Friday, 11 December 2020

"LÀM CHỨNG VỀ ÁNH SÁNG, ĐỂ TẤT CẢ MỌI NGƯỜI TIN"

 CN III MV B (Is 61,1-2.10-11; 1Tx 5,16-24; Ga 1,6-9.19-28)

Tiếng Hy Lp

Tiếng Việt

 6  Ἐγένετο ἄνθρωπος, ἀπεσταλμένος παρὰ θεοῦ, ὄνομα αὐτῷ Ἰωάννης·

 7  οὗτος ἦλθεν εἰς μαρτυρίαν ἵνα μαρτυρήσῃ περὶ τοῦ φωτός, ἵνα πάντες πιστεύσωσιν δι᾽ αὐτοῦ.

 8  οὐκ ἦν ἐκεῖνος τὸ φῶς, ἀλλ᾽ ἵνα μαρτυρήσῃ περὶ τοῦ φωτός. (Jn. 1:6-8 BGT)

19 Καὶ αὕτη ἐστὶν ἡ μαρτυρία τοῦ Ἰωάννου, ὅτε ἀπέστειλαν [πρὸς αὐτὸν] οἱ Ἰουδαῖοι ἐξ Ἱεροσολύμων ἱερεῖς καὶ Λευίτας ἵνα ἐρωτήσωσιν αὐτόν· σὺ τίς εἶ;

 20  καὶ ὡμολόγησεν καὶ οὐκ ἠρνήσατο, καὶ ὡμολόγησεν ὅτι ἐγὼ οὐκ εἰμὶ ὁ χριστός.

 21  καὶ ἠρώτησαν αὐτόν· τί οὖν; σὺ Ἠλίας εἶ; καὶ λέγει· οὐκ εἰμί. ὁ προφήτης εἶ σύ; καὶ ἀπεκρίθη· οὔ.

 22  εἶπαν οὖν αὐτῷ· τίς εἶ; ἵνα ἀπόκρισιν δῶμεν τοῖς πέμψασιν ἡμᾶς· τί λέγεις περὶ σεαυτοῦ;

 23  ἔφη· ἐγὼ φωνὴ βοῶντος ἐν τῇ ἐρήμῳ· εὐθύνατε τὴν ὁδὸν κυρίου, καθὼς εἶπεν Ἠσαΐας ὁ προφήτης.

 24  Καὶ ἀπεσταλμένοι ἦσαν ἐκ τῶν Φαρισαίων.

 25  καὶ ἠρώτησαν αὐτὸν καὶ εἶπαν αὐτῷ· τί οὖν βαπτίζεις εἰ σὺ οὐκ εἶ ὁ χριστὸς οὐδὲ Ἠλίας οὐδὲ ὁ προφήτης;

 26  ἀπεκρίθη αὐτοῖς ὁ Ἰωάννης λέγων· ἐγὼ βαπτίζω ἐν ὕδατι· μέσος ὑμῶν ἕστηκεν ὃν ὑμεῖς οὐκ οἴδατε,

 27  ὁ ὀπίσω μου ἐρχόμενος, οὗ οὐκ εἰμὶ [ἐγὼ] ἄξιος ἵνα λύσω αὐτοῦ τὸν ἱμάντα τοῦ ὑποδήματος.

 28  ταῦτα ἐν Βηθανίᾳ ἐγένετο πέραν τοῦ Ἰορδάνου, ὅπου ἦν ὁ Ἰωάννης βαπτίζων. (Jn. 1:19-28 BGT)

6 Một người xuất hiện, người được Chúa sai, tên ông ta là Gioan

7 Ông ta đến cho chứng từ, để làm chứng về ánh sáng, để tất cả mọi người có thể tin nhờ ông.

8 Ông ấy không phải là ánh sáng, nhưng để ông làm chứng về ánh sáng.

19 Và đây là chứng cứ của Gioan. Khi những người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem sai đến với ông các tư tế và Lê-vi để hỏi ông: “ông là ai?”

20 Ông đã thừa nhận và không chối từ, ông thừa nhận rằng “tôi không phải là Đấng Ki-tô”

21 Và họ hỏi ông: “vậy thì là ai? Có phải ông là Ê-li-a chăng?” ông nói: “tôi không phải”. “Có phải ông là vị ngôn sứ chăng?” và ông trả lời: “không”.

22 Rồi họ nói cùng ông: “ông là ai? để chúng tôi có thể đưa ra câu trả lời cho những người đã gửi chúng tôi. Ông nói gì về mình?”

