Trong đoạn văn có ít nhất hai cuộc đối thoại. Trong đó, có một cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari về ba đề tài khác nhau: về “nước sự sống”, về “những đời chồng” và “về nơi thờ phượng” và một cuộc đối thoại với các môn đệ về “lương thực đích thực” và “phận vụ của các môn đệ”. Điều đó có nghĩa là trong đoạn văn này, Đức Giêsu dùng đa phần thời gian cho cuộc nói chuyện với người phụ nữ Samari. Người không những trò chuyện với những người Samari mà còn lưu lại vùng đất của họ đến hai ngày trước khi trở về Galilê. Đề tài của cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ không giống nhau. Có sự biến chuyển đề tài liên tục: Từ chủ đề “nước hằng sống”, đến “những đời chồng” và rồi đến “nơi thờ phượng đích thực”. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ lại biến chuyển từ chủ đề “lương thực” cho đến “đồng lúa chín vàng” và “mùa gặt”.
Vậy, tại sao Đức Giêsu lại phải đến
miền Samari? Người cần gì khi phải vượt lên những điều cấm kỵ để nói chuyện lâu
giờ với một người phụ nữ Samari? Đâu là ý nghĩa sâu xa của cuộc đối thoại với
nhiều đề tài khác nhau ấy? Cuộc đối thoại của Người với các môn đệ có ý nghĩa
gì? Và qua những cuộc đối thoại này tác giả muốn nói gì với các độc giả thế kỷ
thứ nhất và các độc giả qua mọi thời đại? Đó là những vấn nạn được đặt ra mà
việc phân tích bản văn sau đây sẽ giúp trả lời phần nào những vấn nạn ấy.
I. Bản Văn Ga 4,4-43 [1]
4
Nhưng Người phải băng qua Samari. 5
Vậy Người đến một thành Samari, gọi là Sykha, Gần thửa đất mà Jacob đã cho
Giuse, con của ông ấy. 6
Ơ đó có giếng Jacob. Đức Giêsu vất vả đi đường nên ngồi xuống bờ giếng. Lúc
đó khoảng giờ thứ sáu. 7
Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với chi ấy: “Cho tôi
uống với.” 8
Vì các môn đệ của Người đã đi vào thành để mua thức ăn. 9
Người phụ nữ Samari nói với Người: “Làm sao Ông là người Do Thái lại xin tôi
nước uống, mà tôi là một phụ nữ Samari?” Vì người Do Thái không giao thiệp
với người Samari. 10
Đức Giêsu trả lời và nói với chị ấy: “Nếu chị nhận biết ân huệ của Thiên Chúa
và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi uống với, Hẳn chị đã xin người ấy và
người ấy đã ban cho chị nước sự sống.” 11
[Chị ấy] nói với Người: “Thưa Ông, Ông không có gầu và giếng lại sâu. Vậy Ông
có nước sự sống từ đâu? 12
Chẳng lẽ Ông lớn hơn cha của chúng tôi là Jacob, người đã cho chúng tôi giếng
này, chính người đã uống nơi giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của người
nữa?” 13
Đức Giêsu trả lời và nói với chị ấy: “Bất kỳ ai uống nước này sẽ lại khát. 14 Nhưng
ai uống nước mà chính tôi sẽ ban cho kẻ ấy, đời đời sẽ không khát. Nhưng nước
mà tôi sẽ ban cho người ấy, sẽ trở nên nơi người ấy một mặch nước vọt lên sự
sống đời đời.” 15
Người phụ nữ nói với Người: “Thưa Ông, xin Ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi
hết khát và khỏi phải đến đây múc nước.” 16
Người nói với chị ấy: “Chị hãy đi gọi chồng của chị rồi trở lại đây.” 17
Người phụ nữ trả lời và nói với Người: “Tôi không có chồng”. Đức Giêsu nói
với chị ấy: “Chị nói: ‘Tôi không có chồng’ là phải, 18
vì chị đã có năm đời chồng và người hiện nay chị có, không phải là chồng của chị.
Điều này chị đã nói đúng.” 19 Người
phụ nữ nói với Người: “Thưa Ông, tôi thấy rằng chính Ông là một ngôn sứ. 20
Cha ông chúng tôi đã thờ phượng ở núi này; Còn các ông, các ông nói rằng: Ở Jêrusalem
mới là nơi phải thờ phượng.” 21
Đức Giêsu nói với chị ấy: “Này chị hãy tin Tôi, giờ đến, không phải trên núi
này cũng chẳng phải ở Jêrusalem, các người thờ phượng Cha. 22
Các người, các người thờ phượng điều các người không biết; Chúng tôi, chúng
tôi thờ phượng điều chúng tôi biết vì ơn cứu độ đến từ người Do Thái. 23
Nhưng giờ đến – và là bây giờ - , khi mà những người thờ phượng đích thực sẽ
thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật. Vì Cha tìm kiếm những kẻ thờ phượng
Người như thế. 24
Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong
thần khí và sự thật.” 25
Người phụ nữ nói với Người: “Tôi biết rằng Đấng Mêsia sẽ đến – Đấng được gọi
là Kitô. Khi Đấng ấy đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” 26
Đức Giêsu nói với chị ấy: “Chính là Tôi, người đang nói với chị.” 27
Vừa lúc đó các môn đệ của Người trở về. Các ông ngạc nhiên vì Người nói
chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai nói: “Thầy cần gì?” hoặc “Thầy nói
gì với chị ấy vậy?” 28
Vậy người phụ nữ để lại vò nước của mình và đi vào thành và nói với mọi
người: 29
“Hãy đến xem một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm, Ông ấy
không phải là Đấng Kitô sao?” 30
Họ đi ra khỏi thành và đến với Người. 31
Trong khi đó các môn đệ xin với Người rằng: “Thưa Rápbi, mời Thầy ăn.” 32
Nhưng Người nói với các các ông: “Chính Thầy có lương thực để ăn mà anh em
không biết.” 33
Các môn đệ nói với nhau: “Phải chăng ai đó đã mang đến cho Người ăn rồi sao?” 34
Đức Giêsu nói với các ông: “Lương thực của Thầy thực hiện ý muốn của Đấng đã
sai Thầy, và Thầy hoàn tất công việc của Người. 35
Chẳng phải anh em nói rằng: ‘Còn bốn tháng nữa thì mùa gặt sẽ đến sao?’ Hãy ngước
mắt anh em lên và nhìn xem những cánh đồng, chúng chín vàng cho mùa gặt. Rồi
kìa, 36
Người gặt lãnh nhận tiền công và thu hoa lợi cho sự sống đời đời, để người
gieo lẫn kẻ gặt đều vui mừng. 37
Về điều ấy, lời này là đúng: ‘Kẻ này là người gieo, kẻ khác là người gặt.’ 38
Chính Thầy sai anh em đi gặt điều chính anh em đã không vất vả làm ra. Người
khác đã vất vả, còn anh em, anh em được hưởng sự vất vả của họ.” 39
Trong thành đó nhiều người Samari đã tin vào Người, nhờ lời người phụ nữ làm
chứng rằng: “Ông ấy nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm.” 40
Vậy khi người Samari đến với Người, họ xin Người ở lại với họ, và Người đã ở
lại đó hai ngày. 41 Và
nhiều người hơn nữa đã tin nhờ lời của Người. 42
Họ nói với người phụ nữ rằng: “Không phải vì lời của chị mà chúng tôi tin. Vì
chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ thế gian.” 43
Sau hai ngày, Người ra khỏi nơi đó đi Galilê. |
Đoạn văn 4,4-43 ghi lại khoảng thời gian Đức Giêsu lưu lại
vùng Samari. Đầu đoạn văn này có một sự chuyển đổi về mặt không gian. Trong đó
4,4: “Nhưng Người[2]
phải băng qua Samari” vừa đóng vai trò chuyển đoạn vừa dẫn nhập cho đoạn
văn mới 4,4-43. Câu này giới thiệu không gian nơi sắp diễn ra câu chuyện là ở vùng
Samari. Đoạn trước đó: 4,1-3 là một đoạn văn nói về lý do Đức Giêsu phải rút
lui khỏi miền Juđê mà đi Galilê. Như vậy, đoạn 4,4-43 là một đoạn thống nhất về
mặt không gian và thời gian: Đức Giêsu trên đường về Galilê đã ghé qua Samari,
gặp người phụ nữ bên bờ giếng, rao giảng và lưu lại tại đây trong khoảng thời
gian hai ngày.
Đoạn văn được chọn kết thúc ở 4,43 với hai lý do. (1) Về mặt
không gian: 4,43: “Sau hai ngày, Người ra
khỏi nơi đó đi Galilê” vừa là câu kết cho khoảng thời gian Đức Giêsu ở
Samari vừa là một câu chuyển đoạn giới thiệu một không gian hoạt động mới của
Đức Giêsu: Galilê. (2) Về nội dung: Đoạn sau 4,44-45 nói đến việc Đức Giêsu làm
dấu lạ thứ hai tại Cana: Chữa lành con trai của một người sĩ quan.[3]
Trong khi đó đoạn 4,4-43 kể về việc Đức Giêsu rao giảng tại vùng Samari. Như
vậy, có thể chọn riêng đoạn 4,4-43 để phân tích.
Đoạn văn 4,4-43 nằm trong đoạn lớn 2 – 4: Từ Cana đến Cana.[4]
Đoạn lớn này khởi đầu bằng việc Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên, biến sáu chum
nước dùng vào việc thanh tẩy, trở thành sáu chum rượu ngon, trong một buổi tiệc
cưới tại Cana (2,1-12), miền Galilê. Sau khi làm dấu lạ này, Đức Giêsu lên Jêrusalem
vào dịp Lễ Vượt Qua và thanh tẩy đền thờ Jêrusalem (2,13-22). Sau đó, Ngài có
cuộc đối thoại với Nicôđêmô (2,23 – 3, 21), rồi đi Giuđê, ở lại nơi đây và làm
phép rửa (3,22). Tiếp sau đó, Ngài băng qua Samari, có cuộc gặp với người phụ
nữ Samari và dân làng Samari (4,4-43) và trở lại Galilê, làm dấu lạ thứ hai: Cứu
chữa người con trai của một viên sĩ quan (4,46-54).
Như vậy, đoạn văn được chọn phân tích nằm trong bối cảnh Đức
Giêsu trên đường trở về Galilê theo lộ trình ngang qua Samari. Có thể nói về
mặt không gian thì đoạn này hoàn toàn tách biệt với hai đoạn trước đó (ở Galilê)
và sau đó (cũng ở Galilê). Và về mặt đối tượng rao giảng cũng có một sự khác
biệt và mới lạ. Đó là dân Samari, một nhóm người ngoại lai, trước nay vẫn bị
người Do Thái coi khinh và tránh tiếp xúc.
