Bản Văn và dịch sát
nghĩa
Việt |
Hy
Lạp |
15
Khi ấy, những người Pharisêu ra đi tham vấn để
họ có thể đánh bẫy Người bằng lời. 16
Họ sai các môn đệ của họ đến với Người, cùng với những
người của Hêrôđê, nói rằng: “Thưa Thầy! Chúng tôi biết rằng Thầy là chân thật và dạy con
đường của Thiên Chúa trong sự thật, không lo lắng về bất cứ ai vì Thầy
không nhìn vào mặt người ta. 17
Vậy, hãy nói cho chúng tôi Thầy nghĩ gì, có hợp pháp để
nộp thuế cho Kaisar hay không? 18
Vì biết sự xấu xa của họ, Đức Giêsu nói rằng:
“Tại sao các ngươi lại thử tôi, hỡi những người đạo đức giả? 19
Hãy cho tôi xem đồng bạc thuế”. Những người này mang cho Người một đồng đênarion. 20
Người nói cùng họ rằng: “Hình ảnh và ấn ảnh này là của ai?” 21
Họ nói cùng Người: “Của Kaisar.” Rồi Người nói
cùng họ: “Hãy trả cho Kaisar những điều của Kaisar,
và cho Thiên Chúa, những điều của Thiên Chúa” 22
Sau khi nghe, họ ngạc nhiên, và rời bỏ Người, họ ra đi. |
15 Τότε πορευθέντες οἱ Φαρισαῖοι συμβούλιον ἔλαβον ὅπως αὐτὸν παγιδεύσωσιν ἐν λόγῳ. 16 καὶ ἀποστέλλουσιν αὐτῷ τοὺς μαθητὰς
αὐτῶν μετὰ τῶν Ἡρῳδιανῶν λέγοντες· διδάσκαλε, οἴδαμεν
ὅτι ἀληθὴς εἶ καὶ τὴν ὁδὸν τοῦ θεοῦ ἐν ἀληθείᾳ
διδάσκεις καὶ οὐ μέλει σοι περὶ οὐδενός· οὐ γὰρ βλέπεις εἰς πρόσωπον ἀνθρώπων, 17 εἰπὲ οὖν ἡμῖν τί σοι δοκεῖ· ἔξεστιν δοῦναι κῆνσον Καίσαρι ἢ οὔ; 18 γνοὺς δὲ ὁ Ἰησοῦς τὴν πονηρίαν αὐτῶν
εἶπεν· τί με πειράζετε, ὑποκριταί; 19 ἐπιδείξατέ μοι τὸ νόμισμα τοῦ κήνσου.
οἱ δὲ προσήνεγκαν αὐτῷ δηνάριον. 20 καὶ λέγει αὐτοῖς· τίνος ἡ εἰκὼν αὕτη
καὶ ἡ ἐπιγραφή; 21 λέγουσιν αὐτῷ· Καίσαρος. τότε λέγει αὐτοῖς· ἀπόδοτε οὖν τὰ Καίσαρος Καίσαρι καὶ τὰ τοῦ θεοῦ τῷ θεῷ. 22 καὶ ἀκούσαντες ἐθαύμασαν, καὶ ἀφέντες αὐτὸν ἀπῆλθαν
(Matt. 22:15-21 BGT) |
Bối cảnh
Máccô và Luca đặt câu chuyện này (Mc
12,13-17; Lc 20,20-25) ngay sau dụ ngôn “những người thuê vườn xấu xa tệ hại”
(Mc 12,1-11; Lc 20,9-19), được kết thúc bằng phản ứng của những Thượng Tế và
Kinh Sư: “Họ tìm cách giết Đức Giêsu nhưng lại sợ dân chúng” (Mc 12,12). Điều
này có tính mạch lạc khi câu chuyện trong Máccô tiếp nối ý tưởng “họ cử mấy người
Pharisêu và mấy người thuộc Hêrôđê đến cùng Người để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy”
(Mc 12,13). Khác với Máccô và Luca, Mátthêu có thêm câu chuyện “dụ ngôn tiệc cưới”
(Mt 22,1-14) trước khi trình bày câu chuyện “nộp thuế cho Kaisar” (Mt
22,15-22). Chủ đề “chối từ” vẫn được tiếp nối cách mạch lạc, vì câu chuyện về
tiệc cưới có nhóm người từ chối lời mời của nhà vua, còn câu chuyện này những
người Pharisêu tìm cách gài bẫy để gây bất lợi cho Đức Giêsu. Chủ đề “thử
thách” với động từ “πειράζω” nhắc nhớ đến những cuộc thử thách Đức Giêsu đã chịu và đã vượt qua
trong Mt 4,1-11. Ngoài ra, nhiều lần Đức Giêsu cũng bị các lãnh đạo Do Thái thử
thách (Mt 16,1; 19,3). Ngay sau đoạn văn này là thử thách của nhóm Xađốc dành
cho Đức Giêsu liên quan đến “sự sống lại” (Mt 22,23-33); và người thông luật
Pharisêu thử thách Người về điều răn trọng nhất (Mt 22,34-40).
