Saturday 21 November 2020

CÓ LUÔN HẢ? KHI NÀO VẬY? Chú Giải Tin Mừng CN XXXIV TN A

CN XXXIV TN A (Ed 34, 11-12. 15-17; 1 Cr 15, 20-26. 28; Mt 25, 31-46)

Phúc Âm: Mt 25, 31-46

"Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.

"Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta".

"Khi ấy người lành đáp lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?" Vua đáp lại: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta".

"Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: "Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!"

"Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: "Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?" Khi ấy Người đáp lại: "Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta". Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu".

Bối cảnh phụng vụ: Chúa Nhật cuối năm phụng vụ được dành để mừng kính trọng thể Chúa Giê-su Ki-tô Vua Vũ Trụ. Ngài là vị vua hết sức đặc biệt về phạm vi lãnh thổ, về số lượng công dân thuộc quyền Ngài và về phương cách cai trị. Phạm vi lãnh thổ của Ngài không giới hạn bởi quốc gia châu lục nào, nhưng là trên toàn thế giới. Quốc gia của Ngài không chỉ giới hạn ở dưới mặt đất nhưng còn là trên cõi trời cao. Dân chúng trong vương quốc của Ngài không bị giới hạn bởi mầu da, ngôn ngữ, chi tộc, giai cấp, địa vị xã hội, giàu hay nghèo, nhưng là tất cả mọi người. Ngài có quyền không những trên tất cả mọi người, nhưng còn trên các thiên sứ, sinh vật và cây cỏ dưới đất và trên cõi trời cao. Phương cách điều hành đất nước của ngài cũng rất khác. Tất cả đều được dựa trên tình yêu và mục đích là làm cho quốc gia đầy ắp tiếng cười và sự bình an chứ không phải giàu có sung túc về mặt vật chất. Để trở thành một vị vua như thế, chính Ngài đã phải chứng tỏ rằng Ngài đích thực là một vị vua yêu thương và đáng được yêu. Ngài đã chọn đi con đường thập giá cho đến chết chỉ vì yêu nhân loại. Chỉ bằng con đường ấy Ngài mới đích thực là vị vua mang nhãn hiệu yêu thương. Dụ ngôn này diễn tả Đức Giê-su như là một Đấng đến xét xử nhưng liền ngay sau đó 26,1-2, Chúa Giê-su lại thông tin rằng Ngài sẽ bị nộp để chịu đóng đinh. Nghịch lý, nhưng lại hợp lý bởi đó chính là con đường mà vị vua yêu thương đã chọn đi cho trọn tình yêu với nhân loại.

Bối cảnh của dụ ngôn: đây là dụ ngôn cuối cùng trong trình thuật của Tin Mừng Matthew và là dụ ngôn cuối trong loạt 4 dụ ngôn bàn về thời cánh chung trong Tin Mừng Matthew (Dụ ngôn hai người đầy tớ: 24, 45-51; Dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể: 25,1-13; dụ ngôn những talanton: 25,14-30). Đây cũng là trình thuật cuối cùng trước trình thuật về cuộc thương khó của Chúa Giê-su. Chương 26 bắt đầu bằng âm mưu chống lại Chúa Giê-su (26, 1-5), và tiếp sau đó là trình thuật về việc Chúa Giê-su được xức dầu (26, 6-13) và cứ như thế trình thuật về thương khó được tiếp diễn. Vị trí của dụ ngôn: cuối trình thuật về giảng dạy của Chúa Giê-su và cuối trong loạt dụ ngôn nói về cánh chung, nói lên tầm quan trọng của thông điệp của dụ ngôn này đối với Tin Mừng Matthew. Nó có thể xem như đỉnh cao về mạc khải về cánh chung cũng như chứa đựng thông điệp Tin Mừng quan trọng của Chúa Giê-su.

Tên gọi: dụ ngôn này thường được gọi là dụ ngôn “chiên và dê”. Tuy nhiên, dụ ngôn này hẳn không hề nói gì về chiên và dê cả. Chiên và dê chỉ được nhắc đến như là bối cảnh của một buổi tập trung, và phân chia của một người mục tử. Dụ ngôn này hoàn toàn nói về những con người với những biểu hiện cụ thể trong suốt cuộc đời họ. Mỗi người có thể gọi dụ ngôn này bằng một cái tên đẹp và hay như mình muốn. Thế nhưng, nên nhớ rằng nguyên gốc bản văn của Matthew, dụ ngôn này không có tên gì cả, và dù có đặt tên hay đến mấy thì cũng chỉ phản ánh được một khía cạnh nào đó của dụ ngôn này mà thôi.