23 Ông trả lời: “tôi là tiếng của người hô trong hoang địa: ‘hãy làm thẳng con đường của Đức Chúa’ như ngôn sứ Isaiah đã nói”.

24 Và những người được những người Pha-ri-sêu sai đến.

25 Họ cũng hỏi ông và nói cùng ông: “vậy thì tại sao ông làm phép rửa nếu ông không phải là Ê-li-a và cũng không phải là vị ngôn sứ?”

26 Trả lời cho họ, Gioan nói: “tôi dìm trong nước. Có người đang đứng giữa các ông mà các ông không biết,

27 Người đến sau tôi, người mà dây dép quai hậu của ông ta, tôi không xứng đáng để tháo”.

28 Những điều này xảy ra tại Bê-ta-nia bên kia song Gio-đan nơi Gioan đã làm phép rửa.

 


Bối cảnh phụng vụ:

Phụng Vụ Chúa Nhật III Mùa Vọng năm B tiếp tục kêu mời các tín hữu chuẩn bị tâm hồn qua hình ảnh và lời chứng của Gioan. Chúa Nhật tuần trước Phụng vụ mời gọi tín hữu quay trở về ngay đoạn đầu của Tin Mừng thánh Mac-cô. Trong Phụng vụ tuần này các tín hữu lại được giới thiệu về đoạn đầu của Tin Mừng theo thánh Gioan. Tin Mừng Gioan khởi đầu bằng cách giới thiệu nguồn gốc thần linh của Ngôi Lời: “từ muôn thuở đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1). Tiếp theo sau đó là phần lời chứng của Gioan. Tuy Gioan không phải là nhân vật trung tâm của Mùa Vọng, bởi Chúa Giê-su vẫn là trung tâm của sự mong chờ, Gioan vẫn là nhân vật không thể thiếu được trong tiến trình Mùa Vọng, mùa đợi chờ. Chính vì thế mà tuần này, Phụng vụ lại tiếp tục giới thiệu cho các tín hữu lời chứng của Gioan. Nhờ theo chân Gioan, theo lời chứng của ông, các tín hữu có thể gặp thấy Chúa Ki-tô, là “ánh sáng thế gian”, Thiên Chúa làm người.

Bối cảnh Tin Mừng:

Ga 1,6-8.19-28 được trích ra từ chương đầu tiên của Tin Mừng Gioan (thường được gọi là Lời Tựa của Tin Mừng Gioan). Cũng như Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Tin Mừng Gioan không có phần tường thuật về Giáng Sinh. Tuy nhiên, ngay câu đầu Tiên Gioan đã cho thấy rằng Đức Giê-su có nguồn gốc thần linh. Ngài chính là Ngôi Lời Nhập Thể. Ngài là sự sống và là ánh sáng thế gian (Ga 1,4.9), ánh sáng chiến thắng bóng tối (1,5). Ngài là cội nguồn của mọi ân sủng. Nhờ ân sủng của Ngài chúng ta được nhận hết ơn này đến ơn khác (1,16). Tuy nhiên, Ngài đã bị người nhà của mình chối từ (1,11). Đoạn Ga 1,6-8.19-28 là đoạn nói về sứ giả Gioan và Lời Chứng của ông được lồng vào trong những giới thiệu về Chúa Giê-su. Những người Do Thái rất quan tâm về thân phận và căn tính của Gioan bởi vì ông làm phép rửa. Khác với tường thuật của Mác-cô về thành phần tiếp cận Gioan. Mác-cô kể rằng tất cả dân cư thành Giê-ru-sa-lem đến cùng Gioan để được làm phép rửa, trong khi Gioan nhấn mạnh đến các thành phần lãnh đạo Do Thái: các tư tế, Lê-vi và những người Pha-ri-sêu. Họ đến không phải xin ông làm phép rửa nhưng chất vấn về căn tính của ông và lý do tại sao ông làm phép rửa. Ông sẽ làm chứng cách rõ ràng. Nhưng những chứng từ của ông chỉ mang lại niềm tin nhiều hơn cho những người Do Thái bình thương, còn các bậc quan chức học cao hiểu rộng thì ít người lãnh hội được. Tường thuật về Gioan được lồng vào trong tường thuật về Đức Giê-su cho thấy sự gắn bó và cần thiết của sứ vụ của ông với sứ vụ của Chúa Giê-su.