I. 4,4-6. Dẫn Nhập, Đức Giêsu đến giếng Jacob ở Xykha,
Samari II. 4,7-26. Đức Giêsu đối thoại với người phụ nữ
Samari 7-15: Đề tài “Nước sự sống” 16-19:
Đề tài “Những đời chồng” với kết luận Đức Giêsu là ngôn sứ 20-26:
Đề tài “Nơi thờ phượng đích thực” với kết luận Đức Giêsu là “Đấng Mêsia” III. 4,27-38. Người phụ nữ vào thành loan tin, Đức Giêsu
đối thoại với các môn đệ 27: Chuyển tiếp: Các môn đệ mua thức ăn trở về. 28-30:
Người phụ nữ vào thành và loan tin về Đấng Kitô. 31-38: Đối thoại về
lương thực đích thực và phận vụ của Đức Giêsu và môn đệ IV. 4,39-42. “Nhiều người” và “nhiều người hơn nữa” đã
tin vào Đức Giêsu 39:
Người phụ nữ làm chứng, nhiều người Samari tin vào Đức Giêsu 40-42: Số người tin gia tăng, tuyên xưng
Người là Đấng cứu độ thế gian V. 4,43. Sau hai ngày, Người rời khỏi đó đi Galilê |
Đoạn văn (4,4-43) được cấu trúc thành năm tiểu đoạn, mở đầu
bằng việc Đức Giêsu đến Samari ở tiểu đoạn I (4,4-6) và kết bằng việc Đức Giêsu
rời Samari đi Galilê ở tiểu đoạn V (4,43). Đoạn văn được cấu trúc xoay quanh hai
cuộc đối thoại. Tiểu đoạn II (4,7-26) là cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người
phụ nữ Samari về ba đề tài: (1)“nước sự sống” (7-15), (2)“những đời chồng”
(16-19) và (3) “nơi thờ phượng đích thực” (20-26). Qua mỗi đề tài, Đức Giêsu mặc
khải một điều quan trọng. Trong đề tài thứ nhất, Người giới thiệu về “nước sự
sống”- một yếu tố cần thiết cho cả cuộc đời người phụ nữ. Qua đề tài thứ hai,
Đức Giêsu gợi mở và giúp người phụ nữ nhận ra “chính Ông là một ngôn sứ”
(4,19). Và cuối cùng, đề tài thứ ba, Đức Giêsu mặc khải chính mình là Đấng Mêsia.
Tiểu đoạn III (4,27-38) là cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ về hai
đề tài: (1) “lương thực đích thực” và (2)“phận vụ các môn đệ”. Xen lẫn giữa
cuộc đối thoại này là việc người phụ nữ “đi vào thành và nói với mọi người”
(4,28) về “Người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm” (4,29). Tiểu đoạn
IV (4,39-42) là kết cục rất đẹp cho chuyến đi đến Samari của Đức Giêsu, cũng
như cho toàn đoạn văn: Nhiều người Samari đã tin vào Người và tuyên xưng Người
là “Đấng cứu độ thế gian” (4,42). Tiểu đoạn kết là: V (4,43).
Đoạn
văn gồm nhiều nhân vật phân làm hai tuyến: (1) Các nhân vật hiện diện trong câu
chuyện và (2) các nhân vật chỉ được nhắc đến gián tiếp qua lời nhân vật trong
câu chuyện. Trong đó, Đức Giêsu được nhắc đến với nhiều danh xưng nhất: Đức Giêsu,
Ông (chủ), Thầy, Đấng Kitô, Đấng Mêsia, ngôn sứ, Người Do Thái. Bên cạnh đó là
các nhân vật: Người phụ nữ Samari, những người Samari và các môn đệ. Các nhân
vật hiện diện cách gián tiếp bao gồm: Thiên Chúa, được Đức Giêsu nói đến bằng
nhiều danh xưng: Cha, Thiên Chúa, Thần Khí; Ông Jacob, Ông Giuse và Cha ông
chúng tôi.
Có
thể nhắc đến hai loại thời gian như sau. Thứ nhất: Thời gian theo cấu trúc Tin
Mừng thứ tư. Theo toàn bối cảnh của Tin Mừng thứ tư thì đây là khoảng thời gian
Đức Giêsu trên đường trở lại Galilê, và Người đi ngang qua vùng Samari. Thứ
hai: Thời gian vật lý. Đức Giêsu đến bờ giếng Jacob vào giờ thứ sáu, gặp gỡ và
đối thoại với người phụ nữ. Và thời gian Người lưu lại thành Samari là hai
ngày.
Câu chuyện được diễn ra trong phần lãnh thổ của vùng Samari.
Trong đó có những địa danh cụ thể được đề cập đến như: Xykha, bờ giếng Jacob và
thành Samari. Ngoài ra, hai nơi chốn liên quan đến việc thờ phượng cũng được
nói đến. Đó là “núi này” và Jêrusalem.
Phần quan sát bản văn
gồm bốn đề mục: (1) Giới hạn, (2) bối cảnh, (3) cấu trúc, (4) từ ngữ nhân vật,
không gian thời gian. Đoạn văn 4,4-43
được giới hạn cách rõ ràng với kết cấu chặt chẽ về không gian: Đức Giêsu
đến Samari (4,4) và rời Samari đi Galilê (4,43). Đoạn văn nằm trong đoạn lớn 2
– 4: Từ Cana đến Cana, với bối cảnh là khoảng thời gian Đức Giêsu rao giảng tại
Samari. Cấu trúc đoạn văn gồm 5 tiểu mục nhỏ: I. Dẫn nhập; II. Đối thoại với
người phụ nữ Samari; III. Đối thoại với các môn đệ; IV. Nhiều người Samari đã
tin; V. Đoạn kết. Phần quan sát từ ngữ cho thấy động từ nói (le,gw) được sử dụng nhiều
nhất (25 lần) và kế đó là động từ “thờ phượng” (proskune,w) và động từ “đến” (e;rcomai) được dùng 8 lần. Về
danh xưng thì Đức Giêsu được dùng nhiều nhất (8 lần). Ngoài ra Người còn được
gọi bằng nhiều danh xưng khác nữa: Ông (ku,rioj), Thầy (r`abbi),
Đấng Mêsia (Messi,aj),
Đấng Kitô (Cristo,j)
Đấng cứu độ thế gian (o` swth.r tou/ ko,smou),
người Do Thái (VIoudai/oj),
ngôn sứ (profh,thj).
1.1 Lý do Đức Giêsu băng qua vùng Samari
Trong câu 4, người
thuật chuyện diễn tả rằng: “Nhưng Người
phải băng qua Samari” (Edei de. auvto.n die,rcesqai dia. th/j Samarei,aj). Trong tiếng Hy Lạp, động từ “dei” (impersonal verb) ở thì vị hoàn, diễn tả một hành động
cần thiết theo bổn phận phải làm. Chính vì thế mà tác giả E. Brown đã giải
thích rằng: Đây không phải là một sự cần thiết về mặt địa lý, bởi vì dẫu rằng con
đường chính để đi từ Juđê lên Galilê là băng qua Samari. Nếu Đức Giêsu đang ở
thung lũng Jorđan (3,22) thì Người có thể đi qua rãnh núi Bethshan để lên Galilê
một cách dễ dàng mà không cần đi qua Samari.[5] Lối
giải thích này xem ra phù hợp khi kết hợp với liên từ “nhưng” (de) ở trong câu.[6] Mặch
văn không có gì trái ngược với câu trước để dùng liên từ nhưng ở đây. Tuy
nhiên, có lẽ người thuật chuyện muốn diễn tả sự cần thiết về mặt thần học của
việc Đức Giêsu đi qua Samari với ngụ ý rằng: Người sẽ đi Galilê, nhưng trước
khi đi Galilê, Người buộc mình phải băng qua Samari. Người đi qua đó không phải
vì không có con đường nào khác, cũng không phải đường này dễ đi hơn các đường
khác nhưng Ngài có một nhiệm vụ lớn lao, cần thiết, nhất quyết phải thi hành
tại vùng này. Đó có thể được xem như một sự cố tình có chủ ý của Đức Giêsu, chứ
không đơn thuần chỉ là một đoạn đường trong một lộ trình về Galilê. Tác giả
F.J. Moloney cũng cho rằng động lực làm cho Đức Giêsu chọn lộ trình đi qua
Samari, là một sự thúc ép để Người thực hiện câu chuyện của mình. Đó là một sự
cần thiết mang tính thần linh. Người phải đến với thế giới bên ngoài dân Israel.[7]
Khi chú giải câu văn này, tác giả W.Barlay chỉ đơn giản cho rằng sở dĩ Đức Giêsu
phải băng qua Samari để đi đến Galilê vì đó là con đường ngắn nhất.[8]
Luận cứ này xem ra không phù hợp lắm vì những gì xảy ra sau đó cho phép chúng
ta hiểu ý định “băng qua Samari” của Đức Giêsu có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều.
Hơn nữa, cũng nên chú ý rằng trong Tin Mừng thứ tư động từ dei/ (phải) được sử dụng trên dưới 10 lần (3,7.14.30;
4,4.20.24; 9,4; 10,16; 12,34; và 20, 9). Riêng trong chương 4 động từ này xuất hiện 3 lần và điều đặc biệt là động
từ này thường diễn tả ý muốn hay kế hoạch của Thiên Chúa.
Như vậy, qua những phân tích trên có thể kết luận là việc Đức Giêsu phải
băng qua Samari phải được hiểu theo chiều hướng thần học của bản văn: Đức Giêsu
thấy cần thiết phải băng qua vùng Samari vì Ngài cũng có sứ vụ phải thi hành
tại nơi này. Đó có thể được xem như một kế hoạch, một niềm ước mong và một bổn
phận được trù bị trước, chứ không phải là việc tình cờ hay là một lộ trình chỉ
mang nghĩa địa lý mà thôi.