Một vài điểm chú giải:

(1)          Con Người (the Son of Man)[1]: đây là danh xưng xuất hiện trong văn chương khải huyền của Daniel. Dn 7,13 nói rằng “trong thị kiến ban đêm ông thấy có ai như con người, người đến với mây trời”. Thị kiến này cho thấy Con Người đến trong vinh quang với tất cả các thiên sứ theo hầu. Con Người cũng nói với Daniel rằng “hãy hiểu rằng thị kiến đề cập đến thời gian cuối cùng” (Dn 8,17). Như vậy, hình như Con Người đến trong vinh quang trong dụ ngôn này có liên quan đến Con Người mà Daniel đã nói đến. Cả hai đều đến trong vinh quang và vào thời cuối cùng. Danh hiệu Con Người trong tiếng Hy Lạp là “ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου” dịch sang Tiếng Việt là con trai của con người. Trong tiếng Do Thái, đó là một lối diễn đạt cá nhân hóa một danh từ chung chỉ nhân loại nói chung bằng cách thêm vào cụm từ “con của”, diễn tả một con người cụ thể, một thành viên của loài người. Nghĩa của nó có thể như là “ai đó” hay “một người bất kỳ”. Cách dùng của Daniel 7,13-14 diễn tả một con người đến trong đám mây, đã trở thành một vài dạng suy đoán của Do Thái và Ki-tô giáo sơ khai, đoán trước một tác nhân siêu nghiệm thời cánh chung của cuộc phán xét và giải thoát mang tính thần linh. Trong Tân Ước, tác nhân ấy gần như được đồng hóa với Đức Giê-su Phục Sinh. Thuật ngữ này xuất hiện trong cả bốn Tin Mừng và luôn luôn phát xuất từ miệng của Chúa Giê-su. Với một ngoại lệ (Jn 5,27), các sách Tin Mừng luôn luôn dùng mạo từ xác định, như thế giới thiệu thuật ngữ như là một số lượng được biết rồi, thậm chí trong bối cảnh trong đó nó chưa được đề cập trước đó. Thuật ngữ này có thể có ám chỉ về Messiah được nói đến trong Daniel 7. Trong bối cảnh này Con Người có một vị thế hết sức quan trọng. Thậm chí Ngài còn được gọi là Đức Vua trong 25,34. Và được những người bên hữu gọi là Đức Chúa (25, 37.44). Ngài ở trong một tư thế phán xét tất cả những người khác.

(2)          Trong vinh quang cua Ngài (ἐν τῇ δόξῃ αὐτου): Trong Sách Thánh Cựu Ước, thuộc tính “vinh quang” là thuộc tính gắn liền với Đức Chúa. Nhiều lần Đức Chúa tự gọi rằng “vinh quang của ta” khi nói với dân It-ra-el. Khi Moses cầu xin Thiên Chúa tỏ vinh quang của Chúa cho ông, Đức Chúa đã trả lời: “ta sẽ khiến vinh quang của ta đi ngang qua trước mặt ngươi và ta sẽ tỏ cho ngươi biết danh ta là Đức Chúa” (Xh 33,18-19). Dân chúng nhìn thấy vinh quang của Đức Chúa trong đám mây khi Aharon nói với họ (Xh 16,10). Đức Chúa cũng nói với Mô-sê rằng “anh em sẽ thấy vinh quang của Đức Chúa” khi Đức Chúa ban Manna cho dân (Xh 16,7). “Vinh quang của Đức Chúa” ngự trên núi Sinai và “sự xuất hiện của vinh quang của Đức Chúa như lửa cháy bừng trên đỉnh núi” (Xh 25, 16-17). Và nhiều lần tác giả nhắc đến vinh quang của Thiên Chúa như thế. Trong Tân Ước Luca cũng có cùng lối diễn tả “vinh quang Đức Chúa chiếu tỏa xung quanh” những người chăn chiên khi thiên sứ loan báo cho họ một tin mừng trọng đại: “một Đấng cứu độ đã sinh ra cho các ngươi hôm nay” (Lc 2,9-11). Thánh Phao-lô trong thư thứ hai gửi Tín Cô-rin-tô đã diễn tả rằng: “chúng ta, mặt không che màn, phản chiếu vinh quang Đức Chúa như qua một chiếc gương, chúng ta sẽ được biến đổi ngày càng giống hình ảnh ấy, ngày càng rực rỡ hơn, nhờ tác động của Chúa là Thần Khí” (2 Cr 3,18). Trong Tin Mừng Matthew, Chúa Giê-su nói đến vinh quang của Con Người một lần khác nữa. Cuối chương 19, trong bối cảnh Phê-rô hỏi Đức Giê-su về phần thưởng mà các ông sẽ hưởng khi bỏ mọi sự để theo Chúa, Chúa Giê-su cho biết rằng, các ông cũng được ngồi trên mười hai tòa của, xét xử mười hai chi tộc của Ít-ra-el, “khi Con Người được ngồi trên ngai vinh quang của Ngài” (Mt 19,27-30). Đoạn này cũng nói đến vinh quang của Con Người trong bối cảnh xét xử. Trong dụ ngôn này Matthew nhắc đến hai lần “vinh quang của Người”: Con Người đến “trong vinh quang của Người” và “ngồi trên ngai vinh quang của Người” (Mt 25,31). Cách nói “ngồi trên ngai vinh quang” rõ ràng diễn tả vị thế của một vị vua trong ngày thượng triều hoặc đăng quang. Ngoài ra, vào cuối chương 16, Đức Giê-su cũng nói đến Con Người “sẽ đến cùng với các thiên sứ của Người trong “vinh quang của Cha Ngài” (Mt 16,27). Vinh quang ở đây là vinh quang của Cha Ngài, nghĩa là của Chúa Cha. Đây cũng là bối cảnh Chúa Giê-su nói đến cuộc phán xét: “Người sẽ trả lại cho mọi người theo điều họ đã làm.” Con Người cũng đến với các thiên sứ của Người như trong dụ ngôn này. Hơn nữa, trong chương 24, Đức Giê-su lại một lần nữa nhắc đến việc Con Người đến trong mây trời. “Họ sẽ thấy Con Người đến với quyền năng và vinh quang vĩ đại” (Mt 24,30). Tính từ “πολλοῦ” (nhiều) được đặt sau danh từ vinh quang để làm tăng mức độ của vinh quang này. Đây cũng là lần hiếm thấy Matthew dùng tính từ này đi kèm với danh từ vinh quang. Trình thuật này được đặt trong bối cảnh của bài giảng những biến cố của thời cuối cùng, thời cánh chung (Mt 24,1-44).

