CN II MV B (Is 40,1-5.9-11; 2Pr 3,8-14; Mc 1,1-8)
Bản văn tiếng Hy Lạp (ngôn ngữ gốc) |
Bản dịch Việt Ngữ[1] |
Ἀρχὴ τοῦ εὐαγγελίου Ἰησοῦ Χριστοῦ
[υἱοῦ θεοῦ]. 2 Καθὼς
γέγραπται ἐν τῷ Ἠσαΐᾳ τῷ προφήτῃ· ἰδοὺ ἀποστέλλω τὸν ἄγγελόν μου πρὸ προσώπου
σου, ὃς κατασκευάσει τὴν ὁδόν σου· 3 φωνὴ
βοῶντος ἐν τῇ ἐρήμῳ· ἑτοιμάσατε τὴν ὁδὸν κυρίου, εὐθείας ποιεῖτε τὰς τρίβους αὐτοῦ, 4 ἐγένετο
Ἰωάννης [ὁ] βαπτίζων ἐν τῇ ἐρήμῳ καὶ κηρύσσων βάπτισμα μετανοίας εἰς ἄφεσιν ἁμαρτιῶν. 5 καὶ
ἐξεπορεύετο πρὸς αὐτὸν πᾶσα ἡ Ἰουδαία χώρα καὶ οἱ Ἱεροσολυμῖται πάντες, καὶ ἐβαπτίζοντο
ὑπ᾽ αὐτοῦ ἐν τῷ Ἰορδάνῃ ποταμῷ ἐξομολογούμενοι τὰς ἁμαρτίας αὐτῶν. 6 καὶ
ἦν ὁ Ἰωάννης ἐνδεδυμένος τρίχας καμήλου καὶ ζώνην δερματίνην περὶ τὴν ὀσφὺν αὐτοῦ
καὶ ἐσθίων ἀκρίδας καὶ μέλι ἄγριον. 7 Καὶ
ἐκήρυσσεν λέγων· ἔρχεται ὁ ἰσχυρότερός μου ὀπίσω μου, οὗ οὐκ εἰμὶ ἱκανὸς κύψας
λῦσαι τὸν ἱμάντα τῶν ὑποδημάτων αὐτοῦ. 8 ἐγὼ
ἐβάπτισα ὑμᾶς ὕδατι, αὐτὸς δὲ βαπτίσει ὑμᾶς ἐν πνεύματι ἁγίῳ. (Mk.
1:1-8 BGT) |
1Sự bắt đầu của Tin
Vui của Chúa Ki-tô (Con Thiên Chúa). 2Theo như điều đã được
viết trong Isaia, vị ngôn sứ. “Chú ý! Ta sai thiên sứ của ta trước mặt bạn,
người sẽ chuẩn bị đường xá cho bạn.” 3 tiếng của người hô
trong sa mạc “Hãy chuẩn bị đường xá cho Đức Chúa, làm thẳng con đường của Người” 4 Gioan, người làm
phép dìm, đến trong hoang địa và rao giảng phép dìm của sự hoán cải để được
xóa bỏ tội lỗi. 5 và tất cả vùng
Giu-đê và Giê-ru-sa-lem và tất cả cư dân Giê-ru-sa-lem đến với ông và họ được
ông dìm trong sông Gio-đan, thú nhận tội lỗi của họ. 6 và ông Gioan mặc lông lạc đà và dây thắt lưng da
chung quanh eo của ông và ăn châu chấu và mật ong hoang dã. 7 và ông rao giảng rằng:
“Đấng quyền thế hơn tôi sẽ đến sau tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống để mở
quai dép cho Người 8 tôi thanh tẩy các
bạn bằng nước, nhưng Người thanh tẩy các bạn trong Thánh Thần.” |
Bối cảnh phụng vụ : Đoạn Tin Mừng này được chọn làm chủ đề cho Chúa
Nhật thứ hai Mùa Vọng năm B. Sau lời mời gọi dồn dập « hãy tỉnh thức »
trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, năm B, được trích ra từ đoạn cuối cùng trong
nhưng bài giảng về cánh chung của Chúa Giê-su (chương 13 của Tin Mừng theo
thánh Mác-cô), Chúa Nhật II Mùa Vọng phụng vụ quay về ngay chương đầu của Tin Mừng
Mac-cô. Bắt đầu Năm Phụng Vụ bằng một lời mời gọi của thời cánh chung ở cuối
Tin Mừng, rồi quay trở lại bằng lời mời gọi ngay từ đầu Tin Mừng, Phụng Vụ Mùa
Vọng như muốn nhắn gửi các tín hữu : « hãy tỉnh thức » bằng cách
rà soát lại và thực hiện tất cả những giá trị Tin Mừng mà Chúa Giê-su đã rao giảng.