Một số điểm chú giải:

1.     “Người được Chúa sai”: Gioan Tẩy Giả được tác giả Tin Mừng thứ tư (Tin Mừng Gioan) giới thiệu ngay từ đầu là người được Chúa sai đến.  Tác giả nói trực diện rằng tác nhân của động từ “sai đi” là Chúa chứ không cần dùng lối ẩn dụ thần linh. Mác-cô cũng nói một cách gián tiếp để ám chỉ rằng Gioan chính là người đã được Thánh Kinh Cựu Ước như là người được Chúa sai đến. Mác-cô trích 2 đoạn văn Xh 23,20: “chú ý! Tôi sẽ gửi thiên sứ của tôi trước ngươi nhằm bảo vệ ngươi dọc đường và mang ngươi đến nơi ta tôi đã chuẩn bị”; và “Ta sẽ sai thiên sứ của ta, người sẽ dọn đường trước mặt tôi” (Ml 3,1). Cụm giới từ “bởi Chúa, từ Chúa” (para Theou), chỉ được dùng cho Gioan và nhiều lần hơn cho Đức Giê-su (1,4; 6,46; 7,29; 9, 16.33; 16,27; 17,8). Động từ sai đi, gửi đi trong tiếng Hy Lạp là “ἀποστέλλω là một động từ hết sức đặc biệt trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Thánh Kinh Cựu Ước nhiều lần dùng động từ này với tác nhân là chính Chúa. Ngài sai các ngôn sứ, đi làm sứ vụ cứu độ của Ngài. Ngài sai Mô-sê làm nhiệm vụ dẫn dắt dân Ngài ra khỏi Ai-cập (Đnl 34,11; 1Sm 12,8). Chúa lại sai các thủ lãnh đến giải cứu dân Ngài trong cơn khốn cùng (1Sm 12,11). Chúa sai Samuel xức dầu cho Saul làm vua dân It-ra-el (1Sm 15,1); sai ngôn sứ Nathan đến cảnh tỉnh David về lỗi lầm của ông (2Sm 12,1). Trong Tân Ước, chính Đức Giê-su thừa nhận mình được Chúa xức dầu và sai đi (Lc 4,18). Tác giả Tin Mừng Gioan giới thiệu Đức Giê-su như là người Con được Cha sai đến (Ga 3,17; 5,38). Đức Giê-su cũng sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng (Mt 10,5; Lc 9,2; 10,1). D. Carson cho rằng việc Gioan được Đấng tối cao sai đi đặt Gioan cùng thể loại với Mô-sê (Xh 3,10-15). Thật sự ông ta cũng giống Đức Giê-su theo nghĩa là người được Chúa sai đến (Ga 3,17).[1] Trong Tin Mừng thứ tư chỉ có Gioan Tẩy Giả, Đức Giê-su và Đấng Pa-rác-lê là được Chúa sai đến.[2] Danh từ các tông đồ (12 tông đồ) trong tiếng Hy Lạp là apostolo (tiếng Anh: Apostle, Pháp: apôtre, Ý: apostolo).  Danh từ này có nguồn gốc là động từ apostello (được sai đi). Các tông đồ được gọi bằng chính sứ mạng, hay ơn gọi mà Chúa giao cho các ông. Chữ Tông Đồ trong Tiếng Việt là viết tắt của cụm từ “chính tông môn đồ” (những môn đồ đầu tiên được sai đi). Trong đoạn văn này động từ “sai đi được sử dụng 3 lần trong đó chỉ có một lần tác nhân của động từ này là Thiên Chúa (Ga 1,6). Hai lần còn lại, các tác nhân lần lượt là những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu. Những người Do Thái sai các tư tế và các Lê-vi đi từ Giê-ru-sa-lem để hỏi Gioan xem ông là ai (Ga 1,19). Những người Pha-ri-sêu sai người đến hỏi Gioan về lý do tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô hay các ngôn sứ (Ga 1,24-25). Có một lần khác nữa một động từ khác, cùng nghĩa khác âm (pempo) được dùng để diễn tả sự sai đi. Và tác nhân của động từ này ám chỉ là những người Do Thái (Ga 1,22). Như vậy, cũng là động từ “sai đi” những các tùy thuộc vào các tác nhân mà người được sai đi có sứ vụ khác nhau. Trong khi, Gioan được Chúa sai đến để “làm chứng, làm chứng cho ánh sáng.” Những tác nhân còn lại, những người Do Thái, đại diện là các tư tế, pha-ri-sêu và Lê-vi thì được sai đến để chất vấn căn tính và sứ vụ của người được Chúa sai đến. Động từ “hỏi, chất vấn” được dùng đến 3 lần trong đoạn văn này (1,19.21.25). Đó là một mật độ khá dày đặc. Họ hỏi, họ chất vấn rồi họ yêu cầu. Đã tồn tại một sự đối nghịch ngay từ chương đầu (Tin Mừng Gioan) giữa những lãnh đạo Do Thái và người của Chúa. Sau này trong trình thuật về cuộc thương khó độc giả sẽ gặp thấy hình ảnh những người Do Thái muốn giết Đức Giê-su.

