Friday, 26 February 2021

"NGƯỜI MANG HỌ LÊN MỘT NGỌN NÚI CAO". CHÚ GIẢI TIN MỪNG CN II MC NĂM B (Mc 9,2-10), Lm. Jos. Ph.D. Thạch, SVD

Bản văn và dịch sát nghĩa

Hy Lp

Việt

2 Καὶ μετὰ ἡμέρας ἓξ παραλαμβάνει ὁ Ἰησοῦς τὸν Πέτρον καὶ τὸν Ἰάκωβον καὶ τὸν Ἰωάννην καὶ ἀναφέρει αὐτοὺς εἰς ὄρος ὑψηλὸν κατ᾽ ἰδίαν μόνους. καὶ μετεμορφώθη ἔμπροσθεν αὐτῶν,

 3 καὶ τὰ ἱμάτια αὐτοῦ ἐγένετο στίλβοντα λευκὰ λίαν, οἷα γναφεὺς ἐπὶ τῆς γῆς οὐ δύναται οὕτως λευκᾶναι.

 4 καὶ ὤφθη αὐτοῖς Ἠλίας σὺν Μωϋσεῖ καὶ ἦσαν συλλαλοῦντες τῷ Ἰησοῦ.

 5 καὶ ἀποκριθεὶς ὁ Πέτρος λέγει τῷ Ἰησοῦ· ῥαββί, καλόν ἐστιν ἡμᾶς ὧδε εἶναι, καὶ ποιήσωμεν τρεῖς σκηνάς, σοὶ μίαν καὶ Μωϋσεῖ μίαν καὶ Ἠλίᾳ μίαν.

 6 οὐ γὰρ ᾔδει τί ἀποκριθῇ, ἔκφοβοι γὰρ ἐγένοντο.

 7 καὶ ἐγένετο νεφέλη ἐπισκιάζουσα αὐτοῖς, καὶ ἐγένετο φωνὴ ἐκ τῆς νεφέλης· οὗτός ἐστιν ὁ υἱός μου ὁ ἀγαπητός, ἀκούετε αὐτοῦ.

 8 καὶ ἐξάπινα περιβλεψάμενοι οὐκέτι οὐδένα εἶδον ἀλλὰ τὸν Ἰησοῦν μόνον μεθ᾽ ἑαυτῶν.

 9 Καὶ καταβαινόντων αὐτῶν ἐκ τοῦ ὄρους διεστείλατο αὐτοῖς ἵνα μηδενὶ ἃ εἶδον διηγήσωνται, εἰ μὴ ὅταν ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου ἐκ νεκρῶν ἀναστῇ.

 10 καὶ τὸν λόγον ἐκράτησαν πρὸς ἑαυτοὺς συζητοῦντες τί ἐστιν τὸ ἐκ νεκρῶν ἀναστῆναι.

 (Mk. 9:2-10 BGT)

2 và sau sáu ngày, Đức Giêsu mang theo Phêrô, Giacôbê và Gioan và Người mang họ lên núi cao một mình với họ. Và Người được biến đổi hình dạng trước mặt họ.

3 và áo của Người trở nên cực kỳ sáng, trắng tinh, thợ làm trắng trên trần gian không thể làm trắng được như thế.

4 và ông Êlia cùng với ông Môsê xuất hiện, và họ đang đàm đạo với Đức Giêsu,

5 Phêrô đáp trả, nói cùng Đức Giêsu: “Thầy ơi! Thật là tốt cho chúng ta khi ở đây, chúng con sẽ làm ba cái lều. Một cái cho Thầy một cái cho ông Môsê và một cái cho ông Êlia

6 Vì ông không biết phải đáp trả thế nào, vì họ rất kinh hãi.

7 Có một đám mây xuất hiện bao trùm lấy họ và một giọng nói xuất hiện từ trong đám mây: “đây là con yêu dấu của ta, hãy lắng nghe Người

8 Và bất thình lình, khi nhìn quanh, họ không thấy ai ngoại trừ một mình Đức Giêsu với họ.

9 Khi họ đang đi xuống núi, Người ra lệnh cho họ để họ không kể cho ai về điều họ đã thấy, ngoại trừ khi Con Người sống lại từ cõi chết.

10 và họ giữ chuyện đó và tiếp tục bàn luận giữa họ “sống lại từ cõi chết” nghĩa là gì.

Bối cảnh bản văn: Mc 9,2-10 nằm ngay sau tuyên bố của Đức Giêsu “có những người không nếm trải sự chết tước khi thấy triều đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực” (Mc 9,1) và câu hỏi về sứ vụ của ngôn sứ Êlia (9,11-12). Nó nằm giữa 3 lần tiền báo về cuộc thương khó của Đức Giêsu. Một cách cụ thể, Mc 9,2-10 nằm sau lời tiền báo về cuộc thương khó lần thứ nhất (Mc 8,31-33) và trước hai lần tiền báo về cuộc khổ nạn lần thứ hai (9,30-32) và thứ ba (10,32-34). Nó cũng nằm sau lời tuyên xưng của ông Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô” (9,29). Đoạn Tin Mừng này nằm trong bối cảnh thương khó và vinh quang trộn lẫn nhau. Chỉ trong vòng 3 chương (8,9,10), Đức Giêsu tuyên bố liên tục 3 lần về cuộc thương khó của Người. Cuộc biến hình có thể được xem là khoảnh khắc vinh quang. Thế nhưng nó cũng ẩn tàng nơi đó dấu hiệu của sự thương khó. Sự xuất hiện và đàm đạo của Môsê và Êlia rất có thể liên quan đến biến cố mà Đức Giêsu sắp trải qua tại Jêrusalem. Phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai ở đầu chương 8 cũng là một biểu hiện của vinh quang (8,1-10). Hơn nữa, ở trong bối cảnh này sự tuyên xưng, sự hiểu biết và sự lầm tưởng, sự ngu muội cũng là một đề tài nổi bật. Ngay sau lời tuyên xưng của Phêrô là hành động ngăn cản Đức Giêsu khi Người tiền báo cuộc thương khó lần thứ nhất. Hành động này của Phêrô khiến Đức Giêsu phải gọi ông là: “Satan” và lệnh cho ông phải “lui lại đằng sau thầy” (Mc 8,33a). Tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia là một tiến bộ của Phêrô, nhưng cách hiểu về Đấng Mêsia của ông thì lại chỉ là “cách nghĩ của loài người” (8,33b). Cùng với cách nghĩ mang hơi hám Satan của Phêrô là thói ham mề quyền chức của anh em Giacôbê và Gioan, những người cùng hiện diện trong cuộc biến hình này. Lời cầu xin “được ngồi bên hữu và bên tả của Thầy” được cất lên ngay sau khi Đức Giêsu tiền báo về cuộc thương khó lần thứ ba (Mc 10,35-40; Mt 20,20-23). Lại nữa, sau khi Đức Giêsu tiền báo cuộc thương khó lần thứ hai, Máccô ghi chú rằng “các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người” (9,32). Đã thế, trên đường đi các ông lại tranh cãi xem “ai là người lớn nhất” trong nhóm. Rõ ràng, Phêrô và các môn đệ cần thêm thời gian để hiểu như thế nào là Đấng Mêsia theo kế hoạch của Thiên Chúa. Hai phép lạ chữa lành người mù: tại Bétsaiđa (8,22-26) và tại Jêrikhô (10,46-52; cf. Mt 20,29-34; Lc 18,35-43) là hai biểu trưng cho sự khai sáng đức tin trong bối cảnh này. Người mù ở Bét-sai-đa đã bước hai bước trong tiến trình được chữa lành: từ “thấy người ta, như cây cối, họ đi đi lại lại” cho đến “khỏi hẳn” và “thấy tỏ tường mọi sự” (Mc 8,24). Người mù thành Jêrikhô thì được chính Đức Giêsu nhận định rằng: “lòng tin của anh đã cứu anh” và anh đã đáp trả bằng hành động “đi theo Người trên con đường Người đi” (Mc 10,52). Đây rõ ràng là điểm sáng của đức tin. Giữa sự mờ tối, ngu muội của các môn đệ là điểm sáng đức tin của những người khác.

Cấu trúc bản văn: Mc 2,2-10 khởi đầu bằng một trạng ngữ chỉ thời gian: “Sau sáu ngày”, và có sự thống nhất về nơi chốn, nhân vật, cũng như cốt truyện. Nơi chốn được xác định một cách không rõ ràng. Đó là một ngọn núi cao, còn núi tên gì, ở đâu thì không ai biết rõ. Số nhân vật là sáu, không kể tiếng nói từ trời (có thể là Chúa Cha): Đức Giêsu, 3 môn đệ (Phêrô, Giacôbê và Gioan), ngôn sứ Êlia, ông Môsê. Cốt truyện là cuộc biến hình của Đức Giêsu và cuộc đàm đạo với Êlia và Môsê. Phần kết thúc của bản văn được phụng vụ Chúa Nhật II Mùa Chay năm B chọn có phần không thỏa đáng. Đoạn Đức Giêsu biến hình có lẽ nên kết thúc ở Mc 9,8 bởi vì Mc 9,9 đã có sự thay đổi về không gian và một chủ đề khác được khởi xướng.[1] “Ở trên núi xuống” (9,9) đánh dấu cho sự thay đổi về không gian, và kết thúc không gian của cuộc “biến hình” trên núi. Và tại không gian trên núi xuống là một câu chuyện về “sự đến trước” của ngôn sứ Êlia (Mc 9,11).  Tuy nhiên, đoạn nói về cuộc “biến hình” này có thể kết thúc ở 9,10, với một cấu trúc khác: “Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn luận với nhau “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Khi đó cấu trúc của bản văn Mc 9,2-10 sẽ được đóng khung (incluso) về không gian: lên núi (9,2) và xuống núi (9,9-10). Xin đề xuất hai cấu trúc tương đối của Mc 9,2-10 như sau. Cấu trúc I sẽ được định dạng dựa trên nội dung của bản văn. Cấu trúc này bao gồm phần mở đầu và phần kết thúc. Phần mở đầu (9,2ab) giới thiệu về không gian, thời gian, nhân vật. Phần kết thúc (9,9-10): Mệnh lệnh “không kể cho ai điều đã thấy” và hạn định của mệnh lệnh này. Hạn định này cũng là một tiền báo về sự Phục Sinh. Phần ruột của cấu trúc một là một mô hình đồng tâm, với phần trung tâm là phản ứng của Phêrô và các môn đệ (D). Xoay quanh đó là những biến cố song song với nhau. Cuộc biến hình (B: 2c-3)// sự trở lại bình thường (B’: 9,8); các nhân vật đến từ trời cao (C: 9,4) // hành động từ trời cao (C’:9,7). Cấu trúc II được định hình theo không gian được nói đến trong bản văn. Đây cũng là một cấu trúc quy tâm. Với không gian trung tâm, nơi cuộc biến hình diễn ra, là “trên núi” (9,2c-8). Xoay quanh không gian “tâm” này là hai không gian đối nghịch nhau: “Lên núi”, nơi bối cảnh cuộc biến hình được giới thiệu (9,2ab) // “xuống núi”, nơi lệnh cấm và thời hạn của lệnh cấm được ban bố (9,9-10).

