Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy Lạp |
Việt
|
1
Ἐγένετο δὲ ἐν ταῖς ἡμέραις ἐκείναις ἐξῆλθεν δόγμα παρὰ
Καίσαρος Αὐγούστου ἀπογράφεσθαι πᾶσαν τὴν οἰκουμένην. 2 αὕτη ἀπογραφὴ πρώτη ἐγένετο ἡγεμονεύοντος τῆς Συρίας Κυρηνίου. 3 καὶ ἐπορεύοντο πάντες ἀπογράφεσθαι, ἕκαστος
εἰς τὴν ἑαυτοῦ πόλιν. 4 Ἀνέβη
δὲ καὶ Ἰωσὴφ ἀπὸ τῆς Γαλιλαίας ἐκ πόλεως Ναζαρὲθ εἰς τὴν Ἰουδαίαν εἰς πόλιν Δαυὶδ ἥτις καλεῖται Βηθλέεμ, διὰ τὸ εἶναι
αὐτὸν ἐξ οἴκου καὶ πατριᾶς Δαυίδ, 5 ἀπογράψασθαι σὺν Μαριὰμ τῇ ἐμνηστευμένῃ αὐτῷ,
οὔσῃ ἐγκύῳ. 6 Ἐγένετο δὲ ἐν τῷ εἶναι αὐτοὺς ἐκεῖ ἐπλήσθησαν
αἱ ἡμέραι τοῦ τεκεῖν αὐτήν, 7 καὶ ἔτεκεν τὸν υἱὸν αὐτῆς τὸν πρωτότοκον, καὶ ἐσπαργάνωσεν αὐτὸν καὶ ἀνέκλινεν
αὐτὸν ἐν φάτνῃ, διότι οὐκ ἦν αὐτοῖς τόπος ἐν τῷ καταλύματι. 8 Καὶ ποιμένες
ἦσαν ἐν τῇ χώρᾳ τῇ αὐτῇ ἀγραυλοῦντες καὶ φυλάσσοντες
φυλακὰς τῆς νυκτὸς ἐπὶ τὴν ποίμνην αὐτῶν. 9 καὶ ἄγγελος κυρίου
ἐπέστη αὐτοῖς καὶ δόξα κυρίου περιέλαμψεν αὐτούς, καὶ ἐφοβήθησαν φόβον
μέγαν. 10 καὶ εἶπεν αὐτοῖς ὁ ἄγγελος· μὴ φοβεῖσθε, ἰδοὺ
γὰρ εὐαγγελίζομαι ὑμῖν χαρὰν μεγάλην ἥτις ἔσται
παντὶ τῷ λαῷ, 11 ὅτι ἐτέχθη ὑμῖν σήμερον σωτὴρ ὅς ἐστιν χριστὸς κύριος ἐν πόλει Δαυίδ. 12 καὶ τοῦτο ὑμῖν τὸ
σημεῖον, εὑρήσετε βρέφος ἐσπαργανωμένον καὶ
κείμενον ἐν φάτνῃ. 13 καὶ ἐξαίφνης ἐγένετο σὺν τῷ ἀγγέλῳ πλῆθος στρατιᾶς οὐρανίου αἰνούντων τὸν θεὸν καὶ
λεγόντων· 14 δόξα ἐν ὑψίστοις θεῷ καὶ ἐπὶ γῆς εἰρήνη
ἐν ἀνθρώποις εὐδοκίας. 15 Καὶ ἐγένετο ὡς ἀπῆλθον ἀπ᾽
αὐτῶν εἰς τὸν οὐρανὸν οἱ ἄγγελοι, οἱ ποιμένες ἐλάλουν
πρὸς ἀλλήλους· διέλθωμεν δὴ ἕως Βηθλέεμ καὶ ἴδωμεν
τὸ ῥῆμα τοῦτο τὸ γεγονὸς ὃ ὁ κύριος ἐγνώρισεν ἡμῖν. 16 καὶ ἦλθαν σπεύσαντες καὶ ἀνεῦραν τήν τε Μαριὰμ καὶ τὸν Ἰωσὴφ καὶ τὸ βρέφος κείμενον ἐν τῇ φάτνῃ· 17 ἰδόντες δὲ ἐγνώρισαν
περὶ τοῦ ῥήματος τοῦ λαληθέντος αὐτοῖς περὶ τοῦ
παιδίου τούτου. 18 καὶ πάντες οἱ ἀκούσαντες ἐθαύμασαν περὶ τῶν λαληθέντων ὑπὸ τῶν ποιμένων πρὸς αὐτούς· 19 ἡ δὲ Μαριὰμ πάντα
συνετήρει τὰ ῥήματα ταῦτα συμβάλλουσα ἐν
τῇ καρδίᾳ αὐτῆς. 20 καὶ ὑπέστρεψαν οἱ
ποιμένες δοξάζοντες καὶ αἰνοῦντες τὸν θεὸν ἐπὶ πᾶσιν οἷς ἤκουσαν καὶ εἶδον
καθὼς ἐλαλήθη πρὸς αὐτούς. (Lk. 2:1-20 BGT) |
1
Chuyện xảy ra là trong những ngày ấy, có một sắc lệnh đến
từ hoàng đế Kaisar Augustou, buộc tất cả dân cư phải được đăng ký. 2
Đây là sự đăng ký đầu tiên khi ông Quirenius đang cai quản
Syria 3
và tất cả lên đường để đăng ký, mỗi người vào nơi thành phố của mình 4
Anh Giuse đi lên từ Galilê, từ thị trấn Nadarét, đến Giuđê vào thành của Đavid, gọi là Bếtlehem, bởi vì ông xuất thân từ nhà và dòng dõi Đavid. 5
để đăng ký với chị Maria, vị hôn thê của ông, người đang mang thai 6
Chuyện xảy ra, khi họ đang ở đó thì những ngày sinh con của chị ấy tròn đầy, 7
và chị sinh con đầu lòng và bọc nó lại và đặt nó trong máng cỏ, vì họ không có một chỗ trong
nhà trọ. 8
Có các mục tử, đang ở ngoài đồng nơi họ đang qua đêm và canh giữ đàn chiên của họ vào ban
đêm. 9
và sứ thần của Đức Chúa xuất hiện và vinh
quang của Đức Chúa chiếu tỏa quanh họ và họ sợ một nỗi sợ lớn. 10
Và sứ thần nói với họ: “đừng sợ, vì này, tôi
loan báo cho anh em một tin vui trọng đại, tin vui
