CHÚA CHỊU
THỬ THÁCH. Chú giải Tin Mừng Chúa Nhật thứ I Mùa Chay năm B (Mc 1,12-15)
Bản Văn và
dịch sát nghĩa
Việt |
Hy Lạp |
12 Và
ngay lập tức Thần Khí đẩy Người vào trong sa mạc. 13 Và
Người ở trong sa mạc bốn mươi ngày chịu cám dỗ bởi
Satan, và Người ở đó với thú hoang, và các thiên sứ phục vụ Người. 14 Sau khi ông Gioan bị nộp Đức Giêsu đến vào miền Galilê
rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa 15 Và nói rằng “thời kỳ đã
hoàn tất và Nước Thiên Chúa đã đền gần: ‘hãy hoán cải và Tin vào Tin Mừng” |
12 Καὶ εὐθὺς τὸ πνεῦμα αὐτὸν
ἐκβάλλει εἰς τὴν ἔρημον. 13 καὶ ἦν ἐν τῇ ἐρήμῳ τεσσεράκοντα ἡμέρας πειραζόμενος ὑπὸ τοῦ
σατανᾶ, καὶ ἦν μετὰ τῶν θηρίων, καὶ οἱ ἄγγελοι διηκόνουν αὐτῷ. 14 Μετὰ δὲ τὸ
παραδοθῆναι τὸν Ἰωάννην ἦλθεν ὁ Ἰησοῦς εἰς τὴν Γαλιλαίαν κηρύσσων τὸ εὐαγγέλιον τοῦ θεοῦ 15 καὶ λέγων ὅτι πεπλήρωται ὁ καιρὸς καὶ ἤγγικεν ἡ βασιλεία τοῦ θεοῦ·
μετανοεῖτε καὶ πιστεύετε ἐν τῷ εὐαγγελίῳ. (Mk.
1:12-15 BGT) |
Bối cảnh phụng vụ
Chúa Nhật đầu tiên của năm Chúa Nhật
của Mùa Chay Thánh. Mùa Chay Thánh kéo dài 40 ngày được khởi đầu bằng ngày thứ
tư Lễ Tro. Trong tiếng Latinh, Mùa Chay được gọi theo chu kỳ 40 mươi ngày chay
tịnh. “Quadragesima” có nghĩa là “bốn mươi”. Đây là Mùa ân phúc để tất cả những
người Kitô hữu, những người ý thức mình là tội nhân, hoán cải đời sống mà trở về
với Chúa. Đây là thời gian để các Kitô hữu nhìn lại căn tính và cùng đích của đời
mình cũng như nhìn thấy rõ con người mình để rồi biến đổi cho phù hợp với căn
tính và cùng đích của đời mình. Căn tính của mỗi Kitô hữu chính là: họ là con
cái Thiên Chúa và cùng đích của đời họ là tìm về với cội nguồn của mình. Tìm về
với cội nguồn bằng cách lắng nghe tiếng Chúa để thay đổi luôn luôn và để làm
cho mình ngày càng nên giống Chúa hơn. Thân phận con người là bụi tro và sẽ trở
về bụi tro. Thế nhưng, trở về bụi tro không có nghĩa là con người ra tro ra bụi,
nhưng là chính lúc con người đối diện và gặp gỡ chính Thiên Chúa là cha của
mình. Thân xác con người sẽ được biến đổi, và được hưởng một đời sống mới với
Chúa và với những người thân thương của mình một cách hạnh phúc. Thân xác ấy,
con người mới ấy không chỉ bắt đầu sau khi chết nhưng được khởi sự ngay ngày
hôm nay, khi mọi tội lỗi, mọi thói hư tật xấu được loại bỏ. mọi sai lầm được sửa
đổi. Hơn nữa, một quả tim cũ bằng đá sẽ được thay đổi bằng một quả tim bằng thịt,
biết yêu thương người khác hết mình.
Truyền thống ăn chay đã được nói đến
nhiều trong Thánh Kinh Cựu Ước. Người đầu tiên ăn chay phải kể đến là ông Môsê.
Trong bối cảnh Chúa ban mười điều răn cho Ông lần thứ hai, vì lần thứ nhất hai
bia đá ghi Mười Điều Răn đã bị đập bể do dân đúc và thờ con bê bằng vàng (Xh
32,15-20; Đnl 9,9). “Ông Môsê đã ở trên núi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm không
ăn, không uống và ông viết lên những tấm bia đá những điều khoản của Giáo Ước,
tức là thập điều” (Xh 34,28). Dân Do Thái cũng được dạy là phải ăn chay và
kiêng việc xác trong Ngày Xá Tội, ngày mùng mười tháng bảy (Lv 23,27). Trong trận
chiến với Bengiamin tại Bếtel, khi dân Ísrael thua trận, họ cũng ăn chay (Tl
20,26). Vua Đavít đã ăn chay nhiệm nhặt và nằm dưới đất sau khi ngôn sứ Nathan
phân xử ông vì lý do vua giết chết tướng Urigia và cướp vợ của ông này (2 Sm
12,16.21-23). Trước sắc chỉ tiêu diệt dân Ísrael của vua Asuêrô, ông Moocđokhai
đã xé áo mình ra, mặc bao bị và rắc tro trên mình, còn dân Do Thái cũng “ăn
chay, khóc lóc, than van. Họ nằm trên tro, trên bụi và mặc bao bị” (Et 4,1-3). Còn
rất nhiều bản văn Cựu Ước nói đến việc ăn chay của dân Ísrael.[1] Tiếp tục truyền thống Cựu
Ước, Tân Ước cũng ghi lại rất nhiều lời dạy về việc ăn chay. Nhiều nhất có lẽ
là Tin Mừng Mátthêu (4,2; 6,16-18; 9,14-15; 15;32; 17,21). Tác giả Máccô nói đến
việc ăn chay 3 lần (2,18-20; 8,3; 9,29). Tương tự, Luca cũng nói đề cập đến 3 lần
(2,37; 5,33-35; 18,2). Sách Công Vụ Tông đồ cũng nhiều lần đề cập đến chuyện ăn
chay (9,9; 10,30; 13,2; 24,23; 27,9.33). Thánh Phaolô cũng nói đến việc ăn chay
trong hai thư gửi cho tín hữu Côrintô (1 Cr 7,5; 2 Cr 6,5; 11,27).