(3)          “sẽ được triệu tập” (συνάγω). Động từ triệu tập đượng dùng ở thì tương lai, và thể bị động. Đây rất có thể là thể bị động thần linh, rất thường thấy, với tác nhân là chính Thiên Chúa. Thiên Chúa chính là người đã triệu tập, hoặc qua trung gian các thiên sứ, hoặc là chính Người triệu tập. Nhưng cách dùng của động từ này cho thấy bàn tay chủ động của Thiên Chúa trong buổi triệu tập này. Đó không phải là một buổi triệu tập ngẫu nhiên của bất kỳ ai, nhưng là buổi triệu tập của Thiên Chúa trong bối cảnh xét xử. Tính từ “πάντα: tất cả” được đặt trước danh từ quốc gia, hay dân tộc cho thấy rằng thành phần được triệu tập không giới hạn trong một không gian lãnh thổ nào nhưng là tất cả, không trừ ai, và quốc gia nào (see Is 66,18). Trong đó, chắc chắn bao gồm tất cả các ông hoàng bà Chúa, các vương giả, phú hào, nhà quý tộc, các nguyên thủ quốc gia và hang lê dân vô danh tiểu tốt. Tất cả đều phải hiện diện. không những tất cả các dân các nước, nhưng còn là tất cả các thiên sứ trên trời đều được quy tụ theo hầu Con Người này. Thật khó để mà tưởng tượng một khung cảnh như thế trên trần gian này. Ở đâu ra một không gian như thế để chứa toàn dân trên thế giới như thế, và Đức Vua sẽ dùng hệ thống khuếch đại âm thanh như thế nào để người ta có thể nghe Ngài nói, và Ngài sẽ ngồi ở đâu để họ thấy. Nói chung là một cảnh tượng còn hơn trong phim nữa. Đó là cảnh tượng của ngày cánh chung.

(4)          “Người sẽ bố trí cho những con chiên đứng bên phải Người còn những con dê đứng bên trái Người”. Đây là kiểu phân chia mang tính song đôi rất thường được sử dụng trong các trình thuật của Matthew. Có lẽ, độc giả cũng chưa quên dụ ngôn “hai người đầy tớ” (một người trung thành, một người xấu, Mt 24,45-51); dụ ngôn “mười cô trinh nữ đi đón chàng rể” (năm cô khờ dại – năm cô khôn ngoan, Mt 25,1-13); dụ ngôn những talanton (hai người sinh lời – một người chôn dấu, Mt 25,14-30). Sự phân chia này rõ ràng cho báo trước cho độc giả về một viễn cảnh thông thường: sẽ có một nhóm người tốt và một nhóm người xấu. Hậu quả là sẽ có một nhóm người được trọng thưởng và một nhóm người bị trừng phạt. Sự phân xử này, cũng giống như cuộc phân xử trong các dụ ngôn trước, là sự phân xử mang tính chung cuộc. Không có một sự khoan nhượng nào và hiệu lực của bản án, thưởng – phạt là vĩnh viễn.