cho toàn dân 11
Hôm nay, Đấng cứu độ đã được sinh ra cho anh
em, Đấng ấy là Đấng Kitô, Đức Chúa, trong thành Đavid. 12
và đây là dấu hiệu cho anh em. Anh em sẽ tìm
thấy một hài nhi được bọc tả và được đặt trong máng cỏ” 13
và thình lình, cùng với thiên sứ này, vô số thiên
binh trên trời xuất hiện ca tụng Thiên Chúa và
nói rằng: 14
“Vinh danh Thiên Chúa trên cõi trời cao và bình an dưới
đất giữa những người lòng ngay. 15
Và xảy ra là khi các thiên sứ từ trời rời họ, những
người chăn chiên bảo nhau: “chúng ta hãy cùng nhau đi băng qua đến tận Bếtlehem và hãy xem lời này, việc đã xảy ra,
việc mà Đức Chúa đã tỏ cho chúng ta biết 16
Và vội vã đến và tìm thấy chị Maria và anh Giuse và
Hài Nhi được đặt trong máng cỏ. 17
Sau khi nhìn thấy họ loan báo về những sự việc
đã được nói cho họ về đứa trẻ này. 18
Và tất cả những người nghe đều kinh ngạc về những
điều mà những người chăn chiên nói cho họ 19
còn chị Maria thì giữ những sự việc này, nghiền
ngẫm trong lòng cô ấy 20
những người chăn chiên trở về vừa đi vừa tôn vinh và tán tụng Thiên Chúa về tất cả
những điều họ đã nghe và đã thấy như lời đã được nói cho họ. |
Bối cảnh phụng vụ
Cấu trúc
Câu chuyện Giáng Sinh nổi tiếng của tác giả Luca có thể được chia làm bốn cảnh. Cảnh I: Đức Giêsu được sinh ra, bọc tả, đặt trong máng cỏ (Nhân vật: Đức Maria, Giuse, Hài Nhi Giêsu). Cảnh II: Thiên sứ hiện ra báo tin Mừng cho các mục tử nơi cánh đồng mục tử (nhân vật: Các mục tử, các thiên sứ, triều thần thiên quốc). Cảnh III: Gặp gỡ tại nơi Đức Giêsu được sinh ra, các mục tử loan báo tin Mừng, Đức Maria suy gẩm trong lòng (Nhân vật: Đức Maria, Giuse, Hài Nhi Giêsu, các mục tử, nhiều người khác nữa). Cảnh cuối cùng: Các mục tử ra về, vừa đi vừa tôn vinh, ca tụng Thiên Chúa (các mục tử với đời sống mới). Cảnh thứ nhất dành riêng cho thánh gia; cảnh II dành riêng cho nhóm mục tử; cảnh III dành cho cả hai nhóm (họ gặp nhạu và kể cho nhau nghe Tin Vui); Cánh cuối cùng dành riêng cho nhóm mục tử.
Bối Cảnh:
Nhân vật, nơi chốn, sự kiện (1-5) Cảnh I: Giáng Sinh:
Sinh con, bọc tả, đặt trong máng cỏ (6-7) Cảnh II: Truyền tin
vui cho các mục tử: Đấng Cứu Độ, Đấng Kitô, Đức Chúa đã sinh ra (8-14) Cảnh III: Gặp gỡ và loan tin vui: Đến, gặp gỡ Hài Nhi, loan tin (15-19) Cảnh IV: Các mục tử sống
tin vui: Trở về, tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa Chúa (20) |
Bối
cảnh bản văn:
Đoạn Tin Mừng Lc
2,1-14.15-20 được trích ra từ phần đầu của chương hai, ngay sau phần trình thuật
về chào đời và cắt bì của Gioan Tẩy Giả được kết thúc bằng bài ca Chúc Tụng
Chúa (Benedictus) của ông Dacaria. Nó nằm trong phần trình thuật về Giáng Sinh
và thời thơ ấu (chương 1 và 2 của Tin Mừng Luca). Tiếp theo sau đoạn văn này là
đoạn văn nói về việc cắt bì và đặt tên cho Đức Giêsu. Tiếp theo sẽ là trình thuật
về việc dâng Đức Giêsu trong đền thánh. Trình thuật của Gioan Tẩy Giả dường như
là song song với trình thuật về Đức Giêsu. Sau trình thuật về truyền tin cho
ông Dacaria, cha của Gioan là trình thuật về truyền tin cho Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu.