Phụng vụ Chúa Nhật tuần này mời gọi các tín hữu «phải tỉnh thức bằng việc làm cụ
thể » qua lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả : « hãy chuẩn bị đường
xá, .. hãy sửa lối đi cho ngay thẳng ». Những người dân khắp nẻo nghe theo
lời mời gọi ấy bằng hành động cụ thể. Đó là họ đến xin được dìm trong nước, một
nghi thức biểu lộ lòng sám hối để được ơn tha thứ.
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng: Đoạn Tin Mừng 1,1-8 này được trích ra từ phần đầu tiên
của Tin Mừng theo thánh Mac-cô. Nó như là phần dẫn nhập, cũng như lời mời gọi tổng
quát cho toàn bộ Tin Mừng Mac-cô. Khác với hai Tin Mừng Nhất Lãm còn lại, Tin Mừng
Mac-cô hoàn toàn không nói gì đến trình thuật về Giáng Sinh, hay là thời thơ ấu,
cũng như gia phả của Chúa Giê-su. Cả Tin Mừng Matthew và Luca đều dành 3 chương
đầu tiên để nói về trình thuật Giáng Sinh. Mác-cô bắt đầu Tin Mừng của mình bằng
lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả. Và sứ vụ rao giảng của Gioan được nối kết với
sách Cựu Ước qua lời ngôn sứ Isaiah, và một số đoạn sách Cựu Ước khác. Và sứ vụ
của ông cũng nối kết với sứ vụ của Chúa Giê-su như một lời chuẩn bị. Mác-cô giới
thiệu khá tổng quát nhưng không kém phần rõ ràng, trực diện về cuốn sách do ông
soạn thảo: đây là Tin Vui của Giê-su Ki-tô. Đọc giả hiểu rõ là cái mà mình sẽ đọc
trong này toàn là Tin Vui, mà tác giả, tác nhân, cũng như đối đượng của Tin Vui
này chính là Đức Giê-su. Mà Đức Giê-su này không phải là một Giê-su bất kỳ
nhưng là Đấng Ki-tô mà dân Do Thái đang mong đợi. Ai thích Tin Vui thì đây quả
là một lời giới thiệu lý thú, đáng để lưu tâm. Ai mong đợi Đấng Ki-tô cũng sẽ bị
thu hút bởi lời giới thiệu này, và tìm đọc cho bằng được Tin Vui này.
Một số điểm chú giải:
1. Sự bắt đầu (ἀρχή, ῆς). Đây là danh từ chủ đạo trong danh ngữ giới thiệu về Tin Mừng của Mác-cô. Rõ
ràng, «sự bắt đầu của Tin Vui của Giê-su Ki-tô » không phải là một câu
hoàn chỉnh mà nó chỉ là một danh ngữ. Vì nó không phải là một câu và cũng không
phải là mệnh đề trạng ngữ, danh từ “sự bắt đầu” lại không có mạo từ, nên nhiều
chuyên gia đoán rằng đây chính là tiêu đề của sách Tin Mừng Mác-cô. Danh từ “arkhe”
co nhiều ý nghĩa như là: tối cao, quyền lực, sự bắt đầu, nguồn gốc, nền tảng,
những điều đầu tiên, những nguyên tắc căn bản. Trong ngữ cảnh này nghĩa phù hợp
nhất có thể là nghĩa về thời gian : «sự bắt đầu ». Vị trí cũng như ý
nghĩa của nó làm cho người ta không khỏi nghĩ đến “sự bắt đầu » trong St
1,1 và Ga 1,1. Tuy nhiên, nội dung sau đó thì hoàn toàn khác bởi nó không nói gì
đến sáng tạo cũng như nguồn gốc từ muôn thuở của ngôi Lời.
2. Tin vui, Tin Mừng (εὐαγγέλιον): Danh từ này trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là tin vui, tin tốt, tin mừng. Tin mừng Mac-cô là Tin Mừng dùng nhiều nhất danh từ này (8 lần :
1,1.14.15; 8,35; 10,29; 13,10 ; 14,9; 16,15) so với các Tin Mừng Nhất Lãm
khác (Matthew : 4 lần, Lucca không dùng lần nào). Ghi nhận về tần số xuất
hiện của danh từ này cho thấy nó có vẻ là khái niệm đặc trưng của Tin Mừng Mac-cô.
Chỉ có Mac-cô dùng danh từ này cách tuyệt đối. Matthew thường dùng đi kèm với
danh từ bổ trợ khác như là : « Tin Mừng của Vương Quốc »
(4,23 ; 9,35 ; 24,14). Tuy nhiên, Mac-cô không phải là tác giả Tân Ước
dùng nhiều nhất danh từ này. Danh từ này được dùng nhiều vô số kể trong các thư
của thánh Phao-lô. Điều này chứng tỏ rằng đây là thông điệp quan trọng trong thần
học của thánh Phao-lô. Tác giả Lagrange hiểu rằng « đó là sự công bố ơn cứu
độ trong Chúa Giê-su… sự rao truyền về ơn cứu độ trong lời nói và hành động của
Chúa Giê-su ».[2]
Nghĩa là nó không chỉ đơn thuần là một Tin Vui thường ngày, nhưng là Tin Vui cả
đời người, Tin Vui mang đến hạnh phúc trọn hảo không chỉ đời này mà cả đời sau
nữa.