2.     “Để làm chứng”: Mục đích và sứ vụ Chúa sai đi và giao cho Gioan là làm chứng. Xoay quanh ý tưởng làm chứng Gioan dùng rất nhiều lần lần lẫn lộn danh từ chứng từ và động từ làm chứng. Chỉ trong câu 17 Gioan đã sử dụng một sự trùng lặp một cụm giới từ chỉ mục đích và một mệnh đề có động tử chỉ mục đích. Dịch sát nghĩa là “cho việc làm chứng, để ông làm chứng” (εἰς μαρτυρίαν ἵνα μαρτυρήσῃ). Tiếp theo, trong câu 8, tác giả Gioan lại lặp lại một lần nữa mệnh đề chỉ mục đích với động từ làm chứng: “để ông làm chứng về”. Rồi sau đó, lời chứng của ông được giới thiệu bằng một câu rất cụ thể: “đây là lời chứng của Gioan” (1,19). Cũng trong chương 1, Gioan Tẩy Giả đưa ra một lời chứng về việc ông “thấy Thần Khí tựa hình chim bồ câu ngự xuống và ở lại trên Ngài” (1,32). Tin Mừng Gioan sử dụng rất nhiều danh từ “lời chứng, bằng chứng” (16 lần:), Mathew và Luca chỉ có 5 lần (Mt 8,4; 15,19; 18,16; 19,18; 24,14; Lc 5,14; 9,5; 18,20; 21,13; 22,71) và Mác-cô nhiều hơn Matthew và Luca một lần (6 lần:1,44; 6,11; 10,19; 14,57.59.60). Ngoài danh từ “chứng từ” tác giả Gioan cũng dùng rất nhiều lần động từ “làm chứng” dành cho Gioan Tẩy Giả và Đức Giê-su (1,15; 3,32; 5,32; 5,36; 8,18; 10,25). Như thế, có thế thấy Tin Mừng Gioan là Tin Mừng của lời chứng và làm chứng. Lời chứng của Gioan Tẩy Giả là tiền hô cho những lời chứng của Đức Giê-su sau này. Chính vì thế mà tác giả R. Brown cho rằng Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh đến vai trò của Gioan như là một chứng nhân hơn là một người làm phép rửa.[3] Cũng nên biết thêm trong Tin Mừng thứ tư, Gioan không phải là người duy nhất làm chứng về Đức Giê-su. Có những nhân chứng nặng ký hơn nữa. Đó là Chúa Cha (Ga 8,18) và Thần Khí sự thật (Ga 15,26; 16,13-14).[4]

3.     Đối thể của lời chứng: “về ánh sáng” (περὶ τοῦ φωτός): Không một tác giả Tân Ước nào sử dụng danh từ “ánh sáng” (τὸ φῶς) nhiều như Tin Mừng Gioan (16 lần). Ánh sáng cũng là một chủ đề nổi bật của Tin Mừng Thứ Tư. Ánh sáng là hình ảnh ẩn dụ diễn tả chính Chúa Giê-su. Chính Chúa Giê-su cũng đã xác nhận Ngài là ánh sáng thế gian (9,5). Ngài cho biết rằng Gioan chính là cây đèn được đốt cháy để cho ánh sáng (5,35). Câu chuyện chữa người mù từ thuở mới sinh trong chương 9 là ví dụ điển hình của tiến trình từ bóng tối đến ánh sáng. Anh mù từ thuở mới sinh đã đi từ bóng tối thể lý đến ánh sáng thể lý và cuối cùng đến ánh sáng chân lý. Đó là anh ta tin vào Đức Giê-su, Đấng Chúa Cha đã sai đến. Chúa Giê-su cũng mời gọi là “hãy tin vào ánh sáng trong khi anh có ánh sáng và trở nên con cái của ánh sáng” (12,36). Trong đoạn Tin Mừng này, danh từ “ánh sáng” được lặp lại ba lần, trong đó hai lần danh từ này đều là túc từ của động từ “làm chứng”. Danh từ này được dùng với mạo từ xác định, như là ám chỉ đến một sáng sáng xác định. Đó là Đức Giê-su. Túc từ “ánh sáng” giới hạn và xác định đối tượng của hành động làm chứng của Gioan. Gioan chỉ làm chứng cho “ánh sáng”. Đó là chính Đức Giê-su.