1.2 Ý nghĩa các địa danh: Samari, Sykha, và
giếng Jacob
Trong đoạn Tin Mừng này danh từ địa
danh Samari được nhắc đến 2 lần. Samari vốn là vùng đất thuộc vương quốc phía
Bắc, Israel, sụp đổ năm 721. Mối quan hệ giữa người Samari và người Do Thái vốn
không tốt. Người Do Thái xem người Samari là dân ngoại lai và ngoại đạo. Sau
thời kỳ lưu đày, người Do Thái xây lại đền thờ Jêrusalem
nhưng nhất quyết không đón nhận đóng góp của người Samari. Mối tương quan giữa
người Do Thái và Samari ngày càng xấu đi cho đến khoảng thế kỷ thứ IV khi người
Samari xây đền thờ trên núi Garizim và cuối thế kỷ II đền thờ này bị Gioan
Hycarnus, lãnh đạo của Giuđa phá hủy, thì chia rẽ diễn ra hoàn toàn.[9]
Như vậy, trên bình diện thực tế lịch sử, người Do Thái và người Samari vốn có
một mối hiềm khích rất lớn. Người Do Thái không muốn qua lại vùng Samari. Trong
Tin Mừng thứ tư có một chỗ người Do Thái gọi Đức Giêsu là người Samari: “Chẳng đúng sao khi chúng tôi nói rằng Ông là
người Samari và là người bị quỷ ám?” (8,48). Đây quả là một lời nhục mạ
khinh bỉ nhắm vào Đức Giêsu.[10]
Như thế, trên bình diện thần học vùng Samari quả là một vùng rất cần sự thăm
viếng của Đức Giêsu.
Giáo phụ Giêrônimô đồng hóa Sykha với Sykhem bởi vì không có
một dấu tích nào trong vùng Samari có tên là Sykha. Sau này, tác giả E.Brown cũng đồng ý với quan điểm ấy và
lý giải như sau: Sở dĩ viết là Sykha có lẽ là do một sự sai sót về cách phát âm
dưới sự ảnh hưởng của âm “ar” trong
chữ Samaria. Hơn nữa, nếu Sykha trùng
với Sykhem thì mọi thứ đều trùng khớp, bởi vì giếng Jacob cách Sykhem chỉ
khoảng 100m (250 ft.).[11]
Sykha là địa danh quan trọng, vì nó nằm gần với thửa đất mà tổ phụ Jacob đã cho
con mình là Giuse. Điều này được nói đến trong sách Sáng Thế: “Còn cha, cha cho con thêm một phần hơn các
anh em con, là thành Sikhem cha đã dùng gươm và cung của cha mà chiếm được từ
tay người Emôri” (St 48,22). Chính vì thế mà sau này con cái Israel chôn
xác tổ phụ Giuse nơi đây: “Hài cốt ông
Giuse mà con cái Israel đã đem lên từ Ai Cập, thì được chôn cất ở Sikhem”
(Gs 24,32).
Như vậy, những chi tiết liên quan đến
địa danh Sykha cho thấy địa danh này thật là ý nghĩa. Địa danh này gắn liền với
hai tổ phụ của dân Israel nhưng nay lại nằm trong vùng Samari, một vùng đất mà
dân Israel không muốn lui tới nữa. Điều này cũng ngụ ý một sự chia cắt trong
cõi lòng con người rất cần được hàn gắn. Hơn nữa, địa danh cụ thể trong trình
thuật này cho thấy trình thuật này không phải là một chuyện giả tưởng. Tác giả
đặt câu chuyện trong một địa danh cụ thể mà ông biết rất rõ địa hình, địa vật.
Sau khi đã giới thiệu về những địa danh
của vùng sẽ diễn ra câu chuyện, tác giả đã dẫn người đọc vào một địa điểm cụ thể
hơn: Bên bờ giếng Jacob. Chính nơi đây mới là không gian chính diễn ra phần lớn
câu chuyện. Cựu Ước không đề cập đến giếng Jacob nhưng chỉ nói đến khoảng thời
gian tổ phụ Jacob và gia đình sinh sống ở Sikhem (St 33, 18 – 34, 31). Tuy
nhiên, việc ấy không quan trọng cho bằng đặc tính thần học quan trọng của giếng
nước. Thực vậy, Kinh Thánh nhiều lần ghi lại nhiều trình thuật về các tổ phụ
gắn liền với bờ giếng (St 24,11; 29,2; Xh 2,15). Trong Tin Mừng thứ tư từ giếng
(phgh.)) được nhắc đến 5
lần và đều nằm trong đoạn văn này (4, 6a.6b.11.12a.12b). Nước (u[dwr) được nhắc đến 34
lần trong Tin Mừng thứ tư và riêng trong đoạn văn này tác giả dùng đến 7 lần (4,7.9.13.14a.14b.14c.15).
Nước trong Tin Mừng Thứ Tư, và cách riêng trong đoạn văn này, không đơn thuần
chỉ là thức uống giúp đáp ứng những nhu cầu của con người về phần xác nhưng còn
mang một ý nghĩa sâu xa hơn nữa.
Khởi đầu từ một cảm xúc bình thường của
một khách bộ hành, “vất vả vì đi đường
nên ngồi xuống bờ giếng”(4,6), Đức Giêsu đã ngỏ lời “nói với” (le,gw) người phụ nữ: “Cho tôi uống với”(4,7). Động từ “nói” (le,gw) được sử dụng 25 lần trong đoạn văn này. Điều
này cho thấy một môi trường đối thoại cởi mở được diễn ra giữa Đức Giêsu và
người phụ nữ Samari. Điều đặc biệt ở đây là chính Đức Giêsu là người mở lời
trước. Điều này xem ra phù hợp với ý nghĩa câu 4,4: “Người phải băng qua
Samari”. Người phải gặp người Samari và phải mở lời đối thoại với họ.[12]
Cuộc đối thoại của Đức Giêsu và người phụ nữ Samari xoay quanh ba chủ đề: (1)
Về nước hằng sống; (2) Về những đời chồng; (3) Về sự thờ phượng đích thực. Phần
sau sẽ phân tích từng chủ đề của cuộc đối thoại để tìm ra ý nghĩa của cuộc đối
thoại.
Câu chuyện diễn ra trong
thời điểm “khoảng giờ thứ sáu” (w`j e[kth) (4,6). Đây là
thời gian rất đặc biệt trong Tin Mừng thứ tư. Thuật ngữ “khoảng giờ thứ sáu”
chỉ xuất hiện đúng hai lần trong Tin Mừng thứ tư (4,6; 19,14). Giờ thứ sáu là
mười hai giờ trưa. Về phía Đức Giêsu: Đây là khoảng thời gian mà Philatô quyết
định việc đóng đinh Đức Giêsu vào Thập Giá và trên thập giá Người đã kêu lên
rằng: “Tôi khát” (19,28). Về phía người phụ nữ: Đây là khoảng thời gian rất bất
thường cho công việc kín nước vì người ta thường làm công việc này vào buổi
sáng sớm hoặc chiều tối. Cuộc đối thoại được Đức Giêsu mở đầu: “Cho tôi uống với” (do,j moi pei/n). Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giêsu cũng
bày tỏ sự khát ở một nơi khác: “Ta khát” (diyw) (19,28). Tuy
nhiên, động từ “khát” không chỉ có nghĩa đen mà còn mang nghĩa biểu tượng. Việc
Đức Giêsu yêu cầu: “Cho
tôi uống với” hẳn phải có một ý nghĩa sâu xa khác. Đức Giêsu yêu cầu như
vậy không đơn thuần để làm dịu cơn khát thể lý, nhưng vì tình yêu thúc ép Người
mang ơn cứu độ cho muôn người, để rồi khi chịu treo trên thập giá Người lại
nói: “Ta khát” (19,28).[13]
Người phụ nữ Samari
đã tỏ ra hết sức ngạc nhiên vì hai lý do mà chính Chị cũng nhận thức rõ: “Một người
Do Thái” xin “một phụ nữ Samari” (4,9). Trong câu nói của người phụ nữ vừa ẩn
chứa sự ngạc nhiên, vừa mang một chút châm biếm nào đó. Đây là lần duy nhất trong
Tin Mừng thứ tư, Đức Giêsu được gọi là người Do Thái. Danh từ người Do Thái (VIoudai/oj) được áp dụng cho Đức Giêsu và người Do
Thái ở 4,22 có thể là cùng một nghĩa: Đó là một người gốc dân tộc Do Thái, khác
với người gốc Samari. Nên biết rằng trong Tin Mừng thứ tư còn nhắc đến cụm từ
“những người Do Thái” (oi`
VIoudai/oi) (7,1-7) với một ý nghĩa khác. Đó là những kẻ thù ghét và
chống đối Đức Giêsu, tìm giết Người và bắt bớ cộng đoàn người tin vào thế kỷ
thứ I.[14]
Câu chuyện đột ngột
chuyển hướng hết sức lạ lùng, khi Đức Giêsu không trả lời câu hỏi của người phụ
nữ, nhưng bất ngờ nhắc đến “ân huệ của Thiên Chúa” (dwrea.n tou/ qeou), “ai là người nói” (ti,j evstin o` le,gwn) và “nước sự sống” (soi u[dwr zw/n).
Đây có thể được xem như là câu văn nền tảng, đặt vấn đề cho toàn bộ đoạn
văn 4,4-42. Đức Giêsu từ một người “xin được uống” bỗng nhiên trở thành người
có thể ban “nước sự sống”. Trong câu trích dẫn lời của Đức Giêsu (4,10) động từ
“biết” ở mệnh đề điều kiện chia ở thể chủ động, lối trình bày, thì quá khứ hoàn
thành (h;|deij)
và động từ “xin” ở mệnh đề chính chia ở thể chủ động, lối trình bày thì aorist
(h;|thsaj). Điều này chứng tỏ
rằng người phụ nữ Samari đã không biết ân huệ của Thiên Chúa và đã không xin
nên chưa được ban “nước sự sống”. Cụm từ “nước sự sống” (to. u[dwr to. zw/n) trong mặch văn có thể hiểu là “ân huệ của Thiên Chúa”.
Cụm từ này chỉ xuất hiện ba lần trong Tân Ước và chỉ có trong Tin Mừng thứ tư
(4,10.11; 7,38). Tác giả đồng hóa “nước sự sống” trong 7,38 với Thần Khí: “Điều
đó Người nói về Thần Khí” (7,39). Như thế, “nước sự sống” mà Đức Giêsu muốn nói
ở đây có thể là Thần Khí. Các học giả đưa ra nhiều lý giải khác nhau. Tuy
nhiên, “nước sự sống” ám chỉ đến Thần Khí được nhiều tác giả đồng thuận nhất.
Câu hỏi tiếp theo của người phụ nữ
Samari cho thấy chị đã không hiểu hay là đã hiểu lầm ý của Đức Giêsu: “Thưa Ông,
Ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy, Ông có nước sự sống từ đâu?”. Hiểu lầm
là một trong những kỹ thuật hành văn khá độc đáo của tác giả Tin Mừng thứ tư.
