Thursday, 30 June 2022

NHƯ CHIÊN GIỮA SÓI RỪNG. Chú giải Tin Mừng Chúa Nhật XIV TN C (Lc 10, 1-12.17-20)

Bản văn và dịch sát nghĩa

Hy Lạp

Việt

1 Μετὰ δὲ ταῦτα ἀνέδειξεν κύριος ἑτέρους ἑβδομήκοντα [δύο] καὶ ἀπέστειλεν αὐτοὺς ἀνὰ δύο [δύο] πρὸ προσώπου αὐτοῦ εἰς πᾶσαν πόλιν καὶ τόπον οὗ ἤμελλεν αὐτὸς ἔρχεσθαι.

 2 Ἔλεγεν δὲ πρὸς αὐτούς· μὲν θερισμὸς πολύς, οἱ δὲ ἐργάται ὀλίγοι· δεήθητε οὖν τοῦ κυρίου τοῦ θερισμοῦ ὅπως ἐργάτας ἐκβάλῃ εἰς τὸν θερισμὸν αὐτοῦ.

 3 ὑπάγετε· ἰδοὺ ἀποστέλλω ὑμᾶς ὡς ἄρνας ἐν μέσῳ λύκων.

 4 μὴ βαστάζετε βαλλάντιον, μὴ πήραν, μὴ ὑποδήματα, καὶ μηδένα κατὰ τὴν ὁδὸν ἀσπάσησθε.

 5 εἰς ἣν δ᾽ ἂν εἰσέλθητε οἰκίαν, πρῶτον λέγετε· εἰρήνη τῷ οἴκῳ τούτῳ.

 6 καὶ ἐὰν ἐκεῖ υἱὸς εἰρήνης, ἐπαναπαήσεται ἐπ᾽ αὐτὸν εἰρήνη ὑμῶν· εἰ δὲ μή γε, ἐφ᾽ ὑμᾶς ἀνακάμψει.

 7 ἐν αὐτῇ δὲ τῇ οἰκίᾳ μένετε ἐσθίοντες καὶ πίνοντες τὰ παρ᾽ αὐτῶν· ἄξιος γὰρ ἐργάτης τοῦ μισθοῦ αὐτοῦ. μὴ μεταβαίνετε ἐξ οἰκίας εἰς οἰκίαν.

 8 καὶ εἰς ἣν ἂν πόλιν εἰσέρχησθε καὶ δέχωνται ὑμᾶς, ἐσθίετε τὰ παρατιθέμενα ὑμῖν

 9 καὶ θεραπεύετε τοὺς ἐν αὐτῇ ἀσθενεῖς καὶ λέγετε αὐτοῖς· ἤγγικεν ἐφ᾽ ὑμᾶς βασιλεία τοῦ θεοῦ.

 10  εἰς ἣν δ᾽ ἂν πόλιν εἰσέλθητε καὶ μὴ δέχωνται ὑμᾶς, ἐξελθόντες εἰς τὰς πλατείας αὐτῆς εἴπατε·

 11 καὶ τὸν κονιορτὸν τὸν κολληθέντα ἡμῖν ἐκ τῆς πόλεως ὑμῶν εἰς τοὺς πόδας ἀπομασσόμεθα ὑμῖν· πλὴν τοῦτο γινώσκετε ὅτι ἤγγικεν βασιλεία τοῦ θεοῦ.

 12 λέγω ὑμῖν ὅτι Σοδόμοις ἐν τῇ ἡμέρᾳ ἐκείνῃ ἀνεκτότερον ἔσται τῇ πόλει ἐκείνῃ. (Lk 10:1-12 BGT)

 17 Ὑπέστρεψαν δὲ οἱ ἑβδομήκοντα [δύο] μετὰ χαρᾶς λέγοντες· κύριε, καὶ τὰ δαιμόνια ὑποτάσσεται ἡμῖν ἐν τῷ ὀνόματί σου.

 18 εἶπεν δὲ αὐτοῖς· ἐθεώρουν τὸν σατανᾶν ὡς ἀστραπὴν ἐκ τοῦ οὐρανοῦ πεσόντα.

 19  ἰδοὺ δέδωκα ὑμῖν τὴν ἐξουσίαν τοῦ πατεῖν ἐπάνω ὄφεων καὶ σκορπίων, καὶ ἐπὶ πᾶσαν τὴν δύναμιν τοῦ ἐχθροῦ, καὶ οὐδὲν ὑμᾶς οὐ μὴ ἀδικήσῃ.

 20  πλὴν ἐν τούτῳ μὴ χαίρετε ὅτι τὰ πνεύματα ὑμῖν ὑποτάσσεται, χαίρετε δὲ ὅτι τὰ ὀνόματα ὑμῶν ἐγγέγραπται ἐν τοῖς οὐρανοῖς.

 (Lk 10:16-20 BGT)

1 Sau những điều này, Chúa cắt đặt Bảy Mươi Hai người khác và sai từng hai người một đi trước mặt Người vào tất cả các thành và nơi chốn mà Người sẽ đến.

