CNI
MV B (Is 63, 16-17.19; 64,2-7; 1Cr 1,3-9; Mc 13,33-37)
Tin
Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mac-cô
33 “Anh
em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến.34 Cũng
như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình,
chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức.35 Vậy
anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối
hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng.36 Anh em phải canh thức,
kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ.37 Điều
Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!”
Bối
cảnh phụng vụ: Đoạn Tin Mừng hôm nay được chọn làm chủ đề
cho Chúa Nhật đầu tiên của năm phụng vụ. Chúng ta vừa kết thúc năm phụng vụ với
tuần 34 mùa thường niên năm A. Cũng nên nhớ lại, năm phụng vụ bắt đầu bằng Chúa
Nhật thứ nhất Mùa Vọng và kết thúc bằng Chúa Nhật thứ 34 mùa thường niên. Chúa
Nhật 34 thường niên luôn luôn là lễ trọng Mừng Chúa Giê-su Ki-tô vua vũ trụ. Tuy
vậy, đỉnh cao của năm phụng vụ không phải là ngày Mừng Lễ Chúa Ki-tô Vua, nhưng
là Tam Nhật Thánh: Mừng mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh của Chúa Giê-su. Chúa Nhật
này chúng ta lại tiếp tục chu kỳ phụng vụ 3 năm A, B và C. Năm Phụng Vụ năm nay
là năm B. Tin Mừng Chúa Nhật được chọn trong suốt năm nay là Tin Mừng theo
thánh Mac-cô (Năm A: Tin Mừng theo Thánh Matthew và năm C: Tin Mừng theo thánh
Luca).[1]
Phụng vụ Lời Chúa của Mùa Vọng luôn nhấn mạnh đến sự chờ mong. Mùa Vọng thường
là để chuẩn bị mừng đại Lễ Giáng Sinh, nên cái mong chờ gần của người tín hữu
có thể được xem là niềm mong chờ đại Lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế (Happy Birthday
to Jesus). Tuy nhiên, quan trọng hơn, Mùa Vọng cũng là thời gian chuẩn bị để
đón mừng Chúa Giê-su trở lại lần thứ hai “để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Hay
nói đúng hơn Mùa Vọng có mục đích kép: đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh và đón Chúa
trở lại lần thứ hai. Hai mục đích này không tách biệt nhau. Bởi lẽ, cùng là để
đón Chúa. Sự chuẩn để mừng sinh nhật Đấng Cứu Thế, không khác biệt với sự chuẩn
bị Mừng Chúa đến lần thứ hai. Đón Chúa vào nhà mình, đón Chúa vào lòng mình,
đón Chúa quang lâm đều cần cùng một sự chuẩn bị sẵn sàng như nhau. Chủ đề Lời
Chúa của những ngày đầu năm Phụng vụ tiếp nối chủ đề của những ngày cuối năm Phụng
vụ. Nó cũng nói về việc chờ đợi, và sẵn sàng luôn luôn.
Bối
cảnh đoạn Tin Mừng: Đoạn Tin Mừng này là đoạn cuối cùng trong
những bài giảng về thời cánh chung của Tin Mừng theo thánh Mac-cô. Cũng như các
Tin Mừng Nhất Lãm khác (Luca và Matthew), Tin Mừng Mac-cô cũng kết thúc những
bài giảng của Chúa Giê-su bằng những bài giảng về thời cánh chung. Hay nói đúng
hơn, Matthew, và Luca, là những Tin Mừng được soạn sau (theo sự đồng thuận của
nhiều tác giả theo thuyết hai nguồn văn), nên thường theo mẫu thức của Tin Mừng
Mác-cô. Tuy Matthew thêm khá nhiều dụ ngôn khác, ông vẫn lấy lại nhiều tư liệu
tương tự như Mac-cô. Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật I Mùa Vọng năm B (Mc 13,33-37)
cũng được Matthew (Mt 25,13-14) lấy lại phần đầu, nhưng phần sau được thay bằng
dụ ngôn những talanton. Matthew kết thúc loạt bài giảng về thời cánh chung bằng
dụ ngôn “chiên và dê” (hay cuộc phán xét) (Mt 25, 31-46), trong khi đó Mac-cô kết
thúc nó bằng lời mời gọi “hãy tỉnh thức” (Mc 13, 33-37). Đây có thể là đỉnh cao
giáo huấn về thời cánh chung của Chúa Giê-su theo Mac-cô, hay là lời đúc kết
cho các bài giảng về thời sau hết.