Trước đó, trong cuộc đối thoại về việc tái sinh (3,1-21), Nicôđêmô cũng đã từng
hiểu lầm ý Đức Giêsu. Đức Giêsu nói “nếu không được sinh ra một lần nữa” thì Nicôđêmô
lại hỏi: “Làm sao một kẻ lại được sinh ra khi đã già? Chẳng lẽ có thể trở vào
lòng mẹ mình lần thứ hai để được sinh ra sao?”. Đây là kiểu hành văn dị nghĩa,
gây hiểu lầm, thắc mắc. Qua đó, làm lộ ra tư cách mặc khải của Đức Giêsu.[15]
Nhân vật trong câu chuyện hiểu lầm, hiểu sai để cho chính độc giả hiểu đúng và
nhận ra chân lý.
Cụm từ “thưa Ngài”
hay “thưa Ông” (ku,rie) được người phụ
nữ sử dụng, cho thấy sự tiến triển trong cách nhìn của Chị đối với Đức Giêsu. Chị
đã tỏ ra tôn trọng Người hơn và đây là bước đầu tiên cho việc nhìn nhận tính
cách Mêsia của Người sau này.[16] Trước đó,
Chị gọi Đức Giêsu là “Người Do Thái” có vẻ xa lạ, một chút kỳ thị và mỉa mai. Chị
không những tỏ ra tôn trọng Đức Giêsu mà bắt đầu quan tâm đến “nước sự sống” mà
Người đề cập dẫu rằng Chị vẫn chưa hiểu rõ về “nước sự sống” ấy, bằng chứng là Chị
đề cập đến việc giếng sâu mà Đức Giêsu lại không có gàu. Có một điều khá đặc
biệt ở đây là giờ đây mối quan tâm của
người phụ nữ không dừng lại ở “nước sự sống” nhưng là chủ thể ban nước sự sống:
Là “người đã nói với Chị: ‘Cho tôi uống với’”. Có điều Chị vẫn chưa biết “người
đang nói với chị” là ai.
Cụm từ “Tôi sẽ ban” (dw,sw) xuất
hiện hai lần (4,14a.14b) trong đó một lần được dùng với đại từ
tôi (evgw)
có tác dụng nhấn mạnh. Chủ thể ban “nước sự sống” chính là Đức Giêsu và đặc
trưng của “nước sự sống” là: Ai uống “đời đời sẽ không khát” và trong người ấy
sẽ có “mặch nước vọt lên sự sống đời đời”. Cụm từ “nơi người ấy một mặch nước”
nhằm phân biệt với giếng Jacob, tức nguồn mặch chỉ thỏa mãn sự cơn khát tạm
thời và phải khơi thông mỗi ngày. Ngược lại “nước sự sống” sẽ tồn hữu bên trong
người tin và trở thành một giếng nước (phgh).
“Mặch nước vọt lên” (phgh. u[datoj
a`llome,nou) là lối diễn đạt vừa gợi hứng vừa tươi
mới. Đức Giêsu hứa ban một giếng nước chảy tràn, vọt lên và phun trào bên trong
người tin.[17]
Mặch nước này khác với giếng mà người phụ nữ nói đến ở 4,11.12 (fre,ar). Cụm từ “sự sống đời đời” (zwh.n aivw,nion) xuất hiện ít nhất
11 lần trong Tin Mừng thứ tư (3,36;4,14;5,24.39;6,47.68; 10,28; 12,25.50;
17,2.3). Đây không chỉ là lời hứa về sự sống sau khi chết nhưng là cuộc sống
tròn đầy bắt nguồn ngay từ bây giờ.[18]
Người phụ nữ lúc này đã dần dần bị Đức Giêsu thuyết phục. Tình thế đã đảo
ngược, lúc này không phải Đức Giêsu xin “cho tôi uống với” nhưng là người phụ
nữ “xin cho tôi thứ nước ấy”. Dầu vậy, chị vẫn chưa thực sự hiểu “nước sự sống”
là gì và “Đức Giêsu là ai. Cần phải có thêm những trao đổi và chính Đức Giêsu
đã đổi đề tài.
2.3 Về những đời chồng (4,16-19)
“Chị hãy đi gọi chồng Chị, rồi trở lại đây” (4,16). Trước
câu mệnh lệnh của Đức Giêsu, Chị đã đáp trả một cách thẳng thắn, không tránh
né: “Tôi không có chồng” (4,17a) và Đức Giêsu cũng đã xác nhận lời ấy là đúng
đến hai lần: “Chị nói: ‘Tôi không có chồng là phải’” (4,17b) và “điều này Chị
đã nói đúng” (4,18). Đức Giêsu lý giải cho tính chân thật trong câu trả lời của
Chị bằng lý chứng là “Chị có năm đời chồng, và người mà chị có hiện nay không
phải là chồng của chị” (4,18). Con số năm có thể là một số biểu trưng cho năm
vị thần của người Samari hoặc bộ Ngũ Thư của họ.[19] Câu
chuyện về các đời chồng là cả một ký ức về quá khứ bất ổn của Người phụ nữ.
Chính Chị biết rõ điều ấy và giờ đây chính Đức Giêsu cũng biết rõ điều ấy. Việc
nhìn nhận quá khứ khó khăn của Chị là cơ may để Chị nhận ra Đức Giêsu là ai,
khởi đầu cho một cuộc hoán cải thật sự. J. Moloney cho rằng không cần thiết
phải hiểu “năm đời chồng” theo nghĩa biểu tượng. Tiêu điểm là năng lực biết
những bí mật cuộc sống riêng tư của người phụ nữ. Việc Người nói sẽ ban “nước
sự sống” nằm ngoài hiểu biết của Chị nhưng khi một người nói cho Chị về những
bí mật của cuộc đời Chị hẳn buộc Chị phải chú ý (There is no need to read the five husbands simbolically. The focus is
on Jesus’s power to know the secrets of her intimate life… His claim to give
living water was beyond her grasp, but a person who tells her about the secrets
of her life commmand her attention).[20] Và
thật sự Chị đã chú ý đến con người Đức Giêsu.
“Thưa Ông, tôi
thấy rằng chính Ông là một ngôn sứ”. Trong Tin Mừng thứ tư danh xưng “ngôn sứ”
(profh,thj) được dành cho Đức Giêsu đến 6 lần (4,19.44; 6,14; 7,40.52; 9,17). Giờ
đây, Chị ta đã tập trung vào con người Đức Giêsu- “người nói với Chị: ‘Cho tôi
uống với’” - chứ không đơn thuần chỉ là nước nữa. Người Samari không chấp nhận
các Sách ngôn sứ. Vì thế, “ngôn sứ” mà Chị ta muốn nói ở đây hẳn là “ngôn sứ”
như Ông Môsê, được nói đến trong Đnl 18,15-18, một vị ngôn sứ được mong đợi sẽ
giải quyết những vấn nạn về luật lệ kiểu như vấn nạn cụ thể ở 4,20.[21] Cuộc đối thoại về những đời chồng (những bí mật đời tư) của người phụ nữ
đã giúp Chị ta thừa nhận Đức Giêsu từ “một người Do Thái” đến một “ngôn sứ”.
2.4 Về nơi thờ phượng đích thực (4,20-26)
Từ ngữ “thờ
phượng” xuất hiện 10 lần trong đoạn văn này. Điều này cho thấy tầm quan trọng
của chủ đề “thờ phượng” trong đoạn Tin Mừng này. Chủ ngữ của câu chất vấn không
còn ở số ít nữa nhưng c.21 đã được chuyển sang số nhiều. Đây có thể là vấn đề
tranh luận giữa người Samari và người Do Thái về nơi thờ phượng. Có hai truyền
thống thờ phượng khác nhau. Người Samari thờ “trên núi này” với hai lý chứng:
(1) Ápraham và Jacob dựng bàn thờ ở Sikhem; (2) Ông Giôsuê đã dựng bản thờ trên
núi Garizim. Trong Ngũ Kinh của người Samari người ta tìm thấy lời ông Giôsuê
căn dặn trong sách Tl 27,4 phải lập đền thờ trên núi Garizim, núi thánh, nơi họ
tin là Ápraham sát tế Isaác.[22] Trong khi đó, người Do Thái thì tin rằng
phải thờ phượng ở Jêrusalem, nơi độc nhất Thiên Chúa chọn làm nơi danh Ngài
ngự. Quy định này nhằm tránh việc dân chúng hiểu lầm rằng có nhiều đền thờ là
có nhiều Thiên Chúa.[23]
Đức Giêsu gọi
người phụ nữ là “bà” (gu,nai): “Này Người Phụ
Nữ/ Người Đàn Bà, hãy tin tôi”. Đây là danh xưng rất trịnh trọng được lặp lại 6
lần trong Tin Mừng thứ tư (2,4; 4,21; 8,10; 19,26; 2013.15). Trong đó, có đến
hai lần Đức Giêsu dùng danh xưng này để thưa cùng Đức Maria, thân mẫu Người.
Đức Giêsu cũng rất trân trọng người phụ nữ này. Mệnh lệnh “hãy tin tôi” (pi,steue, moi) cũng là mệnh lệnh khá đặc biệt. Đây
cũng chính là lệnh truyền mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ trong diễn từ biệt
ly: “Anh em hãy tin Thầy” (14,11).[24] Có thể người phụ nữ cũng có cùng tâm
trạng với các môn đệ. Họ cùng đang ở trong tình trạng khủng hoảng về niềm tin
nên Đức Giêsu mới phải trấn an như thế. Trong hoàn cảnh này, người phụ nữ thật
sự hoang mang vì Chị đang thờ “Đấng mà Chị không biết”. Đức Giêsu đã không chỉ
trả lời câu hỏi của người phụ nữ, nhưng còn lợi dụng hoàn cảnh để khẳng định
giá trị lời dạy của các ngôn sứ và qua đó tái xác nhận chân lý mặc khải. Người
Samari không hiểu rõ về kế hoạch của Thiên Chúa vì họ không chấp nhận những mặc
khải nằm ngoài Ngũ Thư. Người Do Thái hiểu kế hoạch của Thiên Chúa hơn vì họ
chấp nhận toàn bộ các sách Cựu Ước. Tuy nhiên, cả người Do Thái lẫn người
Samari đều cần phải cởi mở đón nhận chân lý mặc khải bởi Đức Giêsu.[25] Rõ ràng là đối với Đức Giêsu, không
phải Jêrusalem cũng không phải “núi này” là “nơi thờ phượng đích thực”. Vấn đề
không phải là nơi chốn nhưng là thể thức thờ phượng, là cõi lòng, là tâm tư con
người dành cho Thiên Chúa – Cha của họ.