Cấu trúc I:

A.Mở đầu: Thời gian, không gian, nhân vật (9,2ab)

B. Cuộc biến hình (2c-3)

C. Người đến từ trời cao: Êlia và Môsê (9,4)

D. Phản ứng từ đất thấp: Phêrô và các môn đệ (9,5-6)

C.’Hành động từ trời cao: Tiếng nói từ đám mây (9,7)

B’.Trở lại bình thường (9,8)

A’.Kết thúc: Mệnh lệnh và tiền báo về sự Phục Sinh (9,9-10)

a.Lệnh cấm không được nói với ai (9,9a)

b.Giới hạn: “Trước khi con người từ cõi chết sống lại” (9,9b)

a’.Tuân lệnh cấm (9,10a)

b’.Bàn về giới hạn: Ý nghĩa “từ cõi chết sống lại” (9,10b)

Cấu trúc II:

A.Lên núi: Bối cảnh cuộc biến hình (9,2ab)

            B.Trên núi: Cuộc biến hình (9,2c-8)

A’.Xuống núi: Lệnh cấm và thời hạn của lệnh cấm (9,9-10)

Một số điểm chú giải

1.     Sau sáu ngày[2]: Cụm trạng từ chỉ thời gian rõ ràng là một chuyển mạch cho một trình thuật mới. Thế nhưng, “sau sáu ngày”, tính từ thời điểm nào hay sự kiện nào thì có vẻ không rõ ràng. Trước cụm từ chỉ thời gian này là tuyên bố củ Đức Giêsu: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có kẻ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực” (Mc 9,1). Phải chăng là “sau sáu ngày” tính từ thời điểm Đức Giêsu công bố điều này. Vậy thì, “sau sáu ngày” có lẽ có ý nghĩa gì đó nối kết với tuyên bố này. Lùi lại một chút nữa, trình thuật trước đó: Đức Giêsu tiền báo về cuộc thương khó lần thứ nhất (8,31-33). Phêrô can ngăn Thầy mình và bị gọi là Satan. Phải chăng “sau sáu ngày” được tính từ mốc thời gian này? Nó cũng có vẻ hợp lý, khi lời tiền báo về cuộc thương khó được tiếp nối bởi sự “biến hình” trong vinh quang. J. Marcus ghi nhận rằng, trong Tin Mừng Máccô những ghi chú về thời gian rất hiếm thấy và khi có sự ghi chú này thì nó thường khá mơ hồ (Vd: ‘trong những ngày’ nơi 1,9; 8,1; ‘ngày ấy’ nơi 4,35; hay là ‘nhiều ngày’ nơi 2,1). Chính vì thế, con số cụ thể “sáu ngày” có thể là có ý nghĩa biểu tượng đặc biệt nào đó. Ông trích dẫn quan niệm của một số thần học gia. Philo cho rằng số sáu là con số tượng trưng cho những vật hay chết, số bảy tượng trưng cho những điều, vật bất tử. Origen nối kết cụm trạng ngữ này với trình thuật về sự tạo dựng sáu ngày trong sách Sáng Thế, với đỉnh cao là ngày Sabát. Tuy nhiên, theo Marcus bối cảnh Thánh Kinh nền tảng là việc Môsê lên núi “sau sáu ngày” (Xh 24,16).[3] Lý giải này xem ra hợp lý trong bối cảnh chung của toàn bộ Thánh Kinh. Môsê được lệnh lên núi với Chúa để nhận “những bia đá: luật và mệnh lệnh” của Chúa (24,12). Khung cảnh cũng có mây và tiếng Đức Chúa gọi Môsê từ giữa đám mây (24,16). Rồi, “vinh quang Đức Chúa xuất hiện trên đỉnh núi” (24,17). Đức Giêsu cũng lên núi “sau sáu ngày” và cũng nhận “lời từ đám mây”, thể hiện vinh quang khi được biến hình. Foster McCurley cho rằng trạng ngữ “sau sáu ngày” là một thành ngữ Semit[4] trong đó hành động mang tính chất quyết định sẽ diễn ra vào ngày thứ bảy. A.Y. Collins – H.W. Attridge, có vẻ đồng ý với nhận định này.[5]

2.     Bộ ba: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Trước đó, Máccô đã cho độc giả biết rằng, Đức Giêsu đã gọi bốn môn đệ đầu tiên, gồm hai cặp anh em. Cặp Anrê – Simon và cặp Giacôbê – Gioan (1,16-20). Thế nhưng, chẳng hiểu sao Anrê dường như bị tách ra khỏi nhóm bốn Người. Khi liệt kê danh sách 12 Tông Đồ, khác với hai tác giả Tin Mừng Nhất Lãm còn lại (Luca và Mátthêu), Máccô tách Anrê ra phía sau tên của Giacôbê và Gioan.[6] Đức Giêsu dường như chỉ chọn cho mình nhóm 3 người đặc biệt trong nhóm 12 Tông Đồ. Không ai có thể giải thích cách rõ ràng dụng ý của Đức Giêsu. Người ta chỉ có thể thấy rằng bộ ba này xuất hiện riêng cùng với Đức Giêsu trong những biến cố quan trọng. Nhóm này còn xuất hiện hai lần khác nữa. Trong phép lạ “phục sinh” con gái ông trưởng hội đường Giaia (Mc 5,21-23.35-43). Trong phép lạ này, Đức Giêsu chỉ đem theo mình ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Trong Vườn Ghethsêmani, Đức Giêsu cũng làm tương tự (14,33). Trong cả ba biến cố này, điểm chung có lẽ là cuộc thương khó, cái chết, và sự phục sinh. Ba môn đệ này là vừa là chứng nhân, vừa là người theo đuổi tiến trình này cùng với Đức Giêsu. Trong bối cảnh trực tiếp độc giả có thể liên hệ đến nhân vật Phêrô vừa tuyên xưng “thầy là Đấng Kitô” (8,29) và cũng là người đã ngăn cản thầy mình nói về cuộc thương khó. Hậu quả là ông bị thầy trách mắng là “Satan” (8, 32-33). Tuy nhiên, ông cũng được Đức Giêsu gọi tên là Phêrô, nghĩa là đá, và “trên đá này, Thầy sẽ xây hội thánh của Thầy” (Mt 16,18). Giacôbê và Gioan là hai nhân vật xin Đức Giêsu được “ngồi bên tả và bên hữu”, ngay sau khi Đức Giêsu tiền báo về cuộc thương khó lần thứ ba (Mc 10,35-40). Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu gọi là “Boanerges” (Con của thần sấm). Giacôbê là Tông Đồ đầu tiên tử đạo thời vua Hêrôđê (Cv 12,2). Theo truyền thống, Gioan chính là “người môn đệ Chúa yêu” trong Tin Mừng thứ tư, và ông cũng chính là tác giả của Tin Mừng này. Trong bối cảnh trực tiếp này, ba nhân vật này chẳng có gì nổi bật, nếu không muốn nói là hình ảnh của họ không tốt cho lắm. Tuy vậy, họ là hình ảnh “đại diện” cho các môn đệ lúc bấy giờ.

3.     “Núi cao”: Hình ảnh “núi cao” có thể nhằm mục đích tách riêng giữa Đức Giêsu và nhóm bộ ba Tông Đồ như được diễn tả sau đó: “κατ᾽ ἰδίαν μόνους”. Máccô sử dụng hai tính từ kết hợp với một giới từ để diễn tả tình trạng của Đức Giêsu và 3 môn đệ: “Bởi chính họ, một mình”. Tuy vậy hình ảnh “núi cao” cũng gợi nhớ đến không gian của những cuộc thần hiện, nơi Thiên Chúa tỏ mình ra cho các ngôn sứ. Cuộc thần hiện cho ông Môsê và ban giao Ước trên núi Sinai là một ví dụ điển hình (Xh 24,12-18). Chính vì thế, Đức Giêsu cũng lên núi và cũng có một cuộc thần hiện đã xảy ra. Ngày nay trên đỉnh núi Tabo có một đền thờ hung vĩ gọi là Thánh Đường Biến Hình. Đền thờ này được hoàn thành năm 1924, được xây trên một tàn tích cổ có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ IV hoặc V và một nhà thờ khác được xây vào thế kỷ thứ 12, thời Thập Tự Chinh (1099-1291). Đây là thánh địa được truyền thống tin rằng nơi Đức Giêsu đã biến hình xưa kia. Tuy nhiên, nên nhớ rằng, đây không phải là ngọn núi duy nhất được đề xuất. Từ thế kỷ thứ tư, đã có những đề xuất như là núi Hermon[7], Carmel nữa.[8] “Núi cao” là nơi diễn ra những cuộc thần hiện, một hình thức thần linh tỏ mình ra cho dân của Người, và nói chuyện, mạc khải cho họ những điều quan trọng. Ý nghĩa thần học của ngọn núi được bản văn nhắm đến hơn là một vị trí địa lý cụ thể.

4.     “Biến đổi hình dạng”: Động từ “μετεμορφώθη” là thể thụ động, lối trình bày, thì aorist của động từ ghép μετα-μορφόω, Nghĩa là thay đổi μόρφωσις (vẻ bề ngoài), chuyển đổi mặc lấy hình dạng vinh quang trời cao[9]. Trong ba tác giả Tin Mừng Nhất Lãm chỉ có Mátthêu và Máccô dùng động từ này. Theo Luca, chuyện biến hình này xảy ta “trong khi Người cầu nguyện” và Luca dùng một tính từ (“khác”) cùng với động từ (“trở nên”) để diễn tả sự biến đổi về dung mạo của Đức Giêsu (dung mạo Người trở nên khác đi) (Lc 9,29). Thánh Phaolô dùng động từ này để diễn tả sự thay đổi cùng dạng thức (theo sự hoàn thiện của Đức Kitô) của các Kitô hữu nhờ Tin vào Đức Kitô, và nhờ Thần Khí (2 Cr 3,16-18). Trong thư gửi tín hữu Rôma, Phaolô cũng dùng động từ này để khuyên nhủ các tín hữu “hãy biến đổi con người anh chị em bằng cách làm mới lại tinh thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa, cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2).

5.     “Áo Người cực kỳ trắng sáng”: Sau khi nói rằng Đức Giêsu biến đổi vẻ bề ngoài. Máccô tập trung diễn ta cho động giả thấy Đức Giêsu biến đổi thế nào. Ông tập trung vào chiếc áo Đức Giêsu đang mặc. Chiếc áo cũng là biểu trưng cho con người. Kiểu như thành ngữ “y phục xứng kỳ đức”. Máccô dùng một tính từ chỉ “màu trắng” (λευκὰ) và một trạng từ chỉ “mức độ trắng” (λίαν), cùng với động từ “chiếu sáng” (στίλβοντα) để diễn tả độ sáng của chiếc áo này. Trạng từ “λίαν” có nghĩa là cực kỳ, mức độ cao nhất. Áo choàng Đức Giêsu chiếu sáng với mức độ trắng sáng cao nhất. Động từ “chiếu sáng” lại được dùng ở dạng hiện tại phân từ để diễn tả sự kéo dài của hành động. Sự chiếu sáng này kéo dài một khoảng thời gian đủ để các môn đệ thấy và quan sát chứ không phải vụt lên trong chốc lát. Có thể là Đức Giêsu được chiếu sáng như thế trong suốt cuộc đàm đạo. Để nhấn mạnh thêm “độ sáng của chiếc áo ấy”, Máccô còn dùng thêm một mệnh để theo cấu trúc phủ định: “Không một thợ giặt nào trên thế gian có thể “làm trắng” được như vậy. Mátthêu không có câu nhấn mạnh này. Mátthêu dùng lối so sánh nhẹ nhàng nhưng hình ảnh so sánh cũng khá mạnh mẽ “áo choàng Người trở nên trắng như ánh sáng” (Mt 17,2c). Tuy nhiên, Mátthêu lại tập trung vào mô tả gương mặt của Đức Giêsu: “Gương mặt Người chiếu sáng như mặt trời”. Nghĩa là, độ sáng gương mặt Đức Giêsu ở mức cao nhất, không ai có thể nhìn thẳng vào được. Rõ ràng, các tác giả Tin Mừng muốn tách biệt sự chiếu sáng thần linh với sự chiếu sáng bình thường của thế giới con người.