Cấu trúc
Mở đầu (15): Âm mưu đánh bẫy. Bản chất Đức Giêsu: Người
chân thật, dạy con đường trong sự thật (16) Thử thách: Có hợp pháp nộp thuế cho Kaisar hay không (17) Bản chất kẻ thử thách: Xấu
xa, đạo đức giả, thử thách người khác (18) Hóa giải thử thách (19-21):
“Hãy trả cho Kaisar những điều của Kaisar, cho Thiên Chúa, những điều của Thiên Chúa” Kết thúc (22): Âm mưu thất bại, ngạc
nhiên rời đi |
Một số điểm chú giải
1.
Những
người Pharisêu: Là nhóm nhân vật đã xuất hiện gần câu chuyện này nhất đi
kèm với nhóm các thượng tế. Họ tìm cách bắt Đức Giêsu (Mt 21,45). Trong câu
chuyện này họ tham vấn nhau để đánh bẫy Đức Giêsu bằng lời. Trong chương 23, họ
xuất hiện cùng với các Kinh Sư với đặc tính “giả hình” (23,13.14.15.23.25.29);
Họ mù quáng (Mt 23,26). Cùng nhóm “những người Xađốc” họ đến chịu Phép Rửa và bị
ông Gioan gọi là “rắn độc” (Mt 3,7). Nhóm Pharisêu tranh luận với Đức Giêsu về
nhiều đề tài: Ăn uống với người thu thuế và những người tội lỗi (Mt 9,10-13);
Ăn chay (9,14-17); Về giữ ngày Sabát (Mt 12,1-14); Thanh sạch (Mt 15,1-9). Sự
xung đột trở nên gay gắt sau khi Đức Giêsu chữa bệnh cho người bại tay trong
ngày Sabát. Những người Pharisêu tham vấn tìm cách giết Đức Giêsu (Mt 12,14).
Danh xưng Pharisêu không xuất hiện trong vụ xử án Đức Giêsu. Họ chỉ xuất hiện với
đề xuất cho lính canh đến gác ở mộ Đức Giêsu (Mt 27,62-66). Phải chăng họ thật
sự không hiện diện trong các phiên xử án, trong cuộc thương khó? Hoặc là họ vẫn
hiện diện như là các thành viên Hội Đồng Do Thái nhưng không được nêu danh? Dù
thế nào đi nữa, sự xung đột giữa nhóm này với Đức Giêsu là điều quá rõ ràng.
2.
Những
người của Hêrôđê: Cụm từ Hy Lạp “τῶν Ἡρῳδιανῶν” có thể mang
nghĩa là những người đang phục vụ Hêrôđê, có thể hơn, nó mang nghĩa là những
người ủng hộ gia đình ông Hêrôđê. Danh xưng Hêrôđê xuất hiện dày đặc trong
trình thuật Giáng Sinh của Mátthêu, đặc biệt Hêrôđê Cả là người truy đuổi Hài
Nhi Giêsu (Mt 2,13-18). Tương tự, Hêrôđê Antipa chính là người đã bỏ tù và ra lệnh
hành quyết ông Gioan Tẩy Giả cách oan ức (Mt 14,1-12). Theo B. Newman –
P.Stine, những người thuộc Hêrôđê là những người ủng hộ con cháu của Hêrôđê với
tư cách là đảng cầm quyền, và như thế ủng hộ sự cai trị của Rôma. Đối lại, những
người Pharisêu là nhóm tôn giáo bảo thủ, họ chủ trương không nộp thuế cho chính
quyền Rôma. Chính là một người Pharisêu tên là Xađốc đã bạn đồng hành với Juđa
trong cuộc nổi dậy chống nộp thuế.[1]
Có thể nói đây là hai nhóm có quan điểm đối nghịch.[2]
Tác giả Máccô ghi nhận rằng sau khi chứng kiến Đức Giêsu chữa người bại tay
ngay trong hội đường vào ngày sabát “nhóm Pharisêu lập tức bàn tính với nhóm
Hêrôđê để tìm cách giết Đức Giêsu” (Mc 3,6). Trong Matthêu, đây là lần duy nhất
những người Pharisêu đi chung với “những người của Hêrôđê”. Sự xuất hiện chung
của hai nhóm đối nghịch này nhằm bao vây Đức Giêsu cả hai phía: Phía luật thuế
của Rôma, và phía những người không ủng hộ nộp thuế. Như thế, đó thật sự là một
vụ thử thách gay go.