Bối cảnh đoạn Tin Mừng
Theo chu kỳ phụng vụ về cách chọn các
đoạn Tin Mừng cho Thánh Lễ Chúa Nhật, năm nay năm B, phụng vụ chọn đọc Tin Mừng
Máccô (Mátthêu năm A và Luca năm C). Đoạn Tin Mừng Mc 1,12-15 nằm tiếp theo sau
đoạn Chúa Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Giorđan bởi tay của Gioan (Mc 1,9-11).
Trong biến cố Đức Giêsu chịu Phép Rửa có sự xuất hiện của Thần Khí, dưới hình
chim bồ câu, và có tiếng từ trời phán rằng: “Con làCon yêu của ta, nơi Con, Ta
hài lòng” (Mc 1,11). Cũng chính Thần Khí ấy, trong trình thuật này, dẫn Đức Giêsu
vào sa mạc để chịu cám dỗ và rất có thể, việc chịu cám dỗ của Đức Giêsu cũng biểu
lộ sự hài lòng của Chúa Cha (tiếng từ trời). Đoạn văn này được nối tiếp bởi đoạn
văn Đức Giêsu mời gọi bốn môn đệ đầu tiên: Simon, Anrê, Giacôbê và Gioan (Mc
1,16-20).
Cấu trúc
Mc 1,12-15, tuy chỉ có có vọn vẹn 4
câu nhưng lại là sự nối kết bởi hai sự kiện khác nhau và nhiều khi không liền mạch
về mặt thời gian lịch sử. Mc 1,12-13 là trình thuật về việc Đức Giêsu chịu cám
dỗ, trong khi đó Mc 1,14-15 lại giới thiệu về việc Đức Giêsu khai mạc sứ vụ rao
giảng và lời rao giảng đầu tiên và căn bản của Đức Giêsu. Tin Mừng Máccô là vậy.
Đó là Tin Mừng ngắn nhất (16 chương, so với Mátthêu 28 chương, Luca 24 chương
và Gioan 21 chương), và các sự kiện trong Tin Mừng Máccô luôn luôn ngắn gọn và
dồn dập như thế. Cấu trúc của đoạn này khá rõ ràng gồm hai phần chính và chi tiết
từng phần. Phần A là sự kiện Đức Giêsu chịu cám dỗ. Phần này có thể chia thành bốn
tiểu phần. a.1 là phần giới thiệu địa điểm (hoang địa) và tác nhân của việc Đức
Giêsu vào hoang địa (Thần Khí). Phần a.2 nói về khoảng thời gian Đức Giêsu ở
trong đó (40 ngày). A.3 diễn tả mục đích của việc Đức Giêsu vào hoang địa (chịu
cám dỗ). Và cuối cùng là sự hỗ trợ từ trời cao dành cho Đức Giêsu (các thiên sứ
phục vụ Người). Phần B là phần giới thiệu tổng quát về sự kiện Đức Giêsu khai mạc
sứ vụ rao giảng. Phần này có thể có hai tiểu phần. b.1 là câu giới thiệu về thời
gian, địa điểm, nhân vật, hành động. Thời gian: Sau khi Gioan bị nộp; Địa điểm:
Vùng Galilê; Nhân vật: Đức Giêsu; Hành vi: Rao giảng. b.2 là nội dung lời rao
giảng đầu tiên của Đức Giêsu: “Thời kỳ đã mãn và Nước Thiên Chúa (triều đại
Thiên Chúa) đã đến gần: ‘anh chị em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng’”.
A. Đức Giêsu chịu cám dỗ (1,13-14)
a1. Địa điểm, tác nhân, nơi chốn (1,13)
a2. Thời gian (1,14a)
a3. Mục đích (1,14b)
a4. Sự hỗ trợ (1,14c)
B. Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng
(1,14-15)
b1. Giới thiệu: thời gian, địa điểm, nhân vật, hành vi (1,14)
b2. Nội dung lời rao giảng của Đức Giêsu
(1,15)
Một số điểm
chú giải
1.
Thần Khí: “τὸ
πνεῦμα” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là: hơi thở, gió, khí, linh hồn, tinh thần.
Chữ này có mạo từ xác định đằng trước để chỉ một ngôi vị cụ thể. Khi chuyển ngữ
qua các ngôn ngữ hiện đại, danh từ này đều được viết hoa và có mạo từ xác định,
muốn diễn tả Ngôi Ba Thiên Chúa.[2] Tiếng Việt là Thần Khí
(CGKPV). Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong nguyên ngữ chữ này không bao gồm chữ
“thần”, mà chỉ đơn thuần là “khí”, “gió”, hay là “hơi thở”. Tác giả bản dịch Việt
Ngữ thêm chữ “Thần” có lẽ nhằm xác định đó là một ngôi vị Thiên Chúa. Thần Khí
này vừa xuất hiện trước đó trong trình thuật về Đức Giêsu chịu Phép Rửa. Máccô
dùng tất cả 25 lần danh từ “πνεῦμα”. Lần đầu tiên, danh từ này được Gioan dùng khi giới thiệu phép rửa của
“Đấng đến sau”: “Tôi đã rửa anh chị em trong nước, nhưng Người sẽ rửa anh chị
em với Thánh Thần” (Mc 1,8). Ở đây có tính từ “thánh” (ἁγίῳ) đi kèm. Nếu dịch
sát nghĩa phải là “Thánh Khí”/ “hơi thở thánh”, (holy Spirit) chứ không phải là
Thánh Thần. Danh từ “πνεῦμα” cũng được dùng với mạo từ bất định
để chỉ một “thần ô uế” (an unclean spirit) (1,23.26; 5,2.8; 7,25), thần câm điếc
(9,17.20.25) hoặc với mạo từ xác định để chỉ nhiều “thần ô uế” (1,27; 3,11;
3,30; 5,12.13; 6,7). “πνεῦμα” cũng diễn tả
tâm hồn, hay phần bên trong của Đức Giêsu (2,8; 8,12). Tội phạm đến Thánh Thần
sẽ không bao giờ được tha thứ (3,29). Đavít nhờ Thánh Thần đã công bố: “Đức
Chúa nói cùng Chúa tôi ‘hãy ngồi bên tay hữu tôi, cho đến khi tôi đặt kẻ thù của
con dưới chân ngươi” (12,36). Thánh Thần sẽ nói trong các môn đệ khi họ bị đưa
ra tòa hoặc bị trao nộp (13,10-11). Vai trò của Thần Khí trong sứ vụ của Đức Giêsu
rất quan trọng. Hai biến cố đầu tiên trong sứ vụ công khai của Người, Thần Khí
không thế vắng bóng, là biến cố chịu Phép Rửa và chịu cám dỗ. Trong cả hai biến
cố ấy Thần Khí đều có mặt. Tác giả Luca còn diễn tả cách cụ thể hơn về tác động
của Thần Khí, qua lời xác nhận của chính Đức Giêsu, khi Người đọc sách Isaia,
đoạn nói về sứ vụ của Đấng Mêsia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu
tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó. Người đã sai
tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ đã được
sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”
(Lc 4,14).