2 Người nói cùng họ rằng: “Vụ mùa thì thực sự nhiều nhưng thợ gặt thì ít, vì vậy, anh em hãy khẩn cầu ông chủ của vụ mùa để ông có thể mang thợ gặt vào vụ mùa của ông”.

3 Anh em hãy ra đi, này thầy sai anh em như con chiên vào giữa những con sói.

4 Anh em đừng mang theo túi tiền, dây thắt lưng, xăng-đan, và đừng chào ai trên đường.

5 Khi anh em đi vào một nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này.

6 Nếu ở đó có con trai của sự bình an,[1] thì bình an của anh em sẽ ở lại trên nhà đó. Ngược lại nếu không, bình an của anh em sẽ trở về với anh em.

7 Khi anh em ở lại trong ngôi nhà nào thì ăn và uống những gì từ họ, vì người làm công xứng với lương của anh ta. Đừng đi từ nhà này qua nhà nọ.

8 Và nếu anh em đi vào thành nào, và người ta tiếp đón, thì hãy ăn nhưng người ta dọn cho anh em.

9 Hãy chữa lành những người đau yếu và nói rằng: “Nước Thiên Chúa đã đến gần”.

10 Nếu anh em đi vào thành nào mà người ta không tiếp đón, sau khi ra khỏi đường của nó, hãy nói rằng:

11 “Ngay cả bụi của các người dính trên những bàn chân của chúng tôi, chúng tôi cũng giũ trả lại cho các ngươi”. Tuy nhiên, hãy biết điều này, là Nước Thiên Chúa đã đến gần.”

12 Thầy bảo thật anh em trong ngày ấy thành Xơđom còn được khoan hồng hơn thành ấy.

17 Khi ấy, nhóm Bảy Mươi Hai trở về với sự vui sướng, nói rằng: “Thưa Ngài! Chúng tôi làm cho quỷ khuất phục nhân danh Ngài”.

18 Người nói cùng họ: “Thầy cứ thấy Xatan như tia chớp trên trời rơi xuống.

19 Này thầy đã trao cho anh em uy quyền để đạp trên những con rắn và bọ cạp và trên mọi quyền năng của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại anh em.

20 Tuy nhiên, anh em đừng vui mừng vì những thần khí bị anh em khuất phục nhưng vì tên của anh em dược viết trên trời.”


Bối cảnh

Lc 10,1-12.17-20 được ghép lại từ hai đoạn văn nhưng cùng một câu chuyện: Nhóm Bảy Mươi Hai được sai đi (1-12) và trở về báo cáo (17-20). Đây là đoạn văn được trích ra từ các trình thuật về kỳ giảng thứ hai của Đức Giêsu: Kỳ giảng trên đường lên Giêrusalem (9,51 – 19, 27).[2] Đức Giêsu và các môn đệ đang trên hành trình lên Giêrusalem, và Người sai các môn đệ đi trước vào các thành nơi mà chính Người sẽ đến (Lc 10,1-2). Việc Đức Giêsu sai nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ đi giảng gợi nhớ đến việc Người sai Nhóm Mười Hai đi giảng trước đó (Lc 9,1-6). Có rất nhiều điểm tương đồng trong lời căn dặn của Đức Giêsu dành cho cả hai nhóm các môn đệ. Nó cũng gợi nhớ đến sự kiện Đức Giêsu sai các sứ giả đi trước vào một làng của những người Samari để chuẩn bị cho Người (Lc 9,52). Đoạn kể về việc các môn đệ trở về báo cáo là điểm khác biệt giữa các lần sai đi trước đó. Chủ đề về sự bình an được nhắc đến trong Lc 10,5-6 liên kết với sự bình an mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại trong ngày Hài Nhi Giêsu chào đời (Lc 2,17); với sự bình an mà Đức Giêsu ban tặng cho các bệnh nhân sau khi họ được chữa lành (Lc 7,50; 8,48); với bình an mà Người ban cho các môn đệ sau khi Phục Sinh (Lc 24,36). Chủ đề “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 10,9.11) nhắc nhớ đến lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu và trở thành thông điệp rao giảng của các môn đệ sau này (Mc 1,15; Lc 10,9.11; 21,31).

Cấu trúc


I.      Sai đi

Bối cảnh: Người được sai đi và nơi chốn (1)

Thực tiễn về vụ mùa và thực tiễn khó khăn của thợ gặt (2-3)

Hành lý: Không túi tiền, thắt lưng, xăng-đan (4)

Hành động và Thông điệp: Không chào ai dọc đường - Bình an (5-6)

Tiếp đón và của ăn (7-8)

Hành động và thông điệp: Chữa lành – Nước Thiên Chúa đã đến gần (9)

Không tiếp đón và bản án (10-12) 

II.    Trở về và báo cáo

(A) Vui mừng vì quỷ khuất phục (17)

(B) Lý do quỷ khuất phục (18-19)

(A') Vui Mừng vì tên được ghi trên trời (20) 