3.
Chân
thật, rao giảng đường lối Thiên Chúa trong sự thật, không lo lắng về ai, không
nhìn vào mặt người ta[3]:
Qua mô tả của nhóm môn đệ của những người Pharisêu và nhóm “thuộc Hêrôđê”,
độc giả biết được Đức Giêsu là người chân thật. Cụm từ “không lo lắng về ai” (οὐ
μέλει σοι περὶ οὐδενός) có lẽ diễn tả sự thẳng thắn, không lo sợ ai chi
phối khi sống thật và nói thật. Thành ngữ Sêmít “không nhìn vào mặt người ta” (οὐ γὰρ βλέπεις εἰς πρόσωπον ἀνθρώπων), có thể là
“không xem xét đến địa vị của người ta”, hoặc có thể là “không thiên vị ai”, dù
cho địa vị của họ là gì đi nữa[4].
Mệnh để chỉ lý do được bắt đầu bằng liên từ “vì”, “vì thầy không nhìn vào mặt
người ta”, có thể bổ nghĩa cho mệnh đề “thầy không bị ai chi phối” (nghĩ đen:
không lo lắng về bất cứ ai). Nghĩa là, Đức Giêsu không lo sợ người ta gây bất lợi
gì, cho dù người đó là ai, và ở địa vị nào. Bản tính Đức Giêsu là thật và Người
thể hiện bằng cách “dạy con đường của Thiên Chúa trong sự thật” (καὶ τὴν ὁδὸν τοῦ θεοῦ ἐν
ἀληθείᾳ). Động từ “dạy” ở thì hiện tại (διδάσκεις) diễn tả một sự thật
hiển nhiên. Đức Giêsu luôn dạy nội dung ấy như thế, với tâm thế như vậy, dù kẻ ở
trước mặt Người có là ai và ở vị thế nào. Thực tế, Người đang đối diện với hai
thế lực đối lập (Pharisêu và Hêrôđê). Trong Tin Mừng Gioan Đức Giêsu tự giới
thiệu mình là “con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6) và Người nói nhiều
về sự thật. Khi mô tả Đức Giêsu như thế, nhóm người được sai đến không có mục
đích tâng bốc Đức Giêsu, cho bằng tạo nên một tiền đề vững chắc buộc Đức Giêsu
phải nói thật quan điểm trước câu hỏi mang tính gài bẫy của họ.
4.
Thử
thách … đánh bẫy: Âm mưu ban đầu là của riêng nhóm những người Pharisêu, những
người “thuộc Hêrôđê” chỉ là phương tiện, có thể nói như vậy. Những người
Pharisêu đã “đi bàn tính với nhau” (nghĩa đen, đi lấy lời tư vấn). Mục đích là
“để đánh bẫy Người trong lời nói” (ὅπως αὐτὸν παγιδεύσωσιν ἐν λόγῳ).
Cụm giới từ “trong lời nói” (ἐν λόγῳ)
có chức năng như phương tiện. Họ dùng lời của họ để “đánh bẫy” Đức Giêsu, hoặc
họ đánh bẫy Đức Giêsu qua câu trả lời của Người. Phương thức đánh bẫy bằng lời
là câu hỏi: “Có hợp pháp nộp thuế cho Kaisar không?” Hành động “đánh bẫy” được
Đức Giêsu diễn tả là “thử thách”: Tại sao lại thử thách tôi (τί
με πειράζετε). Đây chính là
hành động của “kẻ cám dỗ”/ “quỷ” (ὁ πειράζων/ ὁ διάβολος) trong trình thuật “Đức Giêsu chịu cám dỗ” (Mt 4,1-11),
nơi mà “kẻ cám dỗ” đã giăng ba cái bẫy để thử thách Đức Giêsu nhưng Người chiến
thắng hoàn toàn. Nhóm lãnh đạo Do Thái nhiều lần thử thách (cám dỗ) Đức Giêsu:
Nhóm Pharisêu và Xađốc thử Người, bằng cách đòi Người một dấu từ trời (Mt
16,1); Nhóm Pharisêu thử Đức Giêsu về luật li dị (Mt 19,13); nhóm những người
thông luật thử Người về điều răn trọng nhất (Mt 22,35). Có thể, đây là những
hình thức thử thách khác nhau nhằm nối dài cơn thử thách của quỷ lúc Đức Giêsu
khai mạc sứ vụ.