2.
Đẩy Người vào hoang địa (ἐκβάλλει
εἰς τὴν ἔρημον): Nếu như trong trình thuật về Đức Giêsu
chịu phép rửa Thánh Thần chỉ ngự xuống trên Người như hình chim bồ câu thì giờ
đây Thánh Thần sẽ là tác nhân tác động trực tiếp trên Đức Giêsu. Thánh Thần dường
như ép buộc, thúc bách Đức Giêsu vào nơi hoang địa. Động từ Máccô dùng để diễn
tả tác động của Thần Khí là một động từ diễn tả sự “đuổi đi, trục xuất, gửi đi,
mang đi, xé ra” (ekballo). Động từ này được ghép bởi động từ “ballo” nghĩa là
“ném, quăng” và giới từ “ek” có nghĩa là “ra khỏi”, nên có nghĩa gốc là “ném ra
ngoài”. Đây cũng là động từ được dùng nhiều lần để diễn tả sự trục xuất quỷ
(1,34.39;3,15.22.23; 6,13; 7,26; 9,18.28.38). Đức Giêsu chắc chắn không bị quỷ
vương Belzebul ám như các kinh sư đã kết án (Mc 3,22). Không hiểu sao Máccô lại
dùng động từ này, trong khi Mátthêu và Luca, có lẽ muốn sửa lại bản Máccô, chỉ
dùng một động từ nhẹ nhàng hơn: Thần Khí “dẫn”[3] vào hoang địa. J.R.
Donahue – D.J. Harrington cho rằng động từ này cho thấy quyền năng của Thần
Khí.[4] R.France lý giải rằng cách
dùng này nhằm nhấn mạnh sự xung đột sẽ đến, điều được khai mạc trong hoang địa.
Ông cũng cho rằng nó cũng tăng cường ý niệm của Cựu Ước về Thần Khí Thiên Chúa
như là một sức lực quyền năng (cf. Mk 3,8).[5] A.Y. Collins – H.W.
Attridge cho rằng hành động này của Thần Khí gợi nhớ những đoạn văn trong sách
các Vua quyển 1 và 2 cũng như trong sách ngôn sứ Êdekiel, theo đó Thần Khí
Thiên Chúa dẫn người ngôn sứ từ chỗ này qua chỗ kia một cách nhiệm mầu.[6]
“Nơi hoang vắng” thường đánh dấu những
khoảnh khắc đặc biệt của Đức Giêsu. Đó là nơi Đức Giêsu chịu cám dỗ bốn mươi đêm
ngày sau khi chịu phép rửa và trước khi đi rao giảng (Mc 1,12). Đó cũng là nơi nhiều
lần Đức Giêsu gặp gỡ Chúa Cha trong những giờ cầu nguyện (Mc 1,35); Là nơi Người
khuyên các môn đệ lui vào và nghỉ ngơi (Mc 6,31.32); Cũng là nơi Đức Giêsu gặp gỡ,
rao giảng cho dân chúng và cho họ ăn (Mc 6,35; Mt 14,13.15; 15,33); là nơi mà nhiều
người từ khắp các phương hướng đến với Đức Giêsu khi Người không thể vào thành vì
lời rao giảng của người phong hủi được chữa lành (Mc 1,45). “Sa mạc” kết hợp với
con số 40 ngày quả thật là một nơi chốn đầy tính biểu tượng. “Sa mạc” tượng trưng
cho nơi của sự giải thoát của Chúa, nơi của sự thử thách mang tính cánh chung, nhưng
cũng là chốn dung thân của Satan và sự dữ, và nơi ở không mấy thân thiện của dã
thú.[7]
3.
Bốn mươi ngày:
Đây là khoảng thời gian Đức Giêsu lưu lại trong sa mạc. Trong khi Máccô và Luca
chỉ nói 40 ngày, Mátthêu thêm “40 đêm” (Lc 4,2; Mt 4,1). Con số 40 gợi nhớ rất nhiều
biến cố ý nghĩa trong truyền thống Cựu Ước. Trước hết, nó gợi nhớ đến thời gian
ông Môsê ăn chay trên núi Sinai (Xh 24,18; 34,28; Đnl 9,9.11.18;10,10). 40 năm là
thời gian dân Ísrael ăn Manna trước khi vào đất hứa Canaan (Xh 16,35). Thời gian
những thám tử đi dò thám đất Canaan cũng là 40 ngày (Ds 13,25). Đó cũng là thời
gian con cái Ísrael chịu đau khổ trong sa mạc vì sự bất trung của cha ông họ (Ds
14,33; 32,13). Đức Chúa dẫn dân Ísrael 40 năm trong sa mạc để làm cho họ khiêm nhường,
thử thách họ, xem họ có giữ điều răn của Người hay không (Đnl 8,2; 29,5; Gs
5,6). 40 ngày đêm cũng là số ngày đêm ngôn sứ Êlia đi đến núi Hôrép, trong cuộc
trốn chạy hoàng hậu Isabel (1 V 19,7-8). Như thế, con số 40 ngày (đêm) Đức Giêsu
ở trong sa mạc rất có thể gợi nhớ đến thời gian và lịch sử dân Chúa hành trình trong
sa mạc 40 năm. Họ chịu nhiều thử thách, cám dỗ và họ đã sa ngã.[8]
4.
