Saturday 14 November 2020

ĐƯỢC MỜI VÀO TRONG HAY BỊ QUĂNG RA NGOÀI, VUI MỪNG HAY KHÓC LÓC NGHIẾN RĂNG

CN XXXIII TNA

(Cn 31, 10-13, 19-20. 30-31; Tx 5, 1-6; Mt 25, 14-30)

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.



Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi.

"Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Người lãnh hai nén cũng đi làm lợi được hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình.

"Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc; đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".

"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ (mà) đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Ðây của ông, xin trả lại cho ông". Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, người đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra người phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".

Bối cảnh

Đoạn Tin Mừng hôm nay nằm trong bối cảnh của Chúa Nhật áp cuối của năm Phụng Vụ A. Tuần sau là Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ A, Lễ Chúa Giê-su Ki-tô, vua vũ hoàn. Trong bối cảnh ấy chủ đề phụng vụ dĩ nhiên là liên quan đến khoảnh khắc cuối cùng của mỗi con người. Hơn ai hết, mỗi ki-tô hữu ý thức rõ rằng mình là môn đệ của Chúa Giê-su và mình là con Chúa và sẽ trở về với Chúa một khi chết đi. Chính Chúa Giê-su đã nhiều lần thông báo rằng Ngài sẽ trở lại (Mt 16,27; 25,31; Mc 8,31; Lc 9,26). Mỗi Chúa Nhật, các tín hữu cũng tuyên xưng trong Kinh Tin Kính rằng: “Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Tuyên xưng không ngừng như thế, nhưng lời tuyên xưng ấy đôi khi trở thành thói quen hơn là một niềm xác tín. Cho nên, tuyên xưng như thế nhưng các tín hữu đôi khi lại thiếu sức sống, thiếu những hành động cụ thể hay những chuẩn bị cần thiết cho xác tín ấy. Đôi khi gánh nặng cuộc sống thể lý, cơm áo gạo tiền, làm cho họ quên đi việc hiện thực hóa cách sống động niềm tin này. Chính vì thế, phụng vụ giáo hội trong những tuần cuối năm và đầu năm, khởi đầu bằng Chúa Nhật Mùa Vọng, luôn nhắc nhở con cái đức tin, con cái ánh sáng về niềm xác tín về ngày trở lại của Chúa Giê-su trong vinh quang.

Trong bối cảnh của Tin Mừng Matthew, Mt 25,14-30 tiếp theo dụ ngôn “mười cô tring nữ đi đón chàng rể” (Mt 25,1-13), và dụ ngôn “người tôi tớ” (24, 45-51), là loạt 3 dụ ngôn nói về thời cánh chung, thời sau cùng của thế giới, khi Đức Giê-su trở lại lần thứ hai, và cũng là lần cuối. Chủ đề của đoạn dụ ngôn dĩ nhiên cũng như chủ đề Phụng Vụ, cũng nói về những vấn đề của thời sau hết của nhân loại. Trong các tác giả Sách Tin Mừng, chỉ có Luca chia sẻ dụ ngôn này giống như Matthew, với nhiều chi tiết khác biệt sẽ nói sau.