6.     “Êlia và Môsê”: Môsê và Êlia là hai nhân vật lẫy lừng của Cựu Ước. Môsê đại diện cho Luật. Năm cuốn sách đầu tiên của Thánh Kinh Do Thái được gọi là Tôrah (Lời Dạy, Luật). Năm cuốn này cũng được quy điển Kitô giáo nhận và thường gọi là Ngũ Thư, cũng xếp đầu tiên trong bộ Cựu Ước (Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số, Đệ Nhị Luật). Theo truyền thống, Môsê chính ta tác giả của năm cuốn sách này. Thế nhưng, trên thực tế, đây là tổng hợp của nhiều nguồn tài liệu, nhiều tác giá, qua nhiều thời. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của Môsê trên sách Torah này và truyền thống lâu dài mà nói đến ông thì người ta nghĩ ngay đến sách Torah này. Êlia là ngôn sứ lẫy lừng bậc nhất của thời Cựu Ước. Ông chiến thắng lẫy lừng trong cuộc chiến chống lại 450 sư sái thần Baan trên núi Các-men (1 V 18,20-40). Ông đi bốn mươi ngày đêm tới núi Khôrép và gặp gỡ Đức Chúa ở trên núi này (1 V 19,9-14). Ông không nếm trải sự chết và được đem đi trên một cỗ xe bằng lửa (2 V 2,1.11). Ông có thể là đại diện cho các ngôn sứ của thời Cựu Ước. Điều này dẫn đến cách giải thích quen thuộc nhất của sự ghép đôi Môsê – Êlia cách chung đại diện cho toàn bộ Thánh Kinh Cựu Ước. Môsê đại diện cho các sách Luật và Êlia đại diện cho các sách ngôn sứ. Cách hiểu này đã xuất hiện từ thời giáo phụ Ôrigen khi ông chú giải Tin Mừng Mt 12,38. Đức Giêsu thường hay đề cập đến “Luật và các Ngôn sứ” khi Người nói chung về Thánh Kinh (Mt 5,17; Lc 16,16; Ga 1,45). Cách giải thích này xem ra hợp lý và được nhiều nhà chú giải đón nhận. Tuy nhiên, theo J. Marcus, cách hiểu này cũng có những vấn đề của nó bởi vì Môsê cũng được xem là một ngôn sứ (Đnl 34,10). Ông ta được Philo và Josephus (hai sử gia Do Thái nổi tiếng nhất) đề cập thường xuyên như là “ngôn sứ”. Do vậy, rất khó để xem ông ta như là đại diện cho Luật, đối lại với các sách Ngôn sứ. Hơn nữa, Êlia là một nhân vật chứ không phải là tác giả sách ngôn sứ. Không có sách ngôn sứ Êlia. Do vậy, cũng rất khó để cho rằng ông biểu trưng cho sách Các Ngôn Sứ. Marcus đề xuất tính biểu trưng của sự xuất hiện Êlia và Môsê trên núi có thể nằm ở sự liên kết tương tự giữa núi Sinai và Khôrép, nơi cả hai cùng gặp gỡ Chúa (Xh 19-24,34; 1 V 19). Cách hiểu này nối kết với những hy vọng mang tính cánh chung. Theo những lời ngôn sứ Malakhia (4,5-6), ngôn sứ Êlia sẽ trở lại vào thời cánh chung và báo trước sự đến của đấng Mêsiah. Chính vì thế mà Gioan Tẩy Giả, người dọn đường được đồng hóa với Êlia. Môsê thỉnh thoảng cũng được nối kết với Đấng cánh chung, như là mẫu hình cho Đấng cứu độ cánh chung, như thể là “ngôn sứ như Môsê” (Đnl 18,15.18). Môsê đã hứa cùng dân Ítrael rằng: “Từ giữa anh chị em, trong số các anh chị em của anh chị em, Đức Chúa của anh chị em sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh chị em; anh chị em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18,15; cf. Đnl 18,18).[10] Trong cấu trúc của đoạn này (xem phần cấu trúc), sự xuất hiện của căp đôi Môsê – Êlia này sẽ song đôi với sự xuất hiện của “đám mây” và “tiếng từ trời”. Sự xuất hiện sau như là tổng kết và chứng nhận cho sự xuất hiện trước. Cũng là đến từ trời, nhưng rõ ràng, tiếng nói từ trời có thế giá hơn Môsê và Êlia. Sẽ có người thắc mắc là tại sao Êlia lại được nhắc tên trước Môsê, trong khi Môsê rõ ràng là có thế giá hơn Êlia? Heil giải thích rằng trong cấu trúc “X cùng với Y” (Êlia cùng với Môsê), được Máccô sử dụng, Y luôn là biểu tượng nổi bật hơn. Ông đưa ra hai ví dụ “những người xung quanh Người cùng với nhóm 12” (Mc 4,10) và “đám đông cùng với các môn đệ”.[11]

7.     “Đàm đạo với”: Nội dung cuộc đàm đạo không hề được nói đến. Nhưng mà theo bối cảnh của trình thuật về biến cố này (được trình bày phía trên, bối cảnh về thương khó), cuộc đàm đạo này rất có thể liên quan đến biến cố thương khó và Phục Sinh của Đức Giêsu. J.R. Donahue – D.J. Harrington cho rằng Êlia và Môsê đều là hai hình ảnh mang tính ngôn sứ, những người chịu đau khổ vì trung thành với Chúa.[12] Có lẽ chính vì thế mà họ hiện diện trong bối cảnh này để nói với Đức Giêsu về biến cố đau khổ mà Người sắp trải nghiệm. Trong bối cảnh trực tiếp, tiếp theo sau đoạn văn này, khi trả lời về chất vấn về sự “đến trước” của Êlia, Đức Giêsu sẽ ám chỉ đến số phận đau khổ của ngôn sứ Êlia (Mc 9,10-11). Qua cách diễn tả “có lời chép rằng Con Người phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê” … “ông Êlia đã đến và họ đã đối xử với ông theo ý họ muốn”, Đức Giêsu muốn ám chỉ đến cái chết của Gioan Tẩy Giả, người được xem là Êlia, đến để dọn đường cho Đấng Mêsia.

8.     “Dựng ba cái lều”: Động từ dùng để diễn tả phản ứng của Phêrô khá lạ lùng. Bản dịch Việt Ngữ và Anh Ngữ dường như bỏ qua động từ đầu tiên Máccô dùng để diễn tả hành động của Phêrô. Đó là động từ “trả lời”, dùng ở dạng phân từ, thì aorist, thể bị động (ἀποκριθεὶς). Bản Pháp Ngữ dịch là “intervenant” (can thiệp, xen vào) và bản Ý ngữ dịch là “Prendendo la parola” (cất lời). Rất khó để dịch là “trả lời” trong bối cảnh này, thế nhưng có thể dịch là “để đáp trả”. Nghĩa là “để đáp lại, đưa ra phản ứng” trước biến cố, cảnh tượng đang xảy ra. R. France nói rằng “Lời của Phêrô không phải là câu trả lời cho cho bất cứ lời nào đã được nói trước, nhưng cho toàn bộ cảnh tượng gây bối rối, trong đó các ông cảm thấy chính mình hoảng sợ.”[13] Trong nỗi sợ hãi của ông cũng như các môn đệ Phêrô, nói nhưng không biết mình đang nói gì. Khó có thể tìm thấy được sự chuẩn mực trong một câu nói phát xuất từ miệng của một người đang sợ hãi. Tuy vậy, lời nói bộc phát trong cơn sợ hãi lại có giá trị cao về tính chân thật vì nó phát xuất từ tiềm thức nào đó của con người. Sự phấn khích của Phêrô có thể không khó để hiểu. Trước cảnh tượng huy hoàng của thầy mình, cũng như sự xuất hiện của hai đại diện của thời Cựu Ước, ông có cảm giác sung sướng, lâng lâng không muốn họ rời đi.

9.     Ba cái lều: Lều trong thời Cựu Ước, trong văn hóa dân du mục là biểu trưng cho một sự ấm êm, định cư, trú ngụ. Ba người, dĩ nhiên là phải dựng 3 cái lều. Lều cũng nhắc độc giả đến nơi Chúa Ngự. Lều Hội Ngộ chính là nơi mà Hòm Bia Giao Ước hiện diện trong gian cực thánh, đó là trung tâm hiến tế (Lv 1,5; 3,2) và gặp gỡ của dân Ítrael trong thời Xuất Hành. Mây bao phủ Lều Hội Ngộ và vinh quang Thiên Chúa bao phủ lên Hòm Bia (Xh 40,34). Đó là nơi Thiên Chúa “gọi và nói với Môsê” (Lv 1,1). Thánh Gioan khi diễn tả mầu nhiệm nhập thể đã nói rằng: “Thiên Chúa đã trở nên xác phàm và cắm lều (ἐσκήνωσεν) giữa chúng ta” (Ga 1,14). Muốn cất lều cho 3 nhân vật, Phêrô một cách vô thức gợi lại hình ảnh Xuất Hành khi Chúa đồng hành cùng dân và nơi nào họ dừng chân, họ đều cất Lều Hội Ngộ ở giữa (Ds 10), và lều của các chi tộc được bố trí chung quanh (Ds 2,1 – 3,39). A.Y. Collins – H.W. Attridge ghi chú rằng trong thời cổ đại, cuộc thần hiện của một vị thần thường được kết hợp với một nền tảng cho một việc thờ cúng hay với việc cử hành một lễ hội. Đề xuất của Phêrô liên quan đến việc dựng ba cái lều là có thể hiểu được. Phêrô có thể đã đề xuất những sự thờ phượng dành cho ba vị thần linh xuất hiện nơi đó.[14] Theo cấu trúc của bản văn, phản ứng của Phêrô và các môn đệ là phần trung tâm, đối lại với hai sự xuất hiện của các nhân vật từ trời cao. Phêrô và hai môn đệ kia “kinh hãi” (ἔκφοβοι). Đây là tính từ được dùng một lần duy nhất trong các sách Tin Mừng và chỉ có Máccô dùng ở trong bối cảnh này để diễn tả cảm xúc của ba môn đệ. Mátthêu và Luca không ghi lại cảm xúc này. Mệnh đề “ông không biết trả lời thế nào” gợi nhớ đến bối cảnh trong vườn Ghetsemani, nơi Đức Giêsu bắt gặp các môn đệ đang ngủ khi Người trở lại lần thứ hai. Họ cũng “không biết phải trả lời sao với Người” (14,40).[15] Đây cũng là một trong những chi tiết liên kết biến cố biến hình với cuộc thương khó.

10.  “Tiếng từ trong đám mây”: “Tiếng từ trong đám mây” (ἐγένετο φωνὴ ἐκ τῆς νεφέλης) trong bối cảnh này không khỏi gợi nhớ đến “tiếng từ trời” (Mc 1,11) trong biến cố Đức Giêsu chịu Phép Rửa tại song Giođan. Rất có thể tiếng này là từ Chúa Cha. Đây là lần thứ hai cũng là lần cuối cùng Máccô ghi nhận tiếng nói “từ trong đám mây” hay “từ trời”. Mây rõ ràng là biểu tượng của sự hiện diện thần linh. Trong Xh 40,34-38, một đám mây bao phủ quanh Lều Hội Ngộ, nơi đầy với vinh quang của Đức Chúa. Vào lúc cung hiến đền thờ tại Jêrusalem “một đám mây lấp đầy nhà của Đức Chúa (1 V 8,10-11).[16] Đám mây dĩ nhiên là biểu hiện của mô thức thần hiện trong truyền thống Cựu Ước (Xh 13,21-22; 33,9-10). R. France cho rằng những âm hưởng ở đây diễn tả một cách cụ thể những trình thuật tại núi Sinai: đám mây xuất hiện (Xh 19,6; 24,15-16) và tiếng của Chúa nói từ trong đám mây (Xh 19,9; 24,16; 24,18 – 25,1). Xh 19,9 rất tương tự bối cảnh Biến Hình này khi Đức Chúa dặn Môsê rằng: “Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây dày đặc, để dân chúng có thể nghe khi ta nói với người mà tín thác vào ngươi từ nay về sau”.[17] Ở đây, có lời nói từ đám mây và có lời căn dặn “hãy vâng nghe lời Người”.

11.   “Đây là con yêu dấu của ta”: Dù là “Tiếng từ trời” trong biến cố chịu Phép Rửa hay là “tiếng từ trong đám mây” trong biến cố biến hình, câu giới thiệu về Đức Giêsu là như nhau, “đây là con yêu dấu của ta”. Trong bối cảnh Phép Rửa, “tiếng từ trời” nói trực tiếp với Đức Giêsu, giữa cái nhìn và lắng tai của dân chúng. Tiếng ấy dùng đại từ ngôi thứ hai (con, you) để gọi Đức Giêsu. Trong bối cảnh Biến Hình, “tiếng từ đám mây” giới thiệu với các môn đệ hiện diện về Đức Giêsu. Đại từ được dùng ở đây là đại từ chỉ định (đây là, this is). Lời giới thiệu này nối kết Mc 1,11 và Mc 9,7 vì chúng đồng hóa Đức Giêsu như là Con Thiên Chúa vào đầu sứ vụ tại Galilê và đầu hành trình lên Jêrusalem. Cả hai đều hướng đến lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng khi Đức Giêsu trút hơi thở trên thập giá: “quả thật người đàn ông này là Con Thiên Chúa” (15,39).[18] Lời tuyên xưng này là câu kết mãn nguyện cho mạc khải của Tin Mừng Máccô. Máccô khởi đầu Tin Mừng bằng cách giới thiệu trực tiếp Đức Giêsu là Con Thiên Chúa: “khởi đầu của Tin Mừng Của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1). Chúng ta thấy có sự tiến triển trong sự mạc khác thần tính của Đức Giêsu trong Tin Mừng Máccô. Đặc tính “Con Thiên Chúa” được mạc khải cách tiệm tiến. Từ lối nói trực tiếp với Đức Giêsu, đến nói với nhóm “bộ ba môn đệ”, đến lời tuyên xưng của một người ngoài nhóm các môn đệ và cũng ngoài Do Thái nữa, một người lính Rô-ma. Danh hiệu “Con yêu dấu” được dùng 3 lần trong Tin Mừng Máccô. Hai lần dành cho Đức Giêsu (Mc 1,11 và Mc 9,7) và một lần Đức Giêsu dùng để kể dụ ngôn “tá điền sát nhân” (Mc 12,1-12), trong đó “người con yêu” của người chủ vườn nho được sai đến cuối cùng để thu hoa lợi từ vườn nho, nhưng anh ta đã bị bắt, bị giết và bị quăng ra khỏi vườn nho. Kết thúc dụ ngôn ấy, Máccô ghi chú: “họ tìm cách giết Đức Giêsu, nhưng lại sợ dân chúng” (12,12). Rõ ràng, có sự nối kết giữa “người con yêu” và số phận bi đát của cậu: bị bắt, giết, quăng ra ngoài. Đó là hình ảnh và số phận của “người con yêu”, Giêsu. Hình ảnh “Người con yêu” cũng khiến người ta nhớ đến câu chuyện Abraham “bị” Chúa mời gọi dâng chính con một của mình làm hy lễ. Trong tường thuật ấy, I-xa-ác cũng được Chúa gọi là “người con yêu quý” của Abraham: “Hãy mang người con trai, người yêu dấu, người mà người yêu nhất” (λαβὲ τὸν υἱόν σου τὸν ἀγαπητόν ὃν ἠγάπησας) (St 22,2).[19]

