Bản văn và dịch sát nghĩa
Hỵ Lạp | Việt |
31 Ὅτε οὖν ἐξῆλθεν, λέγει Ἰησοῦς· νῦν ἐδοξάσθη ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου καὶ ὁ θεὸς ἐδοξάσθη ἐν αὐτῷ· 32 [εἰ ὁ θεὸς ἐδοξάσθη ἐν αὐτῷ], καὶ ὁ θεὸς δοξάσει αὐτὸν ἐν αὐτῷ, καὶ εὐθὺς δοξάσει αὐτόν. 33 τεκνία, ἔτι μικρὸν μεθ᾽ ὑμῶν εἰμι· ζητήσετέ με, καὶ καθὼς εἶπον τοῖς Ἰουδαίοις ὅτι ὅπου ἐγὼ ὑπάγω ὑμεῖς οὐ δύνασθε ἐλθεῖν, καὶ ὑμῖν λέγω ἄρτι. 34 Ἐντολὴν καινὴν δίδωμι ὑμῖν, ἵνα ἀγαπᾶτε ἀλλήλους, καθὼς ἠγάπησα ὑμᾶς ἵνα καὶ ὑμεῖς ἀγαπᾶτε ἀλλήλους. 35 ἐν τούτῳ γνώσονται πάντες ὅτι ἐμοὶ μαθηταί ἐστε, ἐὰν ἀγάπην ἔχητε ἐν ἀλλήλοις. (Jn. 13:33-35 BGT) | 32 [nếu Thiên Chúa được tôn vinh trong Người], Thiên Chúa sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và [Thiên Chúa] sẽ tôn vinh Người ngay lập tức. 33 Các con thân mến, Thầy còn ở với các con ít lâu nữa, các con sẽ tìm Thầy, nhưng như Thầy đã nói cùng những người Do Thái rằng: “Nơi tôi đi, các ông không thể đến”, giờ đây Thầy cũng nói với các con. 34 Thầy ban cho các con một điều răn mới rằng các con phải yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con, các con cũng phải yêu thương nhau. 35 Qua điều này tất cả mọi người biết rằng các con là môn đệ của Thầy, nếu các con có lòng yêu thương nhau. |
Bối cảnh
Trong bối cảnh rộng Ga 13,31-35 nằm trong phần thứ ba của Tin Mừng Gioan thường được gọi là “Sách của sự vinh quang” (13,1 – 20,29).[1] Nội dung căn bản của “sách của sự vinh quang” là Đức Giêsu đi về với Chúa Cha. Con đường đi về với Chúa Cha của Đức Giêsu gồm có ba chặng: Đau khổ, chết và phục sinh. Trong bối cảnh hẹp hơn, bản văn này nằm trong diễn từ từ biệt của Đức Giêsu, những lời tâm tình của Đức Giêsu với các môn đệ trước lúc chia tay (13,1 – 16,33). Trong bối cảnh trực tiếp, bản văn này nằm ngay sau trình thuật về việc Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ và tiền báo Tông Đồ Giuđa sẽ nộp Thầy (Ga 13,1-30). Tiếp theo sau đoạn văn này là lời tiền báo về việc ông Phêrô sẽ chối Thầy (Ga 13,36-38). Nghĩa là, bản văn nằm giữa hai lời tiền báo buồn: Trước là lời báo trước ông Giuđa sẽ nộp Thầy, sau là lời báo trước ông Phêrô sẽ chối Thầy. Nếu kết hợp với trình thuật “Rửa Chân” toàn bộ đoạn văn Ga 13,1-38 sẽ có cấu trúc xen kẽ giữa tình yêu và sự chối từ:
Tình yêu thể hiện qua việc rửa chân (13,1-20)
ông Giuđa sẽ nộp Thầy (13,21-30)
Điều răn yêu thương (13,31-35)
ông Phêrô chối Thầy (13,36-38)
Cấu trúc
Bối cảnh: Khi Giuđa đã đi ra (31a) Mặc khải giờ tôn vinh (31b-32) Mặc khải nơi Người sẽ đi (33) Ban điều răn mới (34) Người
ban: Đức Giêsu Người
nhận: Các môn đệ. Nội
dung: Các con phải yêu thương nhau, Điểm
quy chiếu của tình yêu: yêu như Đức Giêsu Dấu chỉ đặc trưng của người môn đệ: Yêu thương nhau (35) |
Các điểm chú
giải
1.
