CN XXXIII TNA
(Cn 31, 10-13, 19-20.
30-31; Tx 5, 1-6; Mt 25, 14-30)
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán
cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi
các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc,
người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn
ông ra đi.
"Người lãnh năm nén
bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Người lãnh hai
nén cũng đi làm lợi được hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ
chôn giấu tiền của chủ mình.
"Sau một thời gian
lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén
bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông trao cho tôi
năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng:
"Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ,
ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ
ngươi". Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã
trao cho tôi hai nén bạc; đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo
người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín
trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng
của chủ ngươi".
"Còn người lãnh một
nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt nơi
không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ (mà) đi chôn giấu nén bạc
của ông dưới đất. Ðây của ông, xin trả lại cho ông". Ông chủ trả lời người
ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, người đã biết ta gặt chỗ không
gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra người phải giao bạc của ta cho người đổi tiền,
và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại
mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ
chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các
ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến
răng".
Bối cảnh
Đoạn Tin Mừng hôm nay nằm
trong bối cảnh của Chúa Nhật áp cuối của năm Phụng Vụ A. Tuần sau là Chúa Nhật
cuối cùng của năm phụng vụ A, Lễ Chúa Giê-su Ki-tô, vua vũ hoàn. Trong bối cảnh
ấy chủ đề phụng vụ dĩ nhiên là liên quan đến khoảnh khắc cuối cùng của mỗi con
người. Hơn ai hết, mỗi ki-tô hữu ý thức rõ rằng mình là môn đệ của Chúa Giê-su
và mình là con Chúa và sẽ trở về với Chúa một khi chết đi. Chính Chúa Giê-su đã
nhiều lần thông báo rằng Ngài sẽ trở lại (Mt 16,27; 25,31; Mc 8,31; Lc 9,26). Mỗi
Chúa Nhật, các tín hữu cũng tuyên xưng trong Kinh Tin Kính rằng: “Ngài sẽ trở lại
trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Tuyên xưng không ngừng như
thế, nhưng lời tuyên xưng ấy đôi khi trở thành thói quen hơn là một niềm xác
tín. Cho nên, tuyên xưng như thế nhưng các tín hữu đôi khi lại thiếu sức sống,
thiếu những hành động cụ thể hay những chuẩn bị cần thiết cho xác tín ấy. Đôi
khi gánh nặng cuộc sống thể lý, cơm áo gạo tiền, làm cho họ quên đi việc hiện
thực hóa cách sống động niềm tin này. Chính vì thế, phụng vụ giáo hội trong những
tuần cuối năm và đầu năm, khởi đầu bằng Chúa Nhật Mùa Vọng, luôn nhắc nhở con
cái đức tin, con cái ánh sáng về niềm xác tín về ngày trở lại của Chúa Giê-su
trong vinh quang.
Trong bối cảnh của Tin Mừng
Matthew, Mt 25,14-30 tiếp theo dụ ngôn “mười cô tring nữ đi đón chàng rể” (Mt
25,1-13), và dụ ngôn “người tôi tớ” (24, 45-51), là loạt 3 dụ ngôn nói về thời
cánh chung, thời sau cùng của thế giới, khi Đức Giê-su trở lại lần thứ hai, và
cũng là lần cuối. Chủ đề của đoạn dụ ngôn dĩ nhiên cũng như chủ đề Phụng Vụ,
cũng nói về những vấn đề của thời sau hết của nhân loại. Trong các tác giả Sách
Tin Mừng, chỉ có Luca chia sẻ dụ ngôn này giống như Matthew, với nhiều chi tiết
khác biệt sẽ nói sau.