Rồi, sau trình thuật về sự ra đời, cắt bì và đặt tên cho Gioan là trình thuật về
Giáng sinh, cắt bì và đặt tên cho Giêsu. Dĩ nhiên, trình thuật về Giêsu luôn
luôn tỉ mỉ hơn vì Giêsu trổi vượt hơn Gioan về nhiều phương diện. Một người là
người dọn đường, còn người kia là Đấng được dọn đường. Trong
bốn tác giả sách Tin Mừng thì chỉ có hai tác giả có trình thuật về Giáng Sinh của
Đức Giêsu. Đó là tác giả Mátthêu và Luca. Luca trình thuật sự kiện Đức Giêsu
Giáng Sinh hoàn toàn khác so với Mátthêu (1,18-25). Cả hai đều đồng ý rằng Đức Giêsu
sinh ra tại Bếtlehem. Tuy nhiên, trong khi Luca nói đến việc Hài Nhi Giêsu
được những mục tử đến viếng thăm thì Mátthêu có trình thuật chi tiết về việc 3
nhà đạo sĩ đến từ Phương Đông để triều yết và chào mừng Đức Giêsu. Mátthêu cũng
không đề cập đến việc đăng ký dân số và những chi tiết về việc Đức Giêsu sinh
ra trên đồng vắng, được bọc tả, nằm trong máng cỏ. Những chi tiết này đều là dữ
liệu riêng của Luca.
Một số điểm chú giải
1.
“Một
sắc lệnh từ Kaisar Augusto nhằm đăng ký” (δόγμα παρὰ Καίσαρος Αὐγούστου ἀπογράφεσθαι): Luca rõ ràng
là muốn ghi nhận một sự kiện mang tính chất lịch sử bằng cách nói rõ tên của
các vị lãnh đạo thời bấy giờ: Kaisar Augusto và Quirenius. Vua Erodes chết năm
4 C.E (kỷ nguyên chung) và Augusto là hoàng đế từ năm 27 B.C.E (trước kỷ nguyên
chung) đến năm 14 C.E.. Điều này xem ra Luca đúng. Tuy nhiên, Quirenius là tổng
trấn xứ Syria từ năm 6 đến 7 C.E., điều này không đúng với dữ liệu của Luca:
“ông Quirenius làm tổng trấn xứ Syria” (Lc 2,2).[1] Sự
kiện Đức Giêsu Giáng Sinh xảy ra vào khoảng năm thứ nhất. Năm này không thể là
năm mà Quirenius làm tổng trấn Syria. Mátthêu không hề đề cập đến cuộc kiểm tra
dân số cũng như những nhân vật lịch sử này. Một cuộc điều tra dân số, hay đăng
ký dân số tại quê nhà dưới thời hoàng đế Augusto như Luca tường thuật xem ra
thiếu bằng chứng về mặt lịch sử. Có một cuộc kiểm tra dân số tại Syria, ảnh hưởng
trên vùng đất Giuđêa, chứ không phải Galilê diễn ra vào năm 6-7 C.E., mười năm
sau khi vua Erodes cả mất.[2]
Luca dường như nhầm lẫn về mặt lịch sử nhưng Luca ý định về sự hiện diện của Đức
Maria và thánh Giuse cũng như bối cảnh của Giáng Sinh nơi Bếtlehem là rõ ràng.
Theo dữ liệu lịch sử này, Luca muốn nói rằng cả hoàng đế Rôma, Kaisar Augusto
cũng như Quirenius, tổng trấn địa phương tại Syria phục vụ cho kế hoạch của
Thiên Chúa, khi đưa thánh Giuse và Đức Maria về Bếtlehem, nơi mà Đấng Cứu Độ phải
sinh ra.[3]
2.
“Anh
Giuse từ miền Galilê, thành Nadarét” (Ἰωσὴφ ἀπὸ τῆς Γαλιλαίας ἐκ πόλεως Ναζαρὲθ). Việc thánh Giuse di chuyển từ miền Galilê thành Nadarét đến
Bếtlehem nhắc nhớ độc giả về địa danh trong trình
thuật về buổi truyền tin (Lc 1,26-38). Đức Maria có ngôi nhà ở Nadarét và đã nhận
lời truyền tin ở thị trấn này (Lc 1,26). Thánh Giuse dĩ nhiên là đã ở Nadarét với
Đức Maria. Hiện nay, tại Nadarét, bên cạnh ngôi đền thờ Truyền Tin, nơi được
xem làm nhà Đức Maria, có một ngôi nhà thờ khác. Đó là nhà thờ Thánh Giuse, nơi
được xem là nhà của thánh Giuse trước đó. Nghĩa là nhà thánh Giuse và nhà Đức
Maria, theo các bằng chứng về khảo cổ học, hay đúng hơn là theo truyền thống, gần
nhau. Đức Maria và thánh Giuse vốn là hàng xóm láng giềng. Thế nhưng, trong
trình thuật truyền tin, các độc giả cũng được nhắc nhở rằng, thánh Giuse xuất
thân từ dòng dõi Đavid (Lc 1,27) và vì là dòng dõi Đavid nên quê cha đất tổ của
ông là Bếtlehem.
3.
Thành
của Đavid gọi là Bếtlehem (πόλιν Δαυὶδ ἥτις καλεῖται Βηθλέεμ): Truyền thống nối kết quê hương của vua Đavid với Bếtlehem
được nói đến trong Sách Thánh Cựu Ước. Bếtlehem là mộ phần của Rakhen, hiền thê
của Giacóp, tổ mẫu của Vua Đavít và dân Ítrael (St 35,19). Bếtlehem cũng chính
là nơi mà Rút, bà cố nội của Vua Đavít, kết hôn với Boas và sinh ra Ôvéd và
Ôvéd sinh Jesse, cha của Đavít (R 1,19.22; 4,11). Bếtlehem là nơi ngôn sứ
Samuel được Đức Chúa sai đến để xức dầu phong Đavid, một người con của Jesse,
làm vua (1 Sm 16, 1-2). Lời hứa về một vị vua hậu duệ của Đavid sẽ xuất hiện đã
được nói đến cách rõ ràng trong chương 7, sách Samuel quyển thứ hai. Rồi lời tiền
báo về việc một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Emmanuel
được tiền báo trong sách ngôn sứ Isaiah chương 7 câu 14. Và nơi chốn đấng dẫn dắt
dân phải sinh ra là Bếtlehem được nói đến trong ngôn sứ Mikhah chương 5, câu 1:
“nhưng ngươi, Bếtlehem, Épratha, mặc dù ngươi nhỏ nhất trong các chi tộc của Giuđa,
từ nơi ngươi, sẽ xuất hiện cho ta một người, người sẽ chăn dắt trên Ítrael”.