Khi Giuđa đã đi ra: Mệnh
đề thời gian “khi Giuđa đã đi ra khỏi rồi” nối kết chặt chẽ với câu chuyện trước
đó, câu chuyện nói về kế hoạch nộp Thầy của ông Giuđa. Câu chuyện đó được kết
thúc bằng: “Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra, lúc đó trời đã tối”. Động
từ “đi ra khỏi” (13,31) cũng chính là động từ được dùng để mô tả hành động “rời
khỏi” của môn đệ Giuđa trong 13,30. Động từ “đi ra khỏi” bỏ ngõ một túc từ chỉ
nơi chốn. Địa điểm mà môn đệ Giuđa rời khỏi, theo không gian thể lý, có thể hiểu
là “phòng Tiệc Ly” (x. Lc 22,7-13; Mc 14,12-16). Tuy nhiên, theo không gian thần
học, môn đệ Giuđa không chỉ “rời khỏi” phòng Tiệc Ly, mà còn rời khỏi vòng tay
của Đức Giêsu, rời khỏi cộng đoàn nhóm Mười Hai, và rời khỏi căn tính
môn đệ nơi mình. Hành động “rời khỏi”
của ông như là một sự cắt đứt tương quan Thầy-trò, rời khỏi vòng tay yêu thương
của Đức Giêsu, bẻ gãy mối tương quan huynh đệ của Nhóm Mười Hai. Hành động của
ông có đầy đủ suy tính và chọn lựa. Hơn nữa, mặc dù ông đã được chính Đức Giêsu
nhắc nhở, ông vẫn quyết định đi vào đêm tối. Dưới sự chỉ dẫn của ma quỷ, ông đã
nộp Thầy, và không bao giờ quay trở lại với Nhóm Mười Hai nữa. Khoảng thời gian
“khi Giuđa rời khỏi” được đặt làm bối cảnh cho tất cả diễn từ từ biệt, Đức Giêsu
tâm tình cùng các môn đệ từ 13,30 – 16,33. Đây là khoảng thời gian khủng hoảng
của nhóm các môn đệ. Họ đang đối diện với sự phản bội của người anh em Giuđa. Họ
sẽ đối diện với lời tiền báo về ba lần “chối Thầy” của vị Tông Đồ trưởng, và họ
trở nên bơ vơ hụt hẫng trước sự ra đi của Thầy Giêsu.
2.
Con Người được tôn vinh … Thiên Chúa được tôn vinh trong Người: Trong bối cảnh “phải lìa bỏ thế gian mà
đi về cùng Chúa Cha”, và môn đệ Giuđa đang toan tính nộp Người, Đức Giêsu lại mặc
khải về sự tôn vinh của Người.[2]
Trong Tin Mừng Gioan, danh xưng “Con Người” (con trai của con người, 12 lần) được
dùng trong bối cảnh vinh quang và thập giá trong cuộc đời của Đức Giêsu. Trong
bối cảnh vinh quang: “các thiên thần của Thiên Chúa đi lên, đi xuống trên Con
Người” (Ga 1,51); “Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13); “Con Người có quyền
xét xử” (Ga 5,27); “Con Người là Đấng Thiên Chúa đã ghi dấu xác nhận” (Ga
6,27); “Con Người lên nơi đã ở trước kia” (Ga 6,62); “Con Người được tôn vinh”
(Ga 12,23; 13,31). Trong bối cảnh đau khổ: “Được giương cao như ông Môsê giương
cao con rắn trong sa mạc” (Ga 3,14; 8,28; 12,34); “Ăn thịt và uống máu Con Người”
(Ga 6,53).
Sau dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu làm tại Cana, người
thuật chuyện đã ghi chú rằng “đó là dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu làm và bày tỏ
vinh quang của Người, các môn đệ đã tin vào Người (Ga 2,11). Động từ “tôn vinh” được dùng ở thể bị động,
cho thấy Thiên Chúa là tác nhân của sự tôn vinh này. Nhìn vào cấu trúc, độc giả
có thể thấy rõ Thiên Chúa tôn vinh Đức Giêsu [(a): Con Người được tôn vinh //
(a’): Thiên Chúa sẽ tôn vinh Người nơi chính mình]. Đức Giêsu không cần “sự tôn
vinh của loài người” (Ga 5,41). Đức Giêsu cũng không tự tôn vinh chính mình vì Người cho
biết rằng nếu Người tôn vinh chính mình thì vinh quang của Người chẳng là gì cả.