Một số điểm khác nhau
chính yếu giữa bản văn Luca và Matthew
Có
khác nhiều điểm khác biệt giữa hai bản văn của cả hai tác giả tường thuật cùng
một dụ ngôn. Thứ nhất, Matthew bắt đầu bằng liên từ “γὰρ”
cho thấy sự liên tục của dụ ngôn này với dụ ngôn “mười cô trinh nữ đi đón chàng
rể” ngay phía trước, với câu kết là: “vì vậy, hãy coi chừng vì các ngươi không
biết ngày và giờ” (Mt 25,13). Câu kết này được Matthew viết tiếp: “quả thế (γὰρ),
cũng như có người kia sắp đi xa liền gọi các đầy tớ của mình lại…”. Câu khởi đầu
của này của Matthew cho thấy sự nối kết rất gần gũi giữa dụ ngôn này với dụ
ngôn “mười trinh nữ đi đón chàng rể” (Mt 25,1-13). Nó hoặc là minh họa cho dụ
ngôn, làm rõ thêm dụ ngôn trước đó hoặc củng cố cho dụ ngôn trước đó. Bản dịch
Anh Ngữ ESV còn dịch liên từ (γὰρ) như là một liên
từ chỉ sự kết quả (for): “vì thế” trong khi bản dịch Pháp Ngữ (TOB), bản dịch Ý
ngữ (CEI) và bản dịch Việt ngữ (CGKPV) đều dịch là “quả thế” (infatti, En
effet). Dụ ngôn này được Luca đặt ngay sau tường thuật về việc Chúa Giê-su viếng
thăm nhà ông Gia-kêu. Và lý do mà Luca đưa ra, bối cảnh cụ thể mà Chúa Giê-su kể
dụ ngôn này là vì Chúa Giê-su lúc đó đang tiến gần đến Giê-ru-sa-lem và nhiều
người nghĩ rằng Vương quốc Thiên Chúa sẽ đến ngay lập tức, nên “Chúa Giê-su mới
kể cho họ nghe dụ ngôn này” (Lc 19,11). Cũng nên nhắc lại rằng Tin Mừng Luca,
tường thuật về chặng đường đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dài nhất trong tất cả
các tin Mừng. Thánh Luca dành đến mười chương để tường thuật hành trình này
(9,51 – 19, 44). Dụ ngôn mười nén bạc của Luca được đặt ở giao điểm giữa đoạn
cuối của cuộc hành trình này và tường thuật về sự kiến Chúa Giê-su tiến vào
Giê-ru-sa-lem. Matthew đặt dụ ngôn này vào trong loạt những bài giảng về thời
cánh chung sau khi Ngài đã vào Giê-ru-sa-lem vinh quang.
Thứ
hai, thánh Matthew chỉ nói là “một người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ mình lại
chia….” Không cụ thể là ai và đi đâu để làm gì. Trong khi đó Luca xác định khá
rõ địa vị của người này. Ông ta là một người đàn ông quý tộc (εὐγενὴς).
Và lý do cũng rất cụ thể là ông này đi xa để lãnh nhận vương quyền và sẽ trở về.
Thứ
ba, số người mà ông ta gọi đến để trao nén bạc là mười đầy tớ và số tiền mà ông
đưa cho họ chung chung là mười người lãnh nhận mười mna.[1]
Nhưng sau đó, Luca lại chỉ đề cập đến ba người báo cáo về số tiền mà chủ giao
mà thôi. Bảy người còn lại không biết đi đâu. Matthew xem ra chặt chẽ hơn khi
nói rằng ông chủ trao cho ba người đầy tớ mỗi người một số lượng khác nhau. Người
thì năm talanton[2]
người thì ba talanton và người khác nữa thì một talenton. Matthew còn nói rõ là
mỗi người tùy theo khả năng của họ, chứ không phải ai cũng như ai.
Thứ
tư, theo Luca thì ông này ra lệnh cho mười đầy tớ của mình là “hãy lấy số tiền
này đầu tư cho đến khi tôi trở về”. Matthew không ghi lại mệnh lệnh này. Thay
vào đó, ông cho thấy hành động cụ thể của ba người đầy tớ. Trong đó, người thứ
nhất đã lấy năm talanton đi làm ăn kinh doanh ngay lập tức và đã sinh lời được
năm talenton khác. Người đã lãnh hai talanton cũng sinh lời được hai talanton
khác. Còn người thứ ba, người nhận một talanton thì đem đi đào lỗ và chôn dấu.
Thứ
năm, phần thưởng mà ông chủ dành cho các đầy tớ biết sinh lời cũng khác nhau giữa
hai phiên bản của Luca và Matthew. Trong khi, các đầy tớ của Luca được trao quyền
lãnh đạo trên số thành tương ứng mới số minas mà họ sinh lời. Các đầy tớ của
Matthew được lời hứa là sẽ được trao nhiều (vốn) hơn và được mời gọi là hãy vào
hưởng niềm vui của chủ ngươi.