 Một số điểm chú giải

1.     Nhóm bảy mươi hai người: Luca là tác giả Tin Mừng duy nhất đề cập đến Nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ. Con số Bảy Mươi Hai có lẽ là một con số biểu tượng. Bảy Mươi Hai có thể là con số tượng trưng cho việc các môn đệ đến với thế giới dân ngoại, đối lại với con số Mười Hai tượng trưng cho việc các môn đệ đến rao giảng cho các con chiên lạc nhà Ítrael. Sự kiện Nhóm Mười Hai được sai đi đều có trong truyền thống của cả ba tác giả sách Tin Mừng, bắt nguồn từ Tin Mừng Máccô. Tin Mừng Luca, vì vốn hướng đến cộng đoàn kitô hữu gốc dân ngoại, nên phải thêm vào sự kiện “Bảy Mươi Hai” môn đệ khác được sai đi. Ngay từ đầu Tin Meng Luca, trong bài ca “An Bình Ra đi” (Nunc Dimitis), ngôn sứ Simeon đã tỏ ý thỏa mãn vì ông đã thấy “ơn cứu độ Chúa dành sẵn cho muôn dân, Đó là ánh sang soi đường cho dân ngoại” (Lc 2,30-31). Có một cách giải thích khác dựa trên sự khác nhau giữa những bản chép tay. Có những bản ghi là Bảy Mươi trong khi những bản khác ghi là Bảy Mươi Hai.[3] Nhiều ấn bản để số hai trong ngoặc móc vuông (Bảy Mươi [Hai]). Con số Bảy Mươi Hai, thực ra có thể là Bảy Mươi. Bảy Mươi là số kỳ mục được ông Môsê tuyển chọn để đi với ông, cùng với ông Aharon, Nađáp, Avihu, lên núi Sinai trong buổi lập Giao Ước (Xh 24,1.9-14). Đó cũng là con số kỳ mục mà Thiên Chúa đã truyền cho ông Môsê tập họp để Người ban Thần Khí, nhờ đó, nhóm này “sẽ cùng với” ông Môsê “gánh vác dân này”, và ông sẽ không phải “gánh vác một mình nữa” (Ds 11,16-17.24-25). Con số những con cháu của Giacóp đi lên từ Aicập cũng là bảy mươi người (Xh 1,5; Đnl 10,22). Như vậy, con số này lại có truyền thống Do Thái và Đức Giêsu như là một ông Môsê mới, chia sẻ sứ vụ với những kỳ mục trong dân.[4] Nhóm Bảy Mươi [Hai] được sai đi trước mặt vào những nơi Đức Giêsu sẽ đến, gợi nhớ đến những “sứ giả” được sai đi trước để dọn đường cho Người trên hành trình lên Giêrusalem (9,51-52).

Cách thức sai đi “từng hai người một” có thể có hai ý nghĩa: (a) Sự hỗ trợ lẫn nhau trên hành trình sứ vụ; (b) Tính cách chứng nhân của hai người trở lên theo Luật (Đnl 19,15; Ds 35,30).[5] Có một ghi chú về việc xét xử được ghi lại ở cuối đoạn Tin Mừng: “Thành Xơđom được xét xử khoan hồng hơn” (Lc 10,11). Truyền thống sai đi theo cặp được thể hiện trong thời Giáo Hội sơ khai: Phaolô và Barnaba (Cv 13,1); Phaolô và Sila (Cv 15,40); Phêrô và Gioan (Cv 3;3.11; 8,14); Barnaba và Máccô (Cv 15,39); Giuđa và Sila (Cv 15,32).[6]

2.     Vụ mùa … thợ gặt … ông chủ của vụ mùa: Ý tưởng “vụ mùa” được tìm thấy trong Mt 9,37-38, câu chuyện sai Nhóm Mười Hai đi. Đây cũng là ý tưởng được tác giả Gioan dùng trong Ga 4,35-36. Ý tưởng “vụ mùa dồi dào” có lẽ ứng với bối cảnh của dụ ngôn người gieo giống (Lc 8,5-8.11-15). Thợ gặt, nghĩa đen là “người lao động”, là những người được thuê để thu hoạch lúa. Nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ là những “người lao động” cho vụ mùa. Ông chủ của vụ mùa là Thiên Chúa.[7] Các môn đệ vừa được mời gọi cầu nguyện cho có nhiều “thợ gặt”, vừa trở thành những thợ gặt được sai đi. Trong Cựu ước, vụ mùa thường là biểu tượng của sự phán xét cánh chung của các quốc gia (Ge 3,1-13; Is 27,12-13). Đức Giêsu thường dùng những hình ảnh thực tế đời thường để diễn tả sứ vụ. Hình ảnh vụ mùa và thu hoạch là những hình ảnh quen thuộc với người nông dân. Đối với những người ngư phủ thì Đức Giêsu dùng ngôn từ “lưới con người” (đánh bắt người ta, thu phục người ta) (Mt 4,19; Mc 1,17). Đối với những người chăn nuôi, Người lại dùng hình ảnh mục tử đi tìm con chiên lạc (Mt 10,6; 15,24; 18,12; Lc 15,4). Nhóm Bảy Mươi Hai Người đã là nhiều gấp sáu lần nhóm Mười Hai, nhưng vẫn không là gì so với cánh đồng sứ vụ bao la của nhân loại.