Chính vì thế mà nhất thiết thánh Giuse và Đức Maria phải có mặt ở Bếtlehem, bởi
vì Đấng Messiah, lãnh đạo của lời hứa, xuất thân từ dòng dõi vua Đavid phải
sinh ra tại Bếtlehem. Mátthêu không có tường thuật chi tiết như Luca về sự
Giáng Sinh của Đức Giêsu. Tuy vậy, chi tiết Đức Giêsu sinh ra tại Bếtlehem theo
như sách Mikhah đã nói đến là không thể thiếu được (Mt 2,1.5-6.8.16).
4.
“trong
khi họ đang ở đó” (Ἐγένετο δὲ ἐν τῷ εἶναι αὐτοὺς ἐκεῖ). “Ở đó”
nghĩa là đang ở Bếtlehem. Đây là một câu nhắc nhớ, nhằm nhấn mạnh thêm những dữ
liệu liên quan đến nơi chốn trước đó. Luca móc nối nơi chốn này với sự kiện cụ
thể: Đức Maria đã đến hồi sinh nở (nghĩa
đen: Những ngày sinh con của cô ấy đã tròn đầy). Việc thánh Giuse phải dẫn vợ
mình về quê đăng ký dân số, và có mặt tại Bếtlehem trong lúc Đức Maria đến ngày
lâm bồn, tưởng chừng là một trường hợp ngẫu nhiên, nhưng hoàn toàn không phải
thế, tất cả đều nằm trong hoạch định của Thiên Chúa theo trình thuật của Luca.
Đức Maria không thể nào “chuyển dạ” ở một nơi nào khác ngoài Bếtlehem, vì Đức Giêsu
phải sinh ra tại đó, để ứng nghiệm lời ngôn sứ. Luca không lặp lại nhiều câu
“việc ấy xảy ra là để ứng nghiệm lời ngôn sứ” nhưng cách Luca sắp xếp trình thuật
cũng đủ để cho độc giả và tín hữu hiểu rõ ý định nối kết lời hừa trong Sách
Thánh Cựu Ước với trình thuật Tân Ước.
5.
“Con
trai của cô ấy, con đầu lòng” (τὸν υἱὸν αὐτῆς τὸν πρωτότοκον): Việc
nhắc nhớ đến “con trai đầu lòng” ở đây không ngụ ý nói rằng Đức Maria còn những
người con khác.[4]
Nói như thế, bởi vì có nhiều tác giả cho rằng, nói Đức Maria sinh “con trai đầu
lòng” nghĩa là Đức Maria còn sinh những người con khác nữa. Con đầu lòng cũng
nhắc nhớ đến hình ảnh của dân Ítrael: “hãy nói với Pharaoh rằng Ítrael là con
trai đầu lòng của ta” (Xh 4,22); “ta là cha của Ítrael và Éphraim là con trai đầu
lòng của ta” (Gr 31,9). Cũng nên biết rằng, từ ngữ “Con trai đầu lòng”, trong
tiếng Hy Lạp (prototokos) đôi khi diễn tả “con trai một”.[5]
Danh xưng “con trai đầu lòng” được nhắc đến ở đây cũng có thể nhằm chuẩn bị cho
trình thuật về việc dâng Đức Giêsu trong đền thờ theo luật (Lc 2,23) được nói đến
sau đó. Trong thần học thánh Phaolô, Chúa Giêsu qua mầu nhiệm nhập thể trở
thành trưởng tử của một đàn em đông đúc. Ngài được kể “như con đầu lòng” của
toàn thể thụ tạo (Rm 8,29; Cl 1,15.18; Dt 1,6).
6.
“Cô ấy
bọc tả nó (Hài Nhi Giêsu)” (ἐσπαργάνωσεν αὐτὸν): Hành động này biểu lộ một sự chăm sóc mẫu-tử là điều
mà một người mẹ của vùng Palestin cổ xưa có thể đã thường làm cho một đứa trẻ mới
sinh. Bọc tả con được xem như là một dấu hiệu của sự chăm sóc của mẹ cha (Kn
7,4) trong khi đó thiếu việc bọc tả được xem như là chối từ, làm ngơ, ám chỉ đến
Giêrusalem (Ed 16,4). Động từ “sparganoun” rút ra từ danh từ sparganon, một
trong những loại vải hoặc băng vải. Chính vì thế mà bản dịch Anh Ngữ là
“wrapped him in swaddling cloths” (ESV, RSV), bản dịch Việt ngữ là “lấy tả bọc
con” (CGKPV). Đấng Cứu Thế được sinh ra, về thể lý, giống như bao đứa trẻ khác.
Ngài cũng yếu đuối, cần được bọc tả, sự chăm sóc ân cần của người mẹ ngay từ
giây phút chào đời.
7.
