một con chiên đực dùng làm lễ đền tội…
bốn lít tinh bột nhào với dầu làm lễ phẩm… một cặp chim gáy hoặc một cặp bồ câu
non” (Lv 14,21-22). Tiến trình bình thường hóa thân phận của người này gồm hai
giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn thanh tẩy (Lv 14,5-9). Giai đoạn thứ
hai, sau khi cách ly bảy ngày, là giai đoạn đền tội (Lv 14,10-18).
8.
“Rao giảng và kể với mọi người”: Với
lệnh cấm được diễn tả một cách nghiêm túc đến nghiêm trọng như thế, người bệnh
này lẽ ra phải tuân theo. Thế nhưng, anh ta dường như làm trái ngược lại hoàn
toan với những điều Đức Giêsu cấm đoán. Liên từ “δὲ” (nhưng) diễn tả sự trái ngược hoàn toàn. Động từ rao giảng được dùng trước
hết cho ông Gioan, kẻ dọn đường (Mc 1,7), rồi cho Đức Giêsu (1,14.38), đến các
môn đệ (Mc 3,14). Cụm từ “bắt đầu rao giảng” ở đây giống y như cấu trúc dùng
cho người bị quỷ ám được trục xuất trong vùng Gerasa. Anh ta cũng “bắt dầu rao
giảng trong miền thập tỉnh” (Mc 5,20). Chỉ khác ở chỗ là trong câu chuyện này Đức
Giêsu khuyên anh này hãy “về nhà với bạn bè và kể cho họ nghe những điều Chúa
đã làm cho anh và Người thương xót anh như thế nào” (5,20). Anh bệnh cùi trong
câu chuyện này rao giảng rất nhiều và loan truyền chuyện đã xảy ra cho anh. Có
lẽ anh ta thấy nhiệm vụ loan báo tin vui này cấp thiết hơn cả chuyện anh ta được
các tư tế tuyên bố thanh sạch hay không. Điều mà người phong hủi loan truyền ở
đây trong tiếng Hy Lạp là “τὸν λόγον” (lời).
Trong ngữ cảnh này “lời” rất có thể có nghĩa là câu chuyện “được sạch” mà người
này vừa trải nghiệm. Nhưng trong bối cảnh rộng hơn của Tin Mừng, “lời” có thể
là Tin Vui, Tin Mừng của Chúa. Đó là Tin Mừng về sự đến gần của Nước Trời thể
hiện qua quyền năng chữa lành của Đức Giêsu.[8]
9.
“Ở trong những nơi hoang vắng”: “Nơi
hoang vắng” thường đánh dấu những khoảnh khắc đặc biệt của Đức Giêsu. Đó là nơi
Đức Giêsu chịu cám dỗ bốn mươi đêm ngày sau khi chịu phép rửa và trước khi đi
rao giảng (Mc 1,12). Đó cũng là nơi nhiều lần Đức Giêsu gặp gỡ Chúa Cha trong
những giờ cầu nguyện (Mc 1,35); là nơi Người khuyên các môn đệ lui vào và nghỉ
ngơi (Mc 6,31.32). Cũng là nơi Đức Giêsu gặp gỡ, rao giảng và cho họ ăn (Mc
6,35; Mt 14,13.15). Dường như việc rao giảng của người phong hủi này có hiệu quả
tiêu cực là làm cho Đức Giêsu không thể vào thành nào được. Tuy nhiên, cũng dường
như nó có hiệu quả tích cực, dù Đức Giêsu ở trong sa mạc, nhưng người ta từ khắp
các ngả đến với Người. Và sa mạc cũng là nơi giảng dạy quen thuộc của Người.
10. “Người
ta đến với Người từ các nẻo đường”: Trớ trêu thay, nơi hoang vắng
trước đây là nơi người ta bắt buộc những người bệnh hủi phải ở thì giờ đây lại
là nơi Đức Giêsu lưu lại. Nhưng dù ở trong sa mạc đi nữa thì Tin Vui về Đức Giêsu,
rất có thể do người lành sạch này loan báo, đã kéo người ta từ khắp mọi nơi đến
với Đức Giêsu. Máccô không nói tiếp là họ đến với Đức Giêsu để làm gì. Tuy
nhiên, độc giả có thể suy đoán là họ lại nghe Đức Giêsu rao giảng, rồi chữa
lành bệnh tật. Theo như bối cảnh của 6,34-35, Đức Giêsu thấy họ như “bầy chiên
không có mục tử và Người giảng dạy họ nhiều điều”.