Một
vài điểm chú giải:
1. Phải
ý thức, để ý (βλέπω): Động từ này “blepo” trong tiếng
Hy Lạp có nghĩa chính yếu là nhìn, xem, nhưng trong bối cảnh này nó được dùng ở
thể mệnh lệnh với nghĩa cảnh báo: hãy coi chừng, hãy cảnh giác. Nói theo ngôn
ngữ bình dân là: “hãy liệu hồn”. Trong tất cả các tác giả Sách Tin Mừng, Mác-cô
là tác giả sử dụng nhiều nhất động từ này ở mệnh lệnh cách, ngôi thứ hai số nhiều
(các anh hãy nhìn, hay là các anh hãy coi chừng). Mác-cô dùng tất cả tám lần (Mc
4,24; 8,15.18; 12,38; 13,5.9.23.33) trong khi đó Matthew (Mt 11,4; 13,17;
24,2.4) và Luca (Lc 8,18; 10,23; 10,24; 21,8) cùng dùng bốn lần. Vì lẽ đó, đây
có thể được xem là động từ đặc trưng của Mác-cô. Trong tám lần xuất hiện trong
Tin Mừng Mác-cô, thì có đến bảy lần động từ này được dùng dưới dạng mệnh lệnh
cách mang tính cảnh báo cao độ. Trong khi đó, Matthew dùng bốn lần thì chỉ có một
lần ở dạng mệnh lệnh cách. Luca thì khá hơn khi sử dụng hai lần động từ này ở mệnh
lệnh cách. Thật ngạc nhiên! Không biêt sao mà Chúa Giê-su của Mác-cô lại sử dụng
nhiều lời cảnh báo “hãy coi chừng” như vậy. Trong bảy lần cảnh báo “hãy coi chừng”
thì chương 13 chiếm đến bốn lần. Nghĩa là trong bài giảng về thời cánh chung, lời
cảnh báo này trở nên khẩn thiết đến dồn dập. Khi đọc chương 13 người ta cứ nghe
nhắc đi nhắc lại như điệp khúc: “hãy đề cao cảnh giác”, “hãy cảnh giác đề cao”,
“hãy hết sức coi chừng” và “hãy coi chừng hết sức” … chúng ta hãy thử lược lại
những cảnh báo đi theo động từ này trong Tin Mừng Mac-cô. Thứ nhất, “hãy hết sức
để ý đến điều mà anh em nghe, vì với mức độ anh dùng, nó sẽ được đong lại cho
anh và còn được thêm nhiều hơn cho anh” (Mc 4,24). Thứ hai, Đức Giê-su dặn các
môn đệ là “hãy hết sức coi chừng, ý tứ đến men Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê” (Mc
8,15). Thứ ba, Đức Giê-su lại cảnh báo các môn đệ về nhóm lãnh đạo khác, nhóm
kinh sư: “hãy hết sức coi chừng các kinh sư, những kẻ thích dạo bộ vòng vòng với
bộ áo dài thích được chào hỏi nơi chợ búa” (Mc 12,38). Thứ tư, “hãy cảnh giác,
để không ai dẫn anh em lạc đường” (Mc 13,5). Thứ năm, “hãy lưu tâm vì họ sẽ nộp
anh em cho các hội đồng và anh em sẽ bị đánh đập trong các hội đường” (Mc
13,9). Thứ sáu, hãy cảnh giác trước những ki-tô giả, ngôn sứ giả, những kẻ làm những
dấu lã và dẫn các môn đệ lạc đường (Mc 13,23). Và cuối cùng, chính là trong đoạn
Tin Mừng này, “hãy hết sức coi chừng vì anh em không biết khi nào thời gian ấn
định sẽ đến” (Mc 13,33). Đây là lời cảnh báo hết sức quan trọng trong Tin Mừng
Mac-cô nói chung và đặc biệt trong trình thuật về cánh chung.
2. Phải
tỉnh thức (ἀγρυπνέω, γρηγορέω): Mệnh lệnh “hãy tỉnh thức” (hãy
canh thức) được lặp lại bốn lần trong đoạn văn chỉ vọn vẹn năm câu. Đó cũng
không phải là một nhịp độ bình thường. Do vậy, “hãy tỉnh thức” cũng là một mệnh
lệnh hết sức khẩn thiết và dồn dập. Mệnh lệnh này đóng khung đoạn văn này.