Cụm từ “giờ đến”
được nói đến hai lần trong đoạn này (cc.21.23). Cả hai lần đều dùng ở thì hiện
tại, lối trình bày, thể trung bình diễn tả một thực tế tồn tại luôn luôn. “Giờ đến”
trong 4,23, nhấn mạnh “là bây giờ” đối chiếu với 4,21 cho thấy tác giả Tin mừng
thứ tư cũng có chút căng thẳng như Tin Mừng Nhất Lãm
khi nói về Nước Thiên Chúa: Tức là cái gì sẽ đến trong tương lai nhưng lại ở
ngay trong tầm tay rồi. Vào giờ Người được tôn vinh Đức Giêsu sẽ làm cho việc
thờ phượng trong Thần Khí được nên trọn bằng việc ban Thần Khí. Chữ “giờ” ở đây
không đích xác chỉ về giờ Tử Nạn và Phục Sinh cho bằng chỉ về hoàn cảnh cánh
chung xuất phát từ giờ tôn vinh ấy.[26]
b.
“Trong
Thần Khí và Sự Thật”
Khi “giờ đến” thì phương thức thờ phượng sẽ được xác định:
“người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật”
(4,23). Người phụ nữ chỉ hỏi Đức Giêsu về “nơi thờ phượng” nhưng Đức Giêsu lại
xác định chủ thể của việc thờ phượng: “người thờ phượng đích thực” và đối thể
của việc thờ phượng: “Cha” và phương thức của việc thờ phượng: “Trong tinh thần
và sự thật”. Như vậy, Đức Giêsu đã giúp Chị hiểu ra vấn đề không phải là “nơi
thờ phượng” cho bằng thờ phượng ai và với tinh thần nào. Với sự hiện diện của
con người Đức Giêsu, không gian thờ phượng được mở rộng ra khắp mọi nơi. Từ
“tinh thần” (πνεῦμα) xuất hiện 24 lần trong Tin Mừng thứ
tư với nhiều ý nghĩa khác nhau. Trong 4,23.24b chỉ nên dịch là “thần khí” (viết
thường) nghĩa là “linh thiêng”, “tâm linh”. Trong khi đó từ “Thần Khí” (viết
hoa) trong câu “Thiên Chúa là Thần Khí” (4,24a) được hiểu là Thần Khí Thiên
Chúa.[27]
Vì “Thiên Chúa là Thần Khí” nên “những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong
thần khí và sự thật” (4,24). Câu “Thiên Chúa là Thần Khí” không phải là một
định nghĩa về Thiên Chúa cho bằng là một lối diễn tả về cách thức Thiên Chúa
đối đãi con người. Thiên Chúa là Thần Khí đối với con người vì Ngài ban Thần
Khí (14,16) tái sinh con người. Trong các bản văn trường phái Gioan người ta
thường thấy lối diễn tả quen thuộc như vậy: “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8)
và “Thiên Chúa là ánh sáng” (1Ga 1,5).[28] Vì
Thiên Chúa là Thần Khí, nên phải được thờ phượng trong thần khí và sự thật. Cụm
từ “phải thờ phượng” (dei/ proskunei/n)
cho thấy tầm quan trọng của tinh thần thờ phượng này. Chỉ có thờ phượng “trong
thần khí và sự thật” thì mới xứng hợp.[29]
“Sự
thật là gì?” (τί evstin avlh,qeiaÈ) (18,38) đây là câu
hỏi của Philatô và cũng là một đề tài rất lớn trong Tin Mừng thứ tư. Quả vậy, trong
Tin Mừng thứ tư, danh ngữ sự thật (avlh,qeia)
được dùng đến 26 lần[30].
Trong đó, có một lần Đức Giêsu khẳng định với các môn đệ chính Người là “sự
thật”: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (evgw, eivmi h` o`do.j kai. h` avlh,qeia kai. h` zwh,)
(14,6). Hơn nữa trong 17,7, Đức Giêsu lại nói: Xin
Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.” Rồi trong 8,32, Người
lại khẳng định: “Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông”. Có
rất nhiều dấu hiệu để cho thấy rằng “sự thật” ở đây chính là Đức Giêsu, Ngôi
Lời nhập thể. Ngoài ra, Người còn ví mình là “Cung Thánh” khi Người nói với
những người Do Thái: “Các ông cứ phá huỷ Cung Thánh này; Và trong ba ngày, tôi
sẽ dựng lại nó" (2,19). Và sau đó, tác giả Tin Mừng cho biết: “Nhưng
Người, Người nói vê Cung Thánh là thân thể của Người.” (2,21). Từ những dẫn
chứng này cùng với việc Đức Giêsu khẳng định Thiên Chúa là Thần Khí (4,24) cho
phép chúng ta hiểu muốn “thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật” thì cần phải
tin vào Đức Giêsu và thờ phượng theo cách thức của Người.
Như
vậy, thật hợp lý khi cuộc đối thoại thứ hai giữa Đức Giêsu và người phụ nữ
Samari kết thúc với một hình ảnh rất đẹp: Đức Giêsu mặc khải tư cách Mêsia của
Người cho Chị. Câu trả lời “chính là Tôi” (evgw,
eivmi) (4,25) (nghĩa là chính Tôi là Đấng Mêsia) của Đức Giêsu
chính là mặc khải cho vấn nạn Đức Giêsu đặt ra ở (4,10b): “Ai là người nói với Chị:
‘cho tôi uống với’”. Có một điều khá lạ lùng là Đức Giêsu từ khước danh hiệu
ngôn sứ và Mêsia do người Do Thái tung hô (6,14-15), nhưng lại công khai bày tỏ
cho người phụ nữ Samari. Có thể điều này phát xuất từ hai quan niệm khác nhau
về Đấng Mêsia. Người Do Thái coi Đấng Mêsia như là một người xuất thân từ hoàng
tộc Đavít và sẽ dùng quyền năng mà giải phóng họ khỏi áp bức, nô lệ. Còn đối
với người Samari chỉ mong đợi một Ta’heb – thường có ý nghĩa là thầy dạy về Lề
Luật hơn là một ông vua quyền uy.[31]
Hình ảnh “người phụ nữ để lại vò nước của mình” (4,28) đã
cho cho thấy người phụ nữ đã có những dấu hiệu biến chuyển tích cực. “Vò nước”
(th.n u`dri,an) không được nhắc đến
trước đó, nhưng lại được đưa vào lúc này với một gợi ý rằng người phụ nữ đã
không còn khát nước nữa, không còn cần thứ nước vật chất ấy nữa vì hoặc Chị đã
có “nước sự sống” trong mình hoặc bình nước không còn giá trị với “nước sự
sống”.[32]
Có thể Chị đã nhận ra Đức Giêsu phần nào, nhưng chính độc giả sẽ kết thúc xác
định Đức Giêsu là ai cùng với dân Samari trong thành đã tin vào Đức Giêsu
(4,39).
- Cuộc đối thoại
với các môn đệ (4,31-38)
Câu chuyện tiếp theo với khúc chuyển:
các môn đệ trở về. Trình tự câu chuyện là: Môn đệ đi - người phụ nữ đến; môn đệ
về – người phụ nữ đi. Dường như họ không tiếp xúc với nhau. Lý do là gì? Tác
giả đã cho thấy rõ trong 4,27: “Các ông ngạc nhiên vì Người nói chuyện với một
phụ nữ”. Cả hai động từ “ngạc nhiên” và “nói chuyện” đều ở thì chưa hoàn thành,
diễn tả một cảm xúc rất mạnh và lâu dài chứ không phải tạm thời và họ nhận ra
Đức Giêsu “nói chuyện” với người phụ nữ một khoảng thời gian dài trước đó chứ
không phải chỉ là vài câu chào hỏi.[33] Tuy
nhiên, các môn đệ không ai lên tiếng hỏi: “Thầy cần gì?” hay “Thầy nói gì với Chị
ấy?”(4,27).
3.2 Người phụ nữ loan tin về Đức Giêsu
Trong khi đó, người phụ nữ vào thành và
“nói với” mọi người về Đức Giêsu. Niềm vui, sự ngạc nhiên đã làm cho người phụ
nữ không muốn giấu giếm, nhưng muốn chia sẻ với tất cả mọi người trong thành.
Lúc này, mọi suy nghĩ của Chị đều tập trung vào Đức Giêsu. Chị quên đi điều gì
đã mang chị đến giếng nước, bỏ lại vò nước và vào thành nói với mọi người về
khám phá của mình.[34]
Chị mời gọi mọi người “đến và xem một người đã nói với” chị về “tất cả những
gì” chị “đã làm”. Đây chính là mẫu thức mà tác giả đã dùng để diễn tả sứ vụ của
các môn đệ trước đó: Ông Simôn đã dẫn Anrê đến gặp Đức Giêsu và Philípphê thì
dẫn ông Nathanael đến với Đức Giêsu (Xc. Ga 1,40-49).[35]
Cuối cùng, điều mà Chị cảm phục nhất về Đức Giêsu mà Chị muốn giới thiệu cho
mọi người là: Việc Đức Giêsu chạm đến cõi lòng Chị, biết quá khứ đau thương của
Chị, Người biết tất cả về Chị và giúp Chị nhìn nhận chính mình. Câu thắc mắc
của người phụ nữ: “Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” cho thấy Chị chưa thật
sự xác tín về tư cách Mêsia của Đức Giêsu nhưng Chị thật sự có một niềm hy vọng
và cần sự xác nhận của cộng đoàn.[36]
“Họ đi ra khỏi thành và đến với Người” (4,30). Động từ “đi
ra khỏi” chia ở thì aorist (VExh/lqon),
diễn tả một sự xuất phát dứt khoát ra khỏi nơi ở của họ và nhanh nhảu đáp lại
lời mời gọi của người phụ nữ. Trong khi đó động từ “đến” lại ở thì vị hoàn
(imperfect), diễn tả một sự kéo dài trong tiến trình đến với Đức Giêsu. Dù đoạn
văn kết thúc, sự di chuyển của họ về phía Đức Giêsu vẫn chưa kết thúc.[37]
“Các môn đệ xin với
Người rằng: ‘Thưa Rápbi, mời Thầy ăn”. Động từ “xin” dùng ở thì quá khứ bất
định (hvrw,twn)
kết hợp với động từ nói ở lối động tính từ (le,gontej),
diễn tả một sự nài nỉ nhiều lần. Tuy nhiên, Đức Giêsu cho thấy chính Người có
lương thực để ăn và chắc chắn không phải là thức ăn do các môn đệ mua và các
môn đệ cũng không biết lương thực mà Đức Giêsu muốn nói là gì. Cũng giống như
“người phụ nữ” các môn đệ cũng hiểu lầm ý nghĩa chữ “lương thực” mà Đức Giêsu
muốn nói: “Phải chăng ai đó đã mang đến cho Người ăn rồi sao?”. Không phải chỉ
có người phụ nữ hiểu lầm nhưng chính các môn đệ cũng lúng túng hiểu sai. Các
môn đệ vẫn còn thắc mắc về thức ăn vật chất mà ai đó mang đến cho Đức Giêsu.
