Bản văn và dịch sát nghĩa
Việt |
Hy Lạp |
|
15 Nếu anh em yêu Thầy, thì những điều
răn của Thầy, anh em sẽ giữ. 16 và chính Thầy sẽ
xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng
Paráclêtos khác để ở với anh em luôn mãi. 17 Thần Khí sự thật ấy, Đấng mà thế gian không thể đón
nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Chính anh em biết Người,
vì Người ở lại giữa anh em và sẽ ở trong anh em. 18 Thầy sẽ không để
anh em thành những người bị bỏ rơi.[1]
Thầy đến cùng anh em. 19 Ít lâu nữa, thế
gian sẽ không còn thấy Thầy. Nhưng anh em sẽ thấy Thầy, vì Thầy sống và anh
em cũng sẽ sống. 20 Trong ngày đó, anh
em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. 21 Người có và giữ các điều răn của Thầy, là người yêu Thầy. Mà người
yêu Thầy, sẽ được Cha của Thầy yêu.
Thầy sẽ yêu người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho
người ấy.” 22 Ông Giuđa, không
phải Giuđa Ítcariốt, nói với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, tại sao Ngài sẽ tỏ mình
ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” 23 Đức Giêsu trả lời
và nói: “Nếu Người nào yêu Thầy, thì người
ấy sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu người ấy. Và chúng tôi sẽ đến cùng người ấy và làm chỗ ở bên cạnh người
ấy. 24 Người không yêu Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh
em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của
Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. |
15 Ἐὰν ἀγαπᾶτέ
με, τὰς ἐντολὰς τὰς ἐμὰς τηρήσετε· 16 κἀγὼ ἐρωτήσω τὸν πατέρα καὶ ἄλλον παράκλητον δώσει ὑμῖν, ἵνα μεθ᾽ ὑμῶν εἰς τὸν αἰῶνα
ᾖ, 17 τὸ πνεῦμα τῆς
ἀληθείας, ὃ ὁ κόσμος οὐ δύναται λαβεῖν, ὅτι οὐ θεωρεῖ αὐτὸ οὐδὲ γινώσκει· ὑμεῖς
γινώσκετε αὐτό, ὅτι παρ᾽ ὑμῖν μένει καὶ ἐν ὑμῖν ἔσται. 18 Οὐκ ἀφήσω ὑμᾶς ὀρφανούς,
ἔρχομαι πρὸς ὑμᾶς. 19 ἔτι μικρὸν καὶ ὁ κόσμος
με οὐκέτι θεωρεῖ, ὑμεῖς δὲ θεωρεῖτέ με, ὅτι ἐγὼ ζῶ καὶ ὑμεῖς ζήσετε. 20 ἐν ἐκείνῃ τῇ ἡμέρᾳ γνώσεσθε
ὑμεῖς ὅτι ἐγὼ ἐν τῷ πατρί μου καὶ ὑμεῖς ἐν ἐμοὶ κἀγὼ ἐν
ὑμῖν. 21 ὁ ἔχων τὰς ἐντολάς
μου
καὶ τηρῶν αὐτὰς ἐκεῖνός ἐστιν ὁ ἀγαπῶν με· ὁ δὲ ἀγαπῶν
με ἀγαπηθήσεται ὑπὸ τοῦ πατρός μου, κἀγὼ ἀγαπήσω
αὐτὸν καὶ ἐμφανίσω αὐτῷ ἐμαυτόν. 22 Λέγει αὐτῷ Ἰούδας, οὐχ
ὁ Ἰσκαριώτης· κύριε, [καὶ] τί γέγονεν ὅτι ἡμῖν μέλλεις ἐμφανίζειν σεαυτὸν καὶ
οὐχὶ τῷ κόσμῳ; 23 ἀπεκρίθη Ἰησοῦς καὶ εἶπεν
αὐτῷ· ἐάν τις ἀγαπᾷ με τὸν λόγον μου τηρήσει, καὶ ὁ πατήρ μου ἀγαπήσει αὐτὸν καὶ πρὸς αὐτὸν ἐλευσόμεθα καὶ μονὴν παρ᾽ αὐτῷ ποιησόμεθα. 24 ὁ μὴ ἀγαπῶν με τοὺς λόγους
μου οὐ τηρεῖ· καὶ ὁ λόγος ὃν ἀκούετε
οὐκ ἔστιν ἐμὸς ἀλλὰ τοῦ πέμψαντός με πατρός. (Jn. 14:15-24
BGT) |
|
Bối cảnh
Đoạn văn nên mở rộng ra đến câu
24 (14,15-24) thay vì 14,15-21, như là Phụng Vụ đã chọn. Khi mở ra như vậy, đoạn
văn sẽ có một kết cấu chặt chẽ hơn về mặt văn chương. Mệnh đề điều kiện “nếu anh
em yêu Thầy” (14,15) mở ra đoạn văn và sẽ được đóng lại bằng các danh từ “người
yêu Thầy” (14,23) và “người không yêu Thầy” (14,24). Cụm động từ “giữ các điều
răn” (14,15) cũng được đóng lại bằng cụm từ “giữ lời/ những lời Thầy”
(14,23.24). Trong bối cảnh rộng, 14,15-24 nằm trong phần thứ ba của Tin Mừng
Gioan thường được gọi là “Sách của sự vinh quang” (13,1 – 20,29).[2]
Trong bối cảnh hẹp hơn, Ga 14,15-24 vẫn còn nằm trong “diễn từ chia tay” của Đức
Giêsu dành cho các môn đệ (Ga 13 – 16). Đây là những đoạn văn của riêng tác giả
Gioan. Tác giả thấy cần thiết phải để cho Đức Giêsu căn dặn, ủi an các môn đệ
trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Trong bối cảnh trực tiếp, đoạn văn này có nhiều
ý tưởng liên hệ đến đoạn văn trước đó. Mệnh đề “ít lâu nữa anh em sẽ không còn
thấy Thầy” nhắc nhớ đến mặc khải về sự ra đi của Đức Giêsu trong 14,2-3 và
14,12. Lối nói “Thầy ở trong Cha Thầy” (14,20),
lặp lại ý tưởng Đức Giêsu cùng ông Philípphê trước đó: “Thầy ở trong Chúa Cha