Nghĩa là đoạn văn bắt đầu bằng câu có mệnh lệnh này (Mc 13,33) và kết thúc cũng
bằng chính mệnh lệnh ấy (13,37). Cấu trúc này thường được gọi là cấu trúc
incluso. Có thể thấy chủ đề nổi bật nhất của đoạn Tin Mừng này là mệnh lệnh
“hãy tỉnh thức”. Mệnh lệnh này được lặp lại bốn lần bởi hai động từ khác nhau “ἀγρυπνέω”
và “γρηγορέω” có nghĩa tương tự. Động từ “ἀγρυπνέω” được sử dụng duy nhất một lần
trong đoạn văn này, trong khi đó ba lần còn lại thuộc về động từ “γρηγορέω”. Động
từ “ἀγρυπνέω” được các bản dịch Việt Ngữ (CGKPV), bản dịch Anh Ngữ (ESV), bản dịch
Pháp Ngữ (TOB), và bản dịch Ý Ngữ (CEI), đồng loạt hiểu là “hãy tỉnh thức”
(không ngủ). Thật ra, động từ này được đặt ngay sau động từ “hãy coi chừng” (βλέπω
13,33), và nó cũng có nghĩa là “hãy coi chừng”. Có thể nó dùng để tăng thêm mệnh
lệnh của động từ (βλέπω), bởi vì cùng với động từ blepo nó làm thành một mệnh lệnh
kép. Nhiều bản viết tay khác như là א
C L W[2] và
nhiều bản viết tay muộn hơn có thêm mệnh lệnh “hãy cầu nguyện” vào ngay sau hai
mệnh lệnh này. Nghĩa là, câu mở đầu của đoạn văn này thành “hãy coi chừng, hãy
tỉnh thức và hãy cầu nguyện” thay vì, “hãy coi chừng và hãy tỉnh thức”. J.
Donahue – D. Harrington cho rằng việc thêm vào mệnh lệnh cầu nguyện ở đây là do
ảnh hưởng bởi mệnh lệnh của Chúa Giê-su trong vườn Giết-sê-ma-ni (Mc 14,38).[3]
Trong các tác giả Tân Ước, chỉ có Mác-cô và Luca (Lc 21,36) sử dụng động từ này
ở mệnh lệnh cách với cùng ý nghĩa. Mac-cô sử dụng thường xuyên hơn động từ “γρηγορέω”.
Động từ này được Mác-cô sử dụng tất cả bốn lần ở thể mệnh lệnh cách, ngôi thứ
hai số nhiều. Hai lần trong đoạn văn này (Mc 13,35.37) và hai lần còn lại dành
cho các môn đệ trong Vườn Cây Dầu (14,34.38). Rõ ràng, động từ này nối kết
trình thuật về cánh chung với trình thuật về cuộc thương khó. Trong cả hai trường
hợp, các môn đệ, hoặc rộng hơn là các tín hữu đều được mời gọi “hãy tỉnh thức”.
Động từ “γρηγορέω” đôi khi còn được dùng ẩn dụ với nghĩa là còn sống, đối lại với
việc đã chết như trong thứ thứ nhất Thexalonica (1Tx 5,10).
3. Vì
không biết khi nào là thời điểm đã được ấn định (ὁ
καιρός). Mệnh đề được bắt đầu bằng một liên từ chỉ lý do (γὰρ) nhằm lý giải cho
mệnh lệnh “phải coi chừng”, “phải canh thức”. Danh từ thời điểm được xác định bởi
mạo từ cho thấy nó diễn tả một thời điểm rõ ràng chứ không phải bất cứ loại thời
điểm nào. Ngoài lần này, Mác-cô còn sử dụng hai lần khác danh từ này với mạo từ
xác định (ho kairos, the time). Lần thứ nhất, ngay từ đầu Tin Mừng, Chúa Giê-su
cho biết là thời kỳ đã mãn, và Nước Trời đã đến gần bên (Mc 1,15). Và tiếp theo
sau đó là lời mời gọi hết sức long trọng: “hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đó
là thời điểm của Đức Giê-su, của Đấng Messiah, hay thời điểm Chúa hoàn thành lời
hứa ban Đấng Messiah cho dân Người. Một lần khác, trong dụ ngôn cây vả không ra
trái, danh từ này được dùng để chỉ về thời điểm mùa vả. Trong bối cảnh này, bối
cảnh mà Đức Giê-su tiền báo về việc “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự
trong mây trời mà đến” (Mc 13,26), “Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”
(Mc 13,28), thì “thời điểm ấn định, ho cairos, the time” rất có thể ám chỉ đến
thời điểm xuất hiện của Con Người.[4]
Thời điểm này là bí mật, nói theo kiểu các nhà nho là “thiên cơ bất khả lộ”. Chúa
Giê-su chốt hạ tính bí mật của nó: “Không ai có thể biết được, ngay cả các
thiên sứ trên trời hay Con Người. Chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13,32).