“đặt
nó trong máng cỏ” (καὶ ἀνέκλινεν αὐτὸν ἐν φάτνῃ): φάτνῃ vừa có nghĩa là chuồng bò lừa vừa có nghĩa là máng cho bò
lừa ăn cỏ. Cảnh Giáng Sinh được thánh Phanxicô Assisi, tái hiện lần đầu tiên
vào năm 1223 tại Greccio, miền Trung Nước Ý, để cổ vũ lòng tôn sùng Chúa Kitô.
Từ đó truyền thống trưng bày hang đá máng cỏ được lan rộng ra khắp Âu Châu và
toàn thế giới. Khung cảnh Giáng Sinh cơ bản tái hiện lại tường thuật của Luca.
Trong đó, có thánh Giuse, Mẹ Maria, Hài Nhi Giêsu ở trong một chuồng bò, có bò,
lừa, những người chăn chiên. Ngày nay, cảnh Giáng Sinh được bao gồm cả trình
thuật của Mátthêu về ba Vua, hay là ba hiền sĩ từ Phương Đông đến thờ lạy Hài
Nhi Giêsu. Dù không nói ra, nhưng chiếc máng cỏ đơn sơ được diễn tả đối lại với
hình ảnh “không tìm thấy chỗ trọ” cho thấy sự nghèo hèn hạ mình đến mức tận
cùng của Con Thiên Chúa làm người. Cũng cần biết thêm là, chỉ có Hài Nhi Giêsu trong
trình thuật của Luca mới được đặt trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu trong trình thuật
của Mátthêu ở trong nhà cửa đàng hoàng (Mt 2,11: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và mẹ
Người là chị Maria, liền sấp mình thờ lạy Người”).
8.
“những
người chăn chiên ngoài đồng” (ποιμένες ἦσαν ἐν τῇ χώρᾳ): Thân
phận và địa vị những người đầu tiên được loan tin vui thật bình thường. Đây là
những con người đang thức đêm ngoài đồng vắng để canh đàn vật của mình. “ποιμένες”, những mục tử, cho thấy sự liên hệ với Hài Nhi Giêsu, đấng
chăn dắt, lãnh đạo dân Ítrael trong tương lai. Người Ítrael hiểu chính họ như một
quốc gia của những người chăn chiên, đối lại với những người láng giềng, hoặc
là công dân thành phố hoặc là những nông dân định cư. Là những mục tử, họ áp dụng
hình ảnh những mục tử cho cả Chúa, vua hay là Đấng Messiah. Edêkiel chương 34
đã chỉ trích những mục tử xấu của Ítrael (cc.1-10), Chúa triệu tập dân như mục
tử đích thực (cc. 11-16), lời tiên tri về vị mục tử cánh chung, “tôi tớ của ta
là Đavid”. Cũng cần biết thêm là, trong khi Hài Nhi Giêsu của trình thuật Luca
được các mục tử nghèo hèn, thất học viếng thăm như đứa bé không nhà, Hài Nhi
Giêsu trong trình thuật của Mátthêu được những nhà thông thái, mang đến lễ vật
sang trọng để bái thờ Người như một vị vua mới.
9.
“sứ
thần của Đức Chúa… vinh quang của Đức Chúa” (ἄγγελος κυρίου… δόξα κυρίου): Đây là những dấu
hiệu đến từ trời cao. Mặc dù Đức Giêsu được sinh ra trong cánh đồng vắng. Nhưng
sự xuất hiện lạ lùng của các thiên sứ và vinh quang của Đức Chúa cho thấy tầm
quan trọng và vẻ huy hoàng của sự Giáng Sinh này. “δόξα” là sự huy hoàng tráng lệ chói lọi liên kết với sự hiện
diện có thể nhận thức được của Chúa như thường thấy trong sách thánh Cựu Ước.
Mô-sê và Aharon nói với dân Ítrael trong bối cảnh dân đòi lương thực: “vào buổi
tối các ngươi sẽ biết rằng chính Đức Chúa, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi Ai Cập
và vào buổi sáng các ngươi sẽ thấy vinh quang của Đức Chúa” (Xh 16,7), dân
chúng thấy “vinh quang của Đức Chúa xuất hiện trong đám mây” (16,10); “đối với
những người Ítrael, vinh quang của Đức Chúa như ngọn lửa thiêu rụi trên đỉnh
núi” (Xh 24,17). Sự huy hoàng tráng lệ còn được minh họa, gia tăng thêm với một
đoàn thiên sứ đông đảo tụng ca “vinh danh Thiên Chúa trên trời” (Lc 2,13-14).
Vinh quang Thiên Chúa không những chiếu tỏa có thể thấy được mà còn được diễn tả
bằng âm thanh chứng nhận của đạo binh thiên sứ.