Người phụ nữ đã rời giếng nhưng vấn nạn của Chị vẫn còn lại đâu đây nơi các môn
đệ. Đây lại là kiểu hành văn gây hiểu lầm: Người trong cuộc hiểu lầm để độc giả
có cơ may hiểu rõ. Độc giả có thể vẫn chưa hiểu hết mầu nhiệm trong lời nói của
Đức Giêsu nhưng lại “ở trong” chương trình của Đức Giêsu hơn là các môn đệ.[38]
Đứng trước sự hiểu
lầm bối rối của các môn đệ Đức Giêsu đã nói rõ lương thực mà Người muốn nói đến
là gì (4,34). Tuy vậy, khái niệm “ý muốn của Đấng đã sai Thầy” và “công việc
của Người” vẫn là một thách đố đối với các môn đệ. Thành ngữ “ý muốn của Đấng
đã sai Thầy” (tou/ pe,myanto,j me)
còn được Đức Giêsu sử dụng hai lần khác nữa: (1) Đức Giêsu nói với những Người Do
Thái: “Tôi không tìm kiếm ý của Tôi nhưng là ý của Đấng đã sai Tôi” (5,30); (2)
và nói cùng đám đông dân chúng: “vì Tôi từ trời mà xuống không để thực hiện ý
của Tôi nhưng thực hiện ý muốn của Đấng đã sai Tôi” (6,38). Như vậy, “ý của
Đấng đã sai Thầy” là một điều rất quan trọng liên quan đến cả sứ mạng nhập thể
của Đức Giêsu. Đó là mục đích mà Người muốn đạt được khi đến trần gian. Và như
lương thực cần thiết cho sự sống con người thế nào thì “ý của Đấng đã sai Thầy”
cũng cần thiết cho Đức Giêsu như vậy và hơn thế nữa.
Nhưng ý của Đấng đã sai Người là gì? Điều này được Đức Giêsu
nói rõ ràng trong 6,39: “đây là ý muốn của Đấng đã sai Tôi: tất cả những ai
Người ban cho Tôi, Tôi sẽ không để hư mất một ai, nhưng Tôi sẽ làm cho người ấy
sống lại [trong] ngày sau hết”. Y muốn cứu độ toàn thể mọi người đã trở thành
lương thực của Đức Giêsu và Người cũng mời gọi các môn đệ tham gia vào sứ mạng
này. Không phải chỉ dân Do Thái nhưng là “tất cả” mọi người, không phải chỉ
sống ở đời này nhưng “sống lại trong ngày sau hết”.
Đức Giêsu lại sử dụng
một hình ảnh tượng trưng mới: “đồng lúa” và “mùa gặt”. Hình ảnh đồng lúa chín
vàng là hình ảnh quen thuộc trong Tân Ước để chỉ về không gian của họat động rao
giảng Tin Mừng. Những bông lúa chín tượng trưng cho những con người đang sẵn
sàng đón nhận Tin Mừng của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh mà tác giả Mátthêu đã
dùng trong Tin Mừng thứ nhất: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em
hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về" (Mt 9,37-38). Vụ mùa căn bản
nói đến những người trong thành trước đó đã ra khỏi thành và đến với Người.[39]
Như vậy, Đức Giêsu đã chuyển từ đề tài “lương thực” sang một đề tài nói về sứ
vụ rao giảng Tin Mừng của Người cho những người Samari. Người cũng dẫn giải các
môn đệ hiểu sứ vụ ấy và sai họ đi. Động từ “sai đi” (avposte,llw) có chủ từ là chính Đức Giêsu và thuộc từ là anh
em (u`ma/j) được sử dụng lần đầu tiên trong Tin Mừng thứ
tư, nhưng lại ở thì aorist, diễn tả một hành động đã diễn ra. Hành động sai đã
được diễn ra rồi chứ không phải tại thời điểm Đức Giêsu đang nói. Bài tường
thuật này dường như kể lại sứ vụ của chính cộng đoàn người tin vào thế kỷ thứ
nhất. Các thành viên của cộng đoàn kể lại rằng việc đón nhận người ngoài Do
Thái là do sáng kiến của Đức Giêsu. Các môn đệ làm công việc thu hoạch vụ mùa
mà Đức Giêsu đã vất vả gieo trồng qua cuộc đối thoại của Người với người phụ
nữ.
Cuộc
đối thoại của Đức Giêsu và các môn đệ khởi sự bằng chủ đề “lương thực”. Tuy
nhiên, trong cả câu chuyện vấn đề ăn uống vật chất lại chuyển hướng sang lương
thực khác: việc thi hành ý muốn và hoàn tất công trình của “Đấng đã sai” Đức Giêsu.
Phận vụ ấy Đức Giêsu đã lãnh nhận từ Cha và bây giờ chính Người cũng “sai” các
môn đệ ra đi thu hoạch vụ mùa mà họ không vất vả gieo trồng. Cộng đoàn Gioan
đối diện với vấn đề đối thoại với người Samari và việc đón nhận họ vào cộng
đoàn. Đó là công việc không do sáng kiến của họ nhưng là của Đức Giêsu và Người
đã khởi sự trước.
Câu chuyện khởi đầu bằng việc xin “cho
tôi uống với”, nhưng ở giai đoạn kết lại là một chủ đề khác biệt. Đó là tin.
Khởi đầu là tiến trình tìm kiếm của một người phụ nữ đơn lẻ. Chị đã được Đức Giêsu
dẫn đi một hành trình dài để nhận ra được chính con người mình, chính nhu cầu
thực sự của mình, một niềm khao khát thờ phượng. Để rồi sau đó Chị nhìn nhận
Đức Giêsu là một vị ngôn sứ, hơn thế nữa là một Đấng Mêsia. Câu nghi vấn của Chị:
“Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” có thể hiểu là một lời tuyên xưng. Trong
thâm tâm của Chị người mà đã nói cho Chị tất cả những gì Chị đã làm là Đấng Mêsia
chứ không còn ai khác. Bản văn không nói rõ người phụ nữ đã tin vào Đức Giêsu
nhưng câu hỏi mà Chị đặt ra cho những người Samari biểu lộ một thái độ tích cực
về Đức Giêsu. Đó cũng là lời mời gọi tất cả những người khác trong làng cùng
tìm hiểu về Đức Giêsu để tin vào Người. Chính vì nghe câu nói đó mà nhiều người
Samari đã “ra khỏi thành và đến với” Đức Giêsu.
4.1 Tin nhờ vào lời chứng của người phụ nữ
Động từ “tin vào” (pisteu,w) được sử dụng bốn
lần trong đoạn văn này. Một lần dùng ở mệnh lệnh cách, số ít (4,21) và ba lần
còn lại (4,39.41.42) đều dùng ở lối trình bày, số nhiều. Ở lần đầu tiên, có thể
coi là đức tin của người phụ nữ đơn lẻ. Trước lời mời gọi: “Hãy tin tôi” của
Đức Giêsu, tuy Chị không trực tiếp tuyên xưng niềm tin nhưng Chị đã bày tỏ bằng
hành động: “để vò nước của mình lại” và “vào thành nói với mọi người” (4,28).
Còn ba lần còn lại là một niềm xác tín mang tính cộng đoàn. Nhiều người từ
thành Samari đã tin vào Đức Giêsu. Đây là hiện tượng chỉ thấy trong Tin Mừng
thứ tư. Không có một tác giả Nhất Lãm nào cho thấy những người Samari tin vào
Đức Giêsu, ngay cả Luca là tác giả rất có thiện cảm với người Samari. Và tác
giả nói rõ căn nguyên của niềm tin ấy chính là lời chứng của người phụ nữ: “dia. to.n lo,gon th/j gunaiko.j marturou,shj”.
Dựa trên bản văn, động từ “tin vào” chia ở lối trình bày, thì aorist (evpi,steusan) diễn tả một hành
động đã xảy ra và không có một ám chỉ gì khác. Như thế khó có thể nói niềm tin
của họ là khiếm khuyết, nửa vời. Họ đã tin thực sự nhờ vào lời chứng của người
phụ nữ.
4.2 Tin nhờ nghe lời rao giảng của Đức Giêsu
Động từ “ở lại” (me,nw)
được sử dụng hai lần trong đoạn này và cả hai lần đều nằm trong câu 4,40. Cả
hai lần đều sử dụng ở thể chủ động và thì aorist nhưng khác nhau về lối và
ngôi. Ơ lần thứ hai, động từ “ở lại” được dùng ở lối trình bày ngôi thứ ba số
ít (Đức Giêsu), trong khi đó lần thứ nhất thì ở lối vô định, không ngôi. Như
vậy, ở lần thứ hai, động từ “ở lại” được dùng với chủ từ rõ ràng có ý nghĩa hơn
trong câu này. Dựa trên mặch văn, động từ này có hai ý nghĩa: vừa nghĩa đen,
vừa nghĩa thần học.
Nghĩa đen diễn tả về không gian
(Samari) và thời gian Đức Giêsu ở lại (hai ngày). Tuy nhiên, kết quả của việc
“ở lại” ấy lại cho thấy một ý nghĩa thần học sâu xa hơn nhiều: “nhiều người hơn
nữa đã tin nhờ lời của Người”. Quả vậy, sự ở lại của Đức Giêsu là cơ hội tốt để
cho những người Samari nghe lời Người (4,41) và nhờ lời ấy mà họ đã tin. Như
thế, kết quả của việc Đức Giêsu “ở lại” là “nhiều người hơn” đã tin. Trong viễn
tượng này, việc Đức Giêsu ở lại trở thành một biểu tượng: là không gian và thời
gian, nơi và lúc Người bày tỏ Người là ai. Sự ở lại đích thực phải dẫn đến việc
“nghe” lời Đức Giêsu; “biết” Đức Giêsu là ai và cuối cùng “tin” vào Người.[40]
Tác giả cho biết có
nhiều người tin hơn và chính họ lên tiếng xác nhận niềm tin của mình. Họ “nghe
lời” Đức Giêsu cách trực tiếp. Họ biết Đức Giêsu thật là “Đấng cứu độ thế gian”
và họ tin vào Người. Cụm từ “không phải vì lời của Chị” (Ouvke,ti) cho thấy niềm tin của dân làng Samari
có hai giai đoạn: Họ tin vì lời chứng của người phụ nữ và tin nhờ “nghe lời”
Đức Giêsu và hiểu Đức Giêsu là ai.