Điệp
khúc: “không ai biết”, “vì các anh không biết” (Mc 13,32.33.25) cho thấy lý do
rõ ràng mạnh mẽ của lời mời gọi “hãy coi chừng” và “hãy canh thức”. Vì không biết
lúc nào cho nên phải luôn luôn canh thức.
4. Như
một người đi phương xa (ἀπόδημος): Người này được định
nghĩa bằng tính từ apodemos, nghĩa là người ở xa quê hương, người đang ở trong
chuyến hành trình xa quê hương. Cũng cùng một cách diễn tả như Matthew (Mt 25,14)
trong dụ ngôn những talanton (những nén bạc). Tuy nhiên, Matthew dùng động từ
“di xa” ở dạng động từ thêm -ing, chứ không phải tính từ như Mac-cô. Thế nhưng,
ý định có lẽ cũng như nhau. Sự vắng mặt của chủ nhà để lại một không gian tự do
và trách nhiệm cho từng người đầy tớ. Mức độ trưởng thành của từng người đầy tớ
sẽ được kiểm chứng. Không có mặt ông chủ, người đầy tớ sẽ hành động một cách
chuyên nghiệm, hành động với lương tâm, với tình yêu và trách nhiệm chứ không
phải vì ông chủ đang nhìn. Một người đầy tớ trưởng thành và trách nhiệm là rất
đáng quý, nhưng những người đầy tớ đích thực như thế thường không có nhiều.
Trong đời sống tu trì hay trong công đời sống công sở, người ta thường gặp những
tu sĩ hay những nhân viên chỉ làm việc chăm chỉ, tích cực trước mặt bề trên hay
cấp trên. Vắng mặt bề trên, cấp trên, những bề dưới và thuộc cấp thiếu trưởng
thành và thiếu trách nhiệm, thường làm việc lơ là, gian dối và kém hiệu quả hơn.
Thiên Chúa dường như vắng mặt trong cuộc đời mỗi người tín hữu, Ngài trao lại
không gian hoạt động hoàn toàn cho họ và mong chờ họ hành động một cách trách
nhiệm, tín thành và trưởng thành. A. Collins – H. Attridge cho rằng người đàn
ông đi xa chính là Chúa Giê-su Phục Sinh và những người đầy tớ chính là cộng
đoàn môn đệ sau Phục Sinh.[5]
Cộng đoàn này có thể mở rộng ra cho tất cả tất cả những tín hữu qua mọi thời đại.
Liên
từ “như là” (ὡς) được đặt nối liền với lời cảnh báo “phải coi chừng”, “phải
canh thức” và lý do của mệnh lệnh ấy. Mệnh đề bắt đầu bằng liên từ này nhằm
minh họa, làm rõ, cho mệnh lệnh và lý do phía trước. Mệnh lệnh “hãy canh thức”
của Đức Giê-su sẽ được minh họa bằng mệnh lệnh tương tự của chủ nhà dành cho
người giữ cửa. Lý do “vì không biết khi nào thời điểm ấn định” được minh họa bằng
việc những người đầy tớ và người giữ cổng sẽ không biết lúc nào chủ nhà về.
5. Trao
quyền cho các đầy tớ của mình (δοὺς τοῖς δούλοις αὐτοῦ
τὴν ἐξουσίαν): khác với ông chủ trong dụ ngôn những talanton (Mt 25,14-30) hay dụ
ngôn mười nén bạc (Lc 19,11-27), ông chủ của Mác-cô không trao talanton hay những
nén bạc, cái mà ông trao cho họ là quyền, mỗi người theo công việc của mình. Danh
từ quyền (ἐξουσίαν), với chức năng túc từ trực tiếp, được Mác-cô sử dụng bảy lần
(Mc 1,22.27; 2,10; 3,15; 6,7; 11,28; 13,34). Bốn lần được dùng để diễn tả quyền
của Đức Giê-su: người ta ngạc nhiên vì Đức Giê-su giảng dạy như một đấng có uy quyền
(Mc 1,22.27), Đức Giê-su xác nhận rằng Con Người có quyền tha tội (Mc 2,10), Đức
Giê-su bị chất vấn về quyền thanh tẩy đền thờ (Mc 11,28). Hai lần quyền này được
Đức Giê-su trao cho các môn đệ: Nhóm Mười Hai được chỉ định và sai đi rao giảng,
có quyền trừ quỷ (Mc 3,15; 6,7). Như thế, các người đầy tớ được trao quyền ở
trong bối cảnh này có thể liên quan đến các môn đệ, hay cộng đoàn của Mác-cô,
hay rộng hơn là tất cả các độc giả qua mọi thời đại.[6] A.