Một số điểm khác nhau chính yếu giữa bản văn Luca và Matthew

Có khác nhiều điểm khác biệt giữa hai bản văn của cả hai tác giả tường thuật cùng một dụ ngôn. Thứ nhất, Matthew bắt đầu bằng liên từ “γὰρ” cho thấy sự liên tục của dụ ngôn này với dụ ngôn “mười cô trinh nữ đi đón chàng rể” ngay phía trước, với câu kết là: “vì vậy, hãy coi chừng vì các ngươi không biết ngày và giờ” (Mt 25,13). Câu kết này được Matthew viết tiếp: “quả thế (γὰρ), cũng như có người kia sắp đi xa liền gọi các đầy tớ của mình lại…”. Câu khởi đầu của này của Matthew cho thấy sự nối kết rất gần gũi giữa dụ ngôn này với dụ ngôn “mười trinh nữ đi đón chàng rể” (Mt 25,1-13). Nó hoặc là minh họa cho dụ ngôn, làm rõ thêm dụ ngôn trước đó hoặc củng cố cho dụ ngôn trước đó. Bản dịch Anh Ngữ ESV còn dịch liên từ (γὰρ) như là một liên từ chỉ sự kết quả (for): “vì thế” trong khi bản dịch Pháp Ngữ (TOB), bản dịch Ý ngữ (CEI) và bản dịch Việt ngữ (CGKPV) đều dịch là “quả thế” (infatti, En effet). Dụ ngôn này được Luca đặt ngay sau tường thuật về việc Chúa Giê-su viếng thăm nhà ông Gia-kêu. Và lý do mà Luca đưa ra, bối cảnh cụ thể mà Chúa Giê-su kể dụ ngôn này là vì Chúa Giê-su lúc đó đang tiến gần đến Giê-ru-sa-lem và nhiều người nghĩ rằng Vương quốc Thiên Chúa sẽ đến ngay lập tức, nên “Chúa Giê-su mới kể cho họ nghe dụ ngôn này” (Lc 19,11). Cũng nên nhắc lại rằng Tin Mừng Luca, tường thuật về chặng đường đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dài nhất trong tất cả các tin Mừng. Thánh Luca dành đến mười chương để tường thuật hành trình này (9,51 – 19, 44). Dụ ngôn mười nén bạc của Luca được đặt ở giao điểm giữa đoạn cuối của cuộc hành trình này và tường thuật về sự kiến Chúa Giê-su tiến vào Giê-ru-sa-lem. Matthew đặt dụ ngôn này vào trong loạt những bài giảng về thời cánh chung sau khi Ngài đã vào Giê-ru-sa-lem vinh quang.

Thứ hai, thánh Matthew chỉ nói là “một người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ mình lại chia….” Không cụ thể là ai và đi đâu để làm gì. Trong khi đó Luca xác định khá rõ địa vị của người này. Ông ta là một người đàn ông quý tộc (εὐγενὴς). Và lý do cũng rất cụ thể là ông này đi xa để lãnh nhận vương quyền và sẽ trở về.

Thứ ba, số người mà ông ta gọi đến để trao nén bạc là mười đầy tớ và số tiền mà ông đưa cho họ chung chung là mười người lãnh nhận mười mna.[1] Nhưng sau đó, Luca lại chỉ đề cập đến ba người báo cáo về số tiền mà chủ giao mà thôi. Bảy người còn lại không biết đi đâu. Matthew xem ra chặt chẽ hơn khi nói rằng ông chủ trao cho ba người đầy tớ mỗi người một số lượng khác nhau. Người thì năm talanton[2] người thì ba talanton và người khác nữa thì một talenton. Matthew còn nói rõ là mỗi người tùy theo khả năng của họ, chứ không phải ai cũng như ai.

Thứ tư, theo Luca thì ông này ra lệnh cho mười đầy tớ của mình là “hãy lấy số tiền này đầu tư cho đến khi tôi trở về”. Matthew không ghi lại mệnh lệnh này. Thay vào đó, ông cho thấy hành động cụ thể của ba người đầy tớ. Trong đó, người thứ nhất đã lấy năm talanton đi làm ăn kinh doanh ngay lập tức và đã sinh lời được năm talenton khác. Người đã lãnh hai talanton cũng sinh lời được hai talanton khác. Còn người thứ ba, người nhận một talanton thì đem đi đào lỗ và chôn dấu.

Thứ năm, phần thưởng mà ông chủ dành cho các đầy tớ biết sinh lời cũng khác nhau giữa hai phiên bản của Luca và Matthew. Trong khi, các đầy tớ của Luca được trao quyền lãnh đạo trên số thành tương ứng mới số minas mà họ sinh lời. Các đầy tớ của Matthew được lời hứa là sẽ được trao nhiều (vốn) hơn và được mời gọi là hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi.