5.
Xấu
xa, đạo đức giả: Đức Giêsu bộc lộ tri thức siêu nhiên khi Người biết rõ,
nhìn rõ những âm mưu bên trong của nhóm Pharisêu và những môn đệ của họ.[5]
Đối lại với bản tính “chân thật” của Đức Giêsu, luôn dạy đường lối Chúa với sự
thật là bản tính xấu xa của những người Pharisêu. Đức Giêsu nói câu này trực tiếp
với các môn đệ của những người Pharisêu, và gián tiếp với những người Pharisêu.
Những người “thuộc Hêrôđê” có lẽ không phải là đối tượng mà Đức Giêsu nhắm đến,
vì dường như họ chỉ là phương tiện của nhóm Pharisêu. Danh xưng “kẻ đạo đức giả”
(ὑποκριταί),
theo nghĩa chặt là một diễn viên trên sân khấu ngày xưa, được Tân Ước dùng để
mô tả những người “giả hình”, “giả bộ” (không thật). Người này giống như các diễn
viên trên sân khấu đóng nhiều vai, mang nhiều mặt nạ khác nhau (ngày xưa chủ yếu
là hóa trang bằng mặt nạ). Người ta chỉ thấy họ qua các vai diễn, qua các khuôn
mặt mà không biết, không rõ, gương mặt thật của họ là như thế nào. Đặc tính “xấu
xa” mô tả bản tính “kẻ đạo đức giả”. Thực chất, những lời của họ nói từ đầu đến
cuối là không thật, vì mục đích của họ ngay từ đầu đã xấu xa và không thật. “Kẻ
đạo đức giả” là danh xưng Đức Giêsu của Mátthêu dùng thường xuyên cho những người
Pharisêu. Đặc biệt trong chương 23, Không chỉ là những người Pharisêu mà các
Kinh Sư cũng bị gọi là “kẻ giả hình”. Đây cũng là danh xưng đặc nét của Tin Mừng
Mátthêu. Có đến mười một lần Mátthêu dùng danh xưng này ở hô cách (Mt 6,2.5.16;
15,7; 22,18; 23.13.15.23.25.27.29; Luca: 2 lần 12,56; 13,15, và các tác giả
khác: không dùng).
6.
Nộp
thuế cho Kaisar: Sau khi Rôma áp đặt quyền cai trị trên Juđêa vào năm 6 CE,
họ áp đặt một loại thuế gọi là thuế thân. Những người Do Thái yêu nước đã có
nhiều phản ứng dữ dội đến nỗi dẫn đến một cuộc nổi dậy do Juđa lãnh đạo. Cuộc nổi
dậy đó là cảm hứng và tiền thân cho phong trào “nhiệt thành” sau này.[6]
Việc nộp thuế như thế là điều kiện để được sống bình an như là một chủ thể của
đế quốc Rôma, và thực hiện các quyền liên quan đến thân phận đó. Thuế thân được
áp dụng cho đàn ông, phụ nữ và nô lệ từ 12, 14 tuổi đến 65 tuổi. Thuế được đóng
bằng tiền Rôma. Mt 22,19 cho thấy rằng, tiền thuế là một đồng denari = tiền
công một ngày (Mt 20,2).[7]
Vào thời của Đức Giêsu, đồng denari mang hình ảnh của hoàng đế Tibêriô và ấn ảnh
tiếng Latinh “Tiberius Caesar Divi Augusti Filius Augustus Pontifex Maximus”
(Tiberius Kaisar, con trai của thần Augusttô, thượng tế Augustô”). Cả hai tước
hiệu “Con trai thần Augustô” và “thượng tế Augustô” đều xúc phạm đến lòng đạo đức
của người Do Thái.[8]
Tibêriô cai trị với vị thế là hoàng đế giữa năm 14 – 37 CE.
7.