Collins – H. Attridge cho rằng hình ảnh người giữ cửa cũng ám chỉ đến một hình ảnh
khác. Chức năng của người giữ cửa là bảo vệ tài sản của chủ nhà. Họ còn cho rằng
“nhiệm vụ” được giao ở đây rất có thể ứng với những cảnh báo coi chừng các ngôn
sứ và messiah giả đã đề cập trước trong các câu 5b-6 và 21-23, nơi mà cảnh báo
“hãy coi chừng”, cùng với mệnh lệnh “hãy canh thức” trong câu 34 đồng thời xảy ra.[7]
Tuy nhiên, công việc, phận vụ ở đây có thể ám chỉ đến bất cứ phận vụ nào thường
ngày của người đầy tớ. Đó cũng là phận vụ đức tin của các tín hữu đối với Chúa
và với tha nhân. Ông chủ, Chúa đã trao toàn quyền xử lý công việc cho từng con
dân của Chúa. Họ phải dùng tất cả những tài năng Chúa ban hết khả năng của mình
để biểu tỏ tình yêu với Chúa và tha nhân hay là qua tha nhân.
6. Chập
tối
(ἢ ὀψὲ) … nữa đêm (ἢ μεσονύκτιον) … gà gáy (ἢ ἀλεκτοροφωνίας) … tảng
sáng (ἢ πρωι) … thình lình (ἐξαίφνης). Bốn loại thời gian khác nhau
được đề cập trong câu này rất có thể ám chỉ đến bốn canh của một đêm theo cách phân
chia của người Rô-ma. Mỗi canh kéo dài khoảng ba tiếng đồng hồ.[8] Tất
cả các thời điểm được nhắc đến là cách nói bao quát. Tác giả dụ ngôn muốn nói rằng,
tất cả khoảnh khắc của một đêm. Từ khoảnh khắc bình thường là lúc chập tối cho
đến khoảnh khắc bất thường nhất là lúc gà gáy. Người giữ cửa phải canh thức suốt,
không được lơ là một khoảnh khắc nào. Danh từ “canh” (φυλακή) trong Hy Ngữ, cũng
có nghĩa là canh gác, canh chừng, hay nhà tù, là nơi người ta cũng nhốt và canh
chừng các tù nhân. Danh từ tiếng gà gáy (ἢ ἀλεκτοροφωνίας) được ghép bởi danh từ
“con gà trống” (ἀλέκτωρ) và danh từ “tiếng gọi” (φωνῆς). Con gà kêu, con gà gáy
gợi nhớ đến trình thuật về cuộc thương khó trong đó sự kiện gà gáy được nhắc đến
hai lần (Mc 14,30.72). Lần thứ nhất là lời cảnh báo hết sức nghiêm túc của Đức Giê-su
đối với Phê-rô. Lời cảnh báo được bắt đầu bằng từ Amen: “quả thật, thầy nói với
anh, ngay đêm nay, trước khi gà gày lần thứ ba, anh đã chối thầy đến ba lần” (Mc
14,30). Và lần thứ hai, chính là lúc lời cảnh báo của Đức Giê-su ứng nghiệm (Mc
14,72). Phê-rô đã quá tự tin vào sức riêng của mình. Ông đã khẳng định rằng: dù
tất cả có bỏ thầy thì ông cũng không bỏ thầy (Mc 14,29), và dù có phải chết ông
cũng không chối thầy mình (Mc 14,31). Đó là lời khẳng định kép. Nó đóng khung lời
cảnh báo của Đức Giê-su. Không ai có thể tin rằng, những lời khẳng định ấy lại bị
bẻ gãy tan tành như thế. Có lẽ, chính Phê-rô cũng không thể tin nổi. Tuy nhiên,
nó đã xảy ra như Đức Giê-su cảnh báo.
7. Đang
ngủ
(καθεύδοντας): Động từ ngủ “καθεύδω” được ở thể động từ thêm -ing[9] (καθεύδοντας)
làm túc từ cho động từ tìm thấy, phát hiện ra (εὑρίσκω), được sử dụng nhiều nhất
trong Tin Mừng Mac-cô, (ba lần: 13,36; 14,37.40), so với Matthew (hai lần: 26,40.43).
Luca và Gioan không có cách dùng này. Ngoài dụ ngôn này ra, Mác-cô dùng hai lần
khác nữa, đều để diễn tả Chúa Giê-su và các môn đệ trong trình thuật về cuộc thương
khó. Cấu trúc ý chang là: một ai đó tìm ra một ai đó đang ngủ. Trong dụ ngôn này:
chủ nhà tìm thấy các anh (đại từ ngôi thứ hai số nhiều) đang ngủ. Chủ nhà có thể
là Chúa Giê-su, hoặc là Thiên Chúa, và các anh, rất có thể là các môn đệ, hay
những người đang nghe Chúa Giê-su giảng, và thậm chí tất cả những ai đọc Tin Mừng.