Ở nơi khác, Đức Giêsu đã nhiều lần cho thấy tác nhân của hành động tôn vinh là
Chúa Cha: “Đấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên
Chúa của các ông” (Ga 8,54). Sự vinh quang của Đức Giêsu là điểm quy chiếu quan
trọng để cho các môn đệ hiểu lời Thánh Kinh nói về sự kiện Đức Giêsu đi vào
thành Giêrusalem trong tiếng reo hò: “Hoan hô, hoan hô, chúc tụng Đấng ngự đến
nhân danh Chúa, chúc tụng vua IsraEL” (Ga 12,13-16). Giờ vinh quang của Đức Giêsu
chính là giờ mà Người trao ban sự sống vì yêu nhân loại: “Đã đến giờ Con Người
được tôn vinh. Amen, Amen, Thầy bảo các con, nếu hạt lúc mì gieo xuống đất mà
không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi nó mới sinh được
nhiều bông hạt khác” (Ga 12,24).[3] Trong
Tin Mừng Nhất Lãm, cả hai biến cố quan trọng qua đó, Chúa Cha tôn vinh Đức Giêsu
như là “Người Con yêu dấu”, đều liên quan đến mầu nhiệm tự hạ và chết. Biến cố
thứ nhất là biến cố Đức Giêsu chịu Phép Rửa (Mc 1,9-11; Mt 3,13-17; Lc 3,21-22),
trong đó, Người hạ mình, hòa mình vào dòng người tội lỗi để đồng hành và cứu độ
họ. Biến cố thứ hai là biến cố “biến hình trên núi cao” (Mc 9,2-8; Lc 9,28-36;
Mt 17,1-8), trong đó, Người thảo luận với hai nhân vật của Cựu Ước về cuộc xuất
hành mà Người sẽ hoàn tất tại Giêrusalem. Đức Giêsu nói điều này trước khi Người
bước vào cuộc khổ nạn. Tuy vậy, Người lại dùng một động từ quá khứ để diễn tả sự “được tôn vinh của Người”: Giờ đây,
Con Người đã được tôn vinh. Có thể nói vinh quang của Người bắt đầu từ khi môn
đệ Giuđa ra đi để tính toán cho phi vụ nộp Người. Đó là thời điểm bắt đầu cả tiến trình mà qua đó Người được tôn
vinh.[4]
Khi Đức Giêsu
chấp nhận đi con đường khổ nạn – chết – phục sinh[5]
như là một hành trình, qua đó Người được tôn vinh, thì cũng là lúc Chúa Cha được
tôn vinh. Nhiều lần trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giêsu nói rằng Người không tìm
vinh quang cho chính mình nhưng là vinh quang cho Chúa Cha (Ga 7,18; 8,50;
11,4.40).[6] Câu
“Thiên Chúa được tôn vinh trong Người” được lặp lại hai lần trong hai câu văn
liên tục. Chúa Cha được tôn vinh khi Người Con hoàn thành công trình cứu độ qua
cái chết và sự phục sinh của Người: “Con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất
công trình Cha đã giao cho con” (Ga 17,4; cf. Ga 4,34). Việc Đức Giêsu tôn vinh
Chúa Cha cũng được thể hiện qua nhiều cách diễn tả: “Bất cứ điều gì anh em nhân
danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh trong Người Con”
(Ga 14,13); “Điều làm cho Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái
và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15,8). Trong lời cầu nguyện hiến tế, Đức Giêsu
xin “Chúa Cha tôn vinh” Người Con để Người Con tôn vinh Chúa Cha (Ga 17,1).
Theo tác giả F.X.V.P. Long (trích lại trong R. Brown, The Gospel According
to John), cách nói “Thiên Chúa được tôn vinh trong Người Con” có thể hiểu
theo bốn nghĩa: (1) Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa được loài người tôn vinh; (2)
Thiên Chúa được Đức Giêsu tôn vinh bằng sự vâng phục của mình; (3) Thiên Chúa
đã nhận được danh dự cho mình trong Đức Giêsu; (4) Thiên Chúa đã mặc khải vinh
quang của Ngài nơi Đức Giêsu.[7]
(a) Con Người được tôn vinh (b) Thiên
Chúa được tôn vinh trong Người (b’) Nếu
Thiên Chúa được tôn vinh trong Người (a’) Thiên Chúa sẽ tôn vinh Người nơi
chính mình |
3.