3.     Như con chiên vào giữa những con sói: Hình ảnh được chuyển đổi từ “những người lao động” sang những “con chiên”. Hoàn cảnh khó khăn của những nhà thừa sai được ví như chiên ở giữa bầy sói. Con chiên sẽ gặp rất nhiều hiểm nguy khi ở giữa những con sói, vì sói ăn thịt chiên (Ga 10,12) trong khi chiên lại không đủ sức để bảo vệ chính mình. Đức Giêsu của Mátthêu còn thêm vào lời căn dặn: “Vậy, anh em hãy khôn ngoan như những con rắn và đơn sơ như những con bồ câu” (Mt 10,16). Đức Giêsu của tác giả Luca không thêm vào lời căn dặn gì để giải quyết tình huống chiên đối đầu với sói. Những mối hiểm nguy, chống đối, và thù ghét mà nhóm Bảy Mươi Hai phải chịu rất gần gũi với hành trình thương khó của Đức Giêsu.[8] Hình ảnh này cũng gợi nhớ đến những cảnh báo sau đó về số phận người môn đệ: “Người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em ra trước mặt vua chúa và quan quyền vì danh Thầy (Lc 21,12; Cf. Mc 13,9.12-13). Đoạn Tin Mừng này nằm trong bối cảnh Đức Giê-su đang trên hành trình lên Giêrusalem. Người là con chiên Thiên Chúa sẽ bị thế lực thù địch chống đối và giết chết. Đó là minh chứng rõ nét cho hình ảnh “con chiên giữa những con sói”.

4.     Hành lý không hành lý… không chào hỏi: Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, các môn đệ được căn dặn là không mang theo bất cứ thứ gì: “Đừng mang theo túi tiền[9], bao bị, xăng-đan”. So với lời căn dặn với Nhóm Mười Hai xem ra triệt để hơn: “Đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, đừng mang hai áo” (Lc 9,3). Tuy nhiên, có lẽ lời căn dặn về hành lý của Nhóm Bảy Mươi Hai bao gồm cả lời căn dặn dành cho Nhóm Mười Hai. Các môn đệ được mời gọi giản lược hết sức có thể để vừa sống đơn nghèo, vừa phó thác nơi sự quan phòng của Chúa và dám phụ thuộc vào lòng hiếu khách của người dân.[10] Sự giản lược cuộc sống đến mức tối thiệu phù hợp với lời tự bạch của Đức Giêsu về chính mình: “Những con chồn có hang, những con chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Nó cũng rất gần với lời căn dặn đừng đi từ nhà này qua nhà nọ, vốn ẩn ý một sự chọn lựa, tìm kiếm nơi ăn, chốn ở tiện nghi hơn. Sự phụ thuộc tuyệt đối vào lòng hiếu khách của người dân được thể hiện rõ nét qua lời căn dặn về thức ăn và thức uống được lặp lại hai lần: “Nếu anh em ở lại nhà nào, thì hãy ăn và uống những gì từ họ” (10,7); “Cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em” (10,8). Đón nhận thức ăn của người khác cũng là dấu chỉ của sự đối thoại về văn hóa. Nhà truyền giáo biểu lộ một sự cởi mở đón nhận ẩm thực của bất cứ nơi đâu mình đến. Đó cũng là cách thức mở ra tương quan huynh đệ, không phân biệt trong Nước Thiên Chúa. Mọi người có thể chia sẻ với nhau, nơi chốn và thức ăn bất cứ nơi đâu.

Mệnh lệnh không chào ai dọc hành trình có nhiều cách giải thích khác nhau. Nó có thể ngụ ý rằng các môn đệ không phí thời gian sứ vụ vào việc hàn huyên tâm sự, chuyện trò với người dân, vì vụ mùa đã đến hồi thu hoạch. Những lời chào hỏi của họ có thể dẫn đến việc đi từ nhà này qua nhà nọ như câu tiếp theo đề cập đến. Lệnh cấm này gợi nhớ đến lệnh cấm của ngôn sứ Êlisa: “Ông bảo Giêkhadi: Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng chào, ai chào thì đừng đáp lại. Ngươi sẽ đặt gậy của ta lên mặt cậu bé” (2 V 4,29). Cũng có thể hiểu lệnh cấm chào hỏi như là sự đòi hỏi các môn đệ phải tập trung vào việc rao giảng và chữa lành hơn là những vấn đề xã giao xã hội.[11] Chỉ khi sứ giả đến với một ngôi nhà cụ thể, trong một thị trấn nhất định, anh mới nên chào bất cứ ai. Những lời chào như thế không phải là một hình thức giản đơn nhưng là sự troa ban bình an cứu độ của Đức Giê-su.[12]