Trong bối cảnh cuộc thương khó, Chúa Giê-su tìm thấy các Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan
đang ngủ. Nói thế không có nghĩa là những môn đệ còn lại đều thức. Những môn đệ
còn lại chắc còn ngủ say hơn vì không bị Chúa Giê-su quấy rầy. Ba ông này được đem
đi xa hơn, gần Chúa Giê-su hơn mà vẫn bị phát hiện là “đang ngủ” đến ba lần chứ
không phải một lần (Mc 14,37.40.41). Ngoài cấu trúc Người tìm thấy các ông đang
ngủ thì Mac-cô còn thêm một lần nữa Chúa Giê-su khám phá ra họ vẫn đang ngủ qua
câu hỏi của Chúa Giê-su: “các anh vẫn ngủ sao?”. Hành động “ngủ” li bì của các
môn đệ cứ đi kèm với mệnh lệnh “hãy canh thức” (14,34.37) và “hãy canh thức và
cầu nguyện” (14,38) của Chúa Giê-su. Ngủ là một nhu cầu hết sức bình thường của
một con người. Ai cũng cần phải ngủ và Chúa Giê-su cũng từng ngủ trên thuyền (Mt
8,24; Mc 4,38). Tuy nhiên, ngủ khi được cảnh báo là phải tỉnh thức là một thái độ
lỳ lợm, sơ sài, sai sai sao ấy của những người theo Chúa.[10] Ngủ
khi có trách nhiệm phải thức như những người canh cổng, lính gác, bảo vệ… là
thiếu trách nhiệm, không hoàn thành nhiệm vụ. Chắc chắn động từ ngủ ơ đây không
chỉ có nghĩa về mặt thể lý nhưng là một giấc ngủ về mặt Đức tin. Ngủ cũng có
nghĩa là chết. Trong trình thuật về Lazaro, Chúa Giê-su nói rằng Lazaro đang ngủ,
ám chỉ đến cái chết của anh, nhưng các môn đệ lại tưởng là Thầy mình nói về giấc
ngủ tự nhiên (Ga 11,13). Thánh Phao-lô trong thư thứ nhất gửi tín hữu
Thesalonica cũng diễn tả cái chết bằng động từ ngủ (1Tx 4,13). Như thế, ngủ ám
chỉ đến cái chết, sự bất động về mặt đức tin. Nó đối ghịch lại với sự tỉnh thức,
một sự sống và năng động về mặt đức tin. Chúa Giê-su mong các môn đệ canh thức,
tỉnh ngủ nhưng các ông lại ngủ li bì. Vì lẽ đó, các ông đã gục ngã, chạy tán loạn,
khi Thầy bị bắt. Kẻ bỏ Thầy, kẻ bán Thầy, kẻ chối thấy. Tất cả đều là hậu quả
trực tiếp của việc thiếu tỉnh thức.
8. Hết
thảy mọi người (πᾶσιν): như đã nói trên, Đức Giê-su cẩn
thận chốt lại mệnh lệnh “hãy canh thức” của mình và mở rộng đối tượng được mời
gọi phải thi hành mệnh lệnh này. Nó không còn dành cho bốn tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê,
Gioan và An-rê, những người đã hỏi riêng Chúa Giê-su (Mc 13,3).[11] Lời
Chúa Giê-su dành cho “tất cả.” “Tất cả” là lối diễn tả không biên giới. Trước
nhất là cho những người nghe trực tiếp Đức Giê-su giảng, tiếp đến là tất cả các
môn đệ, rồi cộng đoàn thánh Mac-cô, rồi cộng đoàn Ki-tô hữu thế kỷ thứ nhất, rồi
tất các các tín hữu qua mọi thời đại, rồi tất cả những ai có duyên nghe Tin Mừng.
“Tất cả” nói lên tính phổ quát và bình đẳng trong lời mời gọi của Tin Mừng Chúa
Giê-su.
Bình Luận:
Đoạn
Tin Mừng Mc 13,33-37 được lấy ra từ đoạn cuối cùng của chương 13 Tin Mừng Mác-cô.