12.  “Hãy lắng nghe Người”: Đây là mệnh lệnh, lời mời gọi của “tiếng từ đám mây”. Khác với Mc 1,11 sau khi tuyên bố “con là con yêu của ta” tiếng từ trời tiếp tục “nơi con ta hài lòng”, ở đây, “tiếng từ đám mây” dùng ở mệnh lệnh cách, ngôi thứ hai số nhiều: “các ngươi, hãy nghe người”. Động từ được dùng là “lắng nghe” (listening) chứ không phải là “nghe” (hearing). Động từ này bao hàm cả sự vâng lời, và làm theo chỉ dẫn của người “con yêu dấu” này. Bản dịch Việt ngữ có thêm chữ “lời”: “hãy vâng nghe lời Người” (CGKPV), trong khi các bản dịch Pháp Ngữ, Ý Ngữ và Anh Ngữ chỉ dùng đại từ ngôi thứ ba số ít (Người, anh ấy, him).[20] Các bản dịch này sát với bản văn gốc tiếng Hy Lạp hơn (ἀκούετε αὐτοῦ). “Lắng nghe Người” có nghĩa rộng hơn. Nó không giới hạn trong “lời” giảng của Đức Giêsu mà thôi, nhưng còn là các hành vi, cử chỉ của Người. Nói chung, phải xem cả con người Đức Giêsu như là gương mẫu. Trong bối cảnh này, điều mà các môn đệ phải “vâng nghe” là biến cố thương khó và Phục Sinh mà Đức Giêsu đã và đang tiền báo đến ba lần. Trong bối cảnh của toàn Tin Mừng, các môn đệ phải “vâng nghe” toàn bộ giáo huấn của Đức Giêsu, toàn bộ hành động của Người, và nhất là cái chết và sự Phục Sinh của Người. Mệnh lệnh “Hãy vâng nghe Người” âm vang lời hứa của Môsê với dân bên bờ sông Gio-đan: “Đức Chúa sẽ cho xuất hiện trong dân của anh chị em một vị ngôn sứ giống như tôi, anh chị em sẽ nghe vị ngôn sứ ấy” (Đnl 18,15).[21] Đức Giêsu dĩ nhiên hơn cả một vị ngôn sứ, bởi vì Người là “con yêu dấu” của Chúa Cha.

13.  Sống lại từ cõi chết”: Đoạn 9,9-10 có cấu trúc rất chặt chẽ (xem phần cấu trúc). Lệnh cấm đi song đôi với việc tuân theo lệnh cấm và giới hạn lệnh cấm cũng song song với việc các môn đệ bàn thảo về giới hạn ấy. Đức Giêsu hoàn toàn im lặng từ đầu cho đến bây giờ. Điều Người mở miệng nói với các môn đệ lại là một lệnh cấm triệt để. Họ phải giữ kín điều vừa thấy. Lệnh cấm “không được nói cho ai” rất thường thấy trong Tin Mừng Máccô. Lệnh này xuất hiện lần đầu tiên dành cho quỷ trong Hội Đường Ca-phác-na-um (1,25). Sau đó Đức Giêsu lại “cấm quỷ nói vì chúng biết Người” (1,34). Người cũng nghiêm cấm gay gắt người bệnh phong được chữa lành: “không được nói với bất kỳ ai về bất cứ điều g” (1,42). Ở đây Đức Giêsu ra lệnh cấm các môn đệ tiết lộ điều họ đã chứng kiến. Họ chỉ thấy vinh quang của Đức Giêsu, nhưng không nghe được cuộc thảo luận giữa Đức Giêsu cùng với Êlia và Môsê. Cuộc thảo luận đó rất có thể là cuộc thảo luận về cuộc thương khó Người sắp bước vào. Luca nói rất rõ về cuộc thảo luận này: “họ nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Jêrusalem” (Lc 9,31). Luca còn ghi chú thêm: “Phêrô và đồng bạn đang ngủ mê mệt” (9,32). Giấc ngủ mê mệt này rõ ràng kéo dài mãi cho đến trong Vườn Cây Dầu. Điều mà Phêrô và các bạn đồng môn thấy là đúng, và tốt, nhưng không trọn vẹn. Họ đã không nghe được điều rất quan trọng mà Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại đến ba lần trong bối cảnh rộng của đoạn Tin Mừng này (xem phần bối cảnh bản văn). Lệnh cấm lần này của Đức Giêsu khác các lần khác là vì nó có giới hạn: “trừ khi Con Người từ cõi chết sống lại” (Mc 9,9). Đây là một mạc khải hết sức quan trọng. Nó đề cập đến mầu nhiệm cốt yếu trong hành trình cứu độ của Đức Giêsu. Chờ cho đến khi “Con người chỗi dậy từ cõi chết” nghĩa là chờ cho đến khi Đức Giêsu đi đến bước cuối cùng của hành trình Thương Khó – Phục Sinh. Đến lúc đó các môn đệ chắc chắn cũng đã nhìn thấy hành trình khổ nạn của Chúa, chứ không chỉ nhìn thấy ánh vinh quang như trong cảnh Biến Hình. Cuộc biến hình trọn vẹn là cuộc biến hình trên đồi Golgotha. Sau cuộc biến hình trên đồi sọ (sự phục sinh) Phêrô và các môn đệ mới được và nhất thiết phải công bố cho mọi người.

14.  “Tiếp tục bàn luận”: Đoạn Tin Mừng được đóng lại bằng hành trình xuống núi của các môn đệ cùng với Đức Giêsu. Đó là hành trình trở về với đời thường, tiếp tục hành trình lên Jêrusalem. Bỏ lại những hình ảnh vinh quang trên “núi cao”, các môn đệ mang theo mình thắc mắc “chỗi dậy từ cõi chết” nghĩa là gì. Thắc mắc này được diễn tả bằng động từ chia ở dạng hiện tại phân từ, số nhiều “họ đang bàn luận” (συζητοῦντες). Các môn đệ vẫn tiếp tục bàn luận, tìm hiểu về mầu nhiệm này không những suốt chặng đường xuống núi mà còn suốt chặng đường lên Jêrusalem, mãi cho đến sau khi Đức Giêsu Phục Sinh.

Bình luận

Tiếp theo sau cuộc hành trình chịu cám dỗ của Đức Giêsu trong sa mạc (CN I MC), Phụng vụ Chúa Nhật II Mùa Chay năm B, dẫn đưa các Kitô hữu lên núi với Chúa Giêsu. Mốc thời gian của cuộc hành trình này được xác định là “sau sáu ngày”. “Sau sáu ngày” đó cũng rất có thể là khoảng thời gian sau khi Đức Giêsu tiền báo về Cuộc Thương Khó lần thứ nhất và Phêrô đã phản ứng dữ dội (Mc 8, 31-32). Là khoảng thời gian sau khi Đức Giêsu dạy các môn đệ về mầu nhiệm thập giá: “ai muốn theo tôi hãy từ bỏ mình, vác thập giá của mình hằng ngày mà theo” (8,34). Núi đó là núi nào thì không ai rõ. Máccô chỉ cho độc giả biết rằng đó là một ngọn “núi cao”. Theo truyền thống, đó là núi Tabo, Hermon, hoặc Cácmen. Núi cao là hình ảnh biểu tượng cho những cuộc thần hiện. Đó là nơi Thiên Chúa gặp các vị ngôn sứ và qua họ Người sẽ nói với dân Người. Đó là trường hợp thần hiện của Chúa với Môsê trên núi Sinai trong hành trình Xuất Hành. Đó là trường hợp gặp gỡ Chúa của ngôn sứ Êlia trên núi Khôrép sau khi ông hành trình 40 ngày đêm để chạy trốn hoàng hậu Isabel. Những cảnh tượng mây trời bao phủ cũng là một yếu tố rõ nét của những cuộc thần hiện. Sự Xuất hiện của Môsê và Êlia từ trời cao. Đây là hai vị ngôn sứ thời Cựu Ước đã từng hiện diện trong những cuộc thần hiện thời Cựu Ước. Sự xuất hiện của tiếng nói “từ đám mây” càng âm vang, tô đậm khung cảnh của một cuộc thần hiện. Họ đến để bàn luận với Đức Giêsu về “cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành tại Jêrusalem”. Đức Giêsu đã tiền báo về mầu nhiệm này, và Người còn báo lại đến hai lần nữa. Ba lần, một mật độ dày đặc trong 3 chương liên tiếp của Tin Mừng Máccô (8,9,10), vẫn không làm cho các môn đệ lưu ý và hiểu được. Cuộc biến hình chắc hẳn là một sự chuẩn bị cho cả Đức Giêsu và các môn đệ trên hành trình lên Jêrusalem. “Núi cao” có thể có giá trị biểu tượng như là đỉnh cao, chóp đỉnh của Tin Mừng Máccô. “Núi cao” cũng là điểm mốc, mấu chốt giữa hai giai đoạn trong hành trình dương thế của Đức Giêsu: “hành trình sứ vụ tại Galilê và cuộc Vượt Qua tại Jêrusalem. Đoạn Mc 9,2-10 như là cầu nối quan trọng giữa hai biến cố này.[22] “Núi cao” là nơi các môn đệ nhìn thấy vinh quang rạng ngời của Đức Giêsu. Là nơi mà Đức Giêsu được giới thiệu cách long trọng là “Con yêu dấu”; cũng là nơi các môn đệ lãnh nhận mệnh lệnh “hãy vâng nghe Người” (Đức Giêsu). Ngay lập tức điều mà Đức Giêsu muốn các môn đệ phải nghe là: “Không được nói với ai về điều họ đã thấy” (9,9). Tuy nhiên, lệnh cấm ấy lại không đóng lại vĩnh viễn, nhưng được mở ra thênh thang một khi “Con Người từ cõi chết chỗi dậy”. Các môn đệ phải tạm thời quên chuyện vinh quang ấy. Và quả thật việc chứng kiến vinh quang biến hình ấy, không giúp cho các môn đệ đủ sức để đồng hành cùng Đức Giêsu trên hành trình thập giá. Tuy nhiên, họ được mời gọi tiếp tục suy niệm, học hỏi về mầu nhiệm “chỗi dậy từ cõi chết” trên hành trình theo Chúa. Điều căn bản mà họ phải nhớ là: Đức Giêsu chính là người “con yêu dấu” và họ phải “vâng nghe Người” trong mọi sự: lời Người dạy, việc Người làm, đau khổ thập giá Người trải qua, và vinh quang Phục Sinh Người sẽ đạt đến. Các môn đệ không được công bố “vinh quang Biến Hình”, cũng không được dừng lại trên “núi cao” nơi họ thấy tốt vì có “Chúa biến hình” và “Môsê và Êlia”. Họ được mời gọi phải lắng nghe cuộc đàm đạo giữa Giêsu, Môsê và Êlia. Họ phải chia sẻ và đi vào nội dung của cuộc đàm đạo ấy. Đó là cuộc thương khó của Đức Giêsu. Theo Chúa rồi sẽ đến vinh quang, nhưng vinh quang đích thực của cuộc đời theo Chúa là vinh quang trên “Núi Sọ”, chứ không phải vinh quang trên “núi cao”, nơi Chúa biến hình”.

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD

 



[1] J.R. Donahue – D.J. Harrington chọn kết thúc bản văn này ở 9,13, nghĩa là thêm 3 câu nữa [J.R. Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2005) 267].

[2] Nên nhớ rằng đây là khoảng thời gian mà cả Mác-cô và Mát-thêu đều đồng ý (Mt 17,1), nhưng Luca thì khác. Theo Luca, không phải “sau sáu ngày” mà khoảng chừng “sau tám ngày” (Lc 9,28).

[3] J. Marcus, Mark 1-8. A New Translation with Introduction and Commentary (AYBC; New Haven – London 2008) 27A, 613.