10. “tôi loan báo cho anh em một tin vui lớn” (εὐαγγελίζομαι ὑμῖν χαρὰν μεγάλην): đây là kiểu diễn
tả một sự trọng đại chưa từng có trên trái đất. Từ ngữ và cấu trúc của vị ngữ
này thật lạ lùng. Tác giả dùng một động từ “loan báo tin vui”, cộng thêm một
danh từ chỉ niềm vui, rồi thêm một tính từ chỉ mức độ, bổ nghĩa cho danh từ
này. “Tôi báo tin mừng cho anh em, một tin vui vĩ đại” (trọng đại). Động từ
“báo tin vui” (εὐαγγελίζομαι) là động từ ưa thích của Luca. Động từ này xuất hiện 11 lần trong trong
các sách Tin Mừng thì có 10 lần được dùng trong Tin Mừng Luca.[6] Động
từ này đã được sử dụng bởi thiên sứ Gápriel trong bối cảnh truyền tin cho ông
Dacaria (Luca 1,19). Luca sử dụng rất nhiều lần động từ này trong sách Công Vụ
Tông Đồ, diễn tả hoạt động loan báo Tin Vui của các Tông Đồ (Cv 5,42; 8,4;
11,20; 14,7; 14,15; 15,35). Căn bản của Tin Vui này là một đứa trẻ được sinh ra
như được nói đến trong Is 9,5: “Một trẻ thơ sẽ giáng sinh cho chúng ta, một người
con được ban tặng cho chúng ta”
11. “toàn dân” (παντὶ τῷ λαῷ): Tin
vui này được thông báo cho những người mục tử trên đồng vắng, nhưng biên cương
của tin vui này không chỉ giới hạn cho các mục tử trên đồng vắng nhưng cho toàn
cõi Ítrael, như được đề cập trước đó trong những trình thuật thời thơ ấu
(1,17.68.77).[7]
Bởi lẽ, tất cả dân Ítrael ai ai cũng mong ngóng tin vui này. Tuy nhiên, những mục
tử mới là những người đầu tiên được phúc đón nhận tin vui này, rồi sau đó tin
vui này mới được loan đi qua lời kể của họ (Lc 2,17). Tác giả Mátthêu còn mở rộng
tin vui này cho tất cả mọi dân khi ông tường thuật việc các nhà hiền sĩ ở
Phương Đông đến triều cống và triều bái Hài Nhi Giêsu (Mt 2,1-12).
12. “hôm nay” (σήμερον): Là một trạng từ nhằm cụ thể hóa về mặt thời gian cho sự
kiện Giáng Sinh. Hơn thế nữa, nó cũng là một trạng từ thường dùng để giới thiệu
về một sự hoàn tất mang tính cánh chung, mà Luca rất hay dùng. “Hôm nay” được
dùng như là thời gian giải thoát, cứu độ của Chúa.[8] Đó
là lúc những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm (Lc 4,21); cũng là lúc dân chúng
nhìn thấy những điều kỳ lạ qua bàn tay Đức Giêsu (5,26); là ngày Đức Giêsu công
bố ơn cứu độ đến cho nhà Giakêu (19,9); và là khi Đức Giêsu ban nước Thiên Đàng
cho người tử tội cùng bị treo trên thập giá (23,43).
13. “Đấng cứu độ” (σωτὴρ), “Kitô,
Đức Chúa” (χριστὸς κύριος): Theo
Green, những tước hiệu này được thiết lập trong bối cảnh diễn giải Is 9,1-7, và
dữ liệu trong Luca 2 gắn liền với ngai vàng Đavid. Trong khi phác họa những
hình ảnh của sách Isaiah, Luca biểu lộ tầm quan trọng của đứa trẻ được nâng cao
này, những thuật ngữ mang tính lịch sử cứu độ, đặt nền giải thích của ông về Đức
Giêsu vào những niềm hy vọng về sự giải thoát mang tính thần linh. Chủ đề được
nhấn mạnh hơn nữa bằng cách đề cập của thiên thần đến “thành của vua Đavid” (Lc
2,11).[9] Tước
hiệu “người giải cứu” và “Messiah” rõ ràng liên quan đến lời hứa cứu độ được
nói đến trong các sách Cựu Ước. Riêng tước hiệu “Đức Chúa” thì cho thấy rõ rằng
thân phận, và căn tính của Đức Giêsu còn hơn thế nữa, Ngài là Đức Chúa chứ
không chỉ là Đấng Messiah thuộc dòng dõi vua Đavid. Cũng như trong trình thuật
về Truyền Tin cho Đức Maria. Luca một mặt muốn nối kết Đức Giêsu với thánh Giuse
thuộc dòng dõi vua Đavid nhưng hơn thế nữa, Ngài được thụ thai bởi phép Chúa
Thánh Thần và Mẹ Ngài, Đức Maria là trinh nữ. Ngài sẽ được gọi là Con Đấng Tối
Cao. Trong trình thuật về cuộc viếng thăm người chị họ của Đức Maria, người chị
họ Êlisabét còn nhận thức cụ thể hơn về thân phận trời cao của Hài Nhi Giêsu
khi bà gọi Đức Maria là “mẹ của Chúa tôi” (Lc 1,43). Hơn nữa, ý nghĩa Đấng Cứu
Độ, Đấng Messiah của cộng đoàn Luca sau Phục Sinh không giống như hình ảnh Đấng
Giải Thoát và Messiah mà đa phần dân Do Thái đang mong đợi. Ngài là Đấng giải
thoát dân Ngài khỏi tội lỗi và sự chết. Vương quyền của Ngài là vương quyền của
Nước Trời với biên cương muôn thuở chứ không phải là vương quốc Ítrael mà thôi.