3.
Của Giê-su: Danh từ Tin Vui được gắn với danh xưng Giê-su. Danh
xưng này trong Hy ngữ ở thuộc cách. Khi dùng ở thuộc cách thì danh từ Giê-su ở
đây thường có thể hiểu theo 3 nghĩa : 1. Thuộc cách chủ ngữ. Nghĩa là, cụm
từ đó có thể dịch là « Tin Vui của Giê-su » ý muốn nói rằng, Chúa
Giê-su chính là chủ nhân, tác giả, người rao giảng Tin Mừng ấy. 2. Thuộc cách vị
ngữ. Nghĩa là, cụm từ đó phải dịch là « Tin Vui về, liên quan đến, Chúa
Giê-su », ý muốn nói là Chúa Giê-su chính là đối thể, là nội dung của Tin
Vui được loan báo. Tin Vui đó là về Chúa Giê-su. 3. Cụm từ đó cũng có thể được
hiểu rằng Tin Mừng này được các môn đệ loan báo trong Chúa Giê-su, qua mệnh lệnh
của Ngài, với sự hiện diện và trợ giúp của Ngài.[3]
Như thế, văn phạm của Hy ngữ giúp người ta hiểu rộng hơn nhiều chứ không giới hạn
vào chỉ một nghĩa như bản dịch.
4. Ki-tô (Χριστός): Danh xưng này trong tiếng Do Thái là Messhiah, nghĩa là Đấng được xức dầu,
dùng như một danh hiệu thuộc hoàng gia. Chúa Giê-su được gọi là Messhiah nhiều
lần khác, như trong Mc 8,29, 14,61 và 15, 32 và được ám chỉ như là Đấng Meshiah
trong Mc 9,42, 12,35 và 13,21.[4] Lời
giới thiệu này cho thấy Mác-cô và các tín hữu trong cộng đoàn Mác-cô hiểu rằng
Đức Giê-su chính là Đấng Messhiah mà truyền thống Cựu Ước nói đến như là Đấng hằng
được mong đợi, sẽ mang đến một vương quốc bền vững mãi mãi. Truyền thống này được
dệt lên bởi lời hứa với vua Đa-vít trong sách Samuel quyển thứ hai chương 7 và
lời của ngôn sứ Isaiah với nhà Đa-vít là vua A-khát trong sách ngôn sứ Isaiah,
cũng chương 7. Sách Samuel quyển thứ
hai kể rằng, khi vua Đa-vít đã yên vị trong cung điện bằng gỗ bá hương còn Hòm
Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải. Đa-vít chạnh lòng và muốn xây cho Chúa một
ngôi nhà đẹp. Ít ra thì ngôi nhà ấy cũng bằng gỗ bá hương như cung điện của
ông. Tuy nhiên, Đức Chúa đã bảo Na-than nói với Đa-vít rằng: «Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi
đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi, một
người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quốc của nó được vững bền…nhà
của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta ; ngai
vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi » (2Sm 7,12-16). Và trong bối cảnh liên
quân A-ram và vương quốc miền bắc (Ít-ra-el) đang tiến đánh Giu-đa. Vua A-khát
và thần dân của vương quốc miền nam (Giu-đa), Isaiah được sai đến an ủi và
khích lệ A-khát đến hai lần. Lần thứ nhất, Đức Chúa bảo Isaiah nói với A-khát
là cứ bình tỉnh, chớ sờn lòng, chuyện ấy sẽ không xảy ra, “Nếu các ngươi không
vững tin, thì các ngươi sẽ không đứng vững» (Is 7,9). Lần thứ hai, Đức Chúa bảo
vua A-khát là hãy xin một dấu. Nhưng A-khát trả lời rằng : «Tôi sẽ không
xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa ». Isaiah bèn nói : « chính
Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu : « này đây một trinh nữ sẽ
thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Emmanuel» (Is 7,14). Mác-cô nhắc
đến tên gọi Ki-tô như muốn làm rõ ngay từ đầu rằng, căn bản đức Tin của cộng
đoàn của ông về Đức Giê-su. Ngài chính là Đấng Ki-tô, muôn dân hằng mong đợi.
5.