Danh xưng “Đấng cứu độ thế gian” (o` swth.r
tou/ ko,smou) xuất hiện 2 lần trong toàn bộ Tân Ước
(4,42; 1Ga 4,14). Và từ Hy-lạp “o` swth.r” cũng không phổ biến lắm. Cả người Do
Thái lẫn người Hy-lạp cũng mong một “Đấng cứu độ”, dẫu rằng họ diễn tả bằng
nhiều cách thức khác nhau. Danh xưng “Đấng cứu độ trần gian” mà những người
Samari dùng để nói về Đức Giêsu là một danh xưng mang đậm nét thần học Gioan. Trước đó, Đức Giêsu đã cho biết vai trò của
Người: “Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để lên án thế gian, nhưng để nhờ
Người, thế gian được cứu” (3,17). Đây là lời tuyên xưng của cộng đoàn những
người tin cuối thế kỷ thứ nhất được đặt trên môi miệng những người Samari. Đức Giêsu,
Đấng Mêsia không chỉ là Đấng cứu độ cho người Do Thái hay người Samari nhưng
cho toàn thế giới. Những ngươi “thờ phượng Cha đích thực sẽ thờ phượng Người trong
thần khí và sự thật” (4,23), sẽ thiết lập nên một cộng đoàn những người tin
mang tính thế giới chứ không còn giới hạn trong dân tộc nào.[41]
Đoạn
Tin mừng Ga 4,4-42, tường thuật lại hành trình đến với một dân, vốn không “đội
trời chung” với những người Do Thái của Đức Giêsu. Để làm được việc này Đức
Giêsu chắc chắn phải vượt qua ranh giới, rào cản lớn về mặt văn hóa và tôn giáo
đã có từ mấy trăm năm trước. Qua nghiên cứu bản văn, chúng ta có thể rút ra
những ý nghĩa về mặt thần học như sau:
1. Thứ
nhất, ý định đi đến vùng Samari là một ý định có chủ ý rất rõ ràng của Đức Giêsu.
Việc người “phải” đi qua Samari diễn tả một nghĩa vụ, một bổn phận xuất phát từ
tình yêu và niềm khao khát thi hành ý muốn của Chúa Cha trên phần lãnh thổ
ngoài Do Thái.
2. Thứ
hai, hành trình rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu của Đức Giêsu biến đổi theo
trình tự số lượng: cá nhân rồi đến cộng đoàn, một rồi đến nhiều, riêng tư đến
công khai. Khởi đầu Người mở lời và trò chuyện với một người phụ nữ Samari,
nhưng sau đó kết quả lại là “nhiều người đã tin” và “nhiều người hơn nữa đã
tin” vào Người. Về người mang sứ mạng rao giảng Tin Mừng cũng vậy. Trước hết là
một mình Đức Giêsu khởi xướng và mở đường sau đó Người “sai” các môn đệ đi và
“gặt những điều anh em không vất vả làm ra”. Sự tiến triển này cho thấy mức độ
quan trọng của chủ thể lãnh nhận “ý Cha” và trao ban lại cho các môn đệ. Y
hướng cho mọi người được ơn cứu độ là ý hướng của Cha, được Đức Giêsu lãnh nhận
và thi hành rồi sau đó Người mời gọi các môn đệ cộng tác. Việc làm cho người
khác được biết Chúa, tin vào Chúa để được ơn cứu độ là một việc quan trọng bậc
nhất và khẩn thiết giống như lương thực cần thiết cho cuộc sống con người thế
nào thì việc rao giảng Tin Mừng cũng cần thiết cho người môn đệ Đức Giêsu như
vậy.
3. Thứ
ba, tiến trình giúp một người được lãnh nhận đức tin là một tiến trình tiệm
tiến từ thực tại trần thế đến thực tại trên trời. Bằng kỹ thuật hành văn “gây
hiểu lầm”. Tiến trình lãnh nhận đức tin của người phụ nữ Samari dựa trên câu
nói “chìa khóa” của Đức Giêsu: “Nếu chị nhận biết ân huệ của Thiên Chúa và ai
là người nói với Chị: ‘Cho tôi uống với’, hẳn chị đã xin người ấy và người ấy
đã ban cho chị nước sự sống” (4,10). Có 4 ý tưởng trọng tâm mà người phụ nữ
phải khám phá trong phần tiếp theo của cuộc trò chuyện: (1) Ân huệ Thiên Chúa;
(2) Người nói với chị; (3) Nước sự sống và (4) xin nước sự sống. Trong đó, ý
tưởng trọng tâm chính là: Khám phá ra Đức Giêsu là ai là điều quan trọng nhất.
Quả thế, cuộc đối thoại thứ nhất về “nước sự sống” bắt nguồn từ thực tại nước
uống bình thường nhưng lại kết thúc bằng việc người phụ nữ cảm thấy cần “nước
sự sống” và tin rằng Đức Giêsu có thể ban nước ấy, nên chị đã cất lời xin. Xin
“nước sự sống” đồng nghĩa với việc Chị đã bắt đầu quan tâm đến nhưng chưa thực
sự nhận ra ân huệ Thiên Chúa và Đấng đang nói với chị. Cuộc đối thoại thứ hai
cũng bắt nguồn từ vấn đề trần thế: những đời chồng nhưng rồi lại kết thúc bằng
việc người phụ nữ thừa nhận “chính Ông là một ngôn sứ”. Và cuộc đối thoại thứ
ba cũng khởi đầu bằng vấn đề “nơi phải thờ phượng” cụ thể và cuối cùng lại kết
thúc bằng việc Đức Giêsu mặc khải Người là Đấng Mêsia. Và người phụ nữ đặt nghi
vấn Đức Giêsu là Đấng Kitô? Vấn đề “nơi thờ phượng” lại được Đức Giêsu giải
quyết bằng cách xác định rõ: chủ thể của việc thờ phượng – “những người thờ
phượng đích thực”; đối thể của việc thờ phượng - thờ phượng Cha; và cách thức thờ phượng: “trong
thần khí và sự thật"
4. Thứ
tư, cách thức Rao Giảng Tin Mừng của Đức Giêsu là: đến – gặp gỡ – mặc khải – ở
lại. Động từ “nói với” (le,gw)
là động từ được dùng nhiều nhất trong đoạn văn này (25 lần). Và cũng chính nhờ
“lời nói” mà dẫn đến niềm tin. Người phụ nữ tin nhờ lời Đức Giêsu rao giảng.
Những người Samari tin nhờ vào lời chứng của người phụ nữ và nhiều người hơn
nữa tin nhờ nghe lời của Đức Giêsu. Động từ “ở lại” (me,nw) chỉ xuất hiện hai
lần nhưng lại có ý nghĩa rất lớn. Chính nhờ ở lại mà những người Samari có cơ
hội “nghe” lời Đức Giêsu, “biết” Người là ai và “tin Người là Đấng cứu độ thế
gian”.
5. Thứ
năm, việc gặp gỡ Đức Giêsu có thể mang lại cho một người ơn giải thoát và trở
thành chứng nhân của Tin Mừng. Sau khi nhận ra Đức Giêsu là ai, người phụ nữ bỏ
lại vò nước, vào thành và mời gọi mọi người “hãy đến và xem” và chính nhờ lời
chứng của Chị mà họ đã “ra khỏi thành và đến với Người”.
6.
Cuối cùng, Đoạn Tin Mừng Ga 2,4-42 quả thật là một bức
tranh sinh động về sứ mạng “thực hiện ý muốn của Đấng đã sai Thầy” của Đức Giêsu.
Từ một không gian nhỏ bé bên bờ giếng Jacob phát triển thành một không gian
rộng lớn: thành Samari. Thời gian cũng được mở rộng: Từ một thời điểm: “Giờ thứ
sáu” đến “hai ngày”. Từ một câu nói “cho tôi uống với” đến ở lại trong thành
hai ngày. Và nhất kết quả của mùa gặt: từ một người tin dẫn đến nhiều người tin
và sau đó nhiều người tin hơn nữa. Và họ tiến tới niềm tin trọn vẹn: Tin vào ơn
cứu độ phổ quát – tin rằng “Người là Đấng cứu độ thế gian”. Trong đoạn văn này
Đức Giêsu dùng hai lần đại từ ngôi thứ nhất số nhiều “chúng tôi” (4,22: Chúng
tôi, chúng tôi thờ phượng điều chúng tôi biết). Điều này chứng tỏ rằng Đức Giêsu
đang nói thay cộng đoàn. Đức Giêsu đồng hóa mình với các môn đệ, với cộng đoàn
người tin. Khi cộng đoàn rao giảng là chính Đức Kitô rao giảng.
Bình luận tổng
quát
Đức Giêsu mệt vì trải qua cuộc hành
trình băng qua biên giới Giuđê – Samari. Người dừng chân bên bờ giếng, các môn
đệ vào thành mua thức ăn. Chính trong bối cảnh ấy, Đức Giêsu đã gặp gỡ người
phụ nữ Samari và khởi đầu câu chuyện với chị.
Thoạt nghe qua, người ta có thể lầm
tưởng rằng, Đức Giêsu chỉ là một người bộ hành bình thường, tình cờ đi qua vùng
Samari, rồi mệt mỏi, dừng chân, khát nước và xin nước. Tuy nhiên, câu chuyện
không chỉ đơn giản như thế. Đoạn Tin Mừng hôm nay có một chi tiết rất quan
trọng. Đó là: Đức Giêsu bỏ miền Giuđê mà trở lại Galilê. Nhưng, Người phải băng
qua Samari. Động từ Hy Lạp “phải” (dei) diễn tả một sự bắt buộc trong kế hoạch
của Chúa. Việc Đức Giêsu đến vùng Samari là một sứ vụ nhất thiết Người phải
làm, chứ không phải là chuyện ngẫu nhiên, tình cờ.
Dĩ nhiên, khởi đầu, Đức Giêsu cũng có
mệt mỏi, và khát nước. Thế nhưng, có một cơn khát khác mãnh liệt hơn trong lòng
Người. Chính cơn khát đó đã thúc đẩy Người đến nơi này và gặp người phụ nữ này.
Cơn khát mãnh liệt ấy là gì? Thưa! Đó là cơn khát khao tình yêu và đức tin của
con người. Đó là niềm khát khao mang ơn cứu độ, ơn giải thoát đến cho tất cả
mọi người trong khu làng Samari ấy.