14. “bình an dưới thế cho những người
lòng ngay” (εἰρήνη ἐν ἀνθρώποις εὐδοκίας): “vinh quang
trên nơi cao nhất dành cho Thiên Chúa, dưới đất bình an trong những con người
có lòng dạ tốt lành, ngay thẳng”. Hai hình ảnh và hai nơi chốn song song với
nhau nhưng không lẫn lộn với nhau: “vinh quang” “trên cõi trời cao thẳm” “cho
Chúa” // “bình an” “trên trái đất” “trong những người thiện tâm”. Vinh quang là
đặc tính của Thiên Chúa và vinh quang ấy giờ đây được đặt sóng đôi với bình an
thế trần. Như thể muốn nói rằng: vinh quang của Thiên Chúa gắn liền với bình an
thế trần. Chúa vinh quang là để cho thế trần được bình an. Hay bình an thế trần
là biểu tỏ vinh quang Thiên Chúa. Cụm từ “ἐν ἀνθρώποις εὐδοκίας” có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau: (1) Trong số
những người mà Thiên Chúa hài lòng hay yêu chuộng [động từ eudokeo có gốc là
danh từ eudokia, được dùng trong lời của “tiếng từ trời”: Đây là Con yêu dấu của
Ta, Ta hài lòng về Người” (Lc 3,17)]; (2) Cho những người có lòng ngay, hay ý
chí tốt lành; (3) Ý chí tốt lành giữa muôn người. Nó cũng có thể bao hàm tất cả
những nghĩa này. Những người này là ai? Trong bối cảnh này những người đầu tiên
được hưởng sự bình an này phải kể đến là thánh Giuse, Đức Mẹ Maria, các mục đồng,
và có thể là những người được đón nhận tin vui từ các mục đồng. Đấng Messiah sẽ
dẫn dân Ngài “tiến bước vào đường nẻo bình an” theo như lời ngôn sứ của ông
Dacaria (Lc 1,79). Rồi cả cuộc đời rao giảng của Đức Giêsu, thông điệp, lời
chào, lời chúc của Ngài đầy dẫy sự bình an. Ngài dạy các môn đệ là hãy chào
chúc bình an khi đến với bất cứ nhà nào (Mt 10,12-13: Lc 10,5). Ngài chào chúc
các bệnh nhân đi bình an sau khi đã chữa lành cho họ (Mc 5,34; Lc 7,50; 8,48). Ngài
dạy các môn đệ là hãy sống bình an với nhau (Mc 9,50). Trước khi bước vào cuộc
khổ nạn, giây phút chia lìa, điều Ngài để lại cho họ lại là sự bình an: “Thầy để
lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27). Sau
phục sinh lời chào chúc luôn của Ngài đến với các môn đệ là: “Bình an cho anh
em” (Lc 24,36; Ga 20,21.26). Sự bình an quả thực là niềm mong mỏi, sự ao ước,
là món qua mà Thiên Chúa muốn ban cho nhân loại ngay từ thời khắc Con Chúa
Giáng Trần cho đến lúc Ngài trở về trời cao. Thế nhưng, nhiều người hình như vẫn
chưa có được sự bình an ấy như Mẹ Maria, thánh Giuse hay như các mục đồng vì họ
chưa thực sự đón nhận Chúa với lòng ngay, ý chí tốt lành. J. Nolland giải thích
sự bình an rộng hơn. Ông cho rằng bình an ở đây không đơn giản chỉ là bình lặng
nội tâm hay vắng bóng chiến tranh nhưng còn gợi lên toàn bộ trật tự xã hội của
nhân loại và sự phồn vinh, sự an ninh và sự hài hòa.[10] Ý tưởng của J. Nolland cũng rất đáng trân trọng. Tuy
nhiên, thiết tưởng bình an mà Luca muốn diễn tả trong bối cảnh này có lẽ là sự
bình an của những con người bình thường, bình dị, đầy lòng yêu mến Chúa, thiện
tâm, thiện chí. Họ được bình an khi gặp gỡ Chúa và sống theo kế hoạch của Chúa
dẫu cuộc đời còn nhiều éo le, bất trắc.
15. “Họ loan báo” (ἐγνώρισαν): Họ lắng nghe Tin Vui được sứ thần loan báo, vội vã đến
viếng thăm và kiểm chứng, rồi loan báo cho người khác. Đó là bản chất và sức mạnh
của một Tin Vui đích thực, một tin vui có sức manh công phá cõi lòng người
nghe, khiến họ phải nói ra, loan tin chứ không chỉ giữ cho riêng mình. J.
Fitzmyer cho rằng nhưng những người chăn chiên này thuật lại cho Đức Maria và
thánh Giuse nghe toàn bộ cuộc gặp gỡ với sứ thần Thiên Chúa, và rồi còn kể cho
dân thành Bếtlehem nữa.[11] Cứ
như thế tin vui được nhân rộng và đã đến cùng cõi đất ngày hôm nay.
16. “tất cả những người nghe đều kinh ngạc” (πάντες οἱ ἀκούσαντες ἐθαύμασαν): sự ngạc nhiên của thính giả ở đây có thể hiểu theo hai
nghĩa. Thứ nhất, họ đương nhiên là ngạc nhiên vì câu chuyện các thiên sứ hiện
ra với các mục đồng. Rồi ngạc nhiên vì tất cả những gì thiên sứ nói với các mục
đồng đều đúng y sự thật. Kế đến, họ có thể rất đỗi ngạc nhiên vì Đấng Messiah,
Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ mà họ mong chờ bấy lâu nay lại xuất hiện trong bộ dạng
một Hài Nhi yếu ớt. Và ngạc nhiên hơn nữa vì bối cảnh Người sinh ra thật không
thể tưởng tượng được. Người ta biết Ngài sinh ra tại Bếtlehem theo như lời ngôn
sứ Malakhi, nhưng ai ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa như thế.