5.     Thông điệp: Bình an … Nước Thiên Chúa đã đến gần: Hai thông điệp mà các môn đệ phải rao truyền. Trước tiên là sự bình an. Trạng từ “trước hết” được đặt trước động từ nói để nhấn mạnh thông điệp đầu tiên mà các môn đệ phải nói với một gia đình là “bình an cho nhà này”. Bình an là lời chào mà những người Do Thái dành cho nhau trong giao tiếp thường ngày (Tl 6,23; 19,20). Khi chào bình an, họ ngụ ý rằng Chúa ban bình an cho người được chào, vì Chúa là nguồn mạch bình an. Tác giả Luca cho thấy bình an là món quà được trao ban xuyên suốt từ đầu đến cuối Tin Mừng. Khi Đức Giêsu được sinh ra, ca đoàn thiên cung đã chúc bình an cho nhân loại: “Vinh Danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho những người mà Chúa hài lòng” (Lc 2,14). Trước đó trong bài Benedictus, ông Dacarias đã tung hô Đức Giêsu như là Vầng Đông từ chốn cao vời viếng thăm chúng ta, “dẫn dắt bước chân của chúng ta vào con đường bình an” (Lc 1,79). Trong quá trình rao giảng, nhiều lần chữa bệnh, Đức Giêsu đã trao ban bình an cho bệnh nhân: “Anh/chị hãy đi bình an” (Lc 7,50; Mc 5,34). Cuối cùng, sau khi Phục Sinh, Đức Giêsu đã trao ban bình an cho các Tông Đồ (Lc 24,36). “Sự bình an” có thể là một hoán dụ cho “ơn cứu độ”, sự giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết, được nói đến nhiều lần trong Tin Mừng Luca (1,79; 2,14.29; 7,50; 8,48; 19,38.42; 24,36).[13]

Thông điệp thứ hai, cũng là thông điệp nồng cốt, bao trùm cả sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu và các môn đệ. Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ bằng lời mời gọi “thời kỳ đã hoàn tất, Nước Thiên Chúa đã đến gần, anh chị em hay hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Người dùng Thần Khí Chúa để trừ quỷ nhằm chứng tỏ rằng Nước Thiên Chúa đã đến với nhân loại (Mt 12,28). Mục đích của Đức Giêsu được sai đến là để loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa (Lc 4,43; Cf. 8,1). Nối kết với sứ vụ của Đức Giêsu các môn đệ cũng được sai đi rao giảng về Nước Thiên Chúa (Lc 9,2). Trong đoạn văn này thông điệp Nước Thiên Chúa đã đến gần được lặp lại hai lần, không những cho những người tiếp đón (Lc 10,9), mà còn cho những người không tiếp đón (10,11). Điều này chứng tỏ rằng tất cả mọi người đều được nghe biết thông điệp “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Thông điệp ấy được đón nhận hay không đón nhận là tuỳ thuộc vào lòng của mỗi người. Chữ “gần” trong câu “Nước Thiên Chúa đã đến gần” có thể hiểu theo ba nghĩa: (1) Đức Giêsu (hiện thân cho Nước Trời) đã đến gần làng và thành phố mà sứ giả đến trước để chuẩn bị; (2) Nước Thiên Chúa đã đến nhưng cá nhân từng người chưa thực sự thuộc về Nước ấy, nên vẫn còn ở gần bên. Họ phải ao ước và đi vào trong Nước ấy; (3) Nước Thiên Chúa vẫn chưa đến hồi hoàn tất, phải chờ đợi đến thời cánh chung.

Xét cho cùng thông điệp về “sự bình an” không thể tách khỏi thông điệp về “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Một khi được ở trong Nước Thiên Chúa, người ta sẽ được giải thoát khỏi mọi đau khổ thể lý và tinh thần và đạt được một sự bình an đích thực và viên mãn.

6.     Đừng đi từ nhà này qua nhà nọ: “Đừng đi từ nhà này qua nhà nọ” đối lại với “ở lại trong cùng một nhà và ăn uống những gì từ họ” (10,7). Xem ra, ở lại cùng một nhà là đón nhận thức ăn thức uống cùng với tất cả những gì thuộc nhà ấy. Trái lại, đi từ nhà nọ đến nhà kia có thể là biểu hiện của sự tìm kiếm, chọn lựa một ngôi nhà nhiều tiện nghi và tiếp đón nồng hậu hơn. Ở lại một ngôi nhà cũng là để hiểu biết đủ, rao giảng đủ những nét căn bản của Tin Mừng Nước Thiên Chúa và có thể thành lập cộng đoàn, chứ không phải một cuộc viếng thăm qua loa.[14] Sau cuộc gặp gỡ và rao giảng cho người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã từng ở lại trong thành Samari hai ngày và đã có nhiều người tin vào Người hơn nữa (Ga 4,40-42). Người ở lại nhà của ông Giakêu, thủ lãnh của những người thu thuế, để ông được biến đổi (Lc 19,8) và cùng với cả nhà đón nhận ơn cứu độ (Lc 19, 9). Sách Công Vụ nói đến sự việc “ông Phêrô ở lại khá lâu tại nhà một người thơ thuộc da tên là Simôn” (Cv 9,43). Sau khi giảng dạy và làm phép rửa cho cả nhà ông Cornêliô ông Phêrô cũng ở lại đó ít ngày (Cv 10,48). Các ông Phaolô và Barnaba ở lại Icôniô “một thời gian khá lâu” để rao giảng cho tín hữu Do Thái và Hy Lạp (Cv 14,3).