Con
Thiên Chúa: Trong bản Hy ngữ của
Nesltle Aland. Danh xưng này được đặt trong ngoặc vuông vì rằng danh xưng này
không có trong một số bản chép tay quan trọng như là Codex Sinaticus (thế kỷ thứ
4) nhưng lại có mặt trong một số bản chép tay quan trọng khác như là Alexandria
(Thế kỷ thứ 5), Sinaiticus sửa chữa, Codex Vaticanus (thế kỷ thứ 4). Các chuyên
gia không biết chắc rằng trong bản gốc của Tin Mừng Mác-cô có hay không danh hiệu
này tồn tại trong câu giới thiệu này. Thế nhưng, xem ra danh xưng này rất phù hợp
với câu tuyên xưng của viên đại đội trưởng ở đoạn cuối của chặng đường thập tự.
Khi Đức Giê-su chịu chết trên thập giá thì chỉ có Mac-cộ ghi lại khoảnh khắc,
có một người đại đội trưởng tuyên xưng rằng: “quả thực, ông này là Con Thiên
Chúa” (Mc 16,16). Ngoài ra, Mác-cô còn ghi lại mỗi lần các thần ô uế thấy Đức
Giê-su đều bái lạy và la lên: “Ông là Con Thiên Chúa” (Mc 3,11). Như thế, xem
ra hợp lý nếu cho rằng danh xưng “Con Thiên Chúa” cũng được đính kèm trong câu
giới thiệu này. Đức Giê-su không những là Đấng Meshiah mà còn là “Con Thiên
Chúa”. Đây là danh xưng mang tính ki-tô học rất cao. Căn tính của Đức Giê-su được
truy nguồn về bản tính thần linh của Ngài.
6.
Tiếng của người hô trong sa mạc: Tiếp theo là
đoạn trích được Mác-cô cho là lời của ngôn sứ Isaiah. Tuy nhiên đoạn trích này
được Mac-cô trích lược hổn hợp nhiều đoạn trong sách thánh Cựu Ước trong đó có
sách ngôn sứ Isaiah. Đoạn thứ nhất phải kể đến là Xh 23,20: “chú ý! Tôi sẽ gửi
thiên sứ của tôi trước ngươi nhằm bảo vệ ngươi dọc đường và mang ngươi đến nơi
ta tôi đã chuẩn bị”. Đoạn thứ hai: “Ta sẽ sai thiên sứ của ta, người sẽ dọn đường
trước mặt tôi” (Ml 3,1). Đoạn này được Mac-cô chuyển thành là « đường của
bạn » thay vì «đường trước mặt tôi », nhằm cụ thể hóa con đường được
dọn là đường của Chúa Giê-su. Và đoạn thứ 3: “một tiếng gọi của người gọi trong
sa mạc: ‘trong hoang địa, hãy dọn đường cho Chúa, làm thẳng trong sa mạc, đại lộ
của Đức Chúa.” (Is 40,3). Đây rất có thể cũng là một móc nối khác của Mác-cô đối
với Sách Thánh Cựu Ước. Sách ngôn sứ Isaiah rất quan trọng và phổ biến cho người
Do Thái, cho cộng đoàn Qumran và văn chương Ki-tô giáo thời kỳ sơ khai. Ngoài
Thánh Vịnh, sách Isaiah là bản chép tay được tìm thấy nhiều nhất trong các hang
núi đá vôi ở sa mạc Judea. Hình ảnh Gioan Tẩy Giả, sứ giả, kẻ dọn đường cho
Chúa cũng được sách Cựu Ước nói trước.
7.
Phép
dìm của lòng sám hối (βάπτισμα μετανοίας). Danh từ baptisma xuất phát từ động từ là baptizo, có
nghĩa là dìm xuống nước. Động từ này cũng được dùng để diễn tả sự thanh tẩy, tẩy
rửa có tính nghi thức trong Do Thái giáo. Ở trên địa điểm khảo cổ, thường được
gọi là Qumran, rất gần sông Gio-đan, các nhà khảo cổ khám phá ra một hồ để thực
hành nghi thức thanh tẩy và những người sống trong cộng đoàn này thực hiện nghi
thức này mỗi ngày. Đây là một bằng chứng khá rõ ràng cho việc thực hành các
nghi thức thanh tẩy của người Do Thái thời Gioan Tẩy Giả. Theo Torah (5 cuốn đầu
tiên của Sách Thánh Cựu Ước: Sáng thế, Xuất Hành, Dân số, Lê-vi, và Đệ Nhị Luật)
thì sự tiếp tục hiện diện của Chúa giữa dân Người tùy thuộc vào sự duy trì mức
độ thanh sạch của dân, tương ứng với sự thánh thiện của Ngài. Sách Lê-vi với biết
bao nhiêu quy luật liên quan đến thanh tẩy vì thế mà được soạn thảo. Khái niệm
về sự không thanh sạch trong Thánh Kinh Do Thài có thể được chia làm hai loại:
luân lý và nghi thức. Sự ô uế về mặt luân lý là một điều kiện lâu dài, nếu
không muốn nói là vĩnh viễn, là hậu quả của những hành vi tội lỗi như là những
hành vi tính dục bất hợp pháp (Lv 18 ; 20,10-26), giết người (Ds 35,33.34)
và thờ ngẫu tượng (Lv 19,4 ;20,1-5). Sự ô uế về mặt nghi thức, là một hậu
quả tạm thời của những điều kiện không thể tránh khỏi hay vô tội, như là kinh
nguyệt (Lv 15,19-24), hành vi tính dục hợp pháp (Lv 15,16-18) và chôn xác kẻ chết
(Ds 19).[5] Sự thanh tẩy mà Gioan rao giảng được giải
thích bằng một danh từ khác dùng ở thuộc cách (μετανοίας: của sự hoán cải), dường như nghiêng nhiều hơn về sự
không thanh sạch về luân lý. Hơn nữa, mục đích « của phép rửa hoán cải »
này được diễn tả một cách rõ ràng bằng một cụm giới từ: « để được ơn tha tội ».