và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,10). Từ vựng “nơi ở” (μονὴν) trong mệnh
đề “chúng tôi sẽ làm nơi ở bên cạnh anh em”, gợi nhớ đến “nơi ở trong nhà Cha của
Đức Giêsu, và Đức Giêsu ra đi để “chuẩn bị nơi ở” cho các môn đệ (14,2.3). Mặc
khải về “Đấng Paráclêtos, liên hệ chặt chẽ với những bản văn nói về Đấng này
trong Tin Mừng thứ tư (Ga 14,15-17; 14,25-26; 15,26-27; 16,7-11; 16,12-15).
Cấu trúc
Yêu
và giữ điều răn (15) Đấng Paráclêtos (16-17) Đức Giêsu xin –
Chúa Cha ban để ở với anh em
luôn mãi. Thần Khí sự thật, Thế gian không thể
đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. anh em biết Người,
vì Người ở lại giữa anh em và sẽ ở trong anh em. Đức Giêsu – Cha – các môn đệ (19-20): Thầy sẽ không để anh
em thành những người bị bỏ rơi. Thầy đến cùng anh
em. Ít lâu nữa, thế
gian sẽ không còn thấy Thầy. Nhưng em sẽ được thấy
Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống. Thầy ở trong Cha Thầy, anh
em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Yêu
và giữ điều răn (21) Người yêu – có và giữ
điều răn Người yêu thầy – được
Cha yêu Thầy sẽ yêu và tỏ
mình cho Yêu
và giữ lời (22-24) Lý do tỏ mình Người yêu – giữ lời Cha sẽ yêu người ấy Chúng tôi sẽ đến và làm chỗ ở bên cạnh người ấy Người không yêu – không giữ lời Thầy Lời của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy |
Một số điểm chú giải
1. Yêu Thầy và giữ điều răn của Thầy (ἀγαπᾶτέ
με … τὰς ἐντολὰς τὰς ἐμὰς τηρήσετε):
Ý tưởng này xuất hiện từ đầu, xuyên suốt giữa và kết ở cuối đoạn văn. Có thể
nói đây là ý tưởng chủ đạo trong đoạn văn này. Nó đóng vai trò như là khung sườn
của cả đoạn văn. Có ít nhất bốn lần cặp động từ này được lặp lại: Ba lần theo cấu
trúc khẳng định và một lần theo cấu trúc phủ định. Trong mỗi lần lặp lại, Đức
Giêsu diễn tả một ý nghĩa riêng của mối tương quan “yêu – giữ” này. Có hai vị
ngữ được dùng cho động từ giữ: “Điều răn của Thầy” (τὰς ἐντολὰς τὰς ἐμὰς) được
dùng hai lần và “lời của Thầy” (τὸν λόγον/ τοὺς λόγους μου) được dùng
hai lần. Cách dùng thay đổi này cho thấy “điều răn” và “lời” dường như là đồng
nghĩa: Giữ điều răn, cũng có nghĩa là giữ lời. Hạn từ “điều răn” có thể làm người
ta liên tưởng đến “điều răn mới” mà Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ trong đêm
Tiệc Ly: “Hãy yêu thương nhau” (13,34; 15,12).[3]
“Điều răn” ở số nhiều có thể nối kết với “Mười Điều Răn” (Mt 19,17; 1 Cr 7,19),
cũng như tất cả những lời dạy của Chúa trong Torah.[4]
Hạn từ “lời” có thể có nghĩa rất rộng. Nó có thể bao hàm cả “các điều răn” và tất
cả những điều Đức Giêsu đã dạy. Việc sử dụng thay đổi giữa “các điều răn của Thầy”
với “lời của Thầy” và “những lời của Thầy” cho thấy rằng chúng bao gồm trọn vẹn
phạm vi mặc khải từ Chúa Cha, không đơn thuần chỉ là những chỉ dạy về luân lý
(cf. Ga 8,31-32; 12,47-49; 17,6); Người yêu của Đức Giêsu sẽ sống trong ánh
sáng các chỉ dẫn về những mặc khải của Đức Giêsu.[5]
-
Lần thứ
nhất (14,15): Cặp động từ “yêu và giữ” được đặt trong cấu trúc câu điều kiện
và chủ ngữ của động từ là ngôi thứ hai số nhiều, ngụ ý là các môn đệ. Động từ “yêu”
ở mệnh đề if (nếu) - ở thì hiện tại, thể giả định và động từ “giữ” ở mệnh đề
chính, thì tương lai. Đây là loại câu điều kiện diễn tả một tương lai rõ ràng,
hợp lý. Hành động trong mệnh đề điều kiện xảy ra, thì hành động trong mệnh đề
chính cũng phải xảy ra (vd. nếu tôi tìm thấy nó, tôi sẽ cho anh biết). Hành động
“yêu Thầy” phải kéo theo hành động “giữ các điều răn của Thầy”. Vị ngữ “các điều
răn được đảo ra phía trước động từ “giữ” như để nhấn mạnh: “τὰς ἐντολὰς τὰς ἐμὰς τηρήσετε: Điều răn của Thầy anh em sẽ giữ”. Hiệu quả kéo theo hành động kép
“yêu và giữ các điều răn của Thầy” là Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh
em một Đấng Paraclêtos khác, đến để ở cùng anh em luôn mãi.[6]
-
Lần thứ
hai (14,21): Cặp động từ “yêu và giữ” được dùng ở dạng phân từ có mạo từ để
diễn tả căn tính của hai loại người: “Người yêu” và “người giữ”. Đó không phải
là một giả định nữa, nhưng là một thực tế: Người có các điều răn của Thầy và giữ
chúng, người đó là người yêu Thầy”. Đức Giêsu thêm động từ “có” vào trước danh
từ các điều răn. Tác giả R. Brown cho rằng không có sự khác biệt thực sự nào giữa
“có các điều răn” và “giữ chúng”, dù tác giả Bernard và Augustinô đã xem “giữ
các điều răn” như là một bước xa hơn.[7]
Tác giả B. Newman – E. Nida cũng chia sẻ cùng quan điểm với R. Brown và hiểu cặp
động từ đó như là một loại song song.[8]
Tôi nghĩ rằng nếu như động từ “có” không thêm ý nghĩa gì, thì Đức Giêsu đã
không dùng. Động từ “có” ở đây có thể hiểu như là “đón nhận”, “lãnh nhận”: Người
đón nhận/ lãnh nhận những điều răn của Thầy và tuân giữ chúng, người ấy là người
yêu Thầy”. Hiệu quả kép dành “người yêu Thầy” là sẽ được Cha của Thầy yêu và
chính Thầy yêu và tỏ mình cho người ấy. Tình yêu mà các môn đệ dành cho Đức
Giêsu kéo họ lại gần với Đức Giêsu và Chúa Cha. Tình yêu của các môn đệ đối với
Đức Giêsu không phải là điều kiện để Chúa Cha yêu thương họ, vì Chúa Cha yêu
thương họ cách vô điều kiện. Đúng hơn, nên hiểu cách nói “Chúa Cha sẽ yêu mến
người ấy” như là sự cảm nghiệm của “người ấy” về tình yêu và sự hiện diện của Đức
Giêsu. Nghĩa là, khi người ta yêu Đức Giêsu, người ta ở lại trong tình yêu của
Người và cũng cảm nghiệm được tình yêu Chúa Cha dành cho mình.[9]
-
Lần thứ
ba (14,23): Cặp động từ “yêu-giữ” được dùng theo cấu trúc câu điều kiện giả
định tương lai rõ ràng, giống trường hợp thứ nhất, nhưng chủ từ ở đây không còn
là ngôi thứ hai số nhiều mà là một đại từ bất định, ngôi thứ ba, số ít: “Nếu ai
yêu Thầy, thì sẽ giữ lời của Thầy”. Hiệu quả dành cho người yêu Thầy trong trường
hợp này, giống với hiệu quả của lần thứ hai: Cha của Thầy sẽ yêu người ấy, và
thêm một điều quan trọng là: Chúng tôi sẽ đến cùng người ấy và làm nơi ở bên cạnh
người ấy. Câu nói này được đặt trong bối cảnh Đức Giêsu trả lời cho câu hỏi của
ông Giuđa: “Tại sao Thầy sẽ tỏ mình cho chúng con mà không cho thế gian?” Điều
này có thể ngụ ý rằng Đức Giêsu không có ý tỏ mình ra cho riêng các môn đệ,
và không cho thế gian, nhưng chỉ có những người yêu Đức Giêsu và giữ lời của
Người, mới được Cha yêu. Đó là con đường mà họ đón nhận sự tỏ mình của Đức
Giêsu.
-
Lần thứ bốn
(14,24): “Ai không yêu Thầy, thì những lời của Thầy, sẽ không giữ”. Đây là lần duy nhất cấu trúc phủ định được dùng và cũng tiếp nối
bối cảnh trả lời cho câu hỏi của ông Giuđa. Lần này không có hiệu quả kèm theo
nhưng bù lại là một lời giải thích về nguồn gốc của “lời”: “Lời mà anh em nghe
không phải là của Thầy, nhưng là của Đấng đã sai Thầy, Người Cha”. Lời của Đức
Giêsu cũng là “lời” của Chúa Cha. Chính vì thế, có thể nói rằng “giữ lời” của Đức
Giêsu cũng là giữ lời của Chúa Cha và ngược lại. Nhiều lần Đức Giêsu chứng tỏ rằng
lời của Người nói là của Chúa Cha: “Tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã
nghe Người nói” (Ga 8,26); “Tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa
Cha đã dạy tôi thế nào, tôi nói như vậy” (Ga 8,28); “Các lời Thầy nói với anh
em, Thầy không tự mình nói ra nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thấy, chính Người
làm những việc của mình” (Ga 14,10-11). Hơn nữa, nhiều lần Đức Giêsu khẳng định
Người và Chúa Cha là một: “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy” (Ga 14,10);
“Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30); “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã
ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một” (Ga 17,22).