7.     Giũ bụi ở chân: Kinh nghiệm bị một làng người Samari chối từ của Đức Giêsu (Lc 9,52-53) cũng sẽ là kinh nghiệm của các môn đệ. Họ được dạy là phải nói rằng: “Ngay cả bụi trong thành của các người dính vào những bàn chân của chúng tôi, chúng tôi cũng giũ lại cho các ông” (Lc 10,11). Cùng với việc sai đi “từng hai người một”, và với bản án “thành Xơđom còn được xét xử khoan hồng hơn”, hành động giũ bụi chân lại rất có thể là bằng chứng để tố cáo sự chối từ của thành này vào ngày cánh chung. Trong Tin Mừng Máccô Đức Giêsu bảo các môn đệ “giữ bụi chân lại” để làm bằng chứng chống lại họ” (Mc 6,11). Người Do Thái từ thời xa xưa đã có thới quen giũ bụi chân lại khi họ đi qua các thành của dân ngoại mà trở về thành của mình. Tác giả Strack-Billerbeck cho rằng những người Do Thái khi trở về Đất Thánh từ nước ngoài, phải giũ bụi của những vùng đất dân ngoại không thanh sạch. J. Marcus không đồng ý nhận định đó. Ông cho rằng hành động “giũ bụi chân” là biểu trưng hóa cho sự cắt đứt hiệp thông với ai đó như là hành động giũ áo choàng trong Nkm 5,13 và Cv 18,6. Ý tưởng cơ bản là các môn đệ không còn gì để làm với những nơi loại trừ họ.[15] G. Ruelich liệt kê hai cách hiểu của hai nhóm tác giả khác: (i) Đó là biểu tượng của việc dừng mọi liên lạc và giao tiếp xa hơn với nơi đó và chối từ bất kỳ một cơ hội nào để nghe thông điệp cứu độ hay trải nghiệm sứ vụ chữa lành và giải thoát (Pesch; Gnilka); (ii) Nó cũng có thể cho thấy rằng các sứ giả đã làm hết trách nhiệm của mình và có thể rửa tay, không cần chịu trách nhiệm nữa (Cranfield; Grundmann).[16]

8.     Thành Xơđôm còn được khoan hồng hơn: Đây là cách nói so sánh với một hình phạt cao nhất để cho thấy mức độ nghiêm trọng của sự chối từ “sứ giả của Tin Mừng Nước Thiên Chúa”. Thành Xơđom cùng với thành Gômôra được mệnh danh là hai thành phố tội lỗi bậc nhất thời tổ phụ Ápraham. Trong thành không tìm được mười người công chính (St 18,32-33). Cuối cùng, cả hai thành bị lửa và diêm sinh từ trời xuống thiêu huỷ hoàn toàn (St 19,1-29). Sự kiện này trở thành một lời cảnh báo cho các thế hệ sau đó trong thời Cựu Ước (Đnl 29,22; Is 1,9; 13,19; Gr 23,14)[17] và Tân Ước (Mt 10,15; 11,23.24, Lc 10,12). Sở dĩ Đức Giêsu so sánh hình phạt của những người không tiếp đón sứ giả của Người với dân thành Xơđom vì những người dân thành Xơđom không những thiếu lòng hiếu khách mà còn toan tính làm nhục những sứ giả của Thiên Chúa đến cư ngụ trong nhà ông Lót (St 19,1-11).[18]

9.     Nghe danh Ngài…Thầy đã trao uy quyền: Tác giả Máccô chỉ cho biết rằng các môn đệ tự họp quanh Đức Giêsu để kể cho Người nghe về những điều các ông đã nói và những việc các ông đã làm. Tác giả Luca nói rõ hơn về những điều mà nhóm Bảy Mươi Hai đã kể với Đức Giêsu. Các ông đã nhìn nhận rằng: “những con quỷ bị chúng tôi khuất phục nhân danh Ngài” (10,17). Họ nhìn nhận chính danh của Đức Giêsu là quyền năng làm cho quỷ phải khuất phục. Đức Giêsu cũng nhìn nhận Người đã liên tục nhìn thấy Xatan rơi xuống từ trời như những ánh chớp và cũng khẳng định rằng Người ban cho quyền năng đạp trên những con rắn, và những con bọ cạp và trên tất cả quyền năng của kẻ thù và không gì có thể làm hại được” các môn đệ (10,19). Thánh Phaolô cũng trừ quỷ nhân danh Đức Giêsu: “Tôi ra lệnh cho ngươi nhân danh Đức Giêsu, hãy xuất khỏi cô ấy” (Cv 16,18).