Thứ sáu, Luca tường thuật chi tiết những người công dân của ông ghét ông nên sai một phái đoàn đến sau ông để nói rằng “chúng tôi không muốn rằng ông này làm vua chúng tôi.” (Lc 19,14). Đây là chi tiết không hề tồn tại trong tường thuật của Matthew. Chi tiết này cùng với chi tiết “người đàn ông quý phái đi xa để lãnh nhận vương quyền” (Lc 19,11) và chi tiết “giết chết những người dân” (Lc 19,27) theo trình thuật của thánh Luca được sử gia Josephus liên tưởng đến sự kiện lịch sử liên quan đến Archelaus. Số là, sau khi vua Hê-rô-đê cả băng hà, Archelaus cùng đoàn tùy tùng của mình đã đến Roma để thuyết phục hoàng đế Cesar chấp nhận cho ông ta làm kế thừa vua cha. Trong khi đó một phái đoàn năm mươi người Do thái tại từ Israel, hợp với tám ngàn người Do Thái tại Roma, đã đến trước Cesar để tranh luận nguy cơ làm vua của Archelaus. Theo những bản văn của Josephus, Archelaus đã giết chết 3000 người do thái gây rối trước khi đến Roma.

Thứ bảy, Luca kết thúc dụ ngôn của mình với việc ông chủ ra lệnh giết chết  những kẻ không muốn ông làm vua (Lc 19,27). Matthew thì kết thúc một cách hợp lý hơn, người đầy tớ vô dụng đã bị tống ra ngoài nơi tối tăm, và ở đó anh phải khóc lóc và nghiến răng (Mt 25,30)



Một vài điểm chú giải

1.             Người người kia đi xa: Ý tưởng một người kia (một ông chủ vắng mặt) trong dụ ngôn này nhằm làm nổi bật cốt truyện trong đó trách nhiệm của người đầy tớ được đặt nặng. Rõ ràng Matthew không muốn nói gì đến mục đích đi xa của ông này và thậm chí danh tánh, địa vị của ông Matthew cũng không đề cập đến. Chi tiết cần thiết mà nhất đọc giả cần biết đến là ông ta “đi xa” (apodemeo). Ông chủ đi xa có nghĩa là trách nhiệm trông nhà, trông cửa thuộc về các đầy tớ. Và ông chủ vắng bóng càng cho thấy mức độ trưởng thành và trung tín của một người đầy tớ. Có những người đầy tớ chỉ trung thành giả tạo khi có mặt ông chủ. Còn những người đầy tớ đích thực, thì họ tôn trọng chính bản thân và nhân phẩm đầy tớ của mình. Họ có lòng tự trọng, và luôn có tinh thần trách nhiệm cao nhất dù có ông chủ ở đó hay không. Người Việt nam có câu: “chủ vắng nhà gà vọc nêu tôm”. Một khi chủ vắng mặt thì những cái xấu xa, vô trách nhiệm của một đầy tớ rất dễ phơi bày. Mc 14,34-36 cũng nói đến một ông chủ đi xa và giao nhà, giao việc cho các đầy tớ, mỗi người mỗi việc và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. Rõ ràng, chi tiết một người kia đi xa rất quan trọng trong dụ ngôn này. Nó để lại không gian hành động và trách nhiệm của các đầy tớ. Ông chủ của Matthew tín thác tài sản mình trong tay các đầy tớ và chờ đợi một kết quả tích cực.

2.          Trao cho họ tài sản của mình (τὰ ὑπάρχοντα). Danh từ được dịch là tài sản trong dụ ngôn này cũng rất đáng chú ý. Trong ngôn ngữ gốc Hy Lạp, đây là một động từ thêm -ing (participle), được dùng như một danh từ có mạo từ xác định đi trước. Nó phát xuất từ động từ “ὑπάρχω” có nghĩa là tồn tại, hiện diện, là…giống như động từ eimi. Như vậy, cái mà ông chủ trao cho đầy tớ có thể là một tài sản bình thường như tiền bạc, đất đai, nhà cửa, nhưng cũng có thế quý giá hơn nữa, là chính bản thân ông, chính sự hiện hữu, sự tồn tại của ông. Danh từ tài sản này gợi nhớ đến Mt 24,7, nơi mà ông chủ cũng hứa trao toàn bộ tài sản của mình cho đầy tớ thông minh và trung thành coi sóc.