(5)           Chiên – dê – phải – trái. Theo như nhà chú giải Jerimias (Parables, 206) một đàn súc vật trộn lẫn được thả trên đồng theo thói quen của người Palestine. Vào cuối ngày, mục tử sẽ tách chiên khỏi dê vì lẽ rằng những con dê cần được giữ ấm vào ban đêm, còn những con chiên thì thích ở ngoài trời vào ban đêm. Người ta đoán rằng bởi vì những con chiên thì có giá trị cao hơn nên chúng được đặt ở vị trí tích cực hơn trong dụ ngôn này.[2] Dĩ nhiên, những con chiên và những con dê tự chúng không phải là biểu trưng cho người tốt và người xấu. K. Snodgrass cho rằng trong thời Do Thái cổ thì giá trị con chiên và con dê như nhau. Phép loại suy được xây dựng dựa trên sự phân chia bên trái, bên phải chứ không phải sự trên cá tính hay giá trị của những con dê, dù cho giá trị những con chiên có phần nhỉnh hơn.[3] Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, con chiên thường được dùng để phác họa hình ảnh dân Ít-ra-el như là dân Chúa trong Cựu Ước và văn chương Do Thái (Ez 34; 1 En 89-90) nhưng con dê thì không.[4] Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su gọi chính Ngài là mục tử và những kẻ theo Ngài là chiên của Ngài (Ga 10,14). So sánh với tác phẩm của Plato, một triết gia Hy Lạp thời Cổ Đại, chúng ta thấy được điều tương tự về trái và phải: Rep.10,614c nói rằng trong cuộc sống đời sau, có những quan tòa, những người gửi người công chính đến bên phải và đến thiên đàng trong khi kẻ bất chính họ gửi xuống bên trái; Virgil, một nhà thơ Roma Cổ, cho rằng đường dẫn đến cuộc sống đời sau phân đôi và ngã đường bên phải là đại lộ của chúng ta đi đến Elysium (thiên đàng, nơi hạnh phúc hoàn hảo) trong khi ngã bên trái dẫn xuống Tartarus vô thần.[5] Theo kinh nghiệm thường ngày, những bộ phận bên phải của cơ thể thường mạnh hơn bên trái. Ví dụ như tay phải hoặc chân phải (trừ một số trường hợp ngoại lệ). Đa số quốc gia lái xe bên phải (trừ một số ngoại lệ). Ngày nay, người ta thường nói đến báo chí lề phải và lề trái, để diễn tả hai luồng thông tin trái ngược nhau. Bên phải dự báo một số phận tốt lành còn bên trái là dấu hiệu của một số phận bi đát. Con Người, đấng tách hai nhóm người thành hai phía, được ví như một mục tử. Chúa Giê-su được ví như một mục tử. Trong trình thuật về Giáng Sinh, các thượng tế và các kinh sư đã đọc lại sách Micah 5,2 để tìm ra nơi sinh của đấng Messiah (Mt 2,6). Micah nói đến Bethlem như là nơi thủ lãnh, đấng chăn dắt Ít-ra-el sẽ ra đời. Micah rõ ràng nói đến vai trò mục tử của Chúa Giê-su.

(6)          “Vương quốc đã dọn sẵn cho các ngươi ngay từ lúc tạo thiên lập địa” (thành lập thế giới, khởi đầu của thế giới). Động từ đã được chuẩn bị được dùng ở thì vị hoàn và thể bị động. Đây rất có thể là bị động thần linh. Thiên Chúa chính là tác nhân của sự chuẩn bị này. Lời nói này của Đức Vua làm cho một số nhà chú giải suy đoán rằng: việc thừa kế vương quốc mang tính tiền định. Nghĩa là Thiên Chúa đã định trước cho ai thì người ấy đương nhiên được hưởng. Và dường như sự tiền định này đã có ngay từ khi tạo thiên lập địa. Nếu như thế thì sự phấn đấu, dấn thân của mỗi cá nhân cả cuộc đời không thay đổi được gì. Tuy nhiên, sự tiền định của Thiên Chúa ở đây đúng hơn nên hiểu là sự tiền định về vương quốc Thiên Đàng. Nghĩa là vương quốc thiên đàng vốn đã được dọn sẵn ngay từ khi tạo thiên ập địa, chứ không phải tiền định cho một số người nào cụ thể được hưởng vương quốc ấy. Công bố này của Đức Vua cũng cho thấy việc thừa hưởng vương quốc là hồng ân của Đức Vua. Đức Vua chính là chủ thể của việc trao ban quyền thừa hưởng vương quốc này.