Chịu cám dỗ bởi Satan: Cả Mátthêu và Luca đều dùng từ “quỷ” (diabolo), như là một cái tên cụ thể
cho Satan (Mt 4,1; Lc 4,2) trong khi Máccô dùng từ Satan. Trong Thánh Kinh, sự
“cám dỗ” bao gồm hoặc là thử thách (Đnl 8,2; cf. St 22,1-14) hoặc là cám dỗ bởi
quỷ (St 3,1-7). Thánh Kinh Cựu Ước ghi lại sự kiện quỷ (diabolo) hiện diện cùng
với các thiên thần trong một lần họp mặt và nó xin phép Đức Chúa cho nó được thử
thách ông Gióp (G 2,1-7). Satan cũng xuất hiện như người để kết án, hay đối thủ
(Dcr 3,1). Như thế, trong Cựu Ước Satan dường như là một thành phần của triều thần
Thiên Quốc. Nó có thể được phép thử thách mức độ trung thành của những người Chúa
chọn. Trong Tân Ước, nhân vật Satan cũng xuất hiện nhiều lần trong tư thế những
kẻ gây hại con người và chống đối Chúa. Nó được đồng hóa với “tướng của các quỷ”
(Mc 3,23.26); những kẻ cướp “lời được gieo” trong lòng người (Mc 4,15); hay những
kẻ dẫn các môn đệ đi sai đường (Mc 8,33).[9] Ngoài trình thuật về sự kiện
Đức Giêsu chịu cám dỗ được cả 3 tác giả Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại (Mc 1,12-13; Mt
4,1-11; Lc 4,1-13), Tân Ước còn ghi lại rất nhiều trình thuật liên quan đến Satan.
Satan là một trong những đối thủ, hay nói đúng hơn, là bại nhân của Đức Giêsu. Một
trong những loại phép lạ Đức Giêsu làm là các phép lạ trừ quỷ (Mc 1,23-28// Lc
4,31-36; Mt 1,22// Lc11,14; Mt 8,28-34// Mc 5,1-20// Lc 8,26-39; Mt 9,32-33; Mt
15,21-28// Mc 7,24-30; Mt 17,14-18// Mc 9,14-29; Lc 9,38-42;). Ngay sau khi Đức
Giêsu chịu Phép Rửa, Người liền chịu quỷ cám dỗ 40 ngày (đêm), nhưng quỷ đã thất
bại. Và phép lạ đầu tiên Người làm, được Máccô ghi lại, là một phép lạ trục xuất
quỷ (thần ô uế) khỏi một người bị quỷ ám (Mc 1,23-26), ngay trong hội đường Caphácnaoum.
Satan sẽ trở lại đối đầu với Đức Giêsu khi nó “đi vào lòng Giuđa Íscariốt (Lc
22,3) và ông đã bàn tính với các kinh và quan chức Do Thái để nộp Người. Satan cũng
len lỏi vào trong suy nghĩ của Phêrô, làm cho ông ngăn cản Đức Giêsu nói về cuộc
thương khó. Đức Giêsu đã khiển trách ông là: “Satan, lui lại đằng sau thầy” (Mc
8,32; Mt 16,23). Satan cũng xin Đức Giêsu cho nó được “sàng Phêrô như sàng lúa”
(Lc 22,31) và quả thực Phêrô đã sa ngã và chối Chúa. Sự xuất hiện của Satan ngay
từ lúc đầu như báo hiệu một cuộc chiến giữa Đức Giêsu và quỷ. Trong cuộc chiến này
Đức Giêsu đã chiến thắng hoàn toàn.
5.
“ở với thú hoang”: Trong Cựu Ước thú hoang liên kết với những thế lực
ác thần (Tv 22,11-21; Ed 34,5.8.25). Thú hoang trong bối cảnh này có thể hiểu là
Satan và các thế lực của nó. Sách Sáng Thế diễn tả một sự hài hòa giữa tất cả các
thú vật và con người trong vườn Êđen. Con người được giao cho trách nhiệm trông
coi, làm chủ muôn loài và không có một sự xung đột nào. Sự thù hận giữa con người
và thú vật được giải thích như là hậu quả của tội lỗi.[10] Khi con người bất tuân thánh
lệnh và phạm lỗi thì mối giao hòa này bị phá hủy. Thời cánh chung được nói đến trong
sách Isaia cũng diễn tả một cảnh tượng hài hòa tương tự như trong vườn Êđen: “Sói
nằm với chiên, dê non nằm với beo… trẻ em còn bú sữa thọc tay vào hang rắn lục…”
(Is 11,6-9). Hình ảnh Đức Giêsu ở giữa loài dã thú, theo R. Guelich, là hình ảnh
Ađam mới tái lập khung cảnh Vườn Êđen.[11] Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia
của thời cánh chung. Người sẽ thiết lập một trật tự hài hòa mới giữa mọi loài và
con người, một khi con người biết lắng nghe và làm theo lời Người dạy.
6.
“Các thiên sứ phục vụ Người”: Động từ “phục vụ” được chia ở thì vị
hoàn, diễn tả một hành động kéo dài (διηκόνουν).[12] Cách dùng của động từ này
có thể diễn tả sự đồng hành của các thiên sứ trong suốt 40 ngày chay tịnh của Đức
Giêsu. Hơn nữa, sự phục vụ của các thiên thần ở đây đối lại với sự thù ghét của
Satan và dã thú. Đức Giêsu dường như không cô đơn trong cuộc chiến của Người. Nếu
như sự bảo vệ của các thiên thần là đủ cho tất cả những ai “tìm nương tựa” nơi Chúa
như Tv 91,11-13 diễn tả thì Con Thiên Chúa còn được hỗ trợ nhiều hơn nữa. Nội dung
của việc phục vụ này không được cho biết. Có thể đó là những hỗ trợ về mặt tinh
thần. Thông thường động từ này diễn tả việc cung cấp, chuẩn bị thức ăn, thức uống,
giống như trường hợp của Êlia trong 1 V 19,4-8. Sự “phục vụ” cách liên tục của các
thiên thần này chỉ có trong bản văn của Máccô. Trình thuật về “cám dỗ” của Luca
được kết thúc bằng câu: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ
đợi thời cơ” (Lc 4,12), không có sự xuất hiện của các thiên sứ. Cuộc chiến giữa
Đức Giêsu và quỷ chưa kết thúc. Nó chỉ mới khởi đầu. Trong câu chuyện của Mátthêu,
thiên sứ chỉ đến sau khi quỷ đã bỏ đi (Mt 4,11).