Tác giả Tin Mừng Gioan đã khéo léo
móc nối, để diễn tả sự kéo dài nỗi khát khao của Đức Giêsu khởi đầu từ nơi đây,
mãi cho đến lúc Người chịu đóng đinh trên thập giá. Câu chuyện Đức Giêsu khát
nước ở đây, diễn ra vào khoảng giờ thứ sáu (tức là khoảng 12 giờ trưa). Đây
cũng chính là khoảng thời gian Đức Giêsu chịu khổ hình trên thập giá và trong
khoảng thời gian ấy Người cũng đã kêu lên rằng “Ta khát” (Ga 19,28).
Rồi chúng ta sẽ thấy, chính cơn khát
khao mang ơn cứu độ ấy, khát khao đức tin và tình yêu của nhân loại ấy, sẽ chi
phối toàn bộ câu chuyện giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Samari,
chứ không phải là chuyện khát nước bình thường.
Đức Giêsu đến đây để trao ban “nước
hằng sống”, là chính Người, cùng với giáo huấn của Người, cho người phụ nữ.
Nhưng trước khi trao ban “nước hằng sống” cho người phụ nữ, thì Đức Giêsu lại
phải gợi lên trong lòng chị một niềm khao khát và chính chị phải xin được “uống
thứ nước ấy”.
Tuy nhiên, muốn gợi lên trong lòng
người phụ nữ một niềm khao khát “nước hằng sống” thì Đức Giêsu lại phải chứng
tỏ cho chị thấy rằng Người là một vị ngôn sứ và hơn nữa là Đấng Mêsia. Đức
Giêsu đã làm được điều đó, khi Người chạm được vào tâm hồn của chị. Người chạm
được vào quá khứ đau thương, tủi nhục mà không một ai có thể cảm thông, chia sẻ
cùng chị được.
Sự thật bẽ bàng về một đời sống thiếu
thủy chung. Sự tủi nhục của một phận gái lênh đênh, bèo bọt, kiếp chồng tạm, vợ
hờ. Chính sự thật ấy đã đẩy chị ra xa khỏi dân làng, để một mình đi lấy nước,
giữa lúc trời nắng gắt nhất. Sự thật ấy không ai có thể chạm vào được và chính
bản thân chị cũng không muốn chạm vào. Chỉ có Đức Giêsu với sự tinh tế, nhạy
cảm, đồng cảm, của một vị ngôn sứ mới giúp chị tìm lại chính mình.
Quả thế, sau cuộc nói chuyện với Đức
Giêsu, người phụ nữ chợt bừng tỉnh cách diệu kỳ, niềm vui dâng trào, chị quên
mất mục đích mình đến giếng nước để làm gì. Chị đến để lấy nước nhưng cuối cùng
chị để vò nước lại, để chạy vào làng, loan tin cho dân làng: “Đến mà xem: có
một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng
Kitô sao?” Quả vậy. Chỉ có Đấng Kitô mới chạm vào được cõi lòng u uất của chị
và ban cho chị một nguồn nước trường sinh tuyệt diệu như thế.
Nhờ niềm tin vào Đức Giêsu, chị đã
thật sự cảm nếm “nước hằng sống”, nguồn nước đem lại cho chị sự hy vọng, lạc
quan, và niềm vui sau những ngày đen tối. Không phải một mình chị, mà có rất
nhiều người Samari đã tin vào Đức Giêsu và làm chứng rằng: “Quả thật, chính
chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian."
Câu chuyện có một kết thúc hết sức lạ
lùng nhưng lại rất hợp với ý định yêu thương của Thiên Chúa. Chúng ta thấy, câu
chuyện khởi đầu bằng việc người phụ nữ Samari đi lấy nước, rồi Đức Giêsu xin
uống nước, nhưng đoạn kết câu chuyện thì chẳng liên quan gì đến nước uống nữa.
Đó là đoạn kết của niềm vui vỡ òa của những người tin khi họ đón nhận Đức
Giêsu, nguồn nước hằng sống, Đấng cứu độ trần gian. Đấng đã đến và ở lại với
ngôi làng của họ.
Điều này chứng tỏ rằng, Đức Giêsu đến Samari với một
niềm khát khao mãnh liệt là mang Tin Mừng cứu độ cho người phụ nữ Samari và cả
dân làng Samari. Người dừng chân ở bờ giếng Giacóp không phải chỉ là vì cơm ăn,
nước uống nhưng là để: “thi hành ý muốn của Đấng đã sai Người, và hoàn tất công
trình của Người”. Thánh ý của Chúa Cha là gì? Thưa là: tất cả những ai thấy người
Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại
trong ngày sau hết.” (Ga 6,40).
Thánh Phaolô dạy rằng: “Vì chúng ta
tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như
chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng
vinh quang của Thiên Chúa”.
Hành trình của Mùa Chay và cũng hành
trình của cả đời người chúng ta là cuộc hành trình tìm về với Chúa và tìm đến
với tha nhân. Đức Giêsu vẫn miệt mài rong ruổi tìm kiếm, để trao ban tình yêu,
bình an và hạnh phúc cho mỗi người chúng ta. Chỉ có một niềm khao khát “nước
hằng sống” thể hiện bằng một niềm tin và tình yêu vào Đức Kitô mới mang lại cho
chúng ta niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người
chúng ta hãy mau đến với Chúa, hãy để cho Chúa chạm vào những vết thương lòng
của quá khứ tội lỗi, để chúng ta được hòa giải với mình với Chúa và với tha
nhân nữa. Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta bắt chước Đức Giêsu luôn khát khao
chia sẻ niềm đau, nỗi buồn và mang niềm vui, bình an đến với những người chúng
ta gặp gỡ mỗi ngày.
Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD
[1] Bản
dịch trích từ G.L.M. Thông, Bản văn Gioan,
Tin Mừng và Ba Thư Hy lạp – Việt (Hà Nội: Tôn Giáo, 2011).
[2]
Đại từ “Người” ngôi thứ ba số ít được dùng thay thế cho danh từ Đức Giêsu.
[3]
Xc. Lê Minh Thông, Bản văn Gioan, Tin
Mừng và Ba Thư Hy lạp – Việt (Hà Nội: Tôn Giáo, 2011), tr.83.
[4]
Xc. Lê Minh Thông, sđd, tr.34.
[5] R.E.Brown,
The Gospel according to John I-XII, (Anchor
Bible Series, Vol. 29), (New York: Doubleday, 1970), p.169.
[6]
Bản dịch của nhóm CGKPV l: “Do đó, Người
phải băng qua miền Samari”. Ở đây liên từ (de) trong tiếng Hy-lạp được dịch là “do đó” xem ra không hợp lắm vì theo mặch
văn trước đó không đưa ra một lý do no để rút ra hậu quả như thế. Trong khi đó
bản dịch mới của Tác giả Lê Minh Thông là: “Nhưng
Người phải băng qua Samari”. Bản dịch này xem ra hợp lý hơn khi cho thấy sự
kết hợp hài hòa giữa liên từ “nhưng” và trợ từ “phải” làm nên một lý do thần
học về sự cần thiết việc Đức Giêsu phải đi qua Samari.
[7]
Xc. Francis J. Moloney, The Gospel of
John, The Ligurtical Press, 1998, p.116.
[8] W.
Barclay, bản Việt ngữ Tin Mừng theo thánh
Gioan, nguyên tác: The Gospel of John (Hà nội:Tôn Giáo, 2008), tr. 110.
[9] Xc. Alain Marchadour, Bản Việt ngữ Tin Mừng Gioan (L’Evangile
de Jean, Centurion ,1992), tr. 110-111.
[10]
Xc. Francis J. Moloney, sđd., p.286.
[11]
Xc. R.E.Brown, sđd., p.169.
[12]
Xc. Hoàng Minh Tuấn, Đọc Tin Mừng Yoan,
tập II. Tái sinh bởi Thần Khí (Hà Nội: Tôn Giáo, 2000), tr.267.
[13] “Jesus make this request not just to slake
his physical thirst but because his love made him thirst for the salvation of
all men” (The Navarra Bibble: Gospel
& Acts, Revised Standard Version with a Commentary by members of the
Facculty of Theology of the University of Navarre, Scepter Publishers, 2002,
p.573).
[14]
Xc. Lê Minh Thông, Yêu và Ghét trong Tin
Mừng Gioan, phần I (TpHCM: THVĐM,2009), tr. 138-146.
[15]
Xc. Lê Minh Thông, Bản văn Gioan, Tin
Mừng và Ba Thư Hy lạp – Việt, phần chú thích, tr.63.
[16]
Xc. F.J. Moloney, sđd., p.122.
[17]
Xc. The complete Biblical Library,
Springfield, Missori, U.S.A, 1998 [bản Việt Ngữ: Chân Ngôn. Chú giải Tin Mừng các Chúa Nhật và Đại Lễ- Năm A
(TpHCM:TT HVĐM, 2011), tr. 111-112].
[19]
Xc. F.J. Moloney, sđd., tr.131.
[20]
Xc. F.J. Moloney, sđd., p.127.
[21]
Xc. R.E.Brown, sđd., p.171
[22]
Xc. Hoàng Minh Tuấn, sđd., tr.305.
[23] Ibid., tr.306.
[24]
Xc. The Complete Biblical Library,
p.114.
[25]
Xc. The Navarra Bibble: Gospel & Acts,
sđd., p.575.
[26]
Xc. Hoàng Minh Tuấn, sđđ., tr.317 –
318.
[27]
Xc. Lê Minh Thông, Đấng Pa-rác-lê trong
Tin Mừng thứ tư (Hà nội: Tôn Giáo, 2010), tr.142-43.
[28]
Xc. R.E.Brown, sđd., p.172.
[29]
Xc. F.J. Moloney, sđd., p.133.
[30]
1,14.17; 3,21;
4,23.24;5,33;8,16.32a.32b.40.44a.44b.45.46;14,6.17;15,26;16,13a.13b;17,17a.a7b;
18,37a.37b.38; 19,35.
[31]
Xc. Hoàng Minh Tuấn, sđđ., tr.342.
[32]
R.E.Brown, sđd., p.173.
[33]
Xc.F.J.Moloney, sđd., p.130.
[34]
Xc. The Navarra Bible, p.577.
[35]
Xc. The New Jerome Biblical Commentary,
Edited by Raymond E. Brown (New Jersey:
Prentice Hall, 1990), p. 957.
[36]
Xc. R.E.Brown, sđd., p.173.
[37]
Xc.F.J. Moloney, sđd., p.135.
[38] Ibid., p.142.
[39]
Xc. R.E.Brown, sđd., p.174.
[40]
Xc. Lê Minh Thông, Tình Yêu và Tình Bạn
(TpHCM: TTHVĐM, 2009), tr. 66-67.
[41]
Xc. Francis J. Moloney, sđd., p.147.
No comments:
Post a Comment