2. Đấng Paráclêtos[10]
khác …Thần Khí sự thật: Danh xưng “Paráclêtos” được ghép bởi tiếp đầu ngữ “παρά” (para) và tính từ
“κλητός”
(kletos). Tính từ “kletos” có nghĩa là
“được mời, được gọi,” có cùng gốc với động từ “καλέω”
(gọi). Tiếp đầu ngữ “para” là một giới từ thường có nghĩa là “từ, nguồn gốc từ”.
Giới từ này được dùng để diễn tả nguồn gốc của Đấng “Paráclêtos”: “Đấng mà tôi
sẽ gửi đến từ Cha, “Pnêuma sự thật”, Đấng phát xuất từ Cha, Đấng ấy sẽ làm chứng
về tôi” (15,26). Tuy vậy, “Paráclêtos” lại
có nghĩa chẳng liên quan gì đến sự mời gọi, nhưng có lẽ danh xưng có liên quan
đến nguồn gốc: “Từ Cha”. Danh từ “Paráclêtos” có nhiều nghĩa khác nhau: “người
giúp đỡ”; “người an ủi”, “người bào chữa”, “người bảo vệ”, “người trung gian”.
Chính vì thế, dịch theo nghĩa nào cũng không thỏa đáng.[11]
Đấng Paraclêtos khác (ἄλλον παράκλητον)
trong tương quan so sánh với chính Đức Giêsu. Đức Giêsu được xem như là một Đấng
Paraclêtos. Tác giả thư thứ nhất Gioan gọi Đức Giêsu Kitô là “một Đấng Paráclêtos”:
“Nếu người nào đó phạm tội, thì chúng ta đã có một Đấng Paraclêtos cùng Chúa
Cha, Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính” (1 Ga 2,1). Tác giả Tin Mừng thứ tư có
nhiều dữ liệu về Đấng Paraclêtos. Trong bối cảnh này, Đức Giêsu cho biết về nguồn
gốc của Người: Người là quà tặng Chúa Cha sẽ ban cho các môn đệ, theo lời cầu
xin của Đức Giêsu (δώσει). Lời cầu xin này là hiệu quả của việc
các môn đệ “yêu và giữ” các điều răn của Người. Sau đó ít lâu Đức Giêsu dùng
cách khác để cùng nguồn gốc của Đấng này: “Đấng Cha sẽ gửi đến nhân danh Thầy”
(Ga 14,26). Trong 15,26, Đức Giêsu lại nói là “Đấng Paraclêtos, Đấng mà chính
Thầy sẽ gửi đến từ Cha”. Danh xưng của Người là Thần Khí sự thật. Đức Giêsu tự
bạch rằng: “Tôi là con đường là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Trong năm bản
văn về Đấng Paráclêtos (Ga 14,15-17; 14,25-26; 15, 26-27; 16,7-11; 16,12-15)[12],
có hai lần Đấng “Paráclêtos” được định nghĩa bằng hai danh xưng tương đương:
(1) Đấng Pnêuma thánh (τὸ πνεῦμα τὸ ἅγιον, thường được dịch là Thánh
Thần, Holy Spirit: 14,26); (2) Pnêuma sự thật (τὸ πνεῦμα τῆς ἀληθείας, thường
dịch là Thần Khí Sự Thật: 15,26; Cf. 16,13). Thần Khí sự thật có thể được diễn
giải bằng vai trò “dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn” (16,13).
3.
Ở cùng luôn mãi … ở lại giữa … ở trong: Vai trò của Đấng Paraclêtos là “ở
cùng” (μεθ᾽ ὑμῶν … ᾖ) và thời hạn là “mãi mãi” (εἰς τὸν αἰῶνα).[13] Đức
Giêsu tuyên bố Người sẽ ra đi, nên việc có một Đấng Paráclêtos khác đến và ở
cùng các môn đệ luôn mãi là rất cần thiết. Trên thực tế, theo Tin Mừng thứ tư,
sau khi Phục Sinh, Đức Giêsu đã trở lại gặp các môn đệ. Sau khi chào chúc bình
an cho các môn đệ, Người đã thổi hơi và trao ban Thần Khí (Ga 20,19-23). Theo
truyền thống Luca, Thánh Linh ngự xuống trên các Tông Đồ và mọi người đang tụ họp
vào Lễ Ngũ Tuần (Cv 2,1-13). Dù hình thức khác nhau, nhưng có lẽ cả hai tác giả
đều muốn diễn tả sự hiện thực hóa lời hứa của Đức Giêsu liên quan đến món quà
Thần Khí. Sư hiện diện của Thánh Linh với các môn đệ được diễn tả bằng nhiều
cách nói khác nhau: “Ở cùng anh em luôn mãi” … “Ở lại giữa anh em” và “ở trong anh
em”, một vị trí gần gũi nhất có thể.