Các con thân mến (τεκνία): Danh từ “τεκνία” có nghĩa là đứa trẻ, con cái. Đức Giêsu xem các môn đệ như con của mình. Người
tỏ lòng thương cảm đối với những môn đệ của Người khi Người phải ra đi.[8] Trong
cách gọi này, người ta có thể mường tượng sự non nớt, bơ vơ, lạc lõng, của
nhưng người môn đệ ở lứa tuổi trưởng thành, trước biến cố to lớn trong cuộc đời
họ, biến cố họ bị lạc mất Chúa. Sự lạc lõng, bơ vơ, đau khổ của những người tìm
kiếm Thầy, nhưng không thể đến với Thầy. Danh xưng này rất quen thuộc trong thư
thứ nhất của Gioan (1Ga 2,1.12.28; 3,18; 4,4; 5,21). Tác giả xem những con
chiên trong cộng đoàn như những đứa con của mình. Có bằng chứng cho thấy rằng trong
truyền thống Do Thái các thầy dạy gọi các môn đệ của mình là “các con” (StB,
II, 559).[9] Đây
chính là danh xưng người cha trong dụ ngôn “người cha nhân hậu” (Lc 15,11-32)
dùng để gọi người cả khi anh ta giận hờn, trách móc và không chịu vào nhà: “Con
bé bổng à! Con luô n ở với ta, những gì của ta đều là của con mà” (Lc 15,31). Như
thế, đây cũng là ngôn từ trong tương quan gia đình.
4.
Thầy còn ở với các con ít lâu: Tính từ “ít lâu” là một tính từ đặc trưng của Tin Mừng thứ tư. Đức Giêsu
dùng rất nhiều lần tính từ này để diễn tả khoảng thời gian ngắn ngủi Người còn ở
với cách môn đệ cách thể lý. Trước đó, Đức Giêsu đã đề cập đến khoảng thời gian
này khi nói cùng những vệ binh, thuộc hạ của những người Pharisêu, đến để bắt
Người: “Tôi còn ở lại với các ông một ít lâu nữa, rồi tôi sẽ đi về cùng Đấng đã
sai tôi” (Ga 7,33). Khi ví mình như ánh sáng Đức Giêsu nói cùng dân chúng rằng:
“Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi bao lâu còn
trông thấy ánh sáng, kẻo bóng tối bắt chợt các ông” (Ga 12,35). “Ít lâu nữa”
cũng là khoảng thời gian mà sau đó, các môn đệ được thấy Chúa, vì Người sống và
các môn đệ cũng sống (Ga 14,19). Thực tế là các môn đệ đã gặp lại Đức Giêsu sau
Phục Sinh. Tuy nhiên, cách nói “Thầy sống và anh em cũng sống” diễn tả một sự gặp
gỡ lâu dài hơn trong đời sống các môn đệ hoặc là ám chỉ các môn đệ sẽ được sống
mãi với Chúa trên quê trời. Trong Ga 16,16, Đức Giêsu ghép hai khoảng thời gian
“môt ít lâu” lại với nhau: “Một ít lâu nữa, anh em sẽ không thấy Thầy nữa, rồi
một ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy”. Các môn đệ đã lấy làm khó hiểu về khoảng
thời gian “ít lâu”: “Ít lâu có nghĩa là gì? Chúng ta không biết điều Người đang
nói” (Ga 16,18). Để đáp trả, Đức Giêsu đã cho các ông biết là trong hai khoảng
thời gian đó, họ sẽ có hai thái độ trái ngược nhau: “Anh em sẽ khóc lóc và than
van còn thế gian sẽ vui mừng; Anh em sẽ đau buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ
thành niềm vui” (Ga 16,20). Cách gián tiếp Đức Giêsu nói về cái chết và sự phục
sinh của Người. Thực tế, cái chết của Người đã làm cho các ông đau khổ, nhưng sự
phục sinh của Người đã làm cho các ông vui mừng. Khoảng thời gian “ít lâu”
trong bối cảnh này là khoảng thời gian, Đức Giêsu còn hiện diện với các môn đệ
trước khi bước vào cuộc khổ nạn. “Ít lâu” ở đây diễn tả sự tiếc nuối, vì giờ
chia tay sắp đến. “Ít lâu” trong câu “ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” diễn
tả sự tích cực, nghĩa là, không bao lâu nữa, các môn đệ sẽ lại được gặp Chúa.