Danh từ « của sự hoán cải » có thể được hiểu theo ba cách. Thứ nhất,
người chịu phép rửa ấy là người chứng tỏ mình có lòng hối cải. Họ đã có ý thức
hối cải trước đó và phép rửa như là một biểu hiện cụ thể. Thứ hai, phép rửa ấy
mang đến cho họ một quá trình hối cải cho đến khi họ nhận ơn tha thứ. Thứ ba,
những người đến đón nhận phép rửa ấy đã có lòng ao ước hoán cải, phép rửa như
là một biểu hiện cụ thể và sau phép rửa họ lại tiếp tục thay đổi, hoán cải
không ngừng. Hoán cải (metanoia) không chỉ là một đòi hỏi dành cho những người
tội lỗi, người không thanh sạch về luân lý, nhưng hơn hết là dành cho hết tất cả
mọi người, nhằm biến đổi đời mình, xoay chuyển đời mình theo thánh ý Chúa. Đây
chính là danh từ phát xuất từ động từ mà Đức Giê-su đã dùng trong lời rao giảng
đầu tiên của mình : « thời kỳ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần bên,
anh chị em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng”. (Mc 1,11). Hoán cải ở đây rõ ràng
là không chỉ giới hạn vào sự hối lỗi và chừa lỗi nhưng là biến đổi lòng mình,
trí mình, hành vi của mình theo cách suy cách nghĩ và cách hành động của Chúa. A.
Collins – H. Attridge ghi nhận những sự tương đồng giữa phép thanh tẩy của
Gioan và phép dìm mang tính nghi thức tại cộng đoàn Qumran. Cả hai đều bao hàm
sự rút lui vào sa mạc để đợi chờ Đức Chúa với sự đề cập đến Is 40,3. Cả hai
cùng liên kết với lối sống khổ hạnh. Cả hai cùng bao hàm việc dìm cả cơ thể vào
nước và cả hai cũng được thực hiện trong bối cảnh đợi chờ một cuộc viếng thăm
thần linh cuối cùng. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa những nghi thức dìm tại
Qumran và phép dìm của Gioan cũng rất lớn. Cộng đoàn tại Qumran thì tách biệt,
mang tính tư tế, trong khi Gioan hành động như là một ngôn sứ quyền năng trong
bối cảnh công cộng. Thành viên của cộng đoàn Qumran tự dìm mình mỗi ngày một lần
trong khi đó phép dìm của Gioan chỉ cử hành một lần cho mỗi người.[6] Một
số ghi nhận cùng thời để cho thấy nguồn gốc, phong tục, cũng như thực hành của
phép thanh tẩy của Do Thái cũng như Ki-tô giáo thời sơ khai.
8.
Sông
Gio-đan: Sông Gio-đan là con
sông nối liền từ miền Bắc qua Hồ Ga-li-lê rồi đến miền Nam di vào Biển Chết.
Gioan chọn sông Gio-đan làm phép dìm có thể hiểu được vì ở đó có nhiều nước và
không gian cho nhiều người. Tuy nhiên, sông Gio-đan cũng gợi nhớ đến biến cố lịch
sử quan trọng của dân Ít-ra-el: Giô-suê đã thay Mô-sê dẫn dân băng qua sông
Gio-đan để vào đất hứa. Sau này Đức Giê-su sẽ chịu phép rửa tại con sông này.
Và tên gọi Giê-su cũng chính là Gio-suê trong tiếng Do thái. Nói khác đi, Đức Giê-su
sẽ dẫn dân mới vượt qua sông Gio-đan để đi vào đất hứa mới. Hơn nữa, hình ảnh
« trong hoang mạc » cũng gợi nhớ đến biến cố xuất hành, biến cố mà
Chúa đã đồng hành với dân Người, dẫn dắt, chỉ dạy, ban Lề Luật cho họ.