Của
Kaisar … của Thiên Chúa: Đức Giêsu bị đặt trong tình thế tiến thoái lưỡng
nan. Người không thể ủng hộ việc đóng thuế thân, vì những người Do Thái không
thích chuyện ấy, đại diện là nhóm Pharisêu, đặc biệt là nhóm nhiệt thành và Người
cũng không thể nói ngược lại, vì nếu thế Người sẽ cổ võ phong trào chống lại
chính sách của đế quốc Rôma mà nhóm “thuộc về Hêrôđê” đang ủng hộ. Đức Giêsu chọn
lựa giải pháp trung dung. Về mặt chính trị, phải trả cho Kaisar những gì thuộc
về Kaisar, nhưng về mặt tôn giáo, việc nộp thuế cho đế quốc chẳng ảnh hưởng gì
đến bổn phận đối với Thiên Chúa. Có thể vừa là một công dân tròn trách nhiệm vừa
là tôi tớ trung thành với Thiên Chúa.[9]
Câu trả lời của Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở mức độ được phép hay không được
phép nộp thuế, nhưng còn đi xa hơn khi Người nhấn mạnh bổn phận đối với Thiên
Chúa. Đức Giêsu vừa nối kết vừa phân biệt giữa con người xã hội và con người
tôn giáo.[10]
Người không phủ nhận bổn phận xã hội, nhưng nhấn mạnh thêm bổn phận với Thiên
Chúa. Cụm động từ “trả lại cho Thiên Chúa” (“ἀποδίδωμι”) gợi nhớ đến cụm động từ “trả lại hoa trái”
trong dụ ngôn “những người thuê vườn xấu xa tệ hại” (Mt 21,33-43). Những người
thuê vườn xấu xa tệ hại không nộp hoa trái cho ông chủ, nên sẽ bị tiêu diệt và
vườn nho lại được trao cho những người khác biết nộp hoa trái đúng mùa. Tin Mừng
Luca ghi lại lời tố cáo của Hội Đồng Do Thái dành cho Đức Giêsu trước mặt quan
Philatô: “Người này xách động dân chúng tôi và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho
hoàng đế Kaisar” (Lc 23,2). Lời tố cáo này xem ra chỉ là lời vu khống vì theo
câu chuyện này, Đức Giêsu không hề ngăn cản dân chúng nộp thuế.
Bình luận tổng quát
Trong Mt
22,15-22, Đức Giêsu tiếp tục bị giáo quyền Do Thái tấn công trong những ngày giảng
dạy ở Jêrusalem. Nhóm người tấn công cụ thể ở đây là những người Pharisêu. Họ
đã tham vấn nhau và bày mưu tính kế trước khi gửi các môn đệ đến với Đức Giêsu.
Sự xuất hiện của nhóm “những người của Hêrôđê” cho thấy sự sắp xếp chu đáo của
họ trong vụ gài bẫy Đức Giêsu. Cả hai nhóm đều có mặt, một nhóm đại diện cho những
người Do Thái bảo thủ, rất khó chấp nhận nộp thuế thân cho người Rôma; Nhóm kia
đại diện cho những người tùng phục ủng hộ chính sách Rôma hoàn toàn. Dù có trả
lời thế nào trước câu hỏi: “Có hợp luật để nộp thuế thân cho Kaisar không?” Đức
Giêsu cũng sẽ dính bẫy. Đối diện với mưu đồ bất chính của những kẻ xấu xa, được
gọi là “những kẻ đạo đức giả”, Đức Giêsu không lảng tránh. Thay vì trả lời câu
hỏi “có hoặc không”, Người cho họ thấy một thực tế rằng họ đang bị Rôma đô hộ
và đồng tiền họ đang xài rõ ràng mang hình ảnh và ấn ảnh Rôma. Đức Giêsu không
có đồng tiền ấy trong khi họ luôn có trong mình. Thế thì, cho đến khi nào họ
thoát khỏi tình trạng này, họ vẫn phải “trả chao Kaisar” những gì thuộc về
“Kaisar”.[11]
Điều quan trọng là vượt ra khỏi mọi cơ cấu thống trị về mặt chính trị xã hội, họ
phải nhận biết Đấng thống trị tối cao là Thiên Chúa, và họ phải phụng sự Người.
Trong bối cảnh của sự xung đột giữa hai nhóm người: Những người được xem là ưu
tuyển và nhóm những người vốn bị xem là kém hơn, câu chuyện này càng cho thấy sự
thúc đẩy những người yếu thế hơn để họ biết nắm lấy vận mệnh đời mình mà vươn
lên Thiên Chúa, là vua tối cao của toàn cõi vũ hoàn.