Thứ
sáu, Luca tường thuật chi tiết những người công dân của ông ghét ông nên sai một
phái đoàn đến sau ông để nói rằng “chúng tôi không muốn rằng ông này làm vua chúng
tôi.” (Lc 19,14). Đây là chi tiết không hề tồn tại trong tường thuật của
Matthew. Chi tiết này cùng với chi tiết “người đàn ông quý phái đi xa để lãnh
nhận vương quyền” (Lc 19,11) và chi tiết “giết chết những người dân” (Lc 19,27)
theo trình thuật của thánh Luca được sử gia Josephus liên tưởng đến sự kiện lịch
sử liên quan đến Archelaus. Số là, sau khi vua Hê-rô-đê cả băng hà, Archelaus
cùng đoàn tùy tùng của mình đã đến Roma để thuyết phục hoàng đế Cesar chấp nhận
cho ông ta làm kế thừa vua cha. Trong khi đó một phái đoàn năm mươi người Do
thái tại từ Israel, hợp với tám ngàn người Do Thái tại Roma, đã đến trước Cesar
để tranh luận nguy cơ làm vua của Archelaus. Theo những bản văn của Josephus,
Archelaus đã giết chết 3000 người do thái gây rối trước khi đến Roma.
Thứ
bảy, Luca kết thúc dụ ngôn của mình với việc ông chủ ra lệnh giết chết những kẻ không muốn ông làm vua (Lc 19,27).
Matthew thì kết thúc một cách hợp lý hơn, người đầy tớ vô dụng đã bị tống ra
ngoài nơi tối tăm, và ở đó anh phải khóc lóc và nghiến răng (Mt 25,30)
Một vài điểm chú giải
1.
Người người kia đi xa:
Ý tưởng một người kia (một ông chủ vắng mặt) trong dụ ngôn này nhằm làm nổi bật
cốt truyện trong đó trách nhiệm của người đầy tớ được đặt nặng. Rõ ràng Matthew
không muốn nói gì đến mục đích đi xa của ông này và thậm chí danh tánh, địa vị
của ông Matthew cũng không đề cập đến. Chi tiết cần thiết mà nhất đọc giả cần
biết đến là ông ta “đi xa” (apodemeo). Ông chủ đi xa có nghĩa là trách nhiệm
trông nhà, trông cửa thuộc về các đầy tớ. Và ông chủ vắng bóng càng cho thấy mức
độ trưởng thành và trung tín của một người đầy tớ. Có những người đầy tớ chỉ
trung thành giả tạo khi có mặt ông chủ. Còn những người đầy tớ đích thực, thì họ
tôn trọng chính bản thân và nhân phẩm đầy tớ của mình. Họ có lòng tự trọng, và
luôn có tinh thần trách nhiệm cao nhất dù có ông chủ ở đó hay không. Người Việt
nam có câu: “chủ vắng nhà gà vọc nêu tôm”. Một khi chủ vắng mặt thì những cái xấu
xa, vô trách nhiệm của một đầy tớ rất dễ phơi bày. Mc 14,34-36 cũng nói đến một
ông chủ đi xa và giao nhà, giao việc cho các đầy tớ, mỗi người mỗi việc và ra lệnh
cho người giữ cửa phải canh thức. Rõ ràng, chi tiết một người kia đi xa rất
quan trọng trong dụ ngôn này. Nó để lại không gian hành động và trách nhiệm của
các đầy tớ. Ông chủ của Matthew tín thác tài sản mình trong tay các đầy tớ và
chờ đợi một kết quả tích cực.
2.
Trao cho họ tài sản của mình (τὰ ὑπάρχοντα).
Danh từ được dịch là tài sản trong dụ ngôn này cũng rất đáng chú ý. Trong ngôn
ngữ gốc Hy Lạp, đây là một động từ thêm -ing (participle), được dùng như một
danh từ có mạo từ xác định đi trước. Nó phát xuất từ động từ “ὑπάρχω” có nghĩa là tồn tại, hiện diện, là…giống
như động từ eimi. Như vậy, cái mà ông chủ trao cho đầy tớ có thể là một tài sản
bình thường như tiền bạc, đất đai, nhà cửa, nhưng cũng có thế quý giá hơn nữa,
là chính bản thân ông, chính sự hiện hữu, sự tồn tại của ông. Danh từ tài sản
này gợi nhớ đến Mt 24,7, nơi mà ông chủ cũng hứa trao toàn bộ tài sản của mình
cho đầy tớ thông minh và trung thành coi sóc.
3.