[4] Sê-mít dùng để gọi nhóm người, nền văn hóa, ngôn ngữ (Ả Rập, Do Thái, Samari, Assiria…). Nó phát xuất từ tiếng Do Thái Sêm (שם). Sêm là một trong những người con của ông Nô-e được nói đến trong sách Sáng Thế, đặc biệt là đoạn nói về Lụt Hồng Thủy (St 6 – 9).

[5] A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark. A Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007)

[6] Có một điều khá ngạc nhiên là: Trong danh sách 12 Tông Đồ theo thánh Máccô, Anrê được xếp sau Simon, Giacôbê và Gioan (Mc 3,16-18). Sách Công Vụ Tông Đồ cũng đặt Anrê sau như là Máccô (Cv 1,13). Theo Mátthêu, Simon, người được gọi là Phêrô, Anrê, anh em của ông, Giacôbê, con của ông Dêbêđê, và Gioan, người anh em của ông (Mt 10,2). Thứ tự 4 người Tông Đồ đầu tiên trong danh sách của Luca cũng tương tự như Mátthêu: Simon, Anrê, Giacôbê, Gioan. Theo Tin Mừng Gioan, Anrê thậm chí được đến và xem nơi Chúa ở trước Phêrô. Chính ông đã giới thiệu Đức Giêsu cho người anh em của mình là Phêrô (Ga 1,35-42). Trong trình thuật Đức Giêsu tiền báo về sự sụp đổ của đền thờ, Máccô cũng là tác giả Tin Mừng Nhất Lãm duy nhất gom Anrê với bộ ba này vào nhóm bốn người đặt câu hỏi với Đức Giêsu: “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy xảy ra, và khi tất cả đến hồi chung cục thì cò điềm gì báo trước?” (Mc 13,4). Luca chỉ dùng đại từ ngôi thứ ba số nhiều “họ”, còn Mátthêu dùng danh từ chung “các môn đệ” (Mt 24,1-3; Lc 21,5-6).

[7] D. Mangum (ed.), Lexham Context Commentary: New Testament (LCC; Bellingham 2020) Mk 9:1-8.

[8] J.R. Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark, 268.

[10] J. Marcus, Mark 1-8. A New Translation with Introduction and Commentary (AYBC; New Haven – London 2008) 633.

[11] J.P. Heil, “A Note on ‘Elijah with Moses’ in Mark 9,4.” Bib 80 (1999) 115.

[12] J.R. Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark, 269.

[13] R.T. France, The Gospel of Mark: a commentary on the Greek text (NIGTC; Grand Rapids 2002) 353.

[14] A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark, 418-419.

[15] J. Marcus, Mark 1-8, 633.

[16] J.R. Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark, 270.

[17]  R.T. France, The Gospel of Mark, 355.

[18] J.R. Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark, 271.

 

[19]C.A. Evans, Mark 8:27-16:20 (WBC; Dallas 2002) 34B, 38.

[20] Écoutez-le (TOB); listen to him (ESV); ascoltatelo (CEI).

[21] R.T. France, The Gospel of Mark, 355.

[22] C.A. Evans, Mark 8:27-16:20, 38.

Thursday, 18 February 2021

CHÚA CHỊU THỬ THÁCH. Chú giải Tin Mừng CN I MC B (Mc 1,12-15); Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD

CHÚA CHỊU THỬ THÁCH. Chú giải Tin Mừng Chúa Nhật thứ I Mùa Chay năm B (Mc 1,12-15)

Bản Văn và dịch sát nghĩa

Việt

Hy Lạp

12 Và ngay lập tức Thần Khí đẩy Người vào trong sa mạc.

13 Và Người ở trong sa mạc bốn mươi ngày chịu cám dỗ bởi Satan, và Người ở đó với thú hoang, và các thiên sứ phục vụ Người.

14 Sau khi ông Gioan bị nộp Đức Giêsu đến vào miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa

15 Và nói rằng “thời kỳ đã hoàn tất và Nước Thiên Chúa đã đền gần: ‘hãy hoán cải và Tin vào Tin Mừng”

12 Καὶ εὐθὺς τὸ πνεῦμα αὐτὸν ἐκβάλλει εἰς τὴν ἔρημον.

 13 καὶ ἦν ἐν τῇ ἐρήμῳ τεσσεράκοντα ἡμέρας πειραζόμενος ὑπὸ τοῦ σατανᾶ, καὶ ἦν μετὰ τῶν θηρίων, καὶ οἱ ἄγγελοι διηκόνουν αὐτῷ.

 14 Μετὰ δὲ τὸ παραδοθῆναι τὸν Ἰωάννην ἦλθεν ὁ Ἰησοῦς εἰς τὴν Γαλιλαίαν κηρύσσων τὸ εὐαγγέλιον τοῦ θεοῦ

 15 καὶ λέγων ὅτι πεπλήρωται ὁ καιρὸς καὶ ἤγγικεν ἡ βασιλεία τοῦ θεοῦ· μετανοεῖτε καὶ πιστεύετε ἐν τῷ εὐαγγελίῳ. (Mk. 1:12-15 BGT)

 

Bối cảnh phụng vụ

Chúa Nhật đầu tiên của năm Chúa Nhật của Mùa Chay Thánh. Mùa Chay Thánh kéo dài 40 ngày được khởi đầu bằng ngày thứ tư Lễ Tro. Trong tiếng Latinh, Mùa Chay được gọi theo chu kỳ 40 mươi ngày chay tịnh. “Quadragesima” có nghĩa là “bốn mươi”. Đây là Mùa ân phúc để tất cả những người Kitô hữu, những người ý thức mình là tội nhân, hoán cải đời sống mà trở về với Chúa. Đây là thời gian để các Kitô hữu nhìn lại căn tính và cùng đích của đời mình cũng như nhìn thấy rõ con người mình để rồi biến đổi cho phù hợp với căn tính và cùng đích của đời mình. Căn tính của mỗi Kitô hữu chính là: họ là con cái Thiên Chúa và cùng đích của đời họ là tìm về với cội nguồn của mình. Tìm về với cội nguồn bằng cách lắng nghe tiếng Chúa để thay đổi luôn luôn và để làm cho mình ngày càng nên giống Chúa hơn. Thân phận con người là bụi tro và sẽ trở về bụi tro. Thế nhưng, trở về bụi tro không có nghĩa là con người ra tro ra bụi, nhưng là chính lúc con người đối diện và gặp gỡ chính Thiên Chúa là cha của mình. Thân xác con người sẽ được biến đổi, và được hưởng một đời sống mới với Chúa và với những người thân thương của mình một cách hạnh phúc. Thân xác ấy, con người mới ấy không chỉ bắt đầu sau khi chết nhưng được khởi sự ngay ngày hôm nay, khi mọi tội lỗi, mọi thói hư tật xấu được loại bỏ. mọi sai lầm được sửa đổi. Hơn nữa, một quả tim cũ bằng đá sẽ được thay đổi bằng một quả tim bằng thịt, biết yêu thương người khác hết mình.

Truyền thống ăn chay đã được nói đến nhiều trong Thánh Kinh Cựu Ước. Người đầu tiên ăn chay phải kể đến là ông Môsê. Trong bối cảnh Chúa ban mười điều răn cho Ông lần thứ hai, vì lần thứ nhất hai bia đá ghi Mười Điều Răn đã bị đập bể do dân đúc và thờ con bê bằng vàng (Xh 32,15-20; Đnl 9,9). “Ông Môsê đã ở trên núi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm không ăn, không uống và ông viết lên những tấm bia đá những điều khoản của Giáo Ước, tức là thập điều” (Xh 34,28). Dân Do Thái cũng được dạy là phải ăn chay và kiêng việc xác trong Ngày Xá Tội, ngày mùng mười tháng bảy (Lv 23,27). Trong trận chiến với Bengiamin tại Bếtel, khi dân Ísrael thua trận, họ cũng ăn chay (Tl 20,26). Vua Đavít đã ăn chay nhiệm nhặt và nằm dưới đất sau khi ngôn sứ Nathan phân xử ông vì lý do vua giết chết tướng Urigia và cướp vợ của ông này (2 Sm 12,16.21-23). Trước sắc chỉ tiêu diệt dân Ísrael của vua Asuêrô, ông Moocđokhai đã xé áo mình ra, mặc bao bị và rắc tro trên mình, còn dân Do Thái cũng “ăn chay, khóc lóc, than van. Họ nằm trên tro, trên bụi và mặc bao bị” (Et 4,1-3). Còn rất nhiều bản văn Cựu Ước nói đến việc ăn chay của dân Ísrael.[1] Tiếp tục truyền thống Cựu Ước, Tân Ước cũng ghi lại rất nhiều lời dạy về việc ăn chay. Nhiều nhất có lẽ là Tin Mừng Mátthêu (4,2; 6,16-18; 9,14-15; 15;32; 17,21). Tác giả Máccô nói đến việc ăn chay 3 lần (2,18-20; 8,3; 9,29). Tương tự, Luca cũng nói đề cập đến 3 lần (2,37; 5,33-35; 18,2). Sách Công Vụ Tông đồ cũng nhiều lần đề cập đến chuyện ăn chay (9,9; 10,30; 13,2; 24,23; 27,9.33). Thánh Phaolô cũng nói đến việc ăn chay trong hai thư gửi cho tín hữu Côrintô (1 Cr 7,5; 2 Cr 6,5; 11,27).

Bối cảnh đoạn Tin Mừng

Theo chu kỳ phụng vụ về cách chọn các đoạn Tin Mừng cho Thánh Lễ Chúa Nhật, năm nay năm B, phụng vụ chọn đọc Tin Mừng Máccô (Mátthêu năm A và Luca năm C). Đoạn Tin Mừng Mc 1,12-15 nằm tiếp theo sau đoạn Chúa Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Giorđan bởi tay của Gioan (Mc 1,9-11). Trong biến cố Đức Giêsu chịu Phép Rửa có sự xuất hiện của Thần Khí, dưới hình chim bồ câu, và có tiếng từ trời phán rằng: “Con làCon yêu của ta, nơi Con, Ta hài lòng” (Mc 1,11). Cũng chính Thần Khí ấy, trong trình thuật này, dẫn Đức Giêsu vào sa mạc để chịu cám dỗ và rất có thể, việc chịu cám dỗ của Đức Giêsu cũng biểu lộ sự hài lòng của Chúa Cha (tiếng từ trời). Đoạn văn này được nối tiếp bởi đoạn văn Đức Giêsu mời gọi bốn môn đệ đầu tiên: Simon, Anrê, Giacôbê và Gioan (Mc 1,16-20).

Cấu trúc

Mc 1,12-15, tuy chỉ có có vọn vẹn 4 câu nhưng lại là sự nối kết bởi hai sự kiện khác nhau và nhiều khi không liền mạch về mặt thời gian lịch sử. Mc 1,12-13 là trình thuật về việc Đức Giêsu chịu cám dỗ, trong khi đó Mc 1,14-15 lại giới thiệu về việc Đức Giêsu khai mạc sứ vụ rao giảng và lời rao giảng đầu tiên và căn bản của Đức Giêsu. Tin Mừng Máccô là vậy. Đó là Tin Mừng ngắn nhất (16 chương, so với Mátthêu 28 chương, Luca 24 chương và Gioan 21 chương), và các sự kiện trong Tin Mừng Máccô luôn luôn ngắn gọn và dồn dập như thế. Cấu trúc của đoạn này khá rõ ràng gồm hai phần chính và chi tiết từng phần. Phần A là sự kiện Đức Giêsu chịu cám dỗ. Phần này có thể chia thành bốn tiểu phần. a.1 là phần giới thiệu địa điểm (hoang địa) và tác nhân của việc Đức Giêsu vào hoang địa (Thần Khí). Phần a.2 nói về khoảng thời gian Đức Giêsu ở trong đó (40 ngày). A.3 diễn tả mục đích của việc Đức Giêsu vào hoang địa (chịu cám dỗ). Và cuối cùng là sự hỗ trợ từ trời cao dành cho Đức Giêsu (các thiên sứ phục vụ Người). Phần B là phần giới thiệu tổng quát về sự kiện Đức Giêsu khai mạc sứ vụ rao giảng. Phần này có thể có hai tiểu phần. b.1 là câu giới thiệu về thời gian, địa điểm, nhân vật, hành động. Thời gian: Sau khi Gioan bị nộp; Địa điểm: Vùng Galilê; Nhân vật: Đức Giêsu; Hành vi: Rao giảng. b.2 là nội dung lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu: “Thời kỳ đã mãn và Nước Thiên Chúa (triều đại Thiên Chúa) đã đến gần: ‘anh chị em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng’”.