17. “giữ gìn và ngẫm suy tất cả các sự việc” (πάντα συνετήρει τὰ ῥήματα ταῦτα συμβάλλουσα): Động từ “συνετήρει” dịch đơn giản có nghĩa là gìn giữ. Bản dịch Việt Ngữ là
“hằng ghi nhớ” (CGKPV). Một số tác giả Anh Ngữ hiểu là “gìn giữ như kho tàng”
(treasured up ESV, RSV), bản dịch Ý Ngữ hiểu là “bảo vệ” (custodiva, CEI). Động
từ “hằng ghi nhớ”, được chia ở thì vị hoàn, diễn ta một hành động liên tục, kéo
dài, chưa chấm dứt. Động từ này kết hợp với động từ “συμβάλλουσα” (suy đi nghĩ lại, gẫm suy, suy xét) cùng với cụm trạng
ngữ chỉ nơi chốn “trong lòng của cô ấy” (ἐν τῇ καρδίᾳ αὐτῆς) diễn tả một hành động có sự trân trọng cao nhất đối với
những “sự việc này”. Đức Maria “gìn giữ như kho tàng” rồi còn “suy đi nghĩ lại”
về điều ấy “trong tim” mình. Điều mà Đức Maria “gìn giữ như kho tàng” trong tiếng
Hy Lạp là “τὰ ῥήματα”. Danh từ này có hai nghĩa khác nhau. Nghĩa thứ nhất là
“lời nói” (saying). Nghĩa thứ hai là “những sự việc”. τὰ ῥήματα (số nhiều) được tác giả Luca sử dụng
5 lần, trong đó có một lần Luca sử dụng theo nghĩa là những lời nói (Lc 7,1). Bốn
lần còn lại danh từ này đều được sử dụng theo nghĩa là “những sự việc”. Tất cả
những sự việc mà Luca muốn nói đến đều nhiệm mầu và liên quan đến công trình cứu
độ. Thứ nhất là “những sự việc” liên quan đến việc thụ thai, sinh hạ và đặt tên
cho Gioan Tẩy Giả. “Những sự việc này được thảo luận trong toàn cõi Giu-đê” (Lc
1,65). Hai chuỗi sự việc tiếp theo đều được Đức Maria “gìn giữ như bảo tàng”
trong lòng mình. Đó là “những sự việc liên quan đến việc hạ sinh Đức Giêsu cùng
với sự viếng thăm của nhóm mục đồng và câu chuyện kể của họ” (Lc 2,19). Tiếp
theo đó là “những sự việc” Đức Giêsu ở lại trong đền thờ, ngồi giữa các bậc thầy,
vừa nghe vừa đặt câu hỏi” (Lc 2,51). Và cuối cùng là “những sự việc” mà những
người phụ nữ kể với nhóm Mười Một về Đức Giêsu Phục Sinh, nhưng họ không tin
các bà (Lc 24,11). Phản ứng của Đức Maria, với một thái độ trân trọng và để tâm
suy ngắm tất cả những mầu nhiệm của cuộc đời Đức Giêsu có thể được xem như là đỉnh
cao của trình thuật Giáng Sinh này. Nó cũng biểu lộ đặc tính nổi bật của Đức
Maria trong tương quan với Chúa và công trình cứu độ của Người. Đức Maria phải
nói là “đương kim vô địch” là “kỷ lục gia” trong việc trân quý và gẫm suy về mầu
nhiệm cứu độ.
18. “trở về, vừa đi vừa tôn vinh và tán dương Thiên Chúa” (ὑπέστρεψαν οἱ ποιμένες δοξάζοντες καὶ αἰνοῦντες τὸν θεὸν): đó là biểu hiện của những người gặp gỡ Chúa đích thực.
Sự gặp gỡ Chúa, cảm nghiệm được Chúa hiện diện trong cuộc đời họ. Động từ
“đoxazo” mà nhóm mục tử sử dụng có nguồn gốc từ danh từ “đoxa” được sử dụng ít
nhất hai lần trước đó. “Vinh quang (đoxa) Chúa chiếu tỏa trên những người chăn
chiên này” (Lc 2, 9). Rồi đoàn cơ binh thiên thần ca tụng: “Vinh danh (đoxa)
Chúa trên các tầng trời” (Lc 2, 14). Kết thúc trình thuật này các mục tử trở về
vừa đi vừa tôn vinh (đoxazo) và ca ngợi Chúa. Như vậy, có thể thấy một tiến
trình cảm nghiệm vinh quang Chúa của các mục đồng. Họ thấy ánh quang chiếu tỏa,
rồi họ nghe các thiên sứ ca ngợi vinh quang Chúa. Rồi họ nhìn thấy vinh quang
Chúa nơi chính Thánh Gia, mà Hài Nhi Giêsu là trung tâm. Bước cuối cùng, chính
họ cất lời ca tụng vinh quang Chúa. Theo J. Fitzmyer, phản ứng của những mục đồng
là âm vang của bài ca của cơ binh thiên thần trước đó (Lc 2,13-14).[12]
Bình Luận Tổng Quát
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1]
L.T. Johnson, The Gospel
of Luke (SP 3; Collegeville 2005) 49.
[2]
R.E. Brown, The Birth of
the Messiah. A Commentary on the Infancy Narratives in the Gospels of
Matthew and Luke (AB; New York – London – Toronto – Sydney – Aukland 1993) 413.
[3]
R.E. Brown, The Birth of
the Messiah, 415.
[4]
L.T. Johnson, The Gospel
of Luke, 50.
[5]
R.E. Brown, The Birth of
the Messiah, 398.
[6]
R.E. Brown, The Birth of
the Messiah, 402.
[7]
J. Nolland, Luke 1:1-9:20
(WBC 35A; Dallas 2002) 107.
[8]
J.B. Green, The Gospel of
Luke (NICNT; Grand Rapids 1997) 132.
[9]
J.B. Green, The Gospel of
Luke, 134.
[10]
J. Nolland, Luke 1:1-9:20
(WBC 35A; Dallas 2002) 108.
[11]
J.A. Fitzmyer, The Gospel
According to Luke I-IX, 412.
[12]
J.A. Fitzmyer, The Gospel
According to Luke I-IX, 413.
This comment has been removed by a blog administrator.
ReplyDelete