3.             Trao talenton… mỗi người theo khả năng của mình. Không biết ngẫu nhiên hay hữu ý, trong ngôn ngữ hiện đại đơn vị tiền tệ này được dịch là talent, cũng có nghĩa là tài năng tự nhiên. Món quà tài năng này được trao không phải như nhau cho tất cả mọi người nhưng mỗi người tùy theo khả năng sử dụng nó để sinh lời. Thật hợp lý, khả năng mỗi con người không giống nhau. Ông chủ chắc chắn biết rõ điều ấy và trao số lượng talanton đúng với khả năng của mỗi người. Nếu trao thiếu thì người đây tớ ấy không phát huy hết khả năng của mình. Còn nếu trao dư thì người đầy tớ sẽ không dùng hết đâm ra uổng phí. Thánh Phao-lô có những ý tưởng tương tự như thế. Rm 12,3-8 “nói về mức độ đức tin mà Chúa trao gửi cho anh ta” và “món quà khác nhau theo ân sủng đã được ban cho chúng ta”. Ep 4,7-8 và 1 Pt 4,10 đề cập đến việc khi mỗi người đã lãnh nhận một món quà, hãy tận dụng nó vì nhau, như là những người phục vụ ân sủng muôn hình vạn trạng của Chúa”.

4.             Lập tức… lấy… làm việc… và sinh lời. Bốn động từ liên tục được sử dụng cùng với trạng từ chỉ mức độ nhanh chóng, gấp rút, dồn dập của người đầy tớ thứ nhất, người trao được năm nén, cho thấy sự nhiệt thành, trách nhiệm và chịu thương chịu khó của người đầy tớ này. Trạng từ “tương tự như thế” (ὡσαύτως) đặt ngay trước biểu hiện của người đầy tớ thứ hai, người nhận được hai talanton. Tuy tác giả không lặp lại những động từ dày đặc và trạng từ chỉ tính gấp rút trong hành động của người thứ nhất. Tuy nhiên, trạng từ “tương tự như thế” đã thay thế cho tất cả các cách diễn tả ấy. Nghĩa là cả hai người đầy tớ này đều trung thành, trách nhiệm, nhiệt thành cách gấp rút, nhanh nhất có thể để làm cho những talanton mà chủ ban cho mình được sinh lời gấp đôi. Và họ đã thành công.

5.             Hành động của người thứ ba, người đã nhận được một talenton. Đi, đào lỗ, chôn số bạc của chủ anh ta. Anh cũng có ba hành động nhưng không được bắt đầu bằng trạng từ vội vã. Giả định rằng anh ta cứ bình chân, không lấy gì làm vội vã trong các hành động của mình. Và những hành động của anh ta đều mang tính tiêu cực. Đào và chôn bạc. Chôn dấu bạc dưới đất là một thói quen của người thời xưa. Nếu anh ta đào và chôn dấu số bạc của mình thì đó là chuyện bình thường. Ngạn ngữ xưa có câu: “tiền bạc chỉ được canh giữ bằng cách chôn dưới đất”. Theo như Jeremias (Parables, 61), thì chôn tiền được xem như bảo đảm tốt nhất để chống trộm. Ai chốn dấu tiền thì thoát khỏi trách nhiệm pháp lý, trong khi đó ai gói tiền ký thác trong vải thì chịu trách nhiệm cho việc mất.[3] Nhưng đây là số bạc mà chủ đã giao phó cho anh trước lúc đi xa. Rõ ràng là anh này không hiểu rõ ý chủ của mình. Nếu chủ đưa bạc cho anh chỉ để cất dấu thì không cần chia talanton từng người tùy theo khả năng của mình. Ông chủ chắc chắn cũng có kho để cất dấu của mình, không cần trao cho từng người đầy tớ mỗi người một số lượng khác nhau như thế.

6.             Sau một thời gian dài (πολὺν χρόνον). Đây là kiểu nói thể hiện sự trì hoãn, tương tự như chúng ta đã gặp trong những dụ ngôn trước Mt 24,48 và 25,5. Đây rất có thể là thời gian giữa lúc Chúa Giê-su lên trời và trở lại trong vinh quang. Nó kết hợp “người đàn ông đi xa” trong phần đầu tiên của dụ ngôn để làm thành một hành trình của nguoi2 chủ: ra đi và trở lại sau một thời gian dài. Đây là thời gian có đủ để các đầy tớ sinh lời theo đúng khả năng và số vốn mà Chúa trao phó.