5. Các con sẽ tìm Thầy… “Nơi tôi đi, các ông không thể đến”: Khi Đức Giêsu đi rồi, nghĩa là bước vào cuộc khổ nạn,[10] các môn đệ sẽ tìm Người trong sự tuyệt vọng. Tuy nhiên, họ sẽ không thể đến được với Người, bởi họ chưa hiểu và chưa sẵn sàng cho mầu nhiệm tử nạn. Trong đêm Tiệc Ly, sau đoạn văn này, khi ông Phêrô hỏi Đức Giêsu “Thầy đi đâu vậy, Đức Giêsu đã trả lời rằng “nơi Thầy đi, bây giờ con không thể đi theo được, nhưng sau này con sẽ đi theo” (Ga 13,36). Câu trả lời này đánh động lòng tự ái của ông Phêrô và ông đã khẳng định rằng “thưa Thầy! sao con lại không thể đi theo Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí mạng con vì Thầy” (Ga 13,37). Trước tuyên bố mạnh mẽ của ông Phêrô, Đức Giêsu đã công bố một sự thật bẽ bàng: “Amen, Amen, Thầy bảo con, gà chưa gáy, con đã chối Thầy ba lần” (Ga 13,38). Quả thực, các môn đệ không thể cùng Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, nhưng sau khi Đức Giêsu phục sinh, họ cũng sẽ đi theo con đường khổ giá và chịu chết như Người.
6. Điều răn mới, có gì mới?
Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giêsu đã nói đến điều
răn quan trọng nhất, khi nhà thông luật hỏi Người: “Trong Luật Môsê, điều răn
nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22,36). Đức Giêsu đã kết hợp giữa một đoạn
trong sách Đệ Nhị Luật và một đoạn trong sách Lêvi để đưa ra một điều răn “hai
trong một” (Mt 22,37-39): (i) Phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết
linh hồn, và hết trí khôn ngươi (Đnl 6,4-5); (ii) Phải yêu mến người thân cận
như chính mình (Lv 19,18). Và khái niệm “người thân cận” được Đức Giêsu mở rộng
ra là tất cả mọi người, đặc biệt là những người đau khổ (Lc 10,29-37). Đây là
điều cốt lõi, là trung tâm của đời sống luân lý của Do Thái giáo.
Tác giả Tin Mừng thứ tư không ghi lại câu chuyện
tương tự, liên quan đến điều răn yêu thương trong Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng ông
lại nói đến việc Đức Giêsu ban cho các môn đệ một điều răn mới mà Tin Mừng Nhất
Lãm không nói đến. Đâu là cái mới ở điều răn này? Cái mới thứ nhất là người ban
điều răn. Nếu như điều răn yêu thương trong Cựu Ước được Chúa ban qua ông Môsê,
thì điều răn mới được Đức Giêsu trực tiếp trao ban. Động từ được Đức Giêsu dùng
là động từ “δίδωμι= điđômi”,
có nghĩa là ban tặng, ban cho, chứ không phải là ban hành. Đây là món quả Đức
Giêsu trao tặng các môn đệ chứ không phải là ban hành Lề Luật. Danh từ “điều
răn” đôi khi làm người ta hiểu lầm là Đức Giêsu su ban hành một mệnh lệnh, luật
lệ. Tuy nhiên, động từ “điđômi”
cho chúng ta thấy đây là món quà tốt nhất mà Đức Giêsu trao tặng cho các môn đệ
trước lúc chia tay. Món quà này chính là linh hồn của Đức Giêsu và của Chúa
Chúa sẽ giúp cho cộng đoàn các môn đệ cũng như các tín hữu sống và sống dồi
dào, thậm chí trong những lúc khủng hoảng, khó khăn. Người nhận điều răn này là
các môn đệ, cụ thể là Nhóm Mười Hai, trong khi điều răn yêu thương trong Cựu Ước
được ban cho toàn dân. Thực ra, “Nhóm Mười Hai” chính là nhóm hạt nhân, và đại
diện cho dân Giao Ước mới. Cũng nên nhớ rằng, điều răn yêu thương được Đức
Giêsu ban sau khi Người lập Giao Ước mới và vĩnh cửu bằng máu của Người. Chính vì vậy, ban điều răn mới cho Nhóm Mười
Hai cũng là bàn cho dân Giao Ước mới, nghĩa là tất cả những ai tin vào Đức
Giêsu. Điều răn “mới” không đề cập gì đến khía cạnh “yêu kính Chúa”. Đức Giêsu
nhấn mạnh đến tình yêu dành cho Thiên Chúa chỉ vì đó là điều hiển nhiên. Hay