(7)          đói…cho ăn; khát…cho uống; khách lạ… tiếp rước; trần truồng… cho mặc; ngồi tù… thăm nom”. Có năm cặp hành động song đôi được liệt kê. Và việc năm cặp hành động này được đặt sau liên từ chỉ lý do (γὰρ: bởi vì) cho thấy rõ ràng là những hành động này chính là nguyên do dẫn đưa những người bên hữu vào Thiên quốc. Nếu nói như thế thì chẳng phải những người này được thừa hưởng vương quốc là do công lao của mình đó sao? Điều này xem ra ngược lại với thần học của thánh Phao-lô về ơn công chính: “một người được công chính không do làm những gì Lề Luật dạy nhưng nhờ tin vào Đức Ki-tô Giê-su (Gl 2,16). Tuy nhiên, thánh Phao-lô nói điều này trong bối cảnh nhiều người hiểu lầm là ơn công chính có được là do công lao làm việc thiện của mình hơn là một hồng ân Chúa ban. Rõ ràng lào ơn công chính là hồng ân đức tin. Tuy nhiên, không vì thế mà các tín hữu được miễn trừ thi hành những hành động tử tế với tha nhân mỗi ngày. Năm cặp hành động này được hiểu như là biểu trưng cho tất cả những hành động tử tế mà những người bên hữu dành cho người khác trong suốt cuộc đời họ. Đó là những nhu cầu hết sức căn bản của con người: đói, khát, trần truồng, khách lạ, tù đày…Chúng biểu trưng cho tất cả nghịch cảnh của con người. Những người bên hữu làm những điều này nghĩa là họ đã làm hầu như tất cả những hành động tử tế mà họ có thể làm cho tha nhân. Năm cặp hành động này được kết với lời mời gọi phía trước: “thừa hưởng vương quốc đã được chuẩn bị trước ngay từ khi tạo thiên lập đia” để làm thành một mô thức hoàn hảo của ơn cứu độ. Đó là vương quốc do Chúa chuẩn bị. Ngài chính là chủ thể của hồng ân này. Tuy nhiên, một người không được thừa hưởng nếu người đó không muốn thừa hưởng, bằng những biểu hiện tử tế của mình trong suốt cuộc đời họ. Văn chương Do Thái thời sơ khai khuyên dạy rất nhiều về những hành vi bác ái. Sách Sirach dạy rằng “hãy giang tay ra với người nghèo, để những chúc lành của người có thể được hoàn thành” (Sir 7,32). Sách Tobia 1,16-17 liệt kê các hành động bác ái Tobia đã làm: cho người đói ăn và cho người trần truồng mặc và chôn những xác chết bị bỏ rơi. Và Tobia cũng khuyên con mình là phải cho người nghèo thức ăn và cho những người trần truồng áo mặc (Tb 4,16). Văn chương ki-tô giáo sơ khai cũng nói nhiều về hành động bác ái. Sách Et-ra thứ tư dạy rằng: “hãy cho người túng thiếu, bảo vệ cô nhi, mặc cho người trần truồng, chăm sóc người mang thương tích và yếu đuối” (4 Ezra 2,20-21). Những câu nói của Sextus 378 nói rằng: “nếu ngươi không cho người túng thiếu khi ngươi có thể thì ngươi cũng không thể nhận từ Đức Chúa khi ngươi túng thiếu”. Tin Mừng Matthew nhấn mạnh đến điều răn yêu thương (5,43-48; 19,19; 22,34-40) và lòng thương xót (5,7; 6,2-4; 9,13; 12,7; 18,33; 23,23). Chúa Giê-su cũng khuyên người thanh niên bán của cải mình đi để cho người nghèo (Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22).

(8)          Khi nào vậy? (πότε). Trạng từ nghi vấn về thời gian được “những người công chính” lặp lại ba lần trước những tuyên dương lạ lùng của “Đức Chúa”. Sự ngây thơ của những người bên hữu càng tô điểm thêm vẻ đẹp của những hành vi tử tế của họ. Nghĩa là, họ đã thể hiện những hành vi tử tế ấy một cách tự nhiên, vô vị lợi. Họ không làm bởi vì một áp lực hay ảnh hưởng nào từ người khác. Họ đã không làm vì biết rằng đó là những kẻ bé nhỏ nhất của Đức Vua. Họ cũng không làm chỉ bởi vì họ trông chờ vào phần thưởng vương quốc. Những hành vi ấy chỉ xuất phát từ con tim tình yêu, thánh thiện của họ, sự đồng cảm và lòng thương xót của họ dành cho người khác là vô vị lợi. Chính vì thế mà họ tỏ ra ngơ ngác trước những ghi nhận của Đức Vua.

(9)          “những anh em bé mọn nhất của ta” và “tất cả các nước”. Trong những bản văn trước của Matthew, “những anh em bé mọn” dường như là những ki-tô hữu (xem Mt 10,40-42; 18,6.14).[6] Tuy nhiên, trong bối cảnh này, những người bên phải không chỉ là những ki-tô hữu, hay là những môn đệ của Chúa Ki-tô, nhưng là tất cả mọi người, bởi họ được chọn ra từ tất cả các quốc gia trên thế gian chứ không riêng gì quốc gia ki-tô giáo. Danh từ “ἔθνος” có thể có nghĩa là các quốc gia hay là những người dân ngoại. Nó có thể đề cập đến các ki-tô hữu hoặc không ki-tô hữu. Trong Bản Bảy Mươi (bản dịch Thánh Kinh Do Thánh qua tiếng Hy Lạp), danh từ này rất thường xuyên được dùng để nói về các dân khác hơn là dân Ít-ra-el (Ex 33,16; Đnl 7,7), nhưng thỉnh thoảng nó cũng bao hàm dân Ít-ra-el (Tv 48,2; Is 25,6-7).[7] Đức Vua là vua của vũ hoàn chứ không phải chỉ là vua của Ki-tô giáo. “Những anh em bé mọn” là tất cả những người túng thiếu.