7.             Đầy tớ tài giỏi và trung thành: Cả hai người đầy tớ đầu tiên cùng được ông chủ khen với cùng những loại phẩm tính: “tài giỏi và trung thành”. Cả hai anh tài giỏi và trung thành trong cách thức sinh lời gấp đôi, kịp lúc trước khi chủ trở về. Và họ xứng đáng được trao nhiều talanton hơn thế nữa bởi vì họ đã trung thành khi đã được giao ít.

8.             Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh. Cùng với lời khen và lời hứa được giao nhiều hơn là một lời mời gọi hết sức hậu hỷ: “hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ ngươi”. Đó có thể là lời mời gọi vào dự tiệc Messiah trong thời cánh chung. Cũng như năm cô trinh nữ khôn ngoan vì đã sẵn đèn dầu nên được vào dự tiếc cưới với chàng rể, hai người đầy tớ tài giỏi và trung thành cũng được vào hưởng niềm vui của chủ các anh. Lời mời gọi này không có trong bản dụ ngôn của Luca. Bản tiếng Việt (CGKPV), bản tiếng Pháp (TOB) và bản tiếng Ý (CEI) đều dịch có ý rằng “hãy vào và hưởng niềm vui của chủ anh”. Trong khi đó bản nguyên ngữ tiếng Hy Lạp thì chỉ nói là “hãy vào bên trong (εἰς, vào trong) niềm vui của chủ anh). Có thể có nghĩa là chia sẽ chung niềm niềm vui với chủ của anh. Anh được hòa vào trong niềm vui của chủ anh, được chung phần với chủ. Đó là niềm vinh dự của người tôi tớ vì tôi tớ thường dù có làm gì thì cũng là việc bổn phận. Từ đi vào (εἰσέρχομαι) cộng với giới từ bên trong (εἰς) được dùng ở đây giống y chang như động từ và giới từ được dùng trong dụ ngôn mười người trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Năm cô trinh nữ khôn ngoan, những người đã sẵn sàng di vào bên trong phòng tiệc cùng với chàng rể. Đây là lối diễn tả chung cuộc của buổi cánh chung. Sự đi vào bên trong niềm vui của chủ không phải là trong chốc lát nhưng là kéo dài vĩnh viễn. Có người bên trong được chung vui thì chắc chắn cũng có những kẻ bên ngoài buồn bã. Đó là năm cô trinh nữ khờ dại hay là người tôi tớ thứ ba trong dụ ngôn này.

9.             Người đầy tớ lười biếng… xấu xa… và vô dụng. Anh đầy tớ này có một lý giải khá suôn sẻ và hợp lý và không làm hao hụt số vốn mà chủ giao. Tuy vậy, lối lý giải ấy không thuyết phục được ông chủ. Như đã nói trên, trong khi hai người đầy tớ đầu tiên đã hiểu được ý chủ và dấn thân sinh lời gấp đôi ngay lập tức thì tên đầy tớ này lừng khừng, không hiểu, và chỉ làm theo suy nghĩ của anh. Đầy tớ thì phải làm theo ý chủ, đoán ý chủ mà làm. Đầy tớ này được chủ kết luận là lười biếng[4], bởi anh ta đã không làm gì trong suốt thời gian dài chủ đi vắng. Đối nghịch lại với hai phẩm tính tốt mà ông chủ dành cho hai người tôi tớ trước (tài giỏi và trung thành) là hai tật xấu dành cho người đầy tớ thứ ba: xấu xí và biếng nhác. Anh bị cho là xấu xa có thể là do anh đã nghĩ sai về chủ của anh, hoặc anh đã lấy ý anh làm ý chủ. Còn có ý trách vì ông chủ như thế nên anh ta làm như vậy. Vì ông chủ hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi nên anh ta mới đâm sợ và đi chôn dấu số bạc. Nói cách khác anh quy trách nhiệm cho lỗi lầm của anh là vì chủ anh chứ không phải do anh lười biếng. Rõ ràng một đầy tớ không biết ý chủ, lấy ý mình làm ý chủ, lười biếng, không làm gì trong suốt thời gian dài, là một đầy tớ vô dụng, hết xài. Và anh không những phải bị sa thải ngay lập tức mà còn bị trừng phạt nghiêm khắc.