7.
“Sau khi Gioan bị nộp”: Trạng từ thời gian “sau khi” cho thấy rõ là
hoạt động rao giảng của Đức Giêsu chỉ tiếp nối sau khi sứ mạng của người dọn đường
kết thúc. Điều đáng quan tâm ở đây là động từ “nộp” (παραδίδωμι). Động từ này nối kết cách chặt chẽ Giêsu với Gioan. Động từ
này chỉ dùng cho Gioan một lần nhưng lại dùng cho Đức Giêsu rất nhiều lần. Giuđa
Íscariốt được định nghĩa là “kẻ nộp Người” (Mc 3,19). Người cũng nói ám chỉ đến
Giuđa rằng: “Khốn cho kẻ nộp Con Người” (14,21) Đức Giêsu thông báo hai lần rằng
Người sẽ “bị nộp” vào tay người ta (9,31); rồi “vào tay các thượng tế và các luật
sĩ” (10,33). Và cuối cùng “Con Người bị nộp vào tay những người tội lỗi”, bởi chính
người môn đệ Giuđa Iscariốt (14,41). Nghĩa là, khi Máccô đề cập đến chi tiết Gioan
bị nộp không đơn giản chỉ để thông tin qua loa, nhưng là nói đến số phận một người
ngôn sứ bị nộp và bị giết bởi người đời. Đó là báo trước cho số phận “bị nộp” của
Đức Giêsu.[13]
Gioan dọn đường cho Chúa ngay cả trong cách thức ông bị nộp bởi vì hình ảnh ông
bị nộp cho thấy trước Đấng ông giới thiệu cũng sẽ bị nộp. Đức Giêsu bị nộp một cách
thê thảm hơn bằng chính nụ hôn của người môn đệ thân tín. Số phận bị nộp của Đức
Giêsu cũng là số phận của các môn đệ của Người và tất cả những tín hữu (Mc
13,9.11.12).
8.
“Vùng Galilê”: Đây là vùng đất quê hương của Đức Giêsu và của các môn
đệ.[14] Galilê thuộc miền Bắc của
nước Ísrael. Đây chính là vùng đất Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ và trải qua hầu hết thời
gian rao giảng của mình. Galilê thời Chúa Giêsu được chia làm hai vùng là Galilê
trên và Galilê dưới. Trong khi Galilê trên hầu hết là những vùng đồi núi khô cằn
thì Galilê dưới là vùng đất trù phú có nhiều đồng bằng thuận lợi cho việc trồng
trọt và chăn nuôi. Galilê có đại lộ Đông-Tây nổi tiếng, là đường giao thương buôn
bán qua lại giữa các vùng. Đặc biệt Galilê dưới có hai thành phố giàu có và nổi
tiếng Sêphoris và Tibêria. Đây là hai thành phố được Hêrôđê Antipa thành lập. Thành
phố Tibêria nằm ngay bên biển hồ Galilê. Chính vì thế mà biển hồ Galilê còn được
gọi là biển hồ Tibêria (Ga 6,1). Caphácnaoum nằm ngay bên bờ biển hồ Galilê. Bétsaiđa,
Nadarét, núi Tabo, Mácđala, Cana đều nằm trong vùng Galilê. Muốn đi từ Galilê lên
Jêrusalem người ta phải băng qua miền trung Samari. Tại sao Đức Giêsu lại bắt đầu
sứ vụ của Người tại Galilê và Galilê có phải là vùng đất của dân ngoại? là hai câu
hỏi mà các nhà chú giải vẫn còn nhiều tranh luận. Có thể Galilê là vùng đất của
dân ngoại nên Đức Giêsu dành nhiều thời gian tại đây để rao giảng Tin Vui. Hoặc
cũng có thể vì Đức Giêsu là người Nadarét nên Người quen thuộc Galilê hơn vùng kinh
thành Jêrusalem. Có một điều khá lạ lùng là Thánh Kinh chẳng có một tường thuật
nào ghi lại Người vào một thành phố lớn nào như Sêphoris hay Tiberia để rao giảng.
Người ưa thích miền quê, ven biển và miền núi, vùng dân ngoại ngoài Galilê. Jêrusalem
cũng chỉ là nơi Người trải qua cuộc Thương Khó và bị giết chết. Máccô nhắc đến
địa danh Galilê 11 lần. Đó là nơi Đức Giêsu chịu phép rửa (1,9); là nơi Đức Giêsu
khởi đầu sứ vụ rao giảng (1,14); là nơi Người chọn 4 môn đệ đầu tiên (1,16);
nơi mà tin tức về Người lan tỏa khắp vùng một cách nhanh chóng (1,28); nơi Người
tới lui để rao giảng trong các hội đường (1,39)… và cũng là điểm hẹn của Người
với các môn đệ sau khi Người Phục Sinh (14,28; 16,7). Động từ rao giảng cũng là
động từ nối kết Gioan Tẩy Giả với Đức Giêsu. Gioan xuất hiện, làm phép dìm
trong hoang địa và rao giảng một phép dìm của lòng hoán cải để được ơn tha tội
(Mc 1,4). Đức Giêsu cũng rao giảng nhưng nội dung rao giảng của Đức Giêsu là
“Tin Mừng của Chúa” chứ không phải là “phép rửa của lòng hoán cải”.[15] Động từ này cũng nối kết sứ vụ rao
giảng của Đức Giêsu với sứ vụ của các môn đệ. Người chọn nhóm Mười Hai với mục
đích là để họ ở với Người và Người sai họ đi rao giảng (Mc 3,14). Điều này chứng
tỏ rằng sứ vụ của Đức Giêsu có tính liên tục. Các tông đồ không chỉ rao giảng
thông điệp của Chúa Giêsu nhưng còn rao giảng về Đức Giêsu, nhất là Đức Giêsu
Phục Sinh.
9.