4.     Mục đích của lời chứng: “Để tất cả mọi người tin” (ἵνα πάντες πιστεύσωσιν). Mục đích của hành động làm chứng của Gioan cũng được diễn tả một cách rõ ràng. Để tất cả mọi người tin. Tính từ bất định được dùng như danh từ “tất cả” (πάντες) diễn tả tính phổ quát của Tin Mừng. Không ai bị loại trừ trong lời mời gọi bằng lời chứng của Gioan. Gioan 1,35-37 cho chúng ta một ví dụ về tầm ảnh hưởng của lời chứng của Gioan. Qua lời giới thiệu của Gioan, hai môn đệ của ông đã đến, ở lại với Chúa Giê-su và trở thành môn đệ của Ngài.[5] Động từ “tin” trong bối cảnh này không có túc từ. Tin điều gì hay tin vào ai? Chính vì không mang theo túc từ cụ thể nên nội dung của niềm tin này có thể được hiểu rộng ra. Đó có thể là tin vào lời chứng của Gioan[6] hoặc là tin vào “ánh sáng”, điều mà Gioan làm chứng cho. Đến cuối cùng, họ có thể tin vào Đức Giê-su cũng như tất cả Tin Mừng cứu độ của Ngài. Động từ “tin” cũng là một động từ mấu chốt trong Tin Mừng thứ tư. Có đến 80 lần tác giả Gioan sự dụng động từ tin (pisteo) trong Tin Mừng thứ tư. Đây là một con số áp đảo so với các tác giả sách Tin Mừng khác. “Tin” là một yếu tố mang tính sống còn trong Tin Mừng thứ tư. Tin thì được sống không tin thì chết. Mục đích của toàn bộ Tin Mừng, những gì mà Gioan ghi lại là để các tín hữu cũng như độc giả “có thể tin rằng Đức Giê-su là Đấng Messiah, Con Thiên Chúa và nhờ tin” các tín hữu và độc giả có thể có sự sống trong danh Ngài” (Ga 20, 31). Câu chuyện chữa người mù từ thuở mới sinh trong chương 9, cũng vươn tới đỉnh cao của nó khi anh mù được chữa lành đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ bên bờ giếng Samaria (Ga 4,1-42) cũng kết thúc bằng việc “nhiều cư dân xứ Samari “tin” nhờ lời chứng” của người phụ nữ (Ga 4,39). Rồi nhiều người tin hơn hơn nữa nhờ vào chính lời của Đức Giê-su (Ga 4,41). Câu chuyện ngôi mộ trống (Ga 20,1-10) cũng kết thúc bằng niềm tin của “người môn đệ Chúa yêu”: “ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8). Thánh Tô-ma cũng được mời gọi “đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Đó chỉ là một số trong vô vàn trình thuật cũng như lời giảng liên quan đến hành động “tin” được ghi lại trong Tin Mừng thứ tư. Cũng như lời chứng và động từ làm chứng, động từ tin, mục đích của lời chứng của Gioan được đưa vào ngay từ đầu một các hữu ý nhằm nêu bật chủ đề của Tin Mừng này. Đối tượng của niềm tin chắc chắn là Đức Giê-su. Và tin vào Đức Giê-su thì không chỉ tin vào Đức Giê-su nhưng “tin vào Đấng đã sai Đức Giê-su” (Ga 12,44). Ai tin vào Đức Giê-su “sẽ không bao giờ chết” (Ga 11,26).