10.           Hãy ném tên đầy tớ vô dụng ra bên ngoài vào trong nơi tối tăm.” Trái ngược với số phận dành cho những đầy tớ tài giỏi và trung thành: được mời vào bên trong niềm vui của chủ, những đầy tớ biếng nhác, xấu xa và vô dụng bị quăng ra bên ngoài vào nơi tối tăm. Như đã nói trên, có người bên trong thì sẽ có kẻ bên ngoài. Đó là cấu trúc của dụ ngôn của Matthew. Có năm cô trinh nữ khôn ngoai thì có năm cô khờ dại. Những người vào bên trong thì được mời “hãy vào”, những người ra bên ngoài thì bị “quăng”. Quăng, ném là động từ dành cho một sự vật chứ không dành cho một con người. Quăng, ném giả định một sự túm lấy, trói lại rồi mới quăng đi. Anh ta vô dụng nên bị quăng đi như một đồ vật phế thải. Những người tài giỏi và trung thành thì đi vào niềm vui của chủ, còn tên đầy tớ vô dụng thì đi vào nơi tối tăm. “vào nơi tối tăm bên ngoài” diễn tả sự phán xét chung cuộc.[5] Hình phạt của tên đầy tớ vô dụng còn được diễn tả một cách chi tiết rùng rợn hơn: khóc lóc và nghiến răng hoài hoài. Bản dịch Việt Ngữ (CGKPV) là: “ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng”. Cách dịch này diễn tả hành động nhưng không gột tả hết được ý nghĩa của bản văn. Bản văn gốc không dùng động từ khóc lóc và nghiến răng mà dùng hẳn động từ eimi (là) cùng với hai danh từ với mạo từ xác định: kẻ khóc lóc và kẻ nghiến răng. Anh ta sẽ là kẻ khóc lóc và kẻ nghiến răng. Từ nay anh ta được gọi là “kẻ khóc lóc” và “kẻ nghiến răng”. Cùng lúc anh ta làm hai hành động và không phải một lúc nhưng suốt đời. Nó bao trùm cả số phận, tình trạng, cho suốt phần đời còn lại của anh. Cũng như thế, những đầy tới chung vui với chủ là vui suốt cả phần đời còn lại của họ. Đó là cách thức diễn tả một tình trạng chung cuộc của thời cánh chung. Lối diễn tả hình phạt khóc lóc và nghiến rằng được Matthew sử dụng nhiều lần khác. Trong Mt 8,12 Chúa Giê-su cảnh báo rằng thiên hạ sẽ từ đông tây đến dự tiệc với Abraham, Isaac và Gia-cóp trong Nước Trời, còn con cái vương quốc thì bị quăng ra ngoài nơi tối tăm và sẽ trở thành kẻ khóc lóc và kẻ nghiến răng.

11.           “Người đã có thì sẽ được cho thêm và sẽ có dư tràn, còn kẻ không có thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.” Đây là câu giải thích cho bối cảnh cụ thể, khi người đã có mười talanton đã được cho thêm một talanton nữa. Điều này là hiện thực hóa lời hứa của ông chủ ở 25,21 dành cho người đầy tớ tài giỏi và trung thành vì anh đã trung thành trên số ít được giao. Cũng lý giải cho việc người đầy tớ biếng nhác có ít nhất (chỉ có một đồng), thì đã bị lấy đi. Tiếng Việt rất lợi thế trong việc truyền tải hai động từ bị động trong câu này. Trong khi động từ cho thêm được dịch ở thể bị động là “được cho thêm” với một ý nghĩa tích cực, động từ lấy đi, tước đi ở thể bị động được dịch là “bị lấy mất” với ngụ ý rất tiêu cực. Cách dịch này trong Tiêng Anh, Tiếng Ý hay Tiếng Pháp, không hề thấy rõ. Thể bị động trong các động từ này được gọi là bị động thần linh. Có nghĩa là Chúa chính là tác nhân của các hành động này. Chúa sẽ “ban thêm” cho kẻ đã có nhiều và Chúa sẽ “lấy đi” cái đang có của kẻ có ít. Đó cũng là hình phạt dành cho những kẻ làm gương mù, gương xấu và phá luật (Mt 13,12), rồi hình phạt dành cho kẻ đầy tớ xấu xa, chè chén say sưa đánh đập tôi trai tớ gái (Mt 24,51). Luca cũng nói đến cùng hình phạt dành cho quân làm điều bất chính (Lc 13,28).