Trao talenton… mỗi người theo khả
năng của mình. Không biết ngẫu nhiên hay hữu ý, trong
ngôn ngữ hiện đại đơn vị tiền tệ này được dịch là talent, cũng có nghĩa là tài
năng tự nhiên. Món quà tài năng này được trao không phải như nhau cho tất cả mọi
người nhưng mỗi người tùy theo khả năng sử dụng nó để sinh lời. Thật hợp lý, khả
năng mỗi con người không giống nhau. Ông chủ chắc chắn biết rõ điều ấy và trao
số lượng talanton đúng với khả năng của mỗi người. Nếu trao thiếu thì người đây
tớ ấy không phát huy hết khả năng của mình. Còn nếu trao dư thì người đầy tớ sẽ
không dùng hết đâm ra uổng phí. Thánh Phao-lô có những ý tưởng tương tự như thế.
Rm 12,3-8 “nói về mức độ đức tin mà Chúa trao gửi cho anh ta” và “món quà khác
nhau theo ân sủng đã được ban cho chúng ta”. Ep 4,7-8 và 1 Pt 4,10 đề cập đến việc
khi mỗi người đã lãnh nhận một món quà, hãy tận dụng nó vì nhau, như là những
người phục vụ ân sủng muôn hình vạn trạng của Chúa”.
4.
Lập tức… lấy… làm việc… và sinh lời. Bốn
động từ liên tục được sử dụng cùng với trạng từ chỉ mức độ nhanh chóng, gấp rút,
dồn dập của người đầy tớ thứ nhất, người trao được năm nén, cho thấy sự nhiệt
thành, trách nhiệm và chịu thương chịu khó của người đầy tớ này. Trạng từ “tương
tự như thế” (ὡσαύτως) đặt ngay trước biểu hiện
của người đầy tớ thứ hai, người nhận được hai talanton. Tuy tác giả không lặp lại
những động từ dày đặc và trạng từ chỉ tính gấp rút trong hành động của người thứ
nhất. Tuy nhiên, trạng từ “tương tự như thế” đã thay thế cho tất cả các cách diễn
tả ấy. Nghĩa là cả hai người đầy tớ này đều trung thành, trách nhiệm, nhiệt
thành cách gấp rút, nhanh nhất có thể để làm cho những talanton mà chủ ban cho
mình được sinh lời gấp đôi. Và họ đã thành công.
5.
Hành động của người thứ ba, người đã
nhận được một talenton. Đi, đào lỗ, chôn số bạc của chủ anh
ta. Anh cũng có ba hành động nhưng không được bắt đầu bằng trạng từ vội vã. Giả
định rằng anh ta cứ bình chân, không lấy gì làm vội vã trong các hành động của
mình. Và những hành động của anh ta đều mang tính tiêu cực. Đào và chôn bạc.
Chôn dấu bạc dưới đất là một thói quen của người thời xưa. Nếu anh ta đào và
chôn dấu số bạc của mình thì đó là chuyện bình thường. Ngạn ngữ xưa có câu: “tiền
bạc chỉ được canh giữ bằng cách chôn dưới đất”. Theo như Jeremias (Parables,
61), thì chôn tiền được xem như bảo đảm tốt nhất để chống trộm. Ai chốn dấu tiền
thì thoát khỏi trách nhiệm pháp lý, trong khi đó ai gói tiền ký thác trong vải
thì chịu trách nhiệm cho việc mất.[3]
Nhưng đây là số bạc mà chủ đã giao phó cho anh trước lúc đi xa. Rõ ràng là anh
này không hiểu rõ ý chủ của mình. Nếu chủ đưa bạc cho anh chỉ để cất dấu thì
không cần chia talanton từng người tùy theo khả năng của mình. Ông chủ chắc chắn
cũng có kho để cất dấu của mình, không cần trao cho từng người đầy tớ mỗi người
một số lượng khác nhau như thế.
6.
Sau một thời gian dài (πολὺν χρόνον).
Đây là kiểu nói thể hiện sự trì hoãn, tương tự như chúng ta đã gặp trong những
dụ ngôn trước Mt 24,48 và 25,5. Đây rất có thể là thời gian giữa lúc Chúa Giê-su
lên trời và trở lại trong vinh quang. Nó kết hợp “người đàn ông đi xa” trong phần
đầu tiên của dụ ngôn để làm thành một hành trình của nguoi2 chủ: ra đi và trở lại
sau một thời gian dài. Đây là thời gian có đủ để các đầy tớ sinh lời theo đúng
khả năng và số vốn mà Chúa trao phó.