Lm. Jos. Phạm
Duy Thạch, SVD.
[1]
R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew
(NICNT; Grand Rapids 2007) 831.
[2]
“The Herodians were supporters of the descendants of Herod as the ruling party,
and as such would have been in favor of Roman rule. On the other hand, the
Pharisees were the conservative religious element, and they would have found it
distasteful to be compelled to support the Roman government by their
contributions. This then depicts the dilemma in which the Pharisees hope to
snare Jesus. To say that one should not pay taxes to the Romans would put him at
odds with the civil authorities, while he would have lost favor with the people
if he had advocated the payment of taxes to the Roman authorities” [B.M. Newman
– P.C. Stine, A handbook on the Gospel of
Matthew (UBS; New York 1992) 683]; “The introduction of the Herodian party
makes the question a pointed one. The Herodians were supporters of the family
of Herod the Great, ruling only by favor of the occupying Roman authority.
Anxious to maintain the status quo, the Herodians would certainly have
supported the payment of taxes to Rome where the patriotic Pharisees
emphatically would not [W.F. Albright, & C.S. Mann, Matthew. Introduction, translation, and notes (New Haven – London
2008) 272]; “Herodians were partisans of the Herodian dynasty, who held their
power by Rome’s favor and hoped for the full restoration of Herodian authority
(cf. Simon 1967: 86)” [C.S. KEENER, The
Gospel of Matthew. A Socio-Rhetorical Commentary (Grand Rapids – Cambridge
2009) 524].
[3]
“Their estimate of Jesus does, however, correspond well with what we have seen
of his style of teaching, unafraid to speak his mind and to challenge accepted
traditions. They therefore assume that Jesus prides himself on his
independence, and so plan to use it to lead him into a politically sensitive
pronouncement” (R.T. FRANCE, The Gospel
of Matthew, 382).
[4]
“You do not regard the position of men translates the Semitic idiom: “you do
not look into the face of men.” A literal translation may imply guilt or shame
on Jesus’ part, whereas the real emphasis is upon the impartiality with which
Jesus treats people, regardless of their status (AT “you are impartial”). GeCL
connects this clause with the previous one: “... influenced by people, no
matter how important they are.” Some translators will make this a new sentence:
“You don’t care whether someone is important or not” or “It does not matter to
you whether someone is an important person or not” (B.M. Newman – P.C. Stine, A handbook on the Gospel of Matthew,
683).
[5]
“In saying that Jesus “recognized” their intention Matthew perhaps intends us
to think of his supernatural knowledge of people’s thoughts, but the
sycophantic nature of their question was in itself enough to betray their
insincerity” (R.T. FRANCE, The Gospel of
Matthew, 833).
[6]
“The poll tax had been among the taxes imposed on Judea following the
imposition of direct Roman rule in AD 6, not long before, and had been fiercely
resented by patriotic Jews, resulting in a serious revolt led by Judas
(Josephus, War 2.117–118; Ant. 18.4–10). That revolt was the inspiration for
the later Zealot movement which led to the war of independence beginning in AD
66 and so to the fall of Jerusalem and the destruction of its temple in AD 70 (R.T.
FRANCE, The Gospel of Matthew, 829,
832).
[7]
D. Harrington, The Gospel of Matthew
(SP 1; Collegeville 1997) 310.
[8]
“The coin related directly to pagan Roman religion and to the imperial cult in
the east: the side bearing his image also included a superscription, namely,
“TI. CAESAR DIVI AVG.F.AVGVSTVS”—“Tiberius Caesar, son of the Divine Augustus”;
the other side bore a feminine image (perhaps of the Empress Livia personified
as the goddess Roma) and read “PONTIF. MAXIM,” referring to the high priest of
Roman religion” (C.S. KEENER, The Gospel
of Matthew, 525); R.T. FRANCE, The
Gospel of Matthew, 833;
[9]
“Jesus asserts that this is not necessarily so: it is possible to pay one’s
dues both to the emperor and to God, to be both a dutiful citizen and a loyal
servant of God” (R.T. FRANCE, The Gospel
of Matthew, 830).
[10]
Neither the image nor the superscription on coins in common usage could prevent
Jewish people’s single-minded devotion to God, nor did the coin have this
effect (.S. KEENER, The Gospel of Matthew,
525).
[11] “And Jesus apparently did not have one—but they did, and in the holy precincts of the temple at that! Well then, if they were using the emperor’s (idolatrous) coinage they could hardly object to paying his tax” (Ibid.).
No comments:
Post a Comment