Chương 13 Tin Mừng Mac-cô thường được các chuyên gia gọi là bài khảo luận về cánh
chung (vì nó nói về những sự cuối cùng), hay là Ô-liu khảo luận (vì nó diễn ra ở
núi Ô-liu), hoặc là Tiểu Khải Huyền (vì nó bao hàm những yếu tố mang tính khải
huyền).[12]
Mỗi tên gọi chỉ nói lên được một khía cạnh nào đó của bản văn mà thôi, hoặc là
một phần nội dung, hoặc là đặc tính văn chương, hoặc là vị trí nơi bài giảng được
trình bày. Người ta không thể nào chối từ hoàn toàn được ba tên gọi này. Tuy nhiên,
phải thừa nhận rằng bản văn tự nó vượt lên tất cả mọi tên gọi được gán cho nó. Ý
thức như vậy, đọc giả không bao giờ được phép đóng khung bản văn vào bất cứ một
chủ đề nào. Chỉ có thể nói rằng một chủ đề nào đó xem ra nổi bật, rõ hơn các chủ
đề còn lại. Trong đoạn văn này, dường như mệnh lệnh “hãy canh thức” (tỉnh thức)
là nổi trội hơn cả, bởi vì có đến 2 động từ được dùng để diễn tả mệnh lệnh này.
Và tần xuất xuất hiện của mệnh lệnh này cũng rất đáng chú ý: bốn lần trong một
bản văn chỉ có năm câu. Hơn nữa, mệnh lệnh “hãy canh thức” cũng là khung sườn của
bản văn vì nó xuất hiện ngay câu đầu (13,33) và lại xuất hiện ở câu cuối
(13,37). Khung sườn của bản văn có thể được phác họa như sau: “Hãy coi chừng, hãy
tỉnh thức vì” (13,33) … “để mà người giữ cổng tỉnh thức” (13,34) … “vì vậy, hãy
tỉnh thức vì” (13,35) … và “hãy tỉnh thức” (13,37). Năm câu văn đều có mệnh lệnh
“tỉnh thức”. Chỉ có câu ba mươi sáu là câu duy nhất đề cập đến điều ngược lại với
“tỉnh thức”. Đó là “tìm thấy đang ngủ”. Lý do chắc nịch, rõ ràng dành cho mệnh
lệnh dồn dập này là: “vì anh em không biết khi nào” (là giờ ấn định, là lúc chủ
nhà trở về). Lý do này nối kết với câu trước 13,32, để làm thành một điệp khúc
về lý do phải tỉnh thức: “vì anh em, không biết ngày nào giờ nào”. Lý do này còn
được Chúa Giê-su chốt lại chắc nịch nằng: “thậm chí các thiên sứ, ngay cả Người
Con cũng không, ngoại trừ Người Cha mà thôi”. Như vậy, là vô phương cho những
ai tìm cách muốn biết ngày tận thế, ngày Quang Lâm của con người. Lời mời gọi “tỉnh
thức” dồn dập ấy là lời mời gọi giúp cho con người ý thức trách nhiệm làm người
của mình mọi phút giây trong cuộc đời cho đến khi tắt thở. Sở dĩ phải mời gọi dồn
dập như vậy là vì có những con người “sống mà như đã chết” và không có nhiều người
“chết rồi nhưng vẫn như còn đang sống”. Có nghĩa là có những người sống mà không
thật sự đang sống. Sự hiện diện của họ không thêm hương vị gì cho cuộc đời này.
Chưa nói đến, có những con người toàn đem đến cho người khác, cho đời những vị
mặn chát, cay đắng, đớn đau. Ngược lại, có những con người chỉ sống hơn chục năm
trên dương gian, nhưng lại đem đến cho đời bao nhiêu hương vị cuộc sống. Một ví
dụ điển hình nhất là cậu Á Thánh Carlo Acutis (1991-2006), người Ý, vừa được
phong chân phước, tại Assisi, ngày 10 tháng 10 năm 2020. Thật là một ngày đẹp, đẹp
như cuộc đời của cậu bé vậy (sáu số 10 tròn trịa, 10-10-10-10-10-10, 20=10+10).
Dù sống chỉ vọn vẹn 15 năm thế nhưng cậu đã trở thành bổn mạng của giới trẻ, của
sinh viên, của các lập trình viên internet. Cậu đã trở thành một biểu tượng của
cách sống đời thường cách thánh thiện, thân thiện, sẻ chia, giản dị, đáng yêu của
tất cả mọi người trên toàn thế giới. Còn đối với mẹ cậu, cậu là đấng cứu độ của
bà (như bà đã chia sẽ nhiều lần). Cuộc sống gương mẫu, hương thơm thánh thiện của
cậu đã ướp mặn đời sống đạo nhạt nhẻo của chính bà. Bây giờ, bà trở thành sứ giả
Tin Mừng của chính con mình. Bà đã được nhiều người, nhiều tổ chức mời đến để
chia sẻ về cuộc đời cậu. Nguyễn Du từng nói rằng: “xác là thể phách, hồn là tinh
anh”. Cái tinh anh của linh hồn sẽ còn tồn tại mãi sau khi thể xác một người chết
đi khi người đó dám sống cho người khác cho đến chết, cho đến khi nhắm mắt lìa đời.