nói như tác giả của thư thứ nhất thánh Gioan: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên
Chúa mà lại ghét người anh em của mình, người ấy lả kẻ nói dối, vì ai không thể
yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng
mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20). Đối tượng mà các môn đệ phải yêu thương
theo điều răn mới là “lẫn nhau” chứ không phải là “người thân cận”. Điểm quy
chiếu, hay mức độ yêu thương mà các môn đệ phải dành cho nhau là “như Thầy đã
yêu thương”. Nghĩa là, yêu đến hy sinh thân mình vì người khác.[11]
Đây là tình yêu ở mức cao nhất, hoàn hảo nhất, vì đó là tình yêu chính Đức Giêsu
dành cho nhân loại. Tình yêu ấy được thể hiện cách cụ thể trước đó bằng việc Người
cúi xuống rửa chân cho từng người trong Nhóm Mười Hai, kể cả ông Giuđa kẻ nộp
Người, hay ông Phêrô, kẻ chối Người.[12] Nhất
là, tình yêu được thể hiện ở mức độ cao nhất qua cái chết trên thập giá. Mức độ
cao nhất của tình yêu mà Đức Giêsu dành cho các môn đệ đã được tác giả giới thiệu
ngay từ đầu chương 13: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế
gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Đức Giêsu đã ban “điều răn mới”
cho các môn đệ, để bảo đảm rằng tinh thần của Người vẫn tiếp tục tồn tại giữa họ,
dẫu cho bao khó khăn, thất vọng phía trước.[13] Điểm
quy chiếu tình yêu không dừng lại ở tình yêu của Đức Giêsu dành cho các môn đệ,
mà sau đó Đức Giêsu còn cho thấy rằng nó vươn tới tận tình yêu mà Chúa Cha dành
cho Đức Giêsu: “Như Chúa Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng đã yêu các con” (Ga 15,9).
Tình yêu của Đức Giêsu dành cho các môn đệ cũng là tình yêu của Chúa Cha.[14]
Ngữ động từ “yêu thương nhau” (ἀγαπᾶτε
ἀλλήλους) được lặp lại với mật
độ dày đặc trong trong hai câu 34-35, cho thấy mức độ quan trọng của lệnh truyền
này. Trong chương Ga 15,12-17, ngữ động từ này được lặp lại hai lần nữa. Trong
bối cảnh đó, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ “ở lại trong tình yêu của” Người bằng
cách giữ điều răn của Người. Người nhắc lại điều răn của Người là: “Các con hãy
yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (ἀγαπᾶτε ἀλλήλους καθὼς ἠγάπησα
ὑμᾶς) (Ga 15,12). Đức Giêsu
đã yêu thương các môn đệ như thế nào? Thưa, Người yêu thương họ đến mức chết
cho họ. Đó là tình yêu ở mức độ cao nhất: “Không ai có tình yêu vĩ đại hơn tình
yêu này là ai đó hy sinh mạng sống của anh ta vì người yêu của mình” (μείζονα
ταύτης ἀγάπην οὐδεὶς ἔχει, ἵνα τις τὴν ψυχὴν αὐτοῦ θῇ ὑπὲρ τῶν φίλων αὐτοῦ) (Ga 15,13). Cuối cùng, Đức Giêsu chốt lại một lần nữa về điều răn của Người:
“Điều Thầy truyền cho các con là các con phải yêu thương nhau” (Ga 15,17). Tác
giả thư thứ nhất của thánh Gioan cũng nhiều lần lặp lại “điều răn mới”, nhưng
ông cũng nói là “đây không phải là một điều răn mới… nhưng là điều răn cũ mà
anh em đã có ngay từ lúc đầu … nhưng đó cũng là một điều răn mới … đó là: Chúng
ta phải yêu thương nhau” (1 Ga 2,5.7.8).
Thầy ban … một điều
răn mới (Ἐντολὴν καινὴν) rằng các
con phải yêu thương nhau (ἀγαπᾶτε ἀλλήλους), như Thầy đã yêu thương các con (καθὼς ἠγάπησα ὑμᾶς), các con
cũng phải yêu thương nhau, tất cả sẽ biết rằng các con là môn đệ của
Thầy, nếu các con
có lòng yêu thương nhau. |
7.
“Tất
cả sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy”: “Yêu thương lẫn nhau” chính là
căn tính, là nhãn hiệu của cộng đoàn các môn đệ, vì qua hành vi yêu thương mà tất
cả mọi người nhận ra họ chính là môn đệ của Đức Giêsu, không lẫn vào đâu được.