4. Biết … đón nhận: Có sự đối lập giữa thế
gian và các môn đệ trong tương quan với Đấng Paráclêtos. Thế gian không thể đón
nhận, vì nó không thấy Người và cũng không biết Người, trong khi đó, các môn đệ
biết Người, vì Người ở lại với họ và ở trong họ. Các môn đệ biết Đấng
Paráclêtos vì Người ở lại giữa họ và ở trong họ. Tác giả R. Brown nghĩ rằng đây
không thực sự là một lý do hay nguyên nhân: Sự ở lại và nhận biết là kết hợp với
nhau như tác giả Bengel đã diễn tả là “sự thiếu nhận biết loại trừ sự ở lại,
trong khi sự ở lại là nền tảng cho sự nhận biết.[14]
5. Thầy đến cùng anh em: Đức Giêsu hứa
không để các môn đệ bơ vơ một mình (Οὐκ ἀφήσω ὑμᾶς ὀρφανούς) và hứa
là “đến cùng anh em”. Ngôn ngữ “người mồ côi” không xa lạ gì: Các môn đệ của các Rabbi được gọi là bị mồ
côi sau khi các Rabbi chết (StB, II, 562), giống như tình trạng của các môn đệ
của triết gia Socrates, khi ông qua đời.[15]
Lời hứa này có thể dựa trên hai cơ sở: (1) Xin Chúa Cha gửi một Đấng Parácletos
khác, đến để ở cùng họ hoài; (2) Đức Giêsu đến cùng họ. Có thể hiểu Đức Giêsu đến
cùng các môn đệ sau Phục Sinh và sau đó Người hiện diện gián tiếp trong Đấng Paráclêtos.[16]
6. Thầy sống và anh em cũng sẽ sống: Khi Đức
Giêsu trở lại gặp các môn đệ sau Phục Sinh Người cho thấy rằng Người đang sống
và các môn đệ cũng sống một chiều kích mới nhờ sự sống lại của Chúa.[17]
Trong trình thuật về phép lạ phục sinh anh Ladarô, Đức Giêsu đã mặc khải cho cô
Martha rằng: “Người là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Người thì dù có chết
cũng sẽ sống và ai sống mà tin vào Người sẽ không chết mãi mãi” (Ga 11,25-26). Trong
bối cảnh này, Đức Giêsu bật mí về sự ra đi của Người và thế gian “không còn thấy”
Người nữa, nhưng các môn đệ vẫn thấy Đức Giêsu, bởi lẽ Đức Giêsu vẫn sống và
các môn đệ sẽ sống. Thế gian không thấy Đức Giêsu về mặt thể lý, và cũng không
thấy Người về mặt tâm linh, vì họ chối từ Đức Giêsu. Các môn đệ không thấy Đức
Giêsu về mặt thể lý trong một khoảng thời gian, nhưng họ sẽ gặp lại Đức Giêsu
Phục Sinh. Họ sẽ có kinh nghiệm rằng Đức Giêsu vẫn sống và họ chia sẻ sự sống ấy
của Người.[18] Đức
Giêsu diễn tả nhiều cách khác nhau về cuộc gặp lại này: “Nếu Thầy đi chuẩn bị
chỗ ở cho anh em, thì Thầy sẽ đến mang anh em theo với Thầy, để nơi Thầy ở, anh
em cũng có thể ở” (14,3); “Thầy đến cùng anh em” (Ga 14,18); “Ít lâu nữa anh em
sẽ không thấy Thầy, ít lâu nữa anh em sẽ lại thấy Thầy” (Ga 16,16). Tác giả F.
Moloney tin rằng “sự sống” của các môn đệ liên kết với món quà Đấng Paráclêtos.
Họ là những tác nhân thừa kế của công việc Đức Giêsu và là những người mang
trong mình sự hiện diện của Cha và Con. Đức Giêsu đến với các môn đệ trong cộng
đoàn thờ phượng nhờ vào sự hiện diện của Thánh Linh. Hơn nữa, nhờ phép rửa và
bí tích Thánh Thể, cộng đoàn Gioan tượng trưng cho sự hiện diện của Đấng vắng mặt.[19]
7. Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy,
và Thầy ở trong anh em: Một tương quan gần gũi giữa Đức Đức Giêsu và Chúa
Cha đến mức nên một được Đức Giêsu nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng thứ tư: “Thầy ở
trong Cha và Cha ở trong Thầy” (Ga 10,38; Cf. 14,10.11; 17,21); Ta và Chúa Cha
là một” (Ga 10,30; 17,11.22). Trong phần cuối của đoạn văn, Đức Giêsu lại mô tả
tương quan này nơi mặc khải về nguồn gốc của “lời”: Lời của Đức Giêsu, lời
mà các môn đệ nghe không phải của Đức Giêsu nhưng của Đấng đã gửi Người đến, tức
là Chúa Cha (14,24). Ở đây, Đức Giêsu mô tả mối tương quan nên một giữa Người
và các môn đệ: “Chính anh em ở trong Thầy và chính Thầy ở trong anh em” mối
tương quan này được nối tiếp liền mạch với mối tương quan trong nhau giữa Đức
Giêsu với Chúa Cha. Như thế, một cách gián tiếp các môn đệ được ở trong Chúa
Cha qua trung gian Đức Giêsu. Tất cả những mối tương quan ấy là kiến thức của
các môn đệ trong “ngày ấy” (ἐν ἐκείνῃ τῇ ἡμέρᾳ). “Ngày ấy” là ngày nào? Trạng
ngữ thời gian “trong ngày ấy” liên quan trực tiếp đến trạng ngữ “ít lâu nữa”.