 A. Đức Giêsu chịu cám dỗ (1,13-14)

a1. Địa điểm, tác nhân, nơi chốn (1,13)

a2. Thời gian (1,14a)

a3. Mục đích (1,14b)

a4. Sự hỗ trợ (1,14c)

B. Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng (1,14-15)

b1. Giới thiệu: thời gian, địa điểm, nhân vật, hành vi (1,14)

b2. Nội dung lời rao giảng của Đức Giêsu (1,15)

Một số điểm chú giải

1.     Thần Khí: “τὸ πνεῦμα” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là: hơi thở, gió, khí, linh hồn, tinh thần. Chữ này có mạo từ xác định đằng trước để chỉ một ngôi vị cụ thể. Khi chuyển ngữ qua các ngôn ngữ hiện đại, danh từ này đều được viết hoa và có mạo từ xác định, muốn diễn tả Ngôi Ba Thiên Chúa.[2] Tiếng Việt là Thần Khí (CGKPV). Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong nguyên ngữ chữ này không bao gồm chữ “thần”, mà chỉ đơn thuần là “khí”, “gió”, hay là “hơi thở”. Tác giả bản dịch Việt Ngữ thêm chữ “Thần” có lẽ nhằm xác định đó là một ngôi vị Thiên Chúa. Thần Khí này vừa xuất hiện trước đó trong trình thuật về Đức Giêsu chịu Phép Rửa. Máccô dùng tất cả 25 lần danh từ “πνεῦμα”. Lần đầu tiên, danh từ này được Gioan dùng khi giới thiệu phép rửa của “Đấng đến sau”: “Tôi đã rửa anh chị em trong nước, nhưng Người sẽ rửa anh chị em với Thánh Thần” (Mc 1,8). Ở đây có tính từ “thánh” (ἁγίῳ) đi kèm. Nếu dịch sát nghĩa phải là “Thánh Khí”/ “hơi thở thánh”, (holy Spirit) chứ không phải là Thánh Thần. Danh từ πνεῦμα” cũng được dùng với mạo từ bất định để chỉ một “thần ô uế” (an unclean spirit) (1,23.26; 5,2.8; 7,25), thần câm điếc (9,17.20.25) hoặc với mạo từ xác định để chỉ nhiều “thần ô uế” (1,27; 3,11; 3,30; 5,12.13; 6,7). “πνεῦμα” cũng diễn tả tâm hồn, hay phần bên trong của Đức Giêsu (2,8; 8,12). Tội phạm đến Thánh Thần sẽ không bao giờ được tha thứ (3,29). Đavít nhờ Thánh Thần đã công bố: “Đức Chúa nói cùng Chúa tôi ‘hãy ngồi bên tay hữu tôi, cho đến khi tôi đặt kẻ thù của con dưới chân ngươi” (12,36). Thánh Thần sẽ nói trong các môn đệ khi họ bị đưa ra tòa hoặc bị trao nộp (13,10-11). Vai trò của Thần Khí trong sứ vụ của Đức Giêsu rất quan trọng. Hai biến cố đầu tiên trong sứ vụ công khai của Người, Thần Khí không thế vắng bóng, là biến cố chịu Phép Rửa và chịu cám dỗ. Trong cả hai biến cố ấy Thần Khí đều có mặt. Tác giả Luca còn diễn tả cách cụ thể hơn về tác động của Thần Khí, qua lời xác nhận của chính Đức Giêsu, khi Người đọc sách Isaia, đoạn nói về sứ vụ của Đấng Mêsia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ đã được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,14).

2.     Đẩy Người vào hoang địa (ἐκβάλλει εἰς τὴν ἔρημον): Nếu như trong trình thuật về Đức Giêsu chịu phép rửa Thánh Thần chỉ ngự xuống trên Người như hình chim bồ câu thì giờ đây Thánh Thần sẽ là tác nhân tác động trực tiếp trên Đức Giêsu. Thánh Thần dường như ép buộc, thúc bách Đức Giêsu vào nơi hoang địa. Động từ Máccô dùng để diễn tả tác động của Thần Khí là một động từ diễn tả sự “đuổi đi, trục xuất, gửi đi, mang đi, xé ra” (ekballo). Động từ này được ghép bởi động từ “ballo” nghĩa là “ném, quăng” và giới từ “ek” có nghĩa là “ra khỏi”, nên có nghĩa gốc là “ném ra ngoài”. Đây cũng là động từ được dùng nhiều lần để diễn tả sự trục xuất quỷ (1,34.39;3,15.22.23; 6,13; 7,26; 9,18.28.38). Đức Giêsu chắc chắn không bị quỷ vương Belzebul ám như các kinh sư đã kết án (Mc 3,22). Không hiểu sao Máccô lại dùng động từ này, trong khi Mátthêu và Luca, có lẽ muốn sửa lại bản Máccô, chỉ dùng một động từ nhẹ nhàng hơn: Thần Khí “dẫn”[3] vào hoang địa. J.R. Donahue – D.J. Harrington cho rằng động từ này cho thấy quyền năng của Thần Khí.[4] R.France lý giải rằng cách dùng này nhằm nhấn mạnh sự xung đột sẽ đến, điều được khai mạc trong hoang địa. Ông cũng cho rằng nó cũng tăng cường ý niệm của Cựu Ước về Thần Khí Thiên Chúa như là một sức lực quyền năng (cf. Mk 3,8).[5] A.Y. Collins – H.W. Attridge cho rằng hành động này của Thần Khí gợi nhớ những đoạn văn trong sách các Vua quyển 1 và 2 cũng như trong sách ngôn sứ Êdekiel, theo đó Thần Khí Thiên Chúa dẫn người ngôn sứ từ chỗ này qua chỗ kia một cách nhiệm mầu.[6]

“Nơi hoang vắng” thường đánh dấu những khoảnh khắc đặc biệt của Đức Giêsu. Đó là nơi Đức Giêsu chịu cám dỗ bốn mươi đêm ngày sau khi chịu phép rửa và trước khi đi rao giảng (Mc 1,12). Đó cũng là nơi nhiều lần Đức Giêsu gặp gỡ Chúa Cha trong những giờ cầu nguyện (Mc 1,35); Là nơi Người khuyên các môn đệ lui vào và nghỉ ngơi (Mc 6,31.32); Cũng là nơi Đức Giêsu gặp gỡ, rao giảng cho dân chúng và cho họ ăn (Mc 6,35; Mt 14,13.15; 15,33); là nơi mà nhiều người từ khắp các phương hướng đến với Đức Giêsu khi Người không thể vào thành vì lời rao giảng của người phong hủi được chữa lành (Mc 1,45). “Sa mạc” kết hợp với con số 40 ngày quả thật là một nơi chốn đầy tính biểu tượng. “Sa mạc” tượng trưng cho nơi của sự giải thoát của Chúa, nơi của sự thử thách mang tính cánh chung, nhưng cũng là chốn dung thân của Satan và sự dữ, và nơi ở không mấy thân thiện của dã thú.[7]

3.     Bốn mươi ngày: Đây là khoảng thời gian Đức Giêsu lưu lại trong sa mạc. Trong khi Máccô và Luca chỉ nói 40 ngày, Mátthêu thêm “40 đêm” (Lc 4,2; Mt 4,1). Con số 40 gợi nhớ rất nhiều biến cố ý nghĩa trong truyền thống Cựu Ước. Trước hết, nó gợi nhớ đến thời gian ông Môsê ăn chay trên núi Sinai (Xh 24,18; 34,28; Đnl 9,9.11.18;10,10). 40 năm là thời gian dân Ísrael ăn Manna trước khi vào đất hứa Canaan (Xh 16,35). Thời gian những thám tử đi dò thám đất Canaan cũng là 40 ngày (Ds 13,25). Đó cũng là thời gian con cái Ísrael chịu đau khổ trong sa mạc vì sự bất trung của cha ông họ (Ds 14,33; 32,13). Đức Chúa dẫn dân Ísrael 40 năm trong sa mạc để làm cho họ khiêm nhường, thử thách họ, xem họ có giữ điều răn của Người hay không (Đnl 8,2; 29,5; Gs 5,6). 40 ngày đêm cũng là số ngày đêm ngôn sứ Êlia đi đến núi Hôrép, trong cuộc trốn chạy hoàng hậu Isabel (1 V 19,7-8). Như thế, con số 40 ngày (đêm) Đức Giêsu ở trong sa mạc rất có thể gợi nhớ đến thời gian và lịch sử dân Chúa hành trình trong sa mạc 40 năm. Họ chịu nhiều thử thách, cám dỗ và họ đã sa ngã.[8]

4.     Chịu cám dỗ bởi Satan: Cả Mátthêu và Luca đều dùng từ “quỷ” (diabolo), như là một cái tên cụ thể cho Satan (Mt 4,1; Lc 4,2) trong khi Máccô dùng từ Satan. Trong Thánh Kinh, sự “cám dỗ” bao gồm hoặc là thử thách (Đnl 8,2; cf. St 22,1-14) hoặc là cám dỗ bởi quỷ (St 3,1-7). Thánh Kinh Cựu Ước ghi lại sự kiện quỷ (diabolo) hiện diện cùng với các thiên thần trong một lần họp mặt và nó xin phép Đức Chúa cho nó được thử thách ông Gióp (G 2,1-7). Satan cũng xuất hiện như người để kết án, hay đối thủ (Dcr 3,1). Như thế, trong Cựu Ước Satan dường như là một thành phần của triều thần Thiên Quốc. Nó có thể được phép thử thách mức độ trung thành của những người Chúa chọn. Trong Tân Ước, nhân vật Satan cũng xuất hiện nhiều lần trong tư thế những kẻ gây hại con người và chống đối Chúa. Nó được đồng hóa với “tướng của các quỷ” (Mc 3,23.26); những kẻ cướp “lời được gieo” trong lòng người (Mc 4,15); hay những kẻ dẫn các môn đệ đi sai đường (Mc 8,33).[9] Ngoài trình thuật về sự kiện Đức Giêsu chịu cám dỗ được cả 3 tác giả Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại (Mc 1,12-13; Mt 4,1-11; Lc 4,1-13), Tân Ước còn ghi lại rất nhiều trình thuật liên quan đến Satan. Satan là một trong những đối thủ, hay nói đúng hơn, là bại nhân của Đức Giêsu. Một trong những loại phép lạ Đức Giêsu làm là các phép lạ trừ quỷ (Mc 1,23-28// Lc 4,31-36; Mt 1,22// Lc11,14; Mt 8,28-34// Mc 5,1-20// Lc 8,26-39; Mt 9,32-33; Mt 15,21-28// Mc 7,24-30; Mt 17,14-18// Mc 9,14-29; Lc 9,38-42;). Ngay sau khi Đức Giêsu chịu Phép Rửa, Người liền chịu quỷ cám dỗ 40 ngày (đêm), nhưng quỷ đã thất bại. Và phép lạ đầu tiên Người làm, được Máccô ghi lại, là một phép lạ trục xuất quỷ (thần ô uế) khỏi một người bị quỷ ám (Mc 1,23-26), ngay trong hội đường Caphácnaoum. Satan sẽ trở lại đối đầu với Đức Giêsu khi nó “đi vào lòng Giuđa Íscariốt (Lc 22,3) và ông đã bàn tính với các kinh và quan chức Do Thái để nộp Người. Satan cũng len lỏi vào trong suy nghĩ của Phêrô, làm cho ông ngăn cản Đức Giêsu nói về cuộc thương khó. Đức Giêsu đã khiển trách ông là: “Satan, lui lại đằng sau thầy” (Mc 8,32; Mt 16,23). Satan cũng xin Đức Giêsu cho nó được “sàng Phêrô như sàng lúa” (Lc 22,31) và quả thực Phêrô đã sa ngã và chối Chúa. Sự xuất hiện của Satan ngay từ lúc đầu như báo hiệu một cuộc chiến giữa Đức Giêsu và quỷ. Trong cuộc chiến này Đức Giêsu đã chiến thắng hoàn toàn.

5.     ở với thú hoang”: Trong Cựu Ước thú hoang liên kết với những thế lực ác thần (Tv 22,11-21; Ed 34,5.8.25). Thú hoang trong bối cảnh này có thể hiểu là Satan và các thế lực của nó. Sách Sáng Thế diễn tả một sự hài hòa giữa tất cả các thú vật và con người trong vườn Êđen. Con người được giao cho trách nhiệm trông coi, làm chủ muôn loài và không có một sự xung đột nào. Sự thù hận giữa con người và thú vật được giải thích như là hậu quả của tội lỗi.[10] Khi con người bất tuân thánh lệnh và phạm lỗi thì mối giao hòa này bị phá hủy. Thời cánh chung được nói đến trong sách Isaia cũng diễn tả một cảnh tượng hài hòa tương tự như trong vườn Êđen: “Sói nằm với chiên, dê non nằm với beo… trẻ em còn bú sữa thọc tay vào hang rắn lục…” (Is 11,6-9). Hình ảnh Đức Giêsu ở giữa loài dã thú, theo R. Guelich, là hình ảnh Ađam mới tái lập khung cảnh Vườn Êđen.[11] Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia của thời cánh chung. Người sẽ thiết lập một trật tự hài hòa mới giữa mọi loài và con người, một khi con người biết lắng nghe và làm theo lời Người dạy.