Đức vua đồng hóa chính mình với những người bé mọn nhất. Và tất cả những người bên hữu này đều gọi Ngài là “Đức Chúa” (Lord). Danh từ “người anh em” mà Đức Vua sử dụng cũng rất đáng chú ý. Nó làm thay đổi tương quan giữa những kẻ bé mọn và Đức Vua cao cả. Ngài xem họ như là người nhà của mình. Ngôn ngữ gia đình được Đức Giê-su sử dụng rất nhiều lần trong Tin Mừng Matthew. Danh từ “người anh em” (ἀδελφός) được Matthew sử dụng 38 lần trong đó 20 lần nói đến những anh em theo nghĩa đen. Tối thiểu 8 trong số 18 cách sử dụng ẩn dụ không có nghĩa “môn đệ” nhưng được sử dụng khái quát theo nghĩa là người thân cận của một ai đó (Mt 5,22 ai giận ghét anh em mình…; 5,47: nếu anh chỉ chào hỏi những người anh em của anh…; 12,48, bất kỳ ai thi hành thánh ý của cha ta trên trời người ấy là anh em và chị em và mẹ tôi; 18,35: nếu anh không tha thứ cho người anh em hoặc chị em của anh …). Đức Giê-su dạy các môn đệ gọi Thiên Chúa là cha (cha chúng con ở trên trời). Điều đó cũng đồng nghĩa với việc Ngài muốn họ nhìn nhận tất cả mọi người trên trái đất này đều là anh em vì họ có cùng một cha.

Danh xưng của vị thẩm phán trong trình thuật về cuộc xét xử này được thay đổi liên tục: Con Người – Đức Vua – Đức Chúa. Ngài là Con Người đến trong vinh quang với các thiên sứ theo hầu và tập họp dân cư trên toàn cõi đất lại. Ngài là Đức Vua khi phân chia hai nhóm người bên tả bên hữu như mục tử tách chiên với dê. Ngài cũng là Đức Vua xét xử, công bố bản án cho những kẻ bên tả và ban thưởng cho những kẻ bên hữu. Ngài cũng là Đức vua khi đồng hóa với những người bé mọn, Ngài xem họ như người nhà. Ngài là Đức Chúa trong cái nhìn của những người bên hữu và những kẻ bên tả.

(10)       “những kẻ được chúc phúc”, “những người công chính” – “những kẻ bị nguyền rủa”. Những người bên hữu được gọi bằng hai danh xưng trong khi đó những kẻ bên tả chỉ có một danh xưng mà thôi. Đối lại với danh xưng “những người được chúc phúc” là danh xưng “những kẻ bị nguyền rủa”. Trong khi danh động từ thể bị động, “những kẻ được chúc phúc” có kèm theo tác nhân là “Cha Ta”, nhấn mạnh đến tác nhân của hành động chúc phúc, còn danh động từ ở thể bị động “bị nguyền rủa” không kèm theo tác nhân nào, điểm nhấn rơi vào hành động chúc dữ. Đưc Vua chắc chắn không muốn chúc dữ cho ai. Danh xưng “những người công chính” được lặp lại 2 lần trong dụ ngôn này trong khi nhóm bên tả chỉ được nhắc đến bằng đại từ ngôi thứ ba. Những quan sát về mặt từ ngữ và cách dùng từ cho thấy sự vượt trội, ưu thế của những người bên hữu. Tính từ “công chính” được dùng như danh từ với mạo từ xác định, số nhiều đứng trước được Matthew sử dụng năm lần, hai trong năm lần đó được dùng trong dụ ngôn này. Những người công chính trong dụ ngôn này xem ra được định nghĩa bởi hai đặc tính nổi bật. Đặc tính thứ nhất là “được Cha chúc phúc”. Đặc tính thứ hai là có tình yêu và lòng trắc ẩn với “những người anh em bé mọn.” Những hành vi bác ái của họ, thể hiện một cách tự nhiên, được chuẩn nhận từ Đức Vua. Trong Mt 13,17, những người công chính được đặt cạnh những ngôn sứ với ước muốn được nghe lời giảng của Chúa Giê-su mà không được nghe. Cũng trong chương 13, những người công chính được cho là sẽ chiếu sáng như mặt trời trong vương quốc của Cha của họ (Mt 13:43). Cũng trong bối cảnh những lời giảng về cánh chung, qua dụ ngôn cỏ lùng, Đức Giê-su nhắc đến ân thưởng này của những người công chính.        