« Hoang mạc » diễn tả niềm hy vọng cánh chung của một mẫu thức xuất
hành được tìm thấy trong sách Hô-sê (2,14 ; 12,9) và đặc biệt trong sách
ngôn sứ Isaiah (40,3-4 ; 41,18-19 ; 43,19-20 ; 48,20-21 ;
51,9-11).[7]
9.
Mặc
lông lạc đà và thắt lưng da: Cách
ăn mặc của Gioan gợi nhớ đến cách ăn mặc của ngôn sứ Ê-li-a được nói đến trong
Sách Các Vua quyển thứ hai. Dấu hiệu để vua A-kháp nhận ra ngôn sứ Ê-li-a,
chính là cách ăn mặc của Ê-li-a. « Đó là một người mặc áo lông, đóng khố
da. » (2 V 1,8). Ê-li-a là ngôn sứ Cựu Ước được truyền thống Do Thái tin rằng
sẽ đến trước và dọn đường cho Đấng Meshiah. Ông cũng là vị ngôn sứ xuất hiện
cùng với Mô-sê để đàm đạo với Đức Giê-su trong cuộc biến hình trên núi Tabo (Mc
9,4). Gioan Tẩy Giả được Đức Giê-su đồng hóa với ngôn sứ Ê-li-a khi các môn đệ
hỏi Đức Giê-su về việc theo các thầy dạy về Luật thì Ê-li-a phải đến trước (Mc
9,12-13; Mt 11,14). Một lần nữa, chúng ta thấy tác giả Sách Tin Mừng cố gắng
móc nối giữa dữ liệu Sách Thánh Do Thái và sách Tin Mừng. Hay nói đúng hơn, Mác-cô
cố gắng chứng minh rằng những gì liên quan đến Đức Giê-su đã được nói đến trong
sách Thánh Do Thái. Lần này là ngôn sứ lẫy lừng Ê-li-a, trở thành người dọn đường
cho Chúa. Tất cả dường như rất ăn khớp một cách có chủ ý trong cách diễn tả của
Mac-cô về Tin Vui của Đấng Meshiah.
10. “Tất cả quận Giu-đê và tất cả dân cư Giê-ru-sa-lem đều
khởi hành đến với ông”: Thực tế của dự liệu này cho thấy Gioan được những
người Do Thái chấp nhận như một ngôn sứ, như là một tác nhân thuộc thời cánh
chung của Chúa. Tầm ảnh hưởng của Gioan là rất lớn. Tất cả dân cư của Giu-đê và
Giê-ru-sa-lem đến với Gioan để được thanh tẩy. Điều đó chứng tỏ là phép rửa của
Gioan có gì khác so với những nghi thức thanh tẩy theo luật Do Thái. Hành động
của dân chúng trong Mc 1,5 chính là câu đáp trả cho lời giới thiệu về Gioan
trong Mc 1,4 ngay trước đó. Gioan rao giảng phép dìm, ứng với việc tất cả miền
Giu-đê và dân cư Giê-ru-sa-lem đến để được ông dìm. Mục đích của phép dìm là để
được ơn tha thứ tội lỗi ứng với việc dân chúng xưng thú tội lỗi của mình. Lối
diễn tả này có thể nói đến một sự xưng thú cá nhân hoặc là tập thể. Việc xưng
thú có thể là công khai, trước sự chứng kiến của mọi người hoặc là một cách
riêng tư chỉ có Gioan nghe thấy. Họ có thể xưng thú tội lỗi chung chung hoặc là
xưng một cách chi tiết cụ thể từng tội.[8]
11. Thanh tẩy bằng nước và thanh tẩy bằng Thánh Thần: Từ các câu 2 đến 4 Mác-cô giới thiệu cho các độc giả về
Gioan và sứ vụ cũng như tầm ảnh hưởng của ông. Ông được nói đến trong sách ngôn
sứ Isaiah. Đó không hẳn là lời ngôn sứ Isaiah nhưng là gom góp từ Sách Xuất Hành,
Sách ngôn sứ Malakhi và Sách ngôn sứ Isaiah như đã nói trên. Ông rao giảng phép
dìm của lòng hoán cải để được ơn tha thứ. Ông ăn mặc như ngôn sứ Isaiah. Ông làm
phép rửa trong hoang địa. Câu 7 và câu 8, Mác-cô giới thiệu lời rao giảng của
Gioan. Lời rao giảng của Gioan được cấu trúc theo kiểu so sánh hai hình ảnh
song song nhưng khác biệt nhau trong vị thế và phép rửa. Gioan rao giảng rằng:« có Đấng
quyền thế hơn tôi đến sau tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống để mở quai dép cho
Người ». Lời giới thiệu này không nhằm tôn vinh sự khiêm tốn của Gioan cho
bằng bộc lộ vị trí thật của Gioan cũng như địa vị thật của Đức Giê-su. Gioan, tuy
được dân chúng sùng bái và ùn ùn kéo đến để chịu phép dìm bởi tay ông, ông cũng
biết rằng mình chỉ là sứ giả. Ông ý thức rõ vai trò và vị thế của mình. Việc của
ông là làm cho mọi người nhận ra Đức Giê-su. Hình ảnh Gioan đối lại với Đấng
quyền thế hơn. Phép dìm bằng nước của ông đối lại với phép dìm trong Thánh Thần.
