RABINDRANATH TAGORE là một thi sĩ nổi
tiếng người Ấn độ; là người Châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel. Ông bắt đầu làm
thơ khi mới 8 tuổi.
Một hôm, cậu bé Tagore làm một
bài thơ và đưa lên cho cha xem. Cha cậu lắc đầu
- Thơ mày là thơ thẩn!
rồi quăng ngay vào sọt rác.
Tagore bèn chép bài thơ của
mình thật cận thận và đề xuất xứ là trích trong một cuốn thơ cổ, rồi đưa cho
cha mình.
Cha cậu vừa đọc xong, mắt
sáng rực lên, vỗ đùi khen: “Tuyệt, tuyệt”. Rồi đem khoe tíu tít với đứa con
trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Ông nói :
- Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ,
nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.
Người anh đọc xong cũng xoa
tay khen là hay đáo để, và muốn trích đăng lên mặt tờ báo văn học của
ông.
Ông anh mới hỏi Tagore về cuốn
thơ cổ mà Tagore đã trích bài thơ này để ông còn trích xuất xứ khi đăng lên
báo.
Tagore mới nói rằng: thật ra
đó chẳng phải là bài thơ cổ gì cả. Đó chính là bài thơ của Em mà ba đã vứt vào
sọt rác sáng nay.
Người ta thường nói: “Bụt
chùa nhà thì không thiêng”. Đức Giê-su dẫu làm rất nhiều dấu lạ chữa lành, trừ
quỷ và thậm chí phục sinh kẻ chết khi Ngài làm cho con gái ông Giaia sống lại.
Thế nhưng, đó chỉ là những dấu lạ ở những nơi nào khác, còn nơi quê hương Nagia-rét
thì không.
Ấn tượng mà Đức Giê-su để lại
trong lòng những người đồng hương chỉ là những câu hỏi hoài nghi, ngờ vực: bởi
đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? Ông
ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ con
bà Maria, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giê-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị
em của ông không phải là bà con lối xóm của chúng ta sao? Và hậu quả nặng nề của
những hoài nghi, ngờ vực đó là: Họ vấp ngã vì người.
Người không thể làm được phép
lạ nào tại đó, bởi lẽ phép lạ chỉ dành cho người có đức tin và phép lạ nhằm để
dẫn đến đức tin. Ngài đã nhiều lần nói cùng những người được chữa lành rằng: “Đức
tin của con đã chữa con” hay “ Con tin thế nào thì được như vậy”.
Làm sao Đức Giê-su có thể làm
dấu lạ nếu như họ không tin và làm dấu lạ làm gì khi họ không muốn tin vào
Ngài. Dấu lạ dẫu có làm được cũng chẳng có ý nghĩa gì cả. Bởi lẽ, đức Giê-su đến
thế gian không phải để làm những dấu lạ chữa lành hay trừ quỷ. Ngài không phải
là một bác sĩ đơn thuần. Ngài là Đấng cứu độ. Nhiệm vụ của Ngài cao cả hơn nhiều.
Ngài đến thế gian để gieo mầm đức tin. Chỉ có đức tin mới mang đến cho người ta
ơn cứu độ và sự sống bất diệt” “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,
để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga
3,16).
Như thế, việc chối từ Đức
Giê-su không chỉ là đánh mất ân phúc từ những dấu lạ chữa lành mà thôi nhưng là
đánh mất sự sống đích thực, sự sống đời đời, đánh mất cả đời người.
Nguồn gốc xuất thân tầm thường,
nghề nghiệp bình thường, một lối sống nghèo hèn của một vị Thiên Chúa làm người
đã làm cho những người đồng hương Nagiaret và đa số người Do Thái vấp ngã. Họ
không thể tưởng tượng được là Đấng Thiên Sai mà họ mong chờ bấy lâu lại giáng
sinh trong một máng cỏ nghèo nàn, lớn lên trong một làng quê nghèo Nagiaret, và
làm nghề thợ mộc. Họ không muốn tin, không muốn nhìn nhận, không muốn đón nhận
một Đấng Thiên Sai như thế. Và đó thực sự là một tấn bi kịch, là một thảm kịch.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời
gọi mỗi người chúng ta nhìn lại niềm tin của mình một cách nghiêm túc. Chắc chắn
rằng không ai trong chúng ta nghi ngờ Đức Giê-su là con Thiên Chúa làm người.
Thế nhưng, chúng ta đã thực sự tin tưởng và phó thác đời mình cho Ngài hay
chưa?
Người Do thái đã không tin nhận
một Đức Giê-su đơn nghèo, giản dị, bình thường và thân quen. Còn mỗi người
chúng ta thì sao? Trong một xã hội phát triển, người ta xem những giá trị vật
chất như là những bảo đảm tất yếu của mạng sống con người. Trong một xã hội mà
các địa vị đại gia, phú gia và mỹ nhân là đối tượng cho sự thèm muốn của con
người.
Trong một xã hội mà tiền tài,
danh vọng là mục tiêu, là mối lợi mà người ta bất chấp mọi sự để đạt đến. Trong
một thời đại mà mọi thứ đều quy ra thóc, mọi mối tương quan đều được nối kết bằng
hiện vật và hiện kim. Trong những xã hội như thế, thì một Đức Ki-tô không tiền
tài, không danh vọng, không địa vị, không sắc đẹp ở chỗ nào trong lòng mỗi người
chúng ta?
Chúng ta có dám đặt trọn niềm
tin vào lời hứa của Ngài về một sự bình an đích thực, một sự sống dồi dào, sự sống
bất diệt ngay cả khi chúng ta lâm vào tình trạng túng nghèo, phá sản; ngay cả
khi gia đình chúng ta gặp nghịch cảnh; ngay cả khi chính bản thân chúng ta lâm
trọng bệnh hết đường cứu chữa? Đó mới là niềm tin đích thực và đủ để cho dấu lạ
được xảy ra trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Xin cho mỗi người chúng ta luôn
có được niềm tín thác nơi Đức Ki-tô, Đấng yêu thương luôn hiện diện bên đời
chúng ta, để rồi dù cuộc sống có thăng hay trầm chúng ta vẫn có được sự bình an
đích thực. Amen.
No comments:
Post a Comment