6.     Các thiên sứ phục vụ Người”: Động từ “phục vụ” được chia ở thì vị hoàn, diễn tả một hành động kéo dài (διηκόνουν).[12] Cách dùng của động từ này có thể diễn tả sự đồng hành của các thiên sứ trong suốt 40 ngày chay tịnh của Đức Giêsu. Hơn nữa, sự phục vụ của các thiên thần ở đây đối lại với sự thù ghét của Satan và dã thú. Đức Giêsu dường như không cô đơn trong cuộc chiến của Người. Nếu như sự bảo vệ của các thiên thần là đủ cho tất cả những ai “tìm nương tựa” nơi Chúa như Tv 91,11-13 diễn tả thì Con Thiên Chúa còn được hỗ trợ nhiều hơn nữa. Nội dung của việc phục vụ này không được cho biết. Có thể đó là những hỗ trợ về mặt tinh thần. Thông thường động từ này diễn tả việc cung cấp, chuẩn bị thức ăn, thức uống, giống như trường hợp của Êlia trong 1 V 19,4-8. Sự “phục vụ” cách liên tục của các thiên thần này chỉ có trong bản văn của Máccô. Trình thuật về “cám dỗ” của Luca được kết thúc bằng câu: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ” (Lc 4,12), không có sự xuất hiện của các thiên sứ. Cuộc chiến giữa Đức Giêsu và quỷ chưa kết thúc. Nó chỉ mới khởi đầu. Trong câu chuyện của Mátthêu, thiên sứ chỉ đến sau khi quỷ đã bỏ đi (Mt 4,11).

7.     Sau khi Gioan bị nộp”: Trạng từ thời gian “sau khi” cho thấy rõ là hoạt động rao giảng của Đức Giêsu chỉ tiếp nối sau khi sứ mạng của người dọn đường kết thúc. Điều đáng quan tâm ở đây là động từ “nộp” (παραδίδωμι). Động từ này nối kết cách chặt chẽ Giêsu với Gioan. Động từ này chỉ dùng cho Gioan một lần nhưng lại dùng cho Đức Giêsu rất nhiều lần. Giuđa Íscariốt được định nghĩa là “kẻ nộp Người” (Mc 3,19). Người cũng nói ám chỉ đến Giuđa rằng: “Khốn cho kẻ nộp Con Người” (14,21) Đức Giêsu thông báo hai lần rằng Người sẽ “bị nộp” vào tay người ta (9,31); rồi “vào tay các thượng tế và các luật sĩ” (10,33). Và cuối cùng “Con Người bị nộp vào tay những người tội lỗi”, bởi chính người môn đệ Giuđa Iscariốt (14,41). Nghĩa là, khi Máccô đề cập đến chi tiết Gioan bị nộp không đơn giản chỉ để thông tin qua loa, nhưng là nói đến số phận một người ngôn sứ bị nộp và bị giết bởi người đời. Đó là báo trước cho số phận “bị nộp” của Đức Giêsu.[13] Gioan dọn đường cho Chúa ngay cả trong cách thức ông bị nộp bởi vì hình ảnh ông bị nộp cho thấy trước Đấng ông giới thiệu cũng sẽ bị nộp. Đức Giêsu bị nộp một cách thê thảm hơn bằng chính nụ hôn của người môn đệ thân tín. Số phận bị nộp của Đức Giêsu cũng là số phận của các môn đệ của Người và tất cả những tín hữu (Mc 13,9.11.12).

8.     Vùng Galilê”: Đây là vùng đất quê hương của Đức Giêsu và của các môn đệ.[14] Galilê thuộc miền Bắc của nước Ísrael. Đây chính là vùng đất Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ và trải qua hầu hết thời gian rao giảng của mình. Galilê thời Chúa Giêsu được chia làm hai vùng là Galilê trên và Galilê dưới. Trong khi Galilê trên hầu hết là những vùng đồi núi khô cằn thì Galilê dưới là vùng đất trù phú có nhiều đồng bằng thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Galilê có đại lộ Đông-Tây nổi tiếng, là đường giao thương buôn bán qua lại giữa các vùng. Đặc biệt Galilê dưới có hai thành phố giàu có và nổi tiếng Sêphoris và Tibêria. Đây là hai thành phố được Hêrôđê Antipa thành lập. Thành phố Tibêria nằm ngay bên biển hồ Galilê. Chính vì thế mà biển hồ Galilê còn được gọi là biển hồ Tibêria (Ga 6,1). Caphácnaoum nằm ngay bên bờ biển hồ Galilê. Bétsaiđa, Nadarét, núi Tabo, Mácđala, Cana đều nằm trong vùng Galilê. Muốn đi từ Galilê lên Jêrusalem người ta phải băng qua miền trung Samari. Tại sao Đức Giêsu lại bắt đầu sứ vụ của Người tại Galilê và Galilê có phải là vùng đất của dân ngoại? là hai câu hỏi mà các nhà chú giải vẫn còn nhiều tranh luận. Có thể Galilê là vùng đất của dân ngoại nên Đức Giêsu dành nhiều thời gian tại đây để rao giảng Tin Vui. Hoặc cũng có thể vì Đức Giêsu là người Nadarét nên Người quen thuộc Galilê hơn vùng kinh thành Jêrusalem. Có một điều khá lạ lùng là Thánh Kinh chẳng có một tường thuật nào ghi lại Người vào một thành phố lớn nào như Sêphoris hay Tiberia để rao giảng. Người ưa thích miền quê, ven biển và miền núi, vùng dân ngoại ngoài Galilê. Jêrusalem cũng chỉ là nơi Người trải qua cuộc Thương Khó và bị giết chết. Máccô nhắc đến địa danh Galilê 11 lần. Đó là nơi Đức Giêsu chịu phép rửa (1,9); là nơi Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng (1,14); là nơi Người chọn 4 môn đệ đầu tiên (1,16); nơi mà tin tức về Người lan tỏa khắp vùng một cách nhanh chóng (1,28); nơi Người tới lui để rao giảng trong các hội đường (1,39)… và cũng là điểm hẹn của Người với các môn đệ sau khi Người Phục Sinh (14,28; 16,7). Động từ rao giảng cũng là động từ nối kết Gioan Tẩy Giả với Đức Giêsu. Gioan xuất hiện, làm phép dìm trong hoang địa và rao giảng một phép dìm của lòng hoán cải để được ơn tha tội (Mc 1,4). Đức Giêsu cũng rao giảng nhưng nội dung rao giảng của Đức Giêsu là “Tin Mừng của Chúa” chứ không phải là “phép rửa của lòng hoán cải”.[15] Động từ này cũng nối kết sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu với sứ vụ của các môn đệ. Người chọn nhóm Mười Hai với mục đích là để họ ở với Người và Người sai họ đi rao giảng (Mc 3,14). Điều này chứng tỏ rằng sứ vụ của Đức Giêsu có tính liên tục. Các tông đồ không chỉ rao giảng thông điệp của Chúa Giêsu nhưng còn rao giảng về Đức Giêsu, nhất là Đức Giêsu Phục Sinh.

9.     “Tin Vui của Chúa”: danh từ Tin Mừng, Tin Vui gợi nhớ đến lời giới thiệu của Máccô vào đầu sách Tin Mừng của ông: Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (Mc 1,1). Tuy vậy, Tin Mừng ở đây là Tin Mừng do Đức Giêsu rao giảng về Thiên Chúa. Còn Tin Mừng trong Mc 1,1 là Tin Mừng về Đức Giêsu, đặc biệt là biến cố tử nạn và Phục Sinh. Theo J. Marcus, Máccô rất ý thức sự khác nhau giữa Tin Mừng tiền-Phục Sinh và hậu-Phục Sinh.[16] Danh xưng Thiên Chúa ở thuộc cách có thể hiểu là “Tin Mừng về Thiên Chúa” (thuộc cách vị ngữ) cũng như Tin Mừng của (từ) Thiên Chúa (thuộc cách chủ ngữ). Đức Giêsu đến và mang theo Tin Mừng của Thiên Chúa. Sứ vụ của Người là làm cho Tin Vui này được lan rộng và được nhiều người đón nhận. Danh ngữ “Tin Mừng của Chúa” chỉ xuất hiện trong tác phẩm của Máccô và của thánh Phaolô (1Tx 2,2.9; 3,2; Rm 1,1; 15,6; 2Cr 11,7).[17]

10.  “Thời kỳ đã tròn đầy”: Đây chính là nội dung Đức Giêsu rao giảng. Nó gồm một câu chỉ bối cảnh, hay lý do, và một câu mệnh lệnh mang tính chỉ dẫn là phải làm gì. Danh ngữ “thời kỳ đã mãn” được R. Guelich hiểu là “thời gian ấn định đã đến”. Danh từ thời gian được dùng với mạo từ xác định rõ ràng ám chỉ đến một khoảng thời gian xác định chứ không phải bất cứ thời gian nào. Thời gian ở đây có thể là khoảng thời gian có bối cảnh mang tính ngôn sứ-khải huyền ứng với sự mong chờ của ngôn sứ Đaniel: “Những ngày Xưa Cũ đến và công bố cuộc xét xử ủng hộ cho dân thánh của Đấng Tối Cao và thời điểm đến khi họ thừa hưởng Vương Quốc” (Đn 7,22); hay của Êdêkiel: “thời gian đã đến, ngày đã đến, hãy để người mua không vui mừng và kẻ bán cũng không đau buồn vì sự phẫn nộ của ta trút xuống trên đám đông” (Ed 7,12; 9,1). Động từ “πεπλήρωται” có ý nghĩa mang tính lịch sử cứu độ của sự đang hoàn trọn hay sẽ xảy ra hơn là sự đã hoàn thành.[18] Động từ được dùng ở thì hoàn thành cho thấy hành động đã xảy ra và có ý nghĩa kéo dài. Thể bị động của động từ thường được gọi là bị động thần linh, cho thấy rằng Chúa chính là chủ thể của hành động.

11.  “Nước Thiên Chúa đã đến gần”: Tin Mừng của Thiên Chúa song song với Nước của Thiên Chúa. Việc Nước Thiên Chúa đã đến gần có thể là một phần của thời kỳ đã mãn, cũng có thể là một thông điệp Tin Mừng song song với “thời kỳ ấn định đã mãn”. Danh từ “ βασιλεία” trong tiếng Hy Lạp vừa có nghĩa là vương quốc (một nơi chốn, một lãnh địa nơi mà đức vua cai trị), vừa có nghĩa là triều đại (thời gian cai trị của một đức vua). Sự rao giảng về vương quốc (triều đại) Thiên Chúa chung chung được chấp nhận như là trọng tâm của lời rao của Đức Giêsu. Thánh Kinh Cựu Ước tuy không dùng khái niệm “nước Thiên Chúa”, nhưng ý niệm Đức Chúa là vua lại được nhấn mạnh trong suốt lịch sử (Xh 15,11-13.18; Ds 23,21-23; Tv 2; 72; 89; 110; 145,11-12- những thánh vịnh hoàng gia; Tv 95-100 – có thể là Thánh Vịnh đăng quang) cũng như vào thời kỳ lịch sử đã mãn khi sự cai trị của Thiên Chúa sẽ được thiết lập (Mc 2,12-13; 4,5-7; Is 44,1-8; Dcr 9.9-11; Dn 2,44; 7, 11-14).[19] Như vậy, Đức Giêsu dường như lồng ghép ý tưởng về một thời kỳ tươi sáng khi Thiên Chúa cai trị vào ý tưởng “Nước Thiên Chúa hay triều đại Thiên Chúa” của Người. Đức Giêsu muốn ngụ ý rằng, tất cả những điều các ngôn sứ Cựu Ước mong mỏi và nói trước, nay đã ứng nghiệm rồi. Có một số những điểm chính liên quan đến “vương quốc” mà Đức Giêsu rao giảng: (1) nó đã đến gần (Mc 1,15), ở giữa họ (Lc 17,21); (2) Đức Giêsu vẫn nói về nó như là tương lai. Các môn đệ của Người phải cầu nguyện xin cho “triều đại Cha mau đến” (Mt 6,10); Người sẽ không uống sản phẩm từ cây nho cho đến khi Vương Quốc Chúa đến (Lc 22,18); (3) nó liên kết cách mật thiết với chính con người của Đức Giêsu. Chính trong các hoạt động của Người mà người ta nhận ra sự hiện diện của Nước Thiên Chúa (Mt 12,28=Lc 11,20). Chính bởi vì Đức Giêsu ở giữa họ mà Nước Trời cũng ở giữa họ (Lc 17,21). Chính trong lời nói và hành động của Người mà vương quốc đã đến.[20]