Dĩ nhiên, vị ngữ “lẫn nhau” của động từ yêu thương không có ý giới hạn tình yêu
của các môn đệ chỉ dành cho nhau mà thôi. “Lẫn nhau” là những đối tượng khởi đầu
và căn bản của tình yêu mà các môn đệ sẽ mở rộng ra cho cộng đoàn lớn hơn và
cho cả nhân loại theo hành sứ vụ của họ. Cũng nên nhớ rằng, điều răn mới được ban trong bối cảnh giao ước mới,
được lập bằng máu Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly. Chính vì thế, điều răn mới có thể
được xem như luật lệ dành cho dân giao ước mới đáp lại với hành vi cứu độ của
Chúa và sự yêu thương chọn lựa của Người, để họ thành dân mới của Người.[15]
Thực tế, một tình yêu thương huynh đệ, hiệp nhất, chia sẻ, không có ai thiếu thốn
thứ gì đã được triển nở trong cộng đoàn Kitô hữu sơ khai (Cv 4,32-35). Thánh Phaolô
đã chuyển tải tình yêu này cho cả cộng đoàn tín hữu Rôma: “Anh chị em đừng mắc
nợ ai điều gì, ngoại trừ tình yêu thương lẫn nhau; (τὸ ἀλλήλους ἀγαπᾶν) vì ai yêu thương người khác là hoàn tất
Lề Luật” (Rm 13,8). Ông cũng khuyên các tín hữu Galát là “hãy phục vụ nhau vì
tình yêu” (διὰ τῆς ἀγάπης) (Gl 5,13) hay khẳng định với cộng đoàn Côlôxê rằng “trên hết tất cả, tình
yêu là mối dây liên kết hoàn hảo” (Cl 3,14). Thánh Phêrô cũng căn dặn các tín hữu
là “hãy có tình huynh đệ” (1 Pr 3,8); “trên hết mọi sự, hãy yêu thương nhau
cách nồng nhiệt, vì tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi” (1 Pr 4,8).
Bình luận tổng
quát
Trong
xã hội con người, xưa nay luôn tồn tại hai loại tình yêu rõ rệt. Loại tình yêu
thứ nhất được gọi là “tình yêu vị kỷ”. Nghĩa là, người ta yêu người khác vì
chính mình. Rất nhiều người trên trần gian này có khuynh hướng yêu vị kỷ. Khuynh
hướng này được thể hiện khi một người yêu một ai đó vì người này mang lại cho
mình lợi ích nhất định nào đó, hoặc tiền bạc, hoặc danh vọng, địa vị xã hội, hoặc
niềm vui, hạnh phúc. Một cô gái yêu chọn một chàng trai làm chồng bởi vì anh
này có thể bảo đảm cho cô một sự ổn định, sung túc về vật chất, “bằng chị bằng
em” trong xã hội. Một người đàn ông chọn yêu một người phụ nữ vì cô này xinh đẹp,
có “nhà ở phố, bố làm to”. Sắc đẹp của cô gái làm cho anh ta hãnh diện mỗi khi
đi bên cạnh. Tiền bạc và quyền lực của bố cô gái có thể mang lại cho anh ta địa
vị và cơ hội tiến thân. Một vị linh mục chọn yêu Chúa vì Chúa mang lại cho ông
một địa vị xã hội đáng kể trong lòng giáo dân, cùng với những lợi lộc trần thế
đi kèm với chức linh mục. Tình yêu như thế, cách nào đó, chỉ là một sự trao đổi
qua lại, không hơn không kém. Loại tình yêu thứ hai được gọi là “tình yêu vị
tha”. Nghĩa là, người ta yêu người khác vì chính đối phương. Thánh Phaolô đã
xác tín về tình yêu của Đức Kitô như thế này: “Khi chúng ta không có sức làm được
gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo kỳ hạn Đức Kitô đã chết vì tội lỗi
chúng ta. Rất hiếm khi có một ai đó chết vì người công chính, có thể có một ai
đó chết vì một người tốt. Vậy mà, Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng
ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”
(Rm 5,6-8). Tình yêu của Thiên Chúa chính là nền tảng và căn bản cho “tình yêu
vị tha”. Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao ban chính Con Một. Đức
Giêsu yêu nhân loại đến nỗi trao ban chính thân mình để cho nhân loại được sống.
Người yêu nhân loại không phải vì nhân loại đẹp, thánh thiện, dễ thương, hay
nhân loại mang lại cho Người bất cứ lợi lộc gì. Người trao ban tất cả cho nhân
loại bởi vì bản chất của Người là tình yêu và bản chất của tình yêu đích thực
là sự trao ban vô vị lợi. Người ta có thể tìm thấy phần nào tình yêu của Thiên
Chúa nơi tình yêu của người cha, người mẹ, hay của các thánh nhân. Người cha,
người mẹ đúng nghĩa phải yêu thương những người con của mình hết lòng, sẵn sàng
hy sinh thân mình vì con, mà không đòi hỏi bất kỳ một lợi ích nào từ người con.