Ngày ấy có nghĩa là sau khoảng “ít lâu nữa”. Trạng ngữ “vào ngày ấy” xảy ra ba lần
trong Tin Mừng Gioan: 14,20; 16,23.26.
Theo truyền thống Cựu Ước “ngày ấy” là cách thức diễn tả thời gian can thiệp cuối
cùng của Chúa (x. Mc 13,32). Tuy nhiên, trong suy nghĩ Gioan, thuật ngữ này dường
như áp dụng cho khoảng thời gian tồn tại của Kitô giáo được hiện thực bởi “giờ”
của Đức Giêsu.[20] Theo
tác giả F. Moloney, hầu hết các học giả hiểu “giờ ấy” như là biến cố Phục Sinh.[21]
8. Và chúng tôi sẽ đến và làm chỗ ở bên cạnh
người ấy: Lối diễn tả này khá lạ lùng. Động từ ngôi thứ nhất số nhiều “chúng
tôi” ngụ ý là cả Cha và Đức Giêsu. Câu nói này liền mạch sau câu “Chúa Cha sẽ
yêu” người yêu Đức Giêsu và giữ lời Người. Trước đó, Đức Giêsu đã diễn tả mối
tương quan nên một giữa Người với các môn đệ: “Anh em ở trong Thầy và chính Thầy
ở trong anh em”, qua đó gián tiếp nhìn nhận tương quan nên một giữa các môn đệ
với Chúa Cha, vì “Chính Thầy ở trong Chúa Cha” (14,20). Ở đây, cách nói “chúng
tôi sẽ đến làm nơi ở bên cạnh người ấy” cũng diễn tả sự ở lại với bất cứ “ai
yêu và giữ lời” của Đức Giêsu. Danh từ “nơi ở” trong 14,2 là nơi ở trong nhà
Cha và nơi mà Đức Giêsu mang các môn đệ vào, ở đây, nó là nơi ở của Người Con
và Chúa Cha với các người tin.[22]
Bình luận tổng quát
Nằm trong loạt những lời di chúc
của Đức Giêsu, Ga 14,15-24 vì thế trở thành những chỉ dẫn hết sức cần thiết cho
các môn đệ khi Đức Giêsu vắng bóng. Cặp hành động hỗ tương: “Yêu và giữ” với đối
tượng là “các điều răn” và “những lời” của Đức Giêsu làm thành đường biên đóng
khung đoạn văn và cũng là sợi chỉ xuyên suốt đoạn văn. Nó được lặp lại ít nhất
ba lần và mỗi lần thực hiện hai hành động ấy Đức Giêsu lại hứa hẹn những hiệu
quả tích cực kèm theo. Trong lần thứ nhất, lời hứa là Người sẽ xin Chúa Cha gửi
Đấng Paraclêtos khác. Trong bầu khí các môn đệ cảm thấy buồn sầu, khủng hoảng
vì vắng bóng Đức Giêsu, lời hứa gửi một Đấng Paraclêtos khác đến ở lại luôn
mãi, ở giữa và ở trong các môn đệ là rất cần thiết. Người là “Thần Khí sự thật”,
cũng giống như Đức Giêsu là “con đường là sự thật và là sự sống”, sẽ dẫn các
môn đệ đến sự thật trọn vẹn. Điều quan trọng là các môn đệ biết Người, vì Người ở
lại giữa các môn đệ, và ngược lại vì Người ở lại với các môn đệ nên họ biết Người
trong khi thế gian không thấy và không biết Người. Cùng với sự mặc khải về Đấng
Paraclêtos, Đức Giêsu cũng bảo đảm rằng Người không để các môn đệ trở thành những
người bị bỏ rơi. Người đến cùng họ sau khi phục sinh và Người hiện diện với họ trong
hình ảnh “Đấng Paraclêtos khác”. Khi Người đi vào cuộc khổ nạn và phục sinh, thế
gian sẽ không còn thấy Người nữa, vì Người thật sự vắng mặt về thể lý và thế
gian không tin rằng đó là con đường đi đến vinh quang. Các môn đệ vẫn thấy Đức
Giêsu vì họ sẽ gặp lại Người sau phục sinh. Họ thấy rằng Người vẫn sống và họ
được chia sẻ sự sống lại, cũng là sự sống vĩnh cửu với Người. Khi cảm nghiệm được sự sống
phục sinh, các môn đệ cũng được chia sẻ kiến thức về mối hiệp thông nên một giữa
Đức Giêsu và Chúa Cha. Hơn nữa, họ cũng được gián tiếp hiệp thông nên một với
Chúa Cha, qua sự hiệp thông với Đức Giêsu: Đức Giêsu ở trong Chúa Cha, Chúa Cha
ở trong Người, còn các môn đệ ở trong Đức Giêsu và Người ở trong họ. Lần thứ
hai, người chấp nhận và giữ các điều răn của Đức Giêsu mới thực là người yêu
Chúa. Người ấy sẽ được sống trong tương quan tình yêu với Chúa Cha và với Đức
Giêsu, khi họ được chính Chúa Cha yêu và Đức Giêsu cũng yêu và tỏ mình cho. Lần
thứ ba, để trả lời cho câu hỏi của ông Giuđa – vì sao Người sẽ tỏ mình cho
chúng con mà không cho thế gian? – Đức Giêsu lại nói về tương quan giữa yêu và
giữ lời của Người. Người yêu và giữ lời của Đức Giêsu, giống như lần thứ hai, sẽ
được Chúa Cha yêu và hơn nữa Chúa Cha và Đức Giêsu sẽ đến cùng và “làm chỗ ở”
bên cạnh người ấy. Điều này ngụ ý rằng sở dĩ Đức Giêsu tỏ mình cho “người yêu
mình” mà không cho thế gian, vì thế gian không yêu và không giữ lời của Người.