7.
Đầy tớ tài giỏi và trung thành: Cả
hai người đầy tớ đầu tiên cùng được ông chủ khen với cùng những loại phẩm tính:
“tài giỏi và trung thành”. Cả hai anh tài giỏi và trung thành trong cách thức
sinh lời gấp đôi, kịp lúc trước khi chủ trở về. Và họ xứng đáng được trao nhiều
talanton hơn thế nữa bởi vì họ đã trung thành khi đã được giao ít.
8.
Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh. Cùng với lời khen
và lời hứa được giao nhiều hơn là một lời mời gọi hết sức hậu hỷ: “hãy vào mà
hưởng niềm vui của chủ ngươi”. Đó có thể là lời mời gọi vào dự tiệc Messiah
trong thời cánh chung. Cũng như năm cô trinh nữ khôn ngoan vì đã sẵn đèn dầu
nên được vào dự tiếc cưới với chàng rể, hai người đầy tớ tài giỏi và trung
thành cũng được vào hưởng niềm vui của chủ các anh. Lời mời gọi này không có
trong bản dụ ngôn của Luca. Bản tiếng Việt (CGKPV), bản tiếng Pháp (TOB) và bản
tiếng Ý (CEI) đều dịch có ý rằng “hãy vào và hưởng niềm vui của chủ anh”. Trong
khi đó bản nguyên ngữ tiếng Hy Lạp thì chỉ nói là “hãy vào bên trong (εἰς, vào trong) niềm vui của chủ anh). Có thể có nghĩa là chia sẽ
chung niềm niềm vui với chủ của anh. Anh được hòa vào trong niềm vui của chủ
anh, được chung phần với chủ. Đó là niềm vinh dự của người tôi tớ vì tôi tớ thường
dù có làm gì thì cũng là việc bổn phận. Từ đi vào (εἰσέρχομαι) cộng với giới từ bên trong (εἰς) được dùng ở đây
giống y chang như động từ và giới từ được dùng trong dụ ngôn mười người trinh nữ
cầm đèn đi đón chàng rể. Năm cô trinh nữ khôn ngoan, những người đã sẵn sàng di
vào bên trong phòng tiệc cùng với chàng rể. Đây là lối diễn tả chung cuộc của
buổi cánh chung. Sự đi vào bên trong niềm vui của chủ không phải là trong chốc
lát nhưng là kéo dài vĩnh viễn. Có người bên trong được chung vui thì chắc chắn
cũng có những kẻ bên ngoài buồn bã. Đó là năm cô trinh nữ khờ dại hay là người
tôi tớ thứ ba trong dụ ngôn này.
9.
Người đầy tớ lười biếng… xấu xa… và vô dụng. Anh đầy tớ này có
một lý giải khá suôn sẻ và hợp lý và không làm hao hụt số vốn mà chủ giao. Tuy
vậy, lối lý giải ấy không thuyết phục được ông chủ. Như đã nói trên, trong khi
hai người đầy tớ đầu tiên đã hiểu được ý chủ và dấn thân sinh lời gấp đôi ngay
lập tức thì tên đầy tớ này lừng khừng, không hiểu, và chỉ làm theo suy nghĩ của
anh. Đầy tớ thì phải làm theo ý chủ, đoán ý chủ mà làm. Đầy tớ này được chủ kết
luận là lười biếng[4], bởi
anh ta đã không làm gì trong suốt thời gian dài chủ đi vắng. Đối nghịch lại với
hai phẩm tính tốt mà ông chủ dành cho hai người tôi tớ trước (tài giỏi và trung
thành) là hai tật xấu dành cho người đầy tớ thứ ba: xấu xí và biếng nhác. Anh bị
cho là xấu xa có thể là do anh đã nghĩ sai về chủ của anh, hoặc anh đã lấy ý
anh làm ý chủ. Còn có ý trách vì ông chủ như thế nên anh ta làm như vậy. Vì ông
chủ hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi nên anh ta mới đâm sợ và đi
chôn dấu số bạc. Nói cách khác anh quy trách nhiệm cho lỗi lầm của anh là vì chủ
anh chứ không phải do anh lười biếng. Rõ ràng một đầy tớ không biết ý chủ, lấy ý
mình làm ý chủ, lười biếng, không làm gì trong suốt thời gian dài, là một đầy tớ
vô dụng, hết xài. Và anh không những phải bị sa thải ngay lập tức mà còn bị trừng
phạt nghiêm khắc.