Các thánh nhân luôn thi hành việc bác ái cách vô vị lợi. Các đôi tình nhân cũng
có thể vươn đến tình yêu vị tha khi cả hai người đều biết nghĩ đến người yêu của
mình, biết hy sinh cho người yêu của mình hơn là chỉ nghĩ cho bản thân mình và đòi
hỏi đối phương phải hy sinh cho mình. Là những môn đệ của Đức Kitô, mỗi kitô hữu
đều được mời gọi làm cho tình yêu tuyệt hảo, vô vị lợi, của Đức Giêsu tiếp tục
lan tỏa mọi lúc, mọi nơi, trên thế gian này.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1]
Tin Mừng thứ tư được chia thành bốn phần chính; (1) Lồi Tựa (1,1-18); (2) Sách
các dấu (1,19 – 12,50); (3) Sách của sự vinh quang (13,1 – 20,29); (4) Phần kết
(21,1-25 [F.J. Moloney, “John”, The Paulist Biblical Commentary (ed.
J.E.A. Chiu e al.) (New York, 2008) 1110-1111].
[2]
“This glorification involves his return to his Father and therefore, his
departure from his disciples” [R.E. Brown, The Gospel according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) 29A, 609].
[3]
“The love of God, which involves the sacrifice of self, is most visible and at
its apex on the cross and not on Easter morning” [E. Haenchen – R.W. Funk – U. Busse,
John. A commentary
on the Gospel of John (Hermeneia; Philadelphia 1984) 117.].
[4]
“Bultmann himself recognizes, the theme of glory that dominates the second half
of the Gospel (The Book of Glory) is past, present, and future, since the whole
process is viewed from an eternal viewpoint (perhaps produced by mixing the
viewpoint of the night before Jesus died and the viewpoint of the later period
of Gospel composition)” (R.E. Brown, The Gospel
according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and notes,
610).
[5] “The passion, death, resurrection, and ascension are
looked on as one brief action” (R.E.
Brown, The Gospel
according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and notes,
606).
[6] M.L. Coloe, “Johannine Literature”, The Jerome
Biblical Commentary for the Twenty-First Century (ed. J.J. Collins e al.)
(London – New York – Oxford – New Delhi – Sydney 2020) 1426; “the association
of jesus death with glorification d, a ref1ectinn of the final stages in the
Johannine community's theological development” [F.J. Moloney, The Gospel of
John (SP4; Collegeville 1997) 389].
[7] F.X.V.P.
Long, Các Bài Tin Mừng Gioan Dùng trong Phụng Vụ (Biên Hòa 2021) 317.
[8]
“My little children,” gives the verse a tone of tenderness; and certainly
Jesus’ words in 36 interpret the statement of 33 as a promise of ultimate
happiness (“you will follow me later”)” (R.E.
Brown, The Gospel
according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and notes,
612).
[9] G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 246; R.E. Brown,
The Gospel
according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and notes,
607.
[10]
Trước đó Đức Giêsu đã mặc khải rằng Người sẽ ra đi và, những lãnh đạo Do Thái sẽ
tìm Người nhưng họ không thể đến được (7,32-36). Bây giờ Đức Giêsu lặp lại với
các môn đệ. Trong cả hai trường hợp, Đức Giêsu đều tiền báo về cái chết của Người
(M.L. Coloe, “Johannine Literature”, 1427).
[11] “In the context of “the hour,” Jesus’ demonstrable love
included the laying down of his life and taking it up again” … “Yet
because the generosity of God’s love could not be fully known until He had
given His own Son, in another way the Christian concept of love stemming from
Jesus is new”(R.E. Brown, The Gospel
according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and notes,
607, 614); “Its “newness” would appear to consist in its being the Law of the
new order, brought about by the redemption of God in and through Christ,
intimated in vv 31–32 (G.R. Beasley-Murray, John, 247).”
[12] “The
love with which Jesus has loved them and has just exemplified in the
footwashing” (E. Haenchen – R.W. Funk –
U. Busse, John,117).
[13]
“The command to love (34–35) is Jesus’ way of ensuring the continuance of his
spirit among his disciples” (R.E. Brown, The Gospel
according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and notes,
609).
[14]
“Yet love is more than a commandment; it is a gift, and like the other gifts of
the Christian dispensation it comes from the Father through Jesus to those who
believe in him” (R.E. Brown, The Gospel
according to John (XIII-XXI), 612).
No comments:
Post a Comment