“Tin Vui của Chúa”: danh từ Tin Mừng, Tin Vui gợi nhớ đến lời giới thiệu của Máccô vào đầu
sách Tin Mừng của ông: Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (Mc 1,1). Tuy
vậy, Tin Mừng ở đây là Tin Mừng do Đức Giêsu rao giảng về Thiên Chúa. Còn Tin Mừng
trong Mc 1,1 là Tin Mừng về Đức Giêsu, đặc biệt là biến cố tử nạn và Phục Sinh.
Theo J. Marcus, Máccô rất ý thức sự khác nhau giữa Tin Mừng tiền-Phục Sinh và hậu-Phục
Sinh.[16] Danh xưng Thiên Chúa ở thuộc cách có
thể hiểu là “Tin Mừng về Thiên Chúa” (thuộc cách vị ngữ) cũng như Tin Mừng của
(từ) Thiên Chúa (thuộc cách chủ ngữ). Đức Giêsu đến và mang theo Tin Mừng của
Thiên Chúa. Sứ vụ của Người là làm cho Tin Vui này được lan rộng và được nhiều
người đón nhận. Danh ngữ “Tin Mừng của Chúa” chỉ xuất hiện trong tác phẩm của Máccô
và của thánh Phaolô (1Tx 2,2.9; 3,2; Rm 1,1; 15,6; 2Cr 11,7).[17]
10. “Thời kỳ đã tròn đầy”: Đây chính là nội dung Đức Giêsu rao
giảng. Nó gồm một câu chỉ bối cảnh, hay lý do, và một câu mệnh lệnh mang tính
chỉ dẫn là phải làm gì. Danh ngữ “thời kỳ đã mãn” được R. Guelich hiểu là “thời
gian ấn định đã đến”. Danh từ thời gian được dùng với mạo từ xác định rõ ràng
ám chỉ đến một khoảng thời gian xác định chứ không phải bất cứ thời gian nào.
Thời gian ở đây có thể là khoảng thời gian có bối cảnh mang tính ngôn sứ-khải
huyền ứng với sự mong chờ của ngôn sứ Đaniel: “Những ngày Xưa Cũ đến và công bố
cuộc xét xử ủng hộ cho dân thánh của Đấng Tối Cao và thời điểm đến khi họ thừa
hưởng Vương Quốc” (Đn 7,22); hay của Êdêkiel: “thời gian đã đến, ngày đã đến,
hãy để người mua không vui mừng và kẻ bán cũng không đau buồn vì sự phẫn nộ của
ta trút xuống trên đám đông” (Ed 7,12; 9,1). Động từ “πεπλήρωται” có ý
nghĩa mang tính lịch sử cứu độ của sự đang hoàn trọn hay sẽ xảy ra hơn là sự đã
hoàn thành.[18] Động từ được dùng ở thì hoàn thành
cho thấy hành động đã xảy ra và có ý nghĩa kéo dài. Thể bị động của động từ thường
được gọi là bị động thần linh, cho thấy rằng Chúa chính là chủ thể của hành động.
11. “Nước Thiên Chúa đã đến gần”: Tin Mừng của Thiên Chúa song song với
Nước của Thiên Chúa. Việc Nước Thiên Chúa đã đến gần có thể là một phần của thời
kỳ đã mãn, cũng có thể là một thông điệp Tin Mừng song song với “thời kỳ ấn định
đã mãn”. Danh từ “ἡ βασιλεία” trong tiếng Hy Lạp vừa có nghĩa là vương quốc (một nơi chốn,
một lãnh địa nơi mà đức vua cai trị), vừa có nghĩa là triều đại (thời gian cai
trị của một đức vua). Sự rao giảng về vương quốc (triều đại) Thiên Chúa chung
chung được chấp nhận như là trọng tâm của lời rao của Đức Giêsu. Thánh Kinh Cựu
Ước tuy không dùng khái niệm “nước Thiên Chúa”, nhưng ý niệm Đức Chúa là vua lại
được nhấn mạnh trong suốt lịch sử (Xh 15,11-13.18; Ds 23,21-23; Tv 2; 72; 89;
110; 145,11-12- những thánh vịnh hoàng gia; Tv 95-100 – có thể là Thánh Vịnh
đăng quang) cũng như vào thời kỳ lịch sử đã mãn khi sự cai trị của Thiên Chúa sẽ
được thiết lập (Mc 2,12-13; 4,5-7; Is 44,1-8; Dcr 9.9-11; Dn 2,44; 7, 11-14).[19] Như vậy, Đức Giêsu dường như lồng
ghép ý tưởng về một thời kỳ tươi sáng khi Thiên Chúa cai trị vào ý tưởng “Nước
Thiên Chúa hay triều đại Thiên Chúa” của Người. Đức Giêsu muốn ngụ ý rằng, tất
cả những điều các ngôn sứ Cựu Ước mong mỏi và nói trước, nay đã ứng nghiệm rồi.