12. “Anh chị em hãy hoán cải và tin vào Tin Vui”: Mệnh lệnh, hay lời mời gọi của Đức Giêsu bao gồm hai phần: “Hoán cải” và “tin vào Tin Vui”. Tin Vui, hay Tin Mừng này có thể mang hai nghĩa. Đó vừa là thông điệp, lời nói và hành động của Đức Giêsu vừa là chính con người của Đức Giêsu. Tin Mừng Nhất Lãm nhấn mạnh hơn về lời giảng và hành động (chữa bệnh, trừ quỷ, các dấu lạ) của Đức Giêsu trong khi đó Tin Mừng Gioan, dầu không bỏ qua những dấu lạ, nhưng nhấn mạnh đến niềm tin vào chính Đức Giêsu (Ga 3,16.18.36; 6,35.40). Tin vào Tin Vui, nghĩa là tin vào những lời giảng và hành động của Đức Giêsu hay tin vào chính con người của Đức Giêsu. Nó có thể được xem như là một biểu hiện của “sự hoán cải”. Theo nghĩa này, tin vào Đức Giêsu không chỉ có nghĩa là không nghi ngờ những gì Người nói và Người làm, cũng như nghi ngờ về thân phận, căn tính của Người. Hành động “tin” phải có nghĩa tích cực và năng động hơn. Đó chính là sự “tin theo”. Nghĩa là tin bằng hành động, tin bằng cách rập khuôn đời mình theo Đức Giêsu. Động từ “μετανοέω” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là sự thay đổi về trí lòng, hoán cải, hối hận, cảm thấy có lỗi… nghĩa là nó không chỉ có nghĩa là một thái độ hối hận về lỗi lầm của mình và chừa bỏ nó, nhưng hơn thế nữa là một sự thay đổi tận căn về trí và lòng theo gương mẫu của Đức Giêsu. Nó có nghĩa là quay ngược lại khỏi lối sống trước đây của một con người, được xác quyết bởi một loạt những cam kết, thực hành, quay về và chấp nhận khởi đầu của thần linh qua tác nhân là Đức Giêsu.[21]

 

 

BÌNH LUẬN

Đoạn Tin Mừng Chúa Nhất đầu tiên của Mùa Chay năm B được trích ra từ chương 1 của Tin Mừng Máccô. Nó bao gồm hai đoạn có thể tách biệt: đoạn thứ nhất là đoạn nói về sự kiện Đức Giêsu chịu cám dỗ. Và đoạn thứ hai nói về sự kiện Người đi rao giảng Tin Mừng và công bố lời mời gọi đầu tiên và nền tảng cho mọi lời mời gọi: “Thời kỳ đã hoàn tất và Nước Thiên Chúa đã đền gần: ‘Hãy hoán cải và Tin vào Tin Mừng”. Nhìn vào biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ, độc giả thấy có sự nối kết với sự kiện Đức Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Giođan nhờ vào hai yếu tố. Yếu tố thứ nhất là trạng từ “ngay lập tức” (euthus - εὐθὺς). Nghĩa là ngay lập tức sau khi Chịu Phép Rửa Đức Giêsu được dẫn vào nơi hoang địa. Yếu tố nối kết thứ hai là Thần Khí. Thần Khí đã ngự xuống trên Đức Giêsu “tựa hình chim bồ câu” sau khi Người lên khỏi sông Giođan. Thần Khí này cũng “đẩy” Đức Giêsu vào hoang địa. Sự nối kết này cho phép độc giả nối kết lời xác nhận của “tiếng từ trời”: “Con là con yêu của Ta, nơi Con, Ta hài lòng” với biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ. Đức Giêsu làm cho Chúa Cha hài lòng bằng chính hành động chịu Phép Rửa của Người và cũng bằng chính việc Người chịu cám dỗ và vượt qua. Việc Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào hoang địa cho thấy tác động và sức mạnh của Thần Khí trên con người và sứ vụ của Đức Giêsu. Thần Khí vẫn đồng hành cùng Đức Giêsu trong hành trình rao giảng của Người. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Satan trong bối cảnh kẻ cám dỗ và người bị cám dỗ cho thấy cuộc chiến giữa Đức Giêsu, Đấng Mêsia đã bắt đầu. Satan sẽ thất bại trong mọi nỗ lực cám dỗ của nó. Tin Mừng Mátthêu và Luca diễn tả chi tiết hơn về cách thức cám dỗ của Satan (Mt 4,1-11; Lc 4,1-13). Cuộc chiến ấy với ưu thế chiến thắng ấy vẫn tiếp tục trong sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu. Một trong những loại phép lạ trọng yếu mà Đức Giêsu làm là trục xuất quỷ hay trừ quỷ. Có ít nhất bảy phép lạ trừ quỷ được ghi lại trong toàn bộ Tin Mừng Nhất Lãm.[22] Trong tất cả các phép lạ này quỷ đều khuất phục trước quyền năng của Đức Giêsu. Con số 40 ngày (đêm) cùng với nơi chốn hoang địa mà Đức Giêsu đã chịu cám dỗ làm cho độc giả nhớ đến biến cố ông Môsê dẫn dân Ísrael suốt 40 năm trong hoang địa trước khi vào đất hứa. Họ đã nhiều lần chịu thử thách và đã phản bội, kêu trách Chúa và chạy theo thần khác. Đức Giêsu cũng trải qua 40 ngày (đêm) bị cám dỗ nhưng Người đã chiến thắng. Người khởi đầu cho một dân mới chịu cám dỗ nhưng không phạm tội. Việc Người ở giữa loài cầm thú cũng gợi nhớ đến hình ảnh vườn địa đàng cũng như hình ảnh của thời cánh chung. Đức Giêsu là Ađam mới sẽ tái lập cảnh hòa hợp giữa con người và muôn thú như thời sơ khai bình minh của lịch sử nhân loại, khi con người chưa sa ngã. Cơn cám dỗ của Đức Giêsu chỉ kéo dài 40 ngày nhưng nó tượng trưng cho 40 thử thách của dân Chúa xưa. Đây cũng là khoảng thời gian gợi hứng cho Mùa Chay Thánh của phụng vụ Giáo Hội. 40 ngày chay thánh cũng là thời gian tượng trưng và gợi nhớ đến thời gian của cả đời người. Sự hoán cải và trung thành với Chúa trong suốt mùa Chay Thánh là sự hoán cải của cả đời người chứ không phải kết thúc bởi Tam Nhật Vượt Qua. Bao lâu con người còn hành trình trên dương gian thì bấy lâu con người còn phải hoán cải và trở về với Chúa là cha của họ.

Sứ vụ Đức Giêsu được tiếp nối ngay sau khi Gioan bị nộp như một tất yếu. Kẻ dọn đường lui vào bóng tối và người được dọn đường bước ra ánh sáng. Cái cách mà Gioan lui vào bóng tối (bị nộp) cũng kịp để lại dấu ấn rõ ràng cách thức mà ông chuẩn bị cho Đấng Mêsia. Bởi lẽ, Đấng Mêsia rồi đây cũng sẽ bị nộp như là kẻ dọn đường. Không những thế, những kẻ tin theo Đấng Mêsia cũng chịu một số phận tương tự.

Vùng đất mà Đức Giêsu rao giảng không đâu xa lạ chính là vùng quê của Người. Galilê có thể có nhiều dân ngoại, hoặc là dân Do Thái ngoại lai cần được nghe Tin Vui. Galilê cũng chính là điểm hẹn giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Sứ vụ của họ cũng sẽ phản ánh sứ vụ của Đức Giêsu và cũng phát xuất từ Galilê.

Tin vui mà Đức Giêsu rao giảng là Tin Vui của Thiên Chúa, hay Tin vui đến từ Thiên Chúa. Chúa chính là căn nguyên và nguồn gốc của Tin Vui. Tin vui đó là gì? Thưa Tin Vui đó là thời kỳ cánh chung, thời kỳ cứu độ đã và đang hoàn thành. Nước Chúa đã đến ngay bên và Đức Chúa sẽ ngự trị và điều hành đất nước này. Đề tài Nước Thiên Chúa sẽ được Đức Giêsu khai triển và giải thích trong suốt sứ vụ rao giảng của Người. Điều mà chúng ta cần làm là : “Hoán cải và tin vào Tin Mừng”. Đây chính là thông điệp chính yếu của Tin Mừng mà Đức Giêsu rao giảng. Hoán cải là quay ngược và hướng về Thiên Chúa. Dó không chỉ là sự chừa bỏ tội lỗi, thói hư, tật xấu nhưng là để cho trí và lòng mình được biến đổi nên giống trí lòng của Chúa. Đâu là ý muốn của Chúa cho cuộc đời từng cá nhân. Một phần của hoán cải chính là tin vào Tin Mừng. Đó là tin vào con người của Đức Giêsu và tin vào những lời Người nói, những việc Người làm.

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD

 



[1] 1 Sm 1,7; 14,24; 20,34; 28,20; 31,13; 2 Sm 1,12; 3,35; 12,16; 21-23; 1 V 13,8-22; 19,8; 21,9-12,27;1 Sbn 10,12; 2 Sbn 20,3; Er 8,21-23; 9,5; 10,6; Nkm 1,4; 9,1; Et 4,3.16; 9,31; Tv 35,13; 69,10; 102,4; 109,24; Is 58,1-14; Gr 14,12; 36,6.9; Dnl 6,18; 9,3; 10,2-3; Ge 1,14; 2,12-15; Gn 3,5; Dcr 7,5; 8,19.

[2] Tiếng Anh: the Spirit (ESV); tiếng Pháp: l’Esprit (TOB); tiếng Ý: lo Spirito (CEI).

[3] Luca dùng động từ ἄγω (dẫn dắt), Matthew dùng động từ ἀνάγω (dẫn dắt)

[5] R.T. France, The Gospel of Mark: a commentary on the Greek text (NIGTC; Grand Rapids 2002) 84-85.

[6] A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark. A Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 151.

[7] R.A. Guelich, Mark 1-8:26 (WBC 34A; Dallas 2002) 38.

[8] J.D. Barry et al., Faithlife Study Bible (Bellingham 2012, 2016) Mk 1:13.

[9] J.R. Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark, 66.

[10] R.A. Guelich, Mark 1-8:26, 38.

[11] R.A. Guelich, Mark 1-8:26, 40.

[12] Bản dịch tiếng Anh, Ý, Pháp đều diễn tả ý nghĩa kéo dài của hành động này: “the angels were ministering to him” (ESV); “les angels servaient” (TOB); “gli angeli lo servivano” (CEI). Bản dịch Việt Ngữ không cho thấy sự kéo dài này: “có các thiên sứ hầu hạ Người” (CGKPV).

[13] J.R. Edwards, The Gospel According to Mark (PNTC; Grand Rapids – Leicester 2002) 44.

[15] A.Y. Collins – H.W. Attridge cho rằng câu 14: Chúa Giê-su rao giảng Tin Mừng của Chúa song song với câu 4: Gioan rao giảng phép rửa của lòng sám hối [A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark. A Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 153].

[16] J. Marcus, Mark 1-8. A New Translation with Introduction and Commentary (AYBC; New Haven – London 2008) 172.

[18] R.A. Guelich, Mark 1-8:26, 43.

[19] J.R. Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark, 71.

[20] C.E.B Granfield, The Gospel According to Saint Mark (CGTC; Cambridge 1959) 66-67.

[21] A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark, 155.

[22] (1) Người đàn ông bị quỷ ám trong Hội Đường Caphácnaoum (Mc 1,23-28// Lc 4,31-36); (2) Chữa lành một người mù và quỷ câm (Mt 12,22// Lc 11,14); (3) Trừ quỷ tại Ghê-ra-xa (Mt 8,28-34// Mc 5,1-20// Lc 8,26-39); (4) Trừ quỷ câm (Mt 9,32-33); (5) Trừ quỷ cho con gái người đàn bà xứ Canaan (Mt 15,21-28// Mc 7,24-30); (6) Chữa đứa bé bị kinh phong (Mt 17,14-18// Mc 9,14-29// Lc 9,38-42); (7) Chữa người phụ nữ bị quỷ làm cho còng lưng suốt 18 năm (Lc 13,10-17).