Sự tỏ mình cho “người yêu và giữ lời” Đức Giêsu được diễn tả như là “Chúa Cha
yêu” và “cả Cha và Con đến cùng và ở với người ấy”. Đối lại với ba lần yêu và
giữ là một lần “không yêu và không giữ những lời của Đức Giêsu”. Không giữ lời
của Đức Giêsu cũng có nghĩa là không giữ lời của Chúa Cha vì “lời anh em nghe
đây không phải là của Thầy nhưng là của Đấng đã sai Thầy, tức là Chúa Cha”. Các
môn đệ dù ở trong giai đoạn khủng hoảng nhất của cuộc đời sẽ được an ủi vì có sự
hiệp thông với Đấng Paraclêtos khác, với chính Đức Giêsu và với Chúa Cha. Muốn
duy trì được mối hiệp thông ấy, họ được mời gọi phải chứng tỏ tình yêu của mình
với Đức Giêsu bằng cách “tuân giữ các điều răn và lời dạy” của Người. Điều răn
quan trọng nhất là điều răn mới “hãy yêu nhau, như Thầy đã yêu anh em”. Lời của
Người bao gồm tất cả những gì Người đã nói trong suốt thời gian rao giảng công
khai, đặc biệt là trong “diễn từ chia tay” này.
Các môn đệ người Do Thái cùng các tín hữu quen với truyền thống Cựu Ước, có thể cảm nhận được tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và dân người: "Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất, phải yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết hồn, hết trí khôn, hết sức lực". Dân Giao Ước phải yêu mến và giữ các mệnh lệnh của Chúa. Dân mới, phải yêu Đức Giêsu và tuân giữ các điều răn của Người. Mối quan hệ hỗ tương giữa yêu mến và tuân giữ thắt chặt mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân Người, mối tương quan giữa Đức Giêsu và dân Người.
Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD
[1] “Alone
is literally “orphans” (JB), but the more general meaning of “one left
without anyone to care for him” is perhaps better in the context” [B.M. Newman – E.A. Nida, A handbook on the Gospel of John (New
York 1993) 469].
[2]
Tin Mừng thứ tư được chia thành bốn phần chính; (1) Lời Tựa (1,1-18); (2) Sách
các dấu (1,19 – 12,50); (3) Sách của sự vinh quang (13,1 – 20,29); (4) Phần kết
(21,1-25 [F.J. Moloney, “John”, The Paulist Biblical Commentary (ed.
J.E.A. Chiu e al.) (New York, 2008) 1110-1111].
[3]
Xem thêm về “Điều răn mới” trong J.P.D.Thạch, “Điều Răn Mới Có Gì Mới? Chú Giải
Tin Mừng CN V PS C” [LỜI
BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: “ĐIỀU RĂN MỚI” CÓ GÌ MỚI? Chú Giải Tin
Mừng CN V PS C (Ga 13,31-35) (josephpham-horizon.blogspot.com)]
[4]
R.E. Brown, The Gospel
according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and notes
(AnB; New Haven – London 2008) 29A, 638.
[6] “One result of the disciples’ love for Jesus will be their
obedience to his commandments, and the other will be his sending them another
Helper” (B.M. Newman
– E.A. Nida, A handbook on the Gospel of
John, 466).
[7]
R.E. BROWN, The Gospel according to John
(XIII-XXI). Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London
2008) 29A, 640.
[8]
B.M. Newman – E.A. Nida, A handbook on
the Gospel of John, 471.