Có một số những điểm chính liên quan đến “vương quốc” mà Đức Giêsu rao giảng:
(1) nó đã đến gần (Mc 1,15), ở giữa họ (Lc 17,21); (2) Đức Giêsu vẫn nói về nó
như là tương lai. Các môn đệ của Người phải cầu nguyện xin cho “triều đại Cha
mau đến” (Mt 6,10); Người sẽ không uống sản phẩm từ cây nho cho đến khi Vương
Quốc Chúa đến (Lc 22,18); (3) nó liên kết cách mật thiết với chính con người của
Đức Giêsu. Chính trong các hoạt động của Người mà người ta nhận ra sự hiện diện
của Nước Thiên Chúa (Mt 12,28=Lc 11,20). Chính bởi vì Đức Giêsu ở giữa họ mà Nước
Trời cũng ở giữa họ (Lc 17,21). Chính trong lời nói và hành động của Người mà
vương quốc đã đến.[20]
12. “Anh chị em hãy hoán cải và tin vào Tin Vui”: Mệnh lệnh, hay lời mời gọi của Đức Giêsu bao gồm
hai phần: “Hoán cải” và “tin vào Tin Vui”. Tin Vui, hay Tin Mừng này có thể
mang hai nghĩa. Đó vừa là thông điệp, lời nói và hành động của Đức Giêsu vừa là
chính con người của Đức Giêsu. Tin Mừng Nhất Lãm nhấn mạnh hơn về lời giảng và
hành động (chữa bệnh, trừ quỷ, các dấu lạ) của Đức Giêsu trong khi đó Tin Mừng
Gioan, dầu không bỏ qua những dấu lạ, nhưng nhấn mạnh đến niềm tin vào chính Đức
Giêsu (Ga 3,16.18.36; 6,35.40). Tin vào Tin Vui, nghĩa là tin vào những lời giảng
và hành động của Đức Giêsu hay tin vào chính con người của Đức Giêsu. Nó có thể
được xem như là một biểu hiện của “sự hoán cải”. Theo nghĩa này, tin vào Đức Giêsu
không chỉ có nghĩa là không nghi ngờ những gì Người nói và Người làm, cũng như
nghi ngờ về thân phận, căn tính của Người. Hành động “tin” phải có nghĩa tích cực
và năng động hơn. Đó chính là sự “tin theo”. Nghĩa là tin bằng hành động, tin bằng
cách rập khuôn đời mình theo Đức Giêsu. Động từ “μετανοέω” trong tiếng
Hy Lạp có nghĩa là sự thay đổi về trí lòng, hoán cải, hối hận, cảm thấy có lỗi…
nghĩa là nó không chỉ có nghĩa là một thái độ hối hận về lỗi lầm của mình và chừa
bỏ nó, nhưng hơn thế nữa là một sự thay đổi tận căn về trí và lòng theo gương mẫu
của Đức Giêsu. Nó có nghĩa là quay ngược lại khỏi lối sống trước đây của một
con người, được xác quyết bởi một loạt những cam kết, thực hành, quay về và chấp
nhận khởi đầu của thần linh qua tác nhân là Đức Giêsu.[21]
BÌNH LUẬN
Đoạn
Tin Mừng Chúa Nhất đầu tiên của Mùa Chay năm B được trích ra từ chương 1 của
Tin Mừng Máccô. Nó bao gồm hai đoạn có thể tách biệt: đoạn thứ nhất là đoạn nói
về sự kiện Đức Giêsu chịu cám dỗ. Và đoạn thứ hai nói về sự kiện Người đi rao
giảng Tin Mừng và công bố lời mời gọi đầu tiên và nền tảng cho mọi lời mời gọi:
“Thời kỳ đã hoàn tất và Nước Thiên Chúa đã đền gần: ‘Hãy hoán cải và Tin vào
Tin Mừng”. Nhìn vào biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ, độc giả thấy có sự nối kết với
sự kiện Đức Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Giođan nhờ vào hai yếu tố. Yếu tố thứ
nhất là trạng từ “ngay lập tức” (euthus - εὐθὺς). Nghĩa là
ngay lập tức sau khi Chịu Phép Rửa Đức Giêsu được dẫn vào nơi hoang địa. Yếu tố
nối kết thứ hai là Thần Khí. Thần Khí đã ngự xuống trên Đức Giêsu “tựa hình
chim bồ câu” sau khi Người lên khỏi sông Giođan. Thần Khí này cũng “đẩy” Đức Giêsu
vào hoang địa. Sự nối kết này cho phép độc giả nối kết lời xác nhận của “tiếng
từ trời”: “Con là con yêu của Ta, nơi Con, Ta hài lòng” với biến cố Đức Giêsu
chịu cám dỗ. Đức Giêsu làm cho Chúa Cha hài lòng bằng chính hành động chịu Phép
Rửa của Người và cũng bằng chính việc Người chịu cám dỗ và vượt qua. Việc Thần
Khí đẩy Đức Giêsu vào hoang địa cho thấy tác động và sức mạnh của Thần Khí trên
con người và sứ vụ của Đức Giêsu. Thần Khí vẫn đồng hành cùng Đức Giêsu trong
hành trình rao giảng của Người. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Satan trong bối cảnh
kẻ cám dỗ và người bị cám dỗ cho thấy cuộc chiến giữa Đức Giêsu, Đấng Mêsia đã
bắt đầu. Satan sẽ thất bại trong mọi nỗ lực cám dỗ của nó. Tin Mừng Mátthêu và
Luca diễn tả chi tiết hơn về cách thức cám dỗ của Satan (Mt 4,1-11; Lc 4,1-13).
Cuộc chiến ấy với ưu thế chiến thắng ấy vẫn tiếp tục trong sứ vụ rao giảng của
Đức Giêsu. Một trong những loại phép lạ trọng yếu mà Đức Giêsu làm là trục xuất
quỷ hay trừ quỷ. Có ít nhất bảy phép lạ trừ quỷ được ghi lại trong toàn bộ Tin
Mừng Nhất Lãm.[22] Trong tất
cả các phép lạ này quỷ đều khuất phục trước quyền năng của Đức Giêsu. Con số 40
ngày (đêm) cùng với nơi chốn hoang địa mà Đức Giêsu đã chịu cám dỗ làm cho độc
giả nhớ đến biến cố ông Môsê dẫn dân Ísrael suốt 40 năm trong hoang địa trước
khi vào đất hứa. Họ đã nhiều lần chịu thử thách và đã phản bội, kêu trách Chúa
và chạy theo thần khác. Đức Giêsu cũng trải qua 40 ngày (đêm) bị cám dỗ nhưng
Người đã chiến thắng. Người khởi đầu cho một dân mới chịu cám dỗ nhưng không phạm
tội. Việc Người ở giữa loài cầm thú cũng gợi nhớ đến hình ảnh vườn địa đàng
cũng như hình ảnh của thời cánh chung. Đức Giêsu là Ađam mới sẽ tái lập cảnh
hòa hợp giữa con người và muôn thú như thời sơ khai bình minh của lịch sử nhân
loại, khi con người chưa sa ngã. Cơn cám dỗ của Đức Giêsu chỉ kéo dài 40 ngày
nhưng nó tượng trưng cho 40 thử thách của dân Chúa xưa. Đây cũng là khoảng thời
gian gợi hứng cho Mùa Chay Thánh của phụng vụ Giáo Hội. 40 ngày chay thánh cũng
là thời gian tượng trưng và gợi nhớ đến thời gian của cả đời người. Sự hoán cải
và trung thành với Chúa trong suốt mùa Chay Thánh là sự hoán cải của cả đời người
chứ không phải kết thúc bởi Tam Nhật Vượt Qua. Bao lâu con người còn hành trình
trên dương gian thì bấy lâu con người còn phải hoán cải và trở về với Chúa là
cha của họ.