Lời cảnh báo, mệnh lệnh, lời gọi mời “hãy tỉnh thức”, hãy sống cho ra người của
Chúa Giê-su vẫn vang vọng hơn hai ngàn năm, cho tất cả mọi người, không trừ một
ai. Đó chắc chắn không chỉ là lời mời gọi của Mùa Vọng nhưng là lời mời gọi mỗi
ngày trong đời người. Hay nói cách khác, đời người là một Mùa Vọng. Từ lúc con
người sinh ra cho đến lúc họ trở về với Chúa là một Mùa Vọng. Mùa Vọng là Mùa
ta mong Chúa, nhưng lại là mùa Chúa đợi ta. Bởi lẽ, chỉ có ta mới xa Chúa và phải
trở về chứ Chúa thì vẫn luôn ở đó, mãi đợi chờ ta.
Joseph Phạm Duy Thạch SVD
[1]
Xem thêm Antôn Nguyễn Đức Khiết, “Lời Chúa trong
Phụng Vụ Thánh Lễ, phần B: ‘Chu Kỳ Các Bài Đọc’”
[Lời Chúa Trong Phụng Vụ Thánh Lễ
(simonhoadalat.com), truy cập ngày
23-11-2020].
[2] Nên hiểu thêm rằng, có khoảng hơn 4000 (bây giờ đã trên 5000 được tìm thấy) bản thảo Kinh Thánh Tân Ước được tìm thấy. Các chuyên gia Kinh Thánh, qua lịch sử lâu dài đã chọn ra một bản Thánh Kinh Tân Ước tiếng Hy Lạp. Đó là bản của Nestle-Aland. Riêng bản Nestle-Aland cũng được hiệu đính rất nhiều lần và bản mới nhất đã là NA28. Trong đó, ngoài phần bản văn chính, các chuyên gia cố gắng liệt kê những ghi chú thêm những khác biệt được nhiểu bản thảo khác đồng ý. Những ghi chú này được đặt ở phần dưới của sách Tân Ước Tiếng Hy Lạp.
[3]
J.R. Donahue
– D.J. Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2002) 377.
[4]
R. France
tin rằng cụm từ “ngày đó hay giờ đó” trong Mc 13,22 được thay bằng cụm từ “thời
gian ấn định” trong Mc 13,33, sự ám chỉ là giống nhau, về thời gian bí mật của
cuộc trở lại của Chúa Giê-su [R.T. France, The Gospel of Mark. A
Commentary on the Greek Text (NIGTC; Grand Rapids 2002) 544].
[5]
A.Y. Collins
– H.W. Attridge, Mark. A Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia;
Minneapolis 2007) 618.
[6]
C.A. Evans, Mark
8:27-16:20 (WBC 34B; Dallas 2002) 341; A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark,
618.
[7]
Y. Collins –
H.W. Attridge, Mark, 618.
[8]
R.T. France,
The Gospel of Mark. A Commentary on the Greek Text (NIGTC; Grand Rapids
2002) 546; C.A. Evans, Mark 8:27-16:20, 341.
[9]
Đây
là cách chia của động từ thường được dịch qua Việt ngữ như một hành động kéo dài:
đang.
[10]
“To be discovered sleeping is to be caught at having failed
to heed the master’s orders; it is dereliction of duty at the very least and
may also indicate disloyality. Embarrassingly, the disciples will be caught
sleeping while Jesus prays in the Garden of Gethsemane (14:32–39). Despite
being admonished to “watch and pray” (14:34, 38), the disciples three times
drift off to sleep (14:37, 40, 41). The narrative does not say so, but the
reader will wonder if the disciples’ pathetic behavior when Jesus is arrested
(14:43–52) is not due to their failure to watch and pray, as Jesus earlier had
enjoined them. Instead of being alert and watchful, they doze. When the danger
suddenly comes upon them, they panic and desert their master. Thus the
disciples provide a mindful lesson for Mark’s readers, a lesson that well
illustrates the concluding teaching and justifies fully the repeated
admonitions to be alert and watchful” [C.A. Evans, Mark 8:27-16:20, 341].
[11]
R.T. France,
The Gospel of Mark, 546.
[12]
C.A. Evans, Mark
8:27-16:20, 289.
No comments:
Post a Comment