Ông là trung gian để dẫn đến một Đấng khác; phép rửa của ông cũng để dẫn đến một
phép rửa khác. Nước sông Gio-đan đối lại với Thánh Thần. Việc ban Thánh Thần diễn
tả một cách ẩn dụ như là một phép rửa biểu hiện hành vi cứu độ mang tính cánh
chung của Chúa được hứa trước qua các ngôn sứ. Isaiah nói đến việc « Thánh
Thần sẽ được tuôn đổ trên chúng ta và hoang mạc sẽ trở nên màu mở » (Is
32,15). Chúa nói rằng : « Ta sẽ đặt Thần Khí của ta trong các ngươi và
các ngươi sẽ sống » (Ed 37,14). Phép dìm bằng nước của Gioan vừa là dấu chỉ
của lòng sám hối, thể hiện bằng việc dân chúng xưng thú tội lỗi. Phép rửa trong
Thánh Thần của Đấng quyền thế hơn sẽ mang đến cho hối nhân được ơn tha thứ. Như
đã nói trên. Thánh Thần sẽ đem đến cho người ta ơn tha thứ và một sự biến đổi hoàn
toàn, một sức sống mới. Sức sống mới đó bao hàm cả việc chừa bỏ tội lỗi và sống
cho Chúa và sống cho người khác. Chừa bỏ tội lỗi, và đền bù những thiệt hại do
tội lỗi gây ra chỉ là một phần cơ bản. Phần chính yếu phải là « một quả
tim mới và một thần khí mới » biến « quả tim bằng đá thành quả tim bằng
thịt » (Ed 36,26-27). Tác động của phép rửa trong Thánh Thần hơn thế nữa còn
bao hàm cả sức sống và sứ mạng của Chúa Ki-tô như chính Ngài thừa nhận: « Thần
Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi để loan Tin Vui cho người nghèo.
Ngài sai tôi công bố tự do cho người bị giam cầm, phục hồi ánh sáng cho người mù,
trả tự do cho người bị áp bức » (Lc 4,18). Để chuẩn bị cho việc làm phép rửa
trong Thánh Thần, chính Đức Giê-su sau khi chịu phép rửa và vừa lên khỏi nước
thì Người thấy “trời mở ra và Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên Người »
(Mc 1,10). Đấng là phép rửa trong Thánh Thần chắc chắn phải là Đấng đầy Thánh
Thần.
Bình Luận:
Gioan là nhân vật không bao giờ thiếu được trong phụng vụ của Mùa Vọng. Tiếng
kêu mời của ông làm cho người ta không khỏi bồn chồn và háo hức. Thực ra, Gioan
không chỉ là nhân vật của Mùa Vọng mà thôi. Ông là nhân vật của cả đời người bởi lẽ Ông được đặt lên để hô vang lời kêu gọi cho toàn bộ mọi người, hãy lắng tai đón
nhận Tin Mừng mỗi ngày trong đời mình, chứ không chỉ Mùa Vọng. Bởi lẽ, những điều
Tin Mừng viết về ông vẫn có đó từ 2000 năm rồi. Điệp khúc: « hãy tỉnh hết
sức chú ý, hãy thức tỉnh, hãy canh thức » (cuối Tin Mừng Mac-cô) của Phụng
vụ Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng được tiếp nối bằng lời mời gọi quay trở lại từ đầu
Tin Mừng theo thánh Mác-cô. Đó có thể là một lời nhắc nhở, mách nước cho cách
thức mà người ta phải tỉnh thức. Hãy tỉnh thức nhưng tỉnh thức thế nào đây ?
Ừ thì tỉnh thức bằng cách tìm lại chính những giá trị Tin Mừng, Tin Vui. Những
giá trị Tin Vui đó bắt đầu từ đâu ? Thưa ! bắt đầu từ « khởi đầu
Tin Vui ». Tin Vui của ai vậy? Thưa ! Tin vui đó của Đức Giê-su. Ủa mà Đức Giê-su là ai vậy? Thưa!
Ngài chính là Đấng Ki-tô, Đấng Messiah, mà sách Thánh đã nói đến. Đấng sẽ đến và
sẽ thiết lập một vương quốc hòa bình, thịnh vượng và vững bền mãi mãi. Thế ngài
đến từ đâu vậy? Ngài xuất thân từ nhà Đa-vít. Nhà Đa-vít suy tàn cả ngàn năm rồi,
còn làm được gì nữa. Ah không! Đấng Ki-tô này không chỉ có nguồn gốc từ phàm nhân,
nguồn gốc của Ngài xa tận chân trời. Ngài là con Thiên Chúa. Ngài đến rồi, thì
chẳng phải thời của Ngài là thời cánh chung, thời viên mãn, thời cứu độ đó sao?