[9]
X. “Cha của Thầy sẽ yêu người ấy”, trong LỜI
BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: LÝ DO ĐỨC GIÊSU TỎ MÌNH CHO CÁC MÔN ĐỆ
MÀ KHÔNG CHO THẾ GIAN. Chú Giải Tin Mừng CN VI PS C (Ga 14,23-29)
(josephpham-horizon.blogspot.com)
[10]
“NAB recognizes the difficulty of
translating paraklētos, and so settles for a transliteration
(“Paraclete”). In their footnote the translators point out that none of the
terms generally used (such as “defense attorney,” “spokesman,” or
“intercessor”) precisely fits the use in John. According to this Gospel, the
Spirit is a teacher, a witness to Jesus, and a prosecutor of the world. Since
these elements cannot all be gathered into any one term, the translators settle
for a transliteration, which amounts to a zero term for most readers” (B.M. Newman – E.A. Nida, A handbook on the Gospel of John, 466); “The term παράκλητος is a verbal adjective with a passive sense and has
the same meaning as ὁ παρακεκλημένος, “one called alongside.” In secular Greek it was used
especially of one called to help another in
court, but it never became a technical term (unlike the Latin advocatus, meaning a professional legal
adviser and representative). Behm summarized the linguistic evidence as
follows: “The history of the term in the whole sphere of known Greek and
Hellenistic usage outside the NT yields the clear picture of a legal adviser or
helper or advocate in the relevant court. The passive form does not rule out
the idea of the παράκλητος as an active speaker ‘on behalf of someone before someone,’
nor is there any need of recourse to the active of παρακαλέω in this connection” (TDNT 5:803)” [G.R. BEASLEY-MURRAY, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 256].
[11]
Tác giả Lê Minh Thông đề xuất tìm hiểu danh từ “Pa-rác-lê-tos” trong văn chương
Hy Lạp. Trong văn chương Hy lạp nó có nghĩa là “người bênh vực” hay là “luật
sư”, người có vai trò pháp lý trong vụ kiện. Có thể dịch nghĩa là “trạng sư”, “luật
sư”, “người bào chữa”, “người bênh vực”. Tuy nhiên, tác giả cũng lưu ý rằng những
nghĩa này không phải là cách hiểu của tác giả Tin Mừng thứ tư. (X. Lê Minh
Thông, Tin Mừng Gio-an, Évangile de Jean, Gospel of John: Đấng Pa-rác-lê là ai?
(TM Gio-an) (leminhthongtinmunggioan.blogspot.com)
[12]
1. Ga 14,15-17. Ở lại mãi mãi với các môn đệ; 2. Ga 14,25-26, “Dạy” và “làm nhớ
lại”; 3. Ga 15,26-27. Làm chứng trước và trong các môn đệ; 4. Ga 16,7-11. Chứng minh thế gian sai lầm; 5. 16,12-15. Dẫn
đường, loan báo, tôn vinh (X. Giuse Lê Minh Thông, “Đấng Pa-rác-lê là ai? (TM
Gio-an)” (Tin
Mừng Gio-an, Évangile de Jean, Gospel of John: Đấng Pa-rác-lê là ai? (TM
Gio-an) (leminhthongtinmunggioan.blogspot.com) (truy cập 17/05/2021).
[13] “Who will stay with you forever is literally “in order that he might
be with you into the age.” “Age” (Greek aiōn) is an expression for endless future time, and so “into the
age” means “to eternity” or “eternally.” In some languages who will stay
with you forever may be expressed as “who will remain with you always.” In
other languages it is more natural to employ a negative, for example, “in order
that he will never leave you” (B.M. Newman – E.A. Nida, A
handbook on the Gospel of John, 467).
[14]
R.E. BROWN, The Gospel according to John,
639.
[15]
R.E. BROWN, The Gospel according to John,
640.
[16] “The Paraclete is the presence of
Jesus while Jesus is absent, so that the “I am coming back to you” in 18 is no
contradiction to the idea that the Paraclete is being sent. And since the
Father and Jesus are one, the presence of the Father and Jesus (23) is not
really different from the presence of Jesus in the Paraclete” (R.E. BROWN, The Gospel according to John, 643); “The time reference may be either the
resurrection appearances or Jesus’ return in the person of the Holy Spirit, and
both find support from the context” (B.M. Newman – E.A. Nida, A handbook on the Gospel of John, 469).
[17]
“When Jesus so appears to his disciples they will “see” him with eyes of faith
quickened into new perception. This they will do because Jesus “lives”—after
his execution—and they will live in a new dimension by virtue of the
resurrection life of their Lord” (G.R. BEASLEY-MURRAY, John, 258).
[18] “The departure ends all physical ‘sight’ of
Jesus' revelation of the truth to the world. As Jesus warned ‘the Jews’:
‘The light is with you for a little
while (eti mikron). Walk while you have the light, lest the
darkness overtake you’ (12:35).That "little while" (14:19a) is now coming to an end for the world that has
rejected Jesus, as Jesus will definitively depart, but the disciples, the ones
who believe in him, love him, and keep his commandments (d. vv. 1, 11, 12, 15),
are promised the sight of the departed Jesus and a life that will flow from the
fact that he lives beyond the departure of his physical experience of
death (v. 19b)” [F. J. Moloney, The Gospel of John (SP 4; Collegeville
1993) 407].
[19]
F. J. Moloney, The Gospel of John, 407.
[20]
“Although in the OT “that day” is a traditional formula to describe the time of
God’s final intervention (also in Mark 13:32), in the final form of Johannine
thought the term seems to be applied to the period of Christian existence made
possible by “the hour” of Jesus. Compare “on the last day” in 6:39, 40, 44, 54”
(R.E. BROWN, The Gospel according to John
(XIII-XXI), 640).
[21]
F. J. Moloney, The Gospel of John,
408.
[22]
“In 2 we found the word “dwelling place” (monē)
used for the heavenly abode with the Father to which Jesus would take his
disciples; here it is used for the indwelling of the Father and the Son with
the believer” (R.E. BROWN, The Gospel
according to John, 648).
No comments:
Post a Comment