 

Bình luận

Dụ ngôn những talanton nằm trong loạt ba dụ ngôn nói về thời cánh chung của Matthew: dụ ngôn hai đầy tớ Mt 24,45-51; dụ ngôn mười người trinh nữ đi đón chàng rể Mt 25,1-13; và dụ ngôn những talanton Mt 25, 14-30. Dụ ngôn những talanton của Matthew có cấu kết chặt chẽ và mạch lạc hơn dụ ngôn có cùng chủ đề của Lc 19,11-27. Ta có thể chia dụ ngôn thành 3 phần. (1) Ông chủ đi xa và trao talanton (Mt 25,14-15); (2) hành động của ba người đầy tớ (25,16-18); (3) báo cáo của ba đầy tớ, phần thưởng và hình phạt (25,19-30). Ông chủ đi xa diễn tả một khoảng thời gian vắng bóng của ông chủ, đồng nghĩa với việc ông trao lại cho các đầy tớ không gian và thời gian tự do thể hiện trách nhiệm của mình. Và khoảng thời gian ông chủ đi vắng được diễn tả là rất lâu. Các đầy tớ được giả định có đủ thời gian phát huy tài năng của mình. Hơn thế nữa, ông còn trao cho họ những talanton phù hợp theo khả năng của mình. Ông biết rõ khả năng từng người và trao đúng số lượng cần thiết, không hơn không kém. Người tôi tớ khôn ngoan, nhiệt thành và trách nhiệm sẽ tận dụng thời gian ngay lập tức, nhanh nhất có thể để đầu tư sinh lời. Quả thật, hai đầy tớ đầu tiên đã làm như thế và đã làm rất hiệu quả. Mỗi người đều sinh lời được gấp đôi. Còn người đầy tớ thứ ba thì lười biếng, lừng khừng, không muốn đầu tư, không muốn làm việc. Anh ta đã chôn dấu talanton của chủ và dự định sẵn một phương án để đối phó với ông chủ. Mọi chuyện xảy ra đúng như logic của nó. Những người nhiệt tâm và siêng năng đã được ông chủ khen thưởng như những đầy tớ tài năng và trung thành. Ngoài những mỹ từ ca tụng đức hạnh này, ông chủ còn hứa là sẽ trao thêm vốn liếng và cơ hội cho những đầy tớ này nữa. Bằng chứng cụ thể là ông đã trao thêm cho người có mười talanton một nén nữa. Hơn nữa họ còn được mời gọi cách long trọng là “vào niềm vui của chủ anh”. Đó là một phần thưởng được đồng bàn, được chia sẻ được đồng hưởng niềm vui và sự sung túc của chủ. Người tôi tớ thiếu nhiệt thành, lừng khừng bị mắng nhiếc bằng những từ thậm tệ: xấu xa và biếng nhác. Anh bị tước lấy talenton mà anh đang có, bị công bố là kẻ vô dụng, hết xài. Ngoài ra, anh còn bị tống ra ngoài nơi tối tăm. Hơn nữa, anh phải trở thành người khóc lóc và nghiến răng trọn kiếp. Đức Giê-su sẽ trở lại trong ngày tận thế. Khoảng thời gian trước khi Ngài trở lại được ví như khoảng thời gian ông chủ vắng bóng, đi xa. Ngài trao cho mỗi tín hữu thời gian và cơ hội để họ hoàn thiện đời mình. Cái mà Thiên Chúa trao cho mỗi người tín hữu, những talanton mà người trao gửi vào tay từng người là chính sự sống, sự hiện hữu của người. Ngài trao cho họ hình ảnh của Ngài, hơi thở của Ngài, cùng với những ân sủng cần thiết để con người có thể trở nên hoàn thiện như chính chính Chúa là Đấng hoàn thiện. Lời mời gọi nên hoàn thiện phải luôn được thể hiện ngay lập tức, gấp rút và từng phút giây. Mỗi người không những phải tự sửa đổi nhưng thói hư tật xấu nơi mình mà còn phải hướng đến kẻ khác với con tim yêu thương, thể hiện bằng những hành động tử tế đối với đồng loại, đặc biệt là với những người yếu đuối, nghèo hèn. Sự hoàn thiện bản thân của con người còn phải được thể hiện qua thái độ sống trách nhiệm với vũ trụ, với thế giới, với tài nguyên thiên nhiên và môi trường mà Thiên Chúa, tạo hóa đã ban tặng và trao cho mỗi người trách nhiệm trông nom giữ gìn ngay từ khởi thủy. Lời mời gọi hãy nên hoàn hảo như cha anh em trên trời là đấng hoàn hảo được thánh Matthew đặt vào cuối chương 5 (5,48). Đây là chương đầu tiên của Bài Giảng Trện Núi (Mt 5 – 7). Và chương 5 được khởi đầu bằng tám mối phúc thật, trong đó những lời chúc phúc được đảo ngược dành cho những kẻ khó nghèo về tinh thần; những người hiền lành; những người sầu khổ; những người khao khát sống cuộc đời công chính; những người thương xót người khác; những người có tâm hồn trong sạch;  những người xây dựng hòa bình; những người bị bách hại vì lẽ công chính. Và lời mời gọi khó khăn nhất cuối chương 5, cũng là điều kiện để mỗi tín hữu chứng tỏ mình là con của Cha trên trời, là “hãy yêu mến kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ anh em” (Mt 5,44-45). Đời người được ví như thời gian ông chủ đi xa, như Thiên Chúa vắng bóng. Ngài nhường lại không gian, thời gian và trao cho mỗi người những tài năng theo đúng khả năng của mỗi người. Thời điểm ông chủ trở về, lúc Chúa đến, là giờ chết của mỗi người, hay là ngày tận thế. Sự phán xét vào lúc ấy là chung cục không thể thay đổi gì nữa. Người được mời gọi vào hưởng niềm vui của chủ và kẻ bị quăng ra ngoài nơi tối tăm và trở thành kẻ khóc lóc và nghiến răng. Tất cả ranh giới này là vĩnh viễn. Phụng vụ Lời Chúa vào cuối năm phụng vụ mời gọi mỗi người rà soát lại túi của mình xem mình đã sinh lời được những gì và đánh mất những gì và cần phải làm thêm gì nữa để hoàn thiện mỗi ngày. Chắc chắn rằng, lời mời gọi này, Chúa Giê-su đã mời gọi hơn 2000 năm và còn mời gọi, nhắc nhở chúng ta mỗi ngày chứ không chỉ là cuối năm phụng vụ. Vấn đề là các tín hữu của Ngài có để tâm và nhiệt tâm hay không mà thôi.