Chính thế. Một ngôn sứ thời cánh chung đã trở lại để dọn đường cho Ngài. Ai vậy?
Gioan Tẩy Giả chứ ai. Ông ta chính là hiện thân của ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ trường
sinh, lừng danh được cất về trời trong cơn gió lốc (2 V 2,11-12). Đức Chúa đã
thông báo rằng Ngài sẽ sai ngôn sứ Ê-li-a đến trước “ngày trọng đại và kinh khủng
của Đức Chúa” (Ml 4,5). Gioan đã đến, Giê-su cũng đã đến. Mọi sự diễn ra đúng
như mạc khải của Thánh Kinh. Vấn đề là, lòng tín hữu đang ở đâu, đang hướng về đâu?
Họ có thật sự mong nhớ, đợi trông Đấng Ki-tô mà họ tin tưởng và mang danh hay
không! Nếu có thì, “tất cả” thành viên của gia đình, giáo khu, nhà dòng, giáo xứ,
giáo phận, thành phố…, hãy đến với Gioan để nhận “phép rửa của lòng sám hối”, để
được ơn tha tội. Dĩ nhiên, nhiều tín hữu đã được nhận phép rửa, không phải phép
rửa bằng nước sông Gio-đan của Gioan nhưng là phép rửa trong Thánh Thần của chính
Đức Giê-su. Thế còn, “sự hoán cải”, sự thay đổi trí lòng, một cách triệt để
theo thánh ý Chúa thì sao? Thay đổi một trái tim bằng đá bằng một trái tim bằng
thịt thì sao? Thay đổi một trái tim thù hận và dửng dưng bằng một trái tim tha
thứ và biết yêu thương, biết rung cảm trước nỗi đau của đồng loại thì thế nào? Đường
của Đấng Ki-tô, đường thập tự có phải là đường tôi chọn, hay là tôi muốn Chúa
Ki-tô phải đi theo con đường nhung lụa của riêng tôi? Dĩ nhiên, Thập Giá không
phải là giá trị Tin Vui duy nhất mà những người mong đợi Đấng Cứu Thế phải theo
đuổi trên hành trình hoán cải của mình. Những giá trị Tin Vui ấy nhiều vô số kể.
Thánh Kinh chính là kho tàng chứa đựng những giá trị ấy. Mỗi tín hữu phải lưu tâm
để theo đuổi mỗi ngày chứ không chỉ một lần nào đó, một mùa nào đó, rồi thôi. Lời
Chúa phải là nhịp đập của con tim, là hơi thở của từng là phổi. Đức Giê-su, Chúa
Giê-su Hài Đồng không chỉ là Đấng Messiah của Mùa Vọng nhưng là Đấng Emmanuel,
Thiên Chúa ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Do vậy, sự tiếp xúc, làm bạn với
Ngài, hỏi Ngài xem mỗi ngày tôi phải làm gì là những hành động thường xuyên, là
lương thực, cơm ăn, nước uống, của những kẻ yêu Ngài và mong chờ Ngài.
Joseph Phạm Duy Thạch SVD
[1]
Bản Việt Ngữ được dịch sát
nghĩa hết sức có thể. Đôi khi câu từ rất
khó hiểu và không giống Tiếng Việt thông thường. Như vậy, để đọc giả hiểu rằng
việc dịch Tin Mừng từ tiếng Hy Lạp qua một ngôn ngữ hiện đại dù là tiếng Việt
hay bất cứ tiếng gì khác cũng rất khó để diển tả một cách rõ ràng ý nghĩa của nó.
Đôi khi dịch giả phải chọn một ý nghĩa và giải thích nào đó cho phù hợp với cấu
trúc và văn phạm của ngôn ngữ của mình.
[2]
R.G. Bratcher – E.A. Nida, A
Handbook on the Gospel of Mark (UBS Handbook Series; New York 1993) 2.
[3]
M. Zerwick, Biblical Greek.
Illustrated by examples (SPIB 114; Roma 72001) 13.
[4]
J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2002) 60.
[5]I. Werrett, “The Evolution of
Purity at Qumran”, Purity and the Forming of Religious Traditions in the
Ancient Mediterranean World and Ancient Judaism (ed. C. Frevel – C. Nihan) (Leiden
– Boston 2013) 494.
[6]
A.Y. Collins – H.W. Attridge,
Mark. A Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007)
140.
[7]
R.A. Guelich, Mark 1-8:26
(WBC 34A; Dallas 2002) 18.
[8]
A.Y. Collins – H.W. Attridge,
Mark, 142.
No comments:
Post a Comment