Bình luận
Cùng với phép lạ
trừ quỷ (1,21-28) và phép lạ chữa lành bà mẹ vợ của ông Simon (1,29-31), phép lạ
chữa lành bệnh phong trong đoạn Tin Mừng này là phép lạ thứ 3 trong chương một
được Máccô ghi lại một cách chi tiết. Bệnh phong là một cách nói chung cho tất
cả những người bị bệnh ngoài da, và không có thuốc chữa thời bấy giờ. Bệnh này
không chỉ làm cho bệnh nhân đau đớn về mặt thể xác nhưng trên hết là họ phải chịu
đau đớn khi bị xem như là ô uế. Ô uế là ngược với thanh sạch. Thanh sạch là một
đặc tính quan trọng của dân thánh Chúa. Nó có thể là một yếu tố chứng tó sự
thánh thiện. Người bị tuyên bố là ô uế không có quyền ở chung trại với dân
thánh Chúa. Họ phải ở cách ly ngoài trại, theo luật Lêvi. Chúng ta có thể tưởng
tượng như những người cách ly vì bệnh Covid thời nay vậy. Nhưng sự cách ly của
bệnh Covid chỉ nhằm tránh sự lây lan về bệnh tật. Còn sự cách ly của người bệnh
hủi là một sự phân biệt giữa sự thánh thiện và ô uế, giữa những người thuộc về
Chúa và những người không thuộc về Chúa. Sự cách ly này đối với một người yêu mến
Chúa còn đau khổ hơn cả chết nữa. Chính vì thế mà độc giả có thế hiểu là tại
sao người bệnh này xin Đức Giêsu làm cho anh ta được sạch. Động từ “thanh tẩy” hay
“làm cho sạch” được lặp lại đến 3 lần trong đoạn này. Anh ta khao khát được trở
lại với dân thánh Chúa, được thuộc về Chúa, và tham gia các nghi lễ thờ cúng
như dân thánh. Đức Giêsu là người Do Thái, Người dĩ nhiên hiểu được ngay nổi thống
khổ của anh và niềm khao khát của anh. Hơn nữa, bệnh nhân này cho thấy mức độ
trưởng thành về đức tin của anh. Anh xin Chúa nhưng lại để ngỏ cho ý muốn của
Chúa được thể hiện. Đức Giêsu đã đáp lại lời thỉnh cầu đầy đức tin của anh bằng
những hành động rất cụ thể. Ít nhất có ba hành động được diễn tả để hiện thực
hóa câu đáp trả: “Tôi muốn” của Người. Vì Người “chạnh lòng thương” nên Người,
“đưa tay ra”, và “chạm vào anh”. Bệnh nhân này chắc cũng giật mình trong chốc
lát. Việc Đức Giêsu để cho anh ta tiếp cận đã là một điều cấm kỵ rồi. Đằng này,
Người lại đưa tay chạm vào anh. Đức Giêsu không sợ bị ô uế khi phải chạm vào người
ô uế sao? Dĩ nhiên là không, vì cái chạm của Người cùng với lời tuyên bố “anh
hãy được sạch” đã vô hiệu hóa tác hại của bệnh hủi. Điều làm cho độc giả ngạc
nhiên hơn nữa là Đức Giêsu lại dùng những hành động rất mạnh như “nghiêm cấm” và
“đuổi anh ta đi”, không cho anh ta “nói bất cứ điều gì với một ai”. Người muốn
anh ta đi ngay đến trình diện với tư tế và dâng lễ vật theo luật Môsê. Đức Giêsu
cho thấy Người tôn trọng Lề Luật mà Thiên Chúa đã ban qua ông Môsê như dân của
Người vậy. Người bệnh phong được tư tế tuyên bố là ô uế và phải cách ly, sau đó
cũng chính tư tế là người cử hành các nghi lễ thanh tẩy để tuyên bố người này
lành sạch, có thể gia nhập cộng đồng. Tiến trình thanh tẩy theo luật này có thể
kéo dài 8 ngày. Có lẽ chính vì thế mà Đức Giêsu không muốn anh này chờ lâu hơn
nữa. Ngạc nhiên hơn, dù bị cấm đoán đến cách nghiêm túc như thế, anh này cứ rao
giảng nhiều điều và loan truyền Tin Vui đến khắp mọi người. Không biết khi nào
anh ta mới đi đến với các tư tế để được tuyên bố là thanh sạch. Tuy nhiên, sự
di chuyển của anh ta khắp nơi và nói với mọi người cho thấy anh không bị cách
ly khỏi xã hội nữa. Câu chuyện kết thúc đầy mỉa mai rằng: người được chữa lành
trước đây bị buộc phải sống nơi hoang vắng thì nay lại di chuyển khắp nơi trong
các thành, còn Đức Giêsu, Đấng chữa lành thì lại phải ở lại trong “nơi hoang vắng”.
Tuy vậy, cái kết của câu chuyên vẫn đẹp như nó phải là: Dù Đức Giêsu lánh vào
nơi hoang vắng, “Người ta từ khắp các ngả đường đến với Người”.
Lm. Joseph Phạm
Duy Thạch, SVD
[1] J. Marcus, Mark 1–8. A New
Translation with Introduction and Commentary (AYB; New Haven –
London 2008) XXVII, 205; Cf. J.R. Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of
Mark (SP 2; Collegeville 2005) 88.
[2] J. Marcus, Mark 1–8. A New
Translation with Introduction and Commentary, 206.
[3] R.T. France, The Gospel of Mark. A Commentary on the Greek Text (NIGTC; Grand
Rapids 2002) 118.
[4] R. A. Guelich, Mark
1-8:26 (WBC 34A; Dallas 2002) 74.
[5] R.T. France, The Gospel of Mark. A Commentary on the Greek Text, 118.
[6] R. A. Guelich, Mark
1-8:26 (WBC 34A; Dallas 2002) 74.
[7] R.T. France, The Gospel of Mark. A Commentary on the Greek Text, 119.
[8] A.Y. Collins – H.W.
Attridge, Mark. A Commentary on the Gospel of
Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 179-180.
No comments:
Post a Comment