10.
“Hãy ném tên
đầy tớ vô dụng ra bên ngoài vào trong nơi tối tăm.” Trái ngược với số phận
dành cho những đầy tớ tài giỏi và trung thành: được mời vào bên trong niềm vui
của chủ, những đầy tớ biếng nhác, xấu xa và vô dụng bị quăng ra bên ngoài vào nơi
tối tăm. Như đã nói trên, có người bên trong thì sẽ có kẻ bên ngoài. Đó là cấu
trúc của dụ ngôn của Matthew. Có năm cô trinh nữ khôn ngoai thì có năm cô khờ dại.
Những người vào bên trong thì được mời “hãy vào”, những người ra bên ngoài thì
bị “quăng”. Quăng, ném là động từ dành cho một sự vật chứ không dành cho một
con người. Quăng, ném giả định một sự túm lấy, trói lại rồi mới quăng đi. Anh ta
vô dụng nên bị quăng đi như một đồ vật phế thải. Những người tài giỏi và trung
thành thì đi vào niềm vui của chủ, còn tên đầy tớ vô dụng thì đi vào nơi tối tăm.
“vào nơi tối tăm bên ngoài” diễn tả sự phán xét chung cuộc.[5]
Hình phạt của tên đầy tớ vô dụng còn được diễn tả một cách chi tiết rùng rợn hơn:
khóc lóc và nghiến răng hoài hoài. Bản dịch Việt Ngữ (CGKPV) là: “ở đó sẽ phải
khóc lóc và nghiến răng”. Cách dịch này diễn tả hành động nhưng không gột tả hết
được ý nghĩa của bản văn. Bản văn gốc không dùng động từ khóc lóc và nghiến răng
mà dùng hẳn động từ eimi (là) cùng với hai danh từ với mạo từ xác định: kẻ khóc
lóc và kẻ nghiến răng. Anh ta sẽ là kẻ khóc lóc và kẻ nghiến răng. Từ nay anh
ta được gọi là “kẻ khóc lóc” và “kẻ nghiến răng”. Cùng lúc anh ta làm hai hành động
và không phải một lúc nhưng suốt đời. Nó bao trùm cả số phận, tình trạng, cho
suốt phần đời còn lại của anh. Cũng như thế, những đầy tới chung vui với chủ là
vui suốt cả phần đời còn lại của họ. Đó là cách thức diễn tả một tình trạng
chung cuộc của thời cánh chung. Lối diễn tả hình phạt khóc lóc và nghiến rằng được
Matthew sử dụng nhiều lần khác. Trong Mt 8,12 Chúa Giê-su cảnh báo rằng thiên hạ
sẽ từ đông tây đến dự tiệc với Abraham, Isaac và Gia-cóp trong Nước Trời, còn con
cái vương quốc thì bị quăng ra ngoài nơi tối tăm và sẽ trở thành kẻ khóc lóc và
kẻ nghiến răng.
11.
“Người đã có thì
sẽ được cho thêm và sẽ có dư tràn, còn kẻ không có thì ngay cái nó đang có cũng
sẽ bị lấy đi.”
Đây là câu giải thích cho bối cảnh cụ thể, khi người đã có mười talanton đã được
cho thêm một talanton nữa. Điều này là hiện thực hóa lời hứa của ông chủ ở
25,21 dành cho người đầy tớ tài giỏi và trung thành vì anh đã trung thành trên
số ít được giao. Cũng lý giải cho việc người đầy tớ biếng nhác có ít nhất (chỉ
có một đồng), thì đã bị lấy đi. Tiếng Việt rất lợi thế trong việc truyền tải
hai động từ bị động trong câu này. Trong khi động từ cho thêm được dịch ở thể bị
động là “được cho thêm” với một ý nghĩa tích cực, động từ lấy đi, tước đi ở thể
bị động được dịch là “bị lấy mất” với ngụ ý rất tiêu cực. Cách dịch này trong
Tiêng Anh, Tiếng Ý hay Tiếng Pháp, không hề thấy rõ. Thể bị động trong các động
từ này được gọi là bị động thần linh. Có nghĩa là Chúa chính là tác nhân của các
hành động này. Chúa sẽ “ban thêm” cho kẻ đã có nhiều và Chúa sẽ “lấy đi” cái đang
có của kẻ có ít. Đó cũng là hình phạt dành cho những kẻ làm gương mù, gương xấu
và phá luật (Mt 13,12), rồi hình phạt dành cho kẻ đầy tớ xấu xa, chè chén say sưa
đánh đập tôi trai tớ gái (Mt 24,51). Luca cũng nói đến cùng hình phạt dành cho
quân làm điều bất chính (Lc 13,28).