(11) “Hình phạt vô tận” và “sự sống đời đời”. Tính từ thời gian “αἰώνιος” (muôn đời, vô tận, muôn kiếp) được sử dụng kèm với bản án. Phần thưởng sự sống đời đời đối lại với hình phạt muôn kiếp. Đây là lối diễn tả của thời cánh chung. Một khi Đức Vua đã kết án thì bản án này vĩnh viễn không thể thay đổi. Nó giống như hoàn cảnh của mười cô trinh nữ trong dụ ngôn trước đó (Mt 25,1-13). Năm cô khờ dại có gõ cửa bao nhiều lần thì cửa vẫn không mở. Số phận của 3 người đầy tớ trong dụ ngôn những talanton cũng tương tự như thế (Mt 25,14-30). Người đầy tớ biếng nhác và xấu xa thì trở thành “kẻ khóc lóc và nghiến răng”. Những bản án ấy là vĩnh viễn không thay đổi được. Điều đó vừa cho thấy tính cách khắc nghiệt của bản án nếu ai đó bị trừng phạt vừa diễn tả niềm vui khôn cùng, vô tận của những người được thừa hưởng vương quốc.


Bình Luận:


Dụ ngôn chiên và dê hay là trình thuật về cuộc phán xét một lần nữa cho thấy kiểu hành văn song đôi trong Tin Mừng Matthew. Theo mô thức của kiểu hành văn này, sẽ có một nhóm bên phải, bên của những con chiên, và sẽ có một nhóm bên trái, bên của những con dê. Sự phân chia này đã bộc lộ ngay từ đầu hai tính cách và dẫn đến hai số phận khác biệt, đối lập giữa hai nhóm người. Khung cảnh của buổi triệu tập cuối cùng thật hung tráng. Tất cả các dân, các nước, mọi thành phần dân chúng không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, giai cấp, giàu nghèo đều được mời gọi tham dự. Không chỉ là tất cả các thần dân dưới đất nhưng còn là toàn bộ các thiên sứ trên cõi trời cao. Chủ trì của buổi phân xử này là Con Người, Đức Vua, là Đức Chúa. Không ai khác chính là Đức Ki-tô Phục Sinh, Đấng đã được ban toàn quyền trên trời dưới đất. Ngài đến, dĩ nhiên không phải để luận phạt, hay nói đúng hơn Ngài chắc hẳn không muốn luận phạt ai. Ngài đến để tìm và cứu những gì đã mất (Mt 15, 24; 18,14; Lc 15, 1-32). Trong buổi cánh chung, chắc hẳn rằng nhà vua muốn tất cả, hoặc ít ra đa số thần dân ấy thuộc về nhóm bên hữu. Vương quốc đã được chuẩn bị ngay từ khởi đầu cho tất cả mọi thần dân, tất cả đều được mời gọi. Tuy vậy, tiếc thay không phải tất cả mọi người đều muốn vào, muốn thừa hưởng. Không phải tất cả đều nổ lực hết sức để qua cửa hẹp mà vào. Chính vì thế mới có những người bên tả và những kẻ bên hữu; có những người được Cha chúc phúc, và những kẻ bị nguyền rủa. Hồng ân chúc phúc dĩ nhiên là thuộc thẩm quyền của Đức Vua. Tài sản thừa kế vương quốc là món quà nhưng không của Người. Vậy nhưng, điều đó không loại trừ trách nhiệm, thiện chí muốn vào của các thần dân. Đức Vua quan sát và ghi nhận tất cả những hành động tử tế mà từng người dân của Ngài dành cho những anh em bé mọn. Nhờ vậy mà Ngài có thể điểm mặt chỉ tên từng người từng việc một cách rành mạch chính xác. Có những việc lành, đôi khi chính đương sự không còn nhớ đến nữa nhưng Đức Vua thì không. Ngài ghi nhớ tất cả. Những người bên hữu đã bày tỏ tình yêu và lòng thương xót dành cho những người lâm cảnh cơ hàn, nghịch cảnh. Đó là những kẻ đói cơm, thiếu nước, không mảnh vải che thân, không cửa không nhà, tù đày… những hành vi này tượng trưng và bao quát hết tất cả những hành động tử tế cho tất cả những mảnh đời bất hạnh mà Đức Vua không muốn kể hết vì chúng quá nhiều. Họ, những người bên hữu làm những điều ấy với tất cả tình yêu và vô vị lợi. Thậm chí họ quên đi, và ngây thơ, ngỡ ngàng trước sự nhắc nhớ của Đức Vua. Ngược lại với những người bên hữu, những người bên tả đã dửng dưng với những mảnh đời bất hạnh đi qua cuộc đời họ. Họ đã chẳng mảy may nghĩ đến và ra tay cứu giúp. Họ đã không thấy Đức Vua đói, không thấy Đức Vua khát, không thấy Đức Vua trần truồng, không gặp Đức Vua là khách lạ, và không biết Đức Vua ở tù vì nếu thế thì họ đã lập tức ra tay cứu giúp vì họ mong mỏi Đức Vua sẽ đáp trả họ, sẽ mang ơn họ. Nếu như sự giải thích, vẻ ngây ngô của những người bên hữu càng tô đẹp tính cách vô vị lợi trong những việc lành của họ thì sự giải thích của những người bên tả càng tô đậm tính vị lợi trong suy nghĩ của họ. Làm cho “một trong những anh em bé mọn này” chính là làm cho Đức Vua và không làm cho “một trong những người bé mọn này” là không làm cho Đức Vua.