Sứ
vụ Đức Giêsu được tiếp nối ngay sau khi Gioan bị nộp như một tất yếu. Kẻ dọn đường
lui vào bóng tối và người được dọn đường bước ra ánh sáng. Cái cách mà Gioan
lui vào bóng tối (bị nộp) cũng kịp để lại dấu ấn rõ ràng cách thức mà ông chuẩn
bị cho Đấng Mêsia. Bởi lẽ, Đấng Mêsia rồi đây cũng sẽ bị nộp như là kẻ dọn đường.
Không những thế, những kẻ tin theo Đấng Mêsia cũng chịu một số phận tương tự.
Vùng đất mà Đức Giêsu rao giảng không đâu xa lạ chính
là vùng quê của Người. Galilê có thể có nhiều dân ngoại, hoặc là dân Do Thái
ngoại lai cần được nghe Tin Vui. Galilê cũng chính là điểm hẹn giữa Đức Giêsu
và các môn đệ. Sứ vụ của họ cũng sẽ phản ánh sứ vụ của Đức Giêsu và cũng phát
xuất từ Galilê.
Tin vui mà Đức Giêsu rao giảng là Tin
Vui của Thiên Chúa, hay Tin vui đến từ Thiên Chúa. Chúa chính là căn nguyên và
nguồn gốc của Tin Vui. Tin vui đó là gì? Thưa Tin Vui đó là thời kỳ cánh chung,
thời kỳ cứu độ đã và đang hoàn thành. Nước Chúa đã đến ngay bên và Đức Chúa sẽ
ngự trị và điều hành đất nước này. Đề tài Nước Thiên Chúa sẽ được Đức Giêsu
khai triển và giải thích trong suốt sứ vụ rao giảng của Người. Điều mà chúng ta
cần làm là : “Hoán cải và tin vào Tin Mừng”. Đây chính là thông điệp chính
yếu của Tin Mừng mà Đức Giêsu rao giảng. Hoán cải là quay ngược và hướng về
Thiên Chúa. Dó không chỉ là sự chừa bỏ tội lỗi, thói hư, tật xấu nhưng là để
cho trí và lòng mình được biến đổi nên giống trí lòng của Chúa. Đâu là ý muốn của
Chúa cho cuộc đời từng cá nhân. Một phần của hoán cải chính là tin vào Tin Mừng.
Đó là tin vào con người của Đức Giêsu và tin vào những lời Người nói, những việc
Người làm.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] 1 Sm 1,7; 14,24; 20,34; 28,20; 31,13; 2 Sm 1,12;
3,35; 12,16; 21-23; 1 V 13,8-22; 19,8; 21,9-12,27;1 Sbn 10,12; 2 Sbn 20,3; Er 8,21-23;
9,5; 10,6; Nkm 1,4; 9,1; Et 4,3.16; 9,31; Tv 35,13; 69,10; 102,4; 109,24; Is 58,1-14;
Gr 14,12; 36,6.9; Dnl 6,18; 9,3; 10,2-3; Ge 1,14; 2,12-15; Gn 3,5; Dcr 7,5; 8,19.
[2] Tiếng Anh: the Spirit
(ESV); tiếng Pháp: l’Esprit (TOB); tiếng Ý: lo Spirito (CEI).
[3]
Luca dùng động từ ἄγω (dẫn dắt),
Matthew dùng động từ
ἀνάγω (dẫn dắt)
[5] R.T. France, The Gospel of Mark: a commentary on the Greek text
(NIGTC; Grand Rapids 2002) 84-85.
[6] A.Y. Collins – H.W.
Attridge, Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 151.
[7] R.A. Guelich, Mark
1-8:26 (WBC 34A; Dallas 2002) 38.
[8] J.D. Barry et al., Faithlife Study Bible (Bellingham
2012, 2016) Mk 1:13.
[9] J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark, 66.
[10] R.A. Guelich, Mark
1-8:26, 38.
[11] R.A. Guelich, Mark
1-8:26, 40.
[12] Bản dịch tiếng Anh, Ý,
Pháp đều diễn tả ý nghĩa kéo dài của hành động này: “the angels were
ministering to him” (ESV); “les angels servaient” (TOB); “gli angeli lo
servivano” (CEI). Bản dịch Việt Ngữ không cho thấy sự kéo dài này: “có các
thiên sứ hầu hạ Người” (CGKPV).
[13] J.R. Edwards, The
Gospel According to Mark (PNTC; Grand Rapids – Leicester 2002) 44.
[15] A.Y. Collins – H.W.
Attridge cho rằng câu 14: Chúa Giê-su rao giảng Tin Mừng của Chúa song song với
câu 4: Gioan rao giảng phép rửa của lòng sám hối [A.Y. Collins – H.W.
Attridge, Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 153].
[16] J. Marcus, Mark 1-8. A New Translation with
Introduction and Commentary (AYBC; New Haven – London 2008) 172.
[18] R.A. Guelich, Mark
1-8:26, 43.
[19] J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark, 71.
[20] C.E.B Granfield, The
Gospel According to Saint Mark (CGTC; Cambridge 1959) 66-67.
[21] A.Y. Collins – H.W.
Attridge, Mark, 155.
[22] (1) Người đàn ông bị quỷ
ám trong Hội Đường Caphácnaoum (Mc 1,23-28// Lc 4,31-36); (2) Chữa lành một người
mù và quỷ câm (Mt 12,22// Lc 11,14); (3) Trừ quỷ tại Ghê-ra-xa (Mt 8,28-34// Mc
5,1-20// Lc 8,26-39); (4) Trừ quỷ câm (Mt 9,32-33); (5) Trừ quỷ cho con gái người
đàn bà xứ Canaan (Mt 15,21-28// Mc 7,24-30); (6) Chữa đứa bé bị kinh phong (Mt
17,14-18// Mc 9,14-29// Lc 9,38-42); (7) Chữa người phụ nữ bị quỷ làm cho còng
lưng suốt 18 năm (Lc 13,10-17).
No comments:
Post a Comment