Bình
luận
Dụ
ngôn những talanton nằm trong loạt ba dụ ngôn nói về thời cánh chung của Matthew:
dụ ngôn hai đầy tớ Mt 24,45-51; dụ ngôn mười người trinh nữ đi đón chàng rể Mt
25,1-13; và dụ ngôn những talanton Mt 25, 14-30. Dụ ngôn những talanton của Matthew
có cấu kết chặt chẽ và mạch lạc hơn dụ ngôn có cùng chủ đề của Lc 19,11-27. Ta có
thể chia dụ ngôn thành 3 phần. (1) Ông chủ đi xa và trao talanton (Mt 25,14-15);
(2) hành động của ba người đầy tớ (25,16-18); (3) báo cáo của ba đầy tớ, phần
thưởng và hình phạt (25,19-30). Ông chủ đi xa diễn tả một khoảng thời gian vắng
bóng của ông chủ, đồng nghĩa với việc ông trao lại cho các đầy tớ không gian và
thời gian tự do thể hiện trách nhiệm của mình. Và khoảng thời gian ông chủ đi vắng
được diễn tả là rất lâu. Các đầy tớ được giả định có đủ thời gian phát huy tài
năng của mình. Hơn thế nữa, ông còn trao cho họ những talanton phù hợp theo khả
năng của mình. Ông biết rõ khả năng từng người và trao đúng số lượng cần thiết,
không hơn không kém. Người tôi tớ khôn ngoan, nhiệt thành và trách nhiệm sẽ tận
dụng thời gian ngay lập tức, nhanh nhất có thể để đầu tư sinh lời. Quả thật, hai
đầy tớ đầu tiên đã làm như thế và đã làm rất hiệu quả. Mỗi người đều sinh lời được
gấp đôi. Còn người đầy tớ thứ ba thì lười biếng, lừng khừng, không muốn đầu tư,
không muốn làm việc. Anh ta đã chôn dấu talanton của chủ và dự định sẵn một phương
án để đối phó với ông chủ. Mọi chuyện xảy ra đúng như logic của nó. Những người
nhiệt tâm và siêng năng đã được ông chủ khen thưởng như những đầy tớ tài năng và
trung thành. Ngoài những mỹ từ ca tụng đức hạnh này, ông chủ còn hứa là sẽ trao
thêm vốn liếng và cơ hội cho những đầy tớ này nữa. Bằng chứng cụ thể là ông đã
trao thêm cho người có mười talanton một nén nữa. Hơn nữa họ còn được mời gọi cách
long trọng là “vào niềm vui của chủ anh”. Đó là một phần thưởng được đồng bàn, được
chia sẻ được đồng hưởng niềm vui và sự sung túc của chủ. Người tôi tớ thiếu nhiệt
thành, lừng khừng bị mắng nhiếc bằng những từ thậm tệ: xấu xa và biếng nhác. Anh
bị tước lấy talenton mà anh đang có, bị công bố là kẻ vô dụng, hết xài. Ngoài ra,
anh còn bị tống ra ngoài nơi tối tăm. Hơn nữa, anh phải trở thành người khóc lóc
và nghiến răng trọn kiếp. Đức Giê-su sẽ trở lại trong ngày tận thế. Khoảng thời
gian trước khi Ngài trở lại được ví như khoảng thời gian ông chủ vắng bóng, đi
xa. Ngài trao cho mỗi tín hữu thời gian và cơ hội để họ hoàn thiện đời mình. Cái
mà Thiên Chúa trao cho mỗi người tín hữu, những talanton mà người trao gửi vào
tay từng người là chính sự sống, sự hiện hữu của người. Ngài trao cho họ hình ảnh
của Ngài, hơi thở của Ngài, cùng với những ân sủng cần thiết để con người có thể
trở nên hoàn thiện như chính chính Chúa là Đấng hoàn thiện. Lời mời gọi nên hoàn
thiện phải luôn được thể hiện ngay lập tức, gấp rút và từng phút giây. Mỗi người
không những phải tự sửa đổi nhưng thói hư tật xấu nơi mình mà còn phải hướng đến
kẻ khác với con tim yêu thương, thể hiện bằng những hành động tử tế đối với đồng
loại, đặc biệt là với những người yếu đuối, nghèo hèn. Sự hoàn thiện bản thân của
con người còn phải được thể hiện qua thái độ sống trách nhiệm với vũ trụ, với
thế giới, với tài nguyên thiên nhiên và môi trường mà Thiên Chúa, tạo hóa đã
ban tặng và trao cho mỗi người trách nhiệm trông nom giữ gìn ngay từ khởi thủy.