10.  “Tên được viết trên trời”. Sự trái ngược giữa hai sự vui mừng: Sự vui mừng mà các môn đệ đang thưởng thức và sự vui mừng mà các ông không hề nghĩ đến. Các môn đệ vui mừng vì thấy quỷ bị khuất phục và Xatan sa xuống từ trời như tia chớp. Đó chỉ là những danh vọng trần thế, danh vọng của người có thể chinh phục quỷ thần. Đức Giêsu không màng danh vọng quyền lực. Khi người ta bắt Người để tôn lên làm vua, Người liền lánh đi và lên núi một mình (Ga 6,15). Hạnh phúc mà Đức Giêsu muốn họ vươn đến không chỉ là hạnh phúc của việc thành công trong việc trừ quỷ, nhưng là hạnh phúc được ở với Chúa trên quê trời vĩnh cửu. Con đường để đi đến niềm hạnh phúc ấy không chỉ là trừ quỷ, và chữa lành bệnh tật mà con phải trải qua sự chối từ, chống đối, loại bỏ và kể cả cái chết. “Tên được ghi trên trời” là tên của những người đã theo Đức Giêsu trọn con đường khổ nạn – phục sinh.[19] Hình ảnh Xatan sa xuống như ánh chớp gợi nhớ đến sự sa xuống địa ngục của bạo chúa Babylon được nói đến trong sách ngôn sứ Isaiah: “Chính ngươi tự nhủ: Ta sẽ lên trời, ta sẽ dựng ngai vàng của ta trên cả các vì sao… nhưng ngươi phải nhào xuống tận âm phủ, xuống đáy vực sâu” (Is 14,13-15). Đây là một hình ảnh chiến thắng của Thiên Chúa trên thế lực thần dữ, và chiến thắng này sẽ tối hồi viên mãn trong thời cánh chung.[20]

Bình luận tổng quát

Trình thuật về việc Đức Giêsu sai Bảy Mươi Hai môn đệ đi rao giảng là dữ liệu riêng của tác giả Luca. Trình thuật này vừa tiếp nối trình thuật Đức Giêsu sai nhóm Mười Hai đi rao giảng ở đầu chương chín (Lc 9,1-6), vừa tiếp nối việc Đức Giêsu sai những sứ giả đi trước để chuẩn bị cho Người trên đường lên Giêrusalem (Lc 9,52). Con số bảy mươi hai diễn tả một sứ vụ rộng lớn khắp vùng các dân ngoại, mở rộng hơn con số mười hai (Nhóm Mười Hai) vốn ám chỉ sứ vụ dành cho các con hiên lạc nhà Ítrael. Nó cũng có thể ám chỉ đến con số bảy mươi kỳ mục đã được tuyển chọn để cộng tác với ông Môsê trong việc gánh vác dân chúng trong thời Xuất Hành. Các sứ giả trong nhóm này được chỉ thị mang “hành lý không hành lý”. Mục đích trước hết là để giản lược nhu cầu cuộc sống, đơn giản nhất có thể. Kế đến, khi không trang bị nhiều cho cuộc hành trình, người môn đệ dám phụ thuộc vào sự quan phòng của Chúa qua lòng hiếu khách của người dân những nơi họ đến. Thông điệp mà họ rao giảng đầu tiên phải là sự bình an. Sự bình an một mặt là tượng trưng cho một sự giải thoát về thể lý, một cuộc đời không có chiến tranh, sóng gió, nhưng mặt khác bình an nội tâm, vững vàng trước những sóng gió của cuộc đời, nhờ tin vào Chúa và nhất là ơn cứu độ, sự giải thoát hoàn toàn khỏi tội lỗi và sự chết. Thông điệp thứ hai mà họ phải rao giảng cũng là thông điệp Tin Mừng chính yếu của Đức Giêsu: Nước Thiên Chúa đã đến gần. Sứ giả của Chúa sẽ được đón chào nhiều nơi, nhưng cũng gánh chịu nhiều sự chối từ chống đối bởi nhiều nơi khác. Vì thế, hoàn cảnh của họ luôn giống như con chiên ở giữa những con sói. Họ có thể bị ngược đãi, bị bắt bớ và thậm chí bị giết chết bất cứ khi nào. Họ được mời gọi rao giảng thông điệp “Nước Thiên Chúa” cho cả những nơi không tiếp đón, nhưng cũng được mời gọi giũ bụi chân lại để làm bằng chứng phản đối sự chối từ của họ trong ngày phán xét. Bản án của những người chối từ sứ giả Thiên Chúa còn nặng nề hơn bản án dành cho thành Xơđom xa xưa bởi vì những người dân thành Xơđom có thể chỉ chết về thể xác, còn những người chối từ Chúa sẽ chết cả phần hôn và xa Chúa mãi mãi. Sứ giả của Chúa ra đi rao giảng và trừ được nhiều quỷ. Họ vui mừng phấn khởi vì quỷ đã bị khuất phục nhờ danh của Đức Giêsu. Tuy nhiên, phần thưởng, niềm vui mà họ phải nhắm đến cuối cùng là tên của họ được ghi trên trời. Đồng nghĩa với việc họ được chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Những hoạt động của hành trình để được ghi tên trên trời không chỉ đơn giản là rao giảng, chữa bệnh và trừ quỷ nhưng còn phải theo Chúa trên con đường thập tự đến hơi thở sau cùng.