Joseph Phạm Duy Thạch SVD

 



[1] Mna (μνᾶ, μνᾶς) là một đơn vị tiền tệ trong tiếng Hy Lạp. Theo Friberg, nó có giá trị tương đương 60 drachmas, hay là 1/60 talenton. Trong Ước, nó có giá trị tương đương với 100 shekels. Danker còn nói thêm là nó có thể mua được 20-100 con bò tùy theo thời giá.

[2] Khác với Luca, Matthew dùng đơn vị talenton (τάλαντον). Theo Friberg thì một talenton có giá trị cân nằng bằng 26-28 kilogram hay tương đương với 3000 shekels Do thái. 5 talenton xap xi 30, 000 đồng Rô-ma. 2 talenton, xấp xỉ 12,000 đồng Rô-ma.

[3] D. J. Harington, The Gospel of Matthew (SP 1; Collegeville 1991) 352.

[4] ὀκνηρός tính từ này thường được dịch là lười biếng nhưng nó cũng có một nghĩa khác đó là chần chừ, do dự, ngại, sợ. Cách hiểu này xem ra hợp lý hơn theo cách ngụy biện của tên đầy tớ này. Nhưng nó lại không đúng với sự thật là anh ta biếng nhác.

[5] D. J. Harington, The Gospel of Matthew (SP 1; Collegeville 1991) 353.

No comments:

Post a Comment