Dụ ngôn chiên và dê hay là trình thuật về buổi phân xử là trình thuật cuối cùng trong loạt bài giảng nói về thời cánh chung. Nó vừa đúc kết, vừa giải thích và hoàn trọn những thông điệp gợi mở trong những dụ ngôn phía trước. Nếu như trong dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể (Mt 25,1-13), người ta vẫn thắc mắc về chất dầu mà năm cô trinh nữ khôn ngoan đã mang theo là gì? Và trong dụ ngôn những talanton (Mt 25,14-30) người ta cũng lại thắc mắc những talanton mà hai người đầy tớ đầu tiên đã sinh lời (một người sinh lời được năm talanton và một người sinh lời được hai talanton khác) là gì? Thì trong dụ ngôn chiên và dê người ta có thể tìm thấy câu trả lời. Chất dầu và những talanton lời ấy chính là tình yêu và lòng thương xót được thể hiện mỗi ngày trong cuộc đời mỗi người. Đó là chất dầu giúp đèn của những trinh nữ khôn ngoan luôn cháy sáng để đón chàng rể và theo chàng vào phòng tiệc cưới. Đó cũng là những talanton lời giúp cho hai người đầy tớ đầu tiên được trao phó nhiều hơn và được mời vào trong niềm vui của ông chủ. Trình thuật cuối cùng không còn nói đến những ẩn dụ sự vật như dầu, đèn hay talanton (nén bạc) nhưng nói đến những mối tương quan của những con người bằng xương bằng thịt. Những đối tượng của lòng thương xót không phải ai xa lạ mà chính là “những người anh em bé nhỏ của” Chúa. Phần thưởng của những người được chúc phúc không chỉ là chung vui tiệc cưới nhưng là sự sống vĩnh cửu. Hình phạt dành cho những kẻ bị chúc dữ là hình phạt vĩnh cữu. Nó bao hàm cả việc trở thành những kẻ “khóc lóc và nghiến răng” vĩnh cửu, không thay đổi được. Cần lưu ý rằng, tuy tình yêu và lòng thương xót dành cho những người cùng khổ được xem như là những tiêu chí trọng yếu trong cuộc phân xử cánh chung, nhưng đó không phải là tất cả. Nó không thể bao trùm và miễn trừ cho việc thực thi tất cả các giáo huấn khác của Đức Giê-su trong toàn bộ Tin Mừng Matthew, cũng như các Tin Mừng khác. Còn đó những giá trị Tin Mừng như là Bát Phúc, Hiến Chương Nước Trời, Đức tin, sự hoán cải, sự bao dung, tha thứ, lối sống khó nghèo…. mà những kẻ muốn hoàn thiện như cha trên trời phải theo đuổi mỗi ngày. Những giá trị Tin Mừng các tín hữu phải theo đuổi mỗi ngày là cả cuốn Thánh Kinh chứ không chỉ là đoạn Tin Mừng về cuộc phán xét ở Mt 25,31-46.

Những lời nhắc nhở của Chúa Giê-su về thời cánh chung là rất rõ ràng và quyết liệt. Chủ ý của Phụng Vụ Giáo Hội trong ngày cuối cùng của năm Phụng Vụ cũng rất rành mạch. Vấn đề còn lại là sự chọn lựa và đáp trả của mỗi cá nhân. Sẽ đến lúc mỗi người phải đối diện với Chúa và phải trả lời về tất cả những hành vi lớn nhỏ trong cuộc đời mình. Hình phạt muôn kiếp hay sự sống vĩnh cửu phụ thuộc vào chọn lựa và dấn thân của mỗi người ngày hôm nay.

Joseph Phạm Duy Thạch SVD



[1] x. G. W. E. NICKELSBURG, The Anchor Bible Dictionary, “Son of Man”.

[2] D. J. Harington, The Gospel of Matthew (SP 1; Collegeville 1991) 356.

[3] K.R. Snodgrass, Stories with Intent. A Comprehensive Guide to the Parables of Jesus (Grand Rapids 2008) 422.

[4] K.R. Snodgrass, Stories with Intent, 421.

[5] W. D. Davies – D.C. Allison, A Critical and Exegetical Commentary on the Gospel According to Saint Matthew (London - New York 2004) 424.

             [6] D. J. Harington, The Gospel of Matthew (SP 1; Collegeville 1991) 357.

[7] K.R. Snodgrass, Stories with Intent, 424.

No comments:

Post a Comment