 Tất cả các kitô hữu được mời gọi cầu nguyện để Thiên Chúa sai nhiều sứ giả loan báo Tin Mừng. Chính họ cũng được mời gọi làm sứ giả mang hai thông điệp quan trọng cho nhân loại rộng lớn. Thông điệp thứ nhất là sự bình an. Rao truyền bình an là căn nguyên của một cái phúc: “Phúc cho ai xây xựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Thông điệp bình an mà các kitô hữu phải rao giảng không chỉ là không gây chiến tranh, không gây hận thù, chết chóc, mà còn là sự an ủi, chữa lành những người đang ở trong những cuộc chiến tranh, đau khổ, bệnh tật về thể lý và tinh thần. Đó là sự bình an viên mãn khi được ờ trong Nước Chúa. Thông điệp thứ hai bao trùm cả thông điệp thứ nhất: “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Các sứ giả của Chúa phải làm cho không gian Nước Thiên Chúa được mở rộng, trong đó có tình yêu, sự công chính, bình an và hoan lạc”. Niềm vui vì có visa Nước Thiên Chúa (tên được ghi trên trời) là cùng đích của các ki-tô hữu và cũng là cùng đích của tất cả những ai đón nhận thông điệp của họ. Niềm vui, sự khao khát Nước Thiên Chúa, là động lực giúp các kitô hữu dám từ bỏ mọi ham muốn, tiện nghi vật chất như Chúa đã mời gọi (không bao bị, không túi tiền, không xăngđan). Sư từ bỏ là điều kiện để sở hữu Nước Trời:  “Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3).

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD



[1] “Child of peace”—that is, one whose life is characterized by peace—then, is capable of more than one nuance. It can refer to one who has already begun to embody the wholeness these delegates of Jesus’ mission will communicate, or it can refer to those who are predisposed to welcome these messengers together with their message. Importantly, one does not predetermine to whom God’s wholeness is transmitted; the division that results from the communication of peace is without human premeditation, but arises through its acceptance or rejection” [J.B. Green, The Gospel of Luke (NICNT; Grand Rapids 1997) 414].

[2] Ba kỳ giảng của Đức Giêsu (1) Kỳ giảng tại Galilaia (Lc 3,1 – 9,50); (2) Kỳ giảng trên đường lên Giêrusalem (9,51 – 19,27); (3) Kỳ giảng tại Giêrusalem (19,28 – 21,38). [Th.N.H. Cầu, Tìm Hiểu Các Sách Tin Mừng & Công Vụ Tông Đồ. Kitô Hữu Đọc Sách Thánh (Biên Hòa 2020) 82-95].

[3]Should one read “seventy” or “seventy-two”? The former is attested in such mss. as א, A, C, K, L, W, X, etc., whereas the latter has the support of P75, B, D, 0181, and the OL (Old Latin) and OS (Old Syra) traditions” [J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV. Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) 28A, 845].

[4] L.T. Johnson, The Gospel of Luke (SP 3; Collegeville 1991) 166-167.

[5] “the idea of the validity of the testimony of two witnesses is probably in mind (Num 35:30; Deut 19:15)” [J. Nolland, Luke 9:21-18:34 (WBC; Dallas, 2002) 35B, 550].

[7] Ibid.

[9] Thói quen của con người xưa nay cả Đông và Tây là giữ một ít tiền lẻ trong thắt lưng, ngày nay là trong túi áo hoặc túi quần. (x. C.E.B. Cranfield, The Gospel According to Mark, 199).

[10] R. Guelich ủng hộ quan điểm của Lohmeyer người cho rằng những đòi hỏi khắt khe này làm cho hành trình trở nên nhẹ nhàng và quan điểm của Grundmann nhấn mạnh đến sự phụ thuộc vào sự quan phòng của Chúa [R.A. Guelich, Mark 1 – 8,26 (WBC; Dallas 2002) 34A, 322

[12] F. Bovon, Luke 2. A Commentary on the Gospel of Luke 9:51–19:27 (ed. H. Koester) (Hermeneia: Minneapolis 2013) 27.

[13] J.B. Green, The Gospel of Luke (NICNT; Grand Rapids 1997) 413.

[14] J. Marcus, Mark 1-8, 384.

[15] Ibid.

[16] R.A. Guelich, Mark 1 – 8,26 (WBC; Dallas 2002) 34A, 322.

[17] L.T. Johnson, The Gospel of Luke (SP 3; Collegeville 1991) 168.

[18] J.B. Green, The Gospel of Luke, 419.

[19] An assured place in the kingdom of God is the supreme benefit that emerges through the experience of God’s grace in the ministry of Jesus. Note the contrast between Xatan fallen from heaven and the names of the disciples now recorded in heaven” (J. Nolland, Luke 9:21-18:34 (WBC; Dallas, 2002) 35B, 566).

[20] “Satan’s expulsion from heaven did not mean that he was slain once and for all. He still had some last might to throw into the fray. His power on earth still had to be blocked step by step by Christ’s troops” (F. Bovon, Luke 2,31).

No comments:

Post a Comment