Lời mời gọi hãy nên hoàn hảo như cha anh em trên trời là đấng hoàn hảo được thánh
Matthew đặt vào cuối chương 5 (5,48). Đây là chương đầu tiên của Bài Giảng Trện
Núi (Mt 5 – 7). Và chương 5 được khởi đầu bằng tám mối phúc thật, trong đó những
lời chúc phúc được đảo ngược dành cho những kẻ khó nghèo về tinh thần; những người
hiền lành; những người sầu khổ; những người khao khát sống cuộc đời công chính;
những người thương xót người khác; những người có tâm hồn trong sạch; những người xây dựng hòa bình; những người bị
bách hại vì lẽ công chính. Và lời mời gọi khó khăn nhất cuối chương 5, cũng là điều
kiện để mỗi tín hữu chứng tỏ mình là con của Cha trên trời, là “hãy yêu mến kẻ
thù và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ anh em” (Mt 5,44-45). Đời người được ví
như thời gian ông chủ đi xa, như Thiên Chúa vắng bóng. Ngài nhường lại không
gian, thời gian và trao cho mỗi người những tài năng theo đúng khả năng của mỗi
người. Thời điểm ông chủ trở về, lúc Chúa đến, là giờ chết của mỗi người, hay là
ngày tận thế. Sự phán xét vào lúc ấy là chung cục không thể thay đổi gì nữa. Người
được mời gọi vào hưởng niềm vui của chủ và kẻ bị quăng ra ngoài nơi tối tăm và
trở thành kẻ khóc lóc và nghiến răng. Tất cả ranh giới này là vĩnh viễn. Phụng
vụ Lời Chúa vào cuối năm phụng vụ mời gọi mỗi người rà soát lại túi của mình
xem mình đã sinh lời được những gì và đánh mất những gì và cần phải làm thêm gì
nữa để hoàn thiện mỗi ngày. Chắc chắn rằng, lời mời gọi này, Chúa Giê-su đã mời
gọi hơn 2000 năm và còn mời gọi, nhắc nhở chúng ta mỗi ngày chứ không chỉ là cuối
năm phụng vụ. Vấn đề là các tín hữu của Ngài có để tâm và nhiệt tâm hay không mà
thôi.
Joseph Phạm Duy Thạch SVD
[1] Mna (μνᾶ,
μνᾶς) là một đơn vị tiền tệ trong tiếng Hy Lạp. Theo Friberg, nó có giá trị
tương đương 60 drachmas, hay là 1/60 talenton. Trong Ước, nó có giá trị tương
đương với 100 shekels. Danker còn nói thêm là nó có thể mua được 20-100 con bò
tùy theo thời giá.
[2] Khác với Luca, Matthew dùng đơn vị
talenton (τάλαντον).
Theo Friberg thì một talenton có giá trị cân nằng bằng 26-28 kilogram hay tương
đương với 3000 shekels Do thái. 5 talenton xap xi 30, 000 đồng Rô-ma. 2 talenton, xấp xỉ
12,000 đồng Rô-ma.
[3]
D. J. Harington, The Gospel of Matthew (SP 1; Collegeville 1991) 352.
[4] ὀκνηρός
tính
từ này thường được dịch là lười biếng nhưng nó cũng có một nghĩa khác đó là chần
chừ, do dự, ngại, sợ. Cách hiểu này xem ra hợp lý hơn theo cách ngụy biện của tên
đầy tớ này. Nhưng nó lại không đúng với sự thật là anh ta biếng nhác.
[5] D. J. Harington,
The Gospel of Matthew (SP 1; Collegeville 1991) 353.
No comments:
Post a Comment