5.     Nội dung của lời chứng: “đây là lời chứng của Gioan” (αὕτη ἐστὶν μαρτυρία τοῦ Ἰωάννου)

(1)  “Tiếng của người hô trong hoang địa”: Thân phận của Gioan cũng tương tự như đã được viết trong Tin Mừng Mác-cô. Chỉ khác là ở đây Gioan nói về mình như là tiếng của người hô trong hoang địa. Đoạn này được lấy lại từ ý tưởng của Is 40,3. Đoạn trích của sách Ngôn sứ Isaiah từ Bản Bảy Mươi (bản dịch Thánh Kinh Do Thái qua tiếng Hy Lạp) hơi khác so với bản gốc tiếng Thái. Bản Bảy Mươi: có một ai đó kêu lên trong hoang địa: ‘hãy chuẩn bị một con đường’” trong khi bản tiến Do Thái: “một ai đó kêu lên: ‘hãy chuẩn bị một con đường trong hoang địa”. Bản Bảy Mươi, bản mà tác giả Gioan trích, nối kết nơi chốn của “người kêu lên” với vị trí “trong hoang địa”, còn bản Tiếng Do Thái thì lại xác định vị trí “con đường” phải chuẩn bị là ở trong “hoang địa”. Có lẽ, Gioan cũng như các tác giả Tân Ước muốn liên tưởng đến đời sống ẩn giật của Gioan Tẩy giả trong hoang địa và nơi ông làm phép rửa là Gio-đan cũng gần vùng sa mạc Giu-đê rộng lớn. Trong khi đo sách Isaiah mơ về một con đường trong hoang địa, có lẽ là con đường từ Babylon trở về đất Israel, cũng là con đường băng qua sa mạc. Tác giả Gioan không trích lược sách Xuất Hành và sách ngôn sứ Malakhi về việc Đức Chúa sẽ sai sứ giả của Người đi trước Đấng Messiah (Mc 1,2-3; Mt 3,2-3; Lc 3,4-5).

(2)  Không phải là Ê-li-a: thật ngạc nhiên, trong khi Tin Mừng Nhất Lãm nhất là Tin Mừng Mác-cô (Mc 9,11) và Matthew (Mt 11,4; 17,11; Lc 1,17) luôn muốn diễn tả rằng Gioan Tẩy Giả chính là Ê-li-a, người mà sách ngôn sứ Malakhi nói là sẽ được sai đến để dọn đường cho Đức Chúa (Ml 4,5). Sự chối từ thân phận Ê-li-a của Gioan làm cho nhiều nhà chú giải phải bối rối và khó lý giải được. M. Leon ghi nhận rằng đây có thể là dữ liệu cho thấy rằng Tin Mừng thứ tư được soạn thảo một cách độc lập với các Tin Mừng Nhất Lãm. Ông cũng lý giải rằng có thể Gioan vừa giống vừa khác ngôn sứ Ê-li-a. Ông giống Ê-li-a trong việc hoàn tất lời của ngôn sứ Malakhi về sự trở lại của Ê-li-a. Nhưng ông cũng khác Ê-li-a nếu người Do Thái muốn nghĩ đến, và mong mỏi một Ê-li-a lẫy lừng được đưa đi trong cơn gió lốc, trong một cỗ xe bằng lửa (2 V 2,11).[7] Gioan Tẩy Giả chắc chắn không phải Ê-li-a theo nghĩa đó. Cũng vậy, Đức Giê-su Đấng Mê-si-ah cũng sẽ đến trong bộ dạng, theo cái cách mà người Do Thái không thể đón nhận được.

(3)  Không phải là vị ngôn sứ: Danh xưng “Vị ngôn sứ” trong tiếng Hy Lạp có kèm theo một mạo từ xác định. Dấu hiệu này trong văn phạm Hy Ngữ, ngụ ý nói đến một vị ngôn sứ cụ thể chứ không phải một vị ngôn sứ bất kỳ nào. Những người được sai đến hỏi Gioan và cả Gioan đều biết rõ vị ngôn sứ này. Ông là ai vậy? Đây rất có thể là vị ngôn sứ mà ông Mô-sê đã hứa trong sách Đệ Nhị Luật: Thiên Chúa sẽ gửi cho Israel những vị ngôn sứ như ông vậy (Đnl 18,15.18). Đó c1o thể là một vị ngôn sứ của thời xuất hành, người có thế lặp lại các phép lạ của cuộc xuất hành và chinh phục đất hứa.[8] Tuy nhiên, theo B. Newman, trong thời Tân Ước, “vị ngôn sứ” là hình ảnh đặc biệt của niềm hy vọng mang tính cánh chung của người Do Thái. Trong Ga 7,40-41, “vị ngôn sứ” cũng được phân biệt với Đấng Messiah.[9] J. Robinson có suy nghĩ khác. Ông cho rằng tác giả Tin Mừng thứ tư có thể phản ánh đúng suy nghĩ của Gioan Tẩy Giả lịch sử. Có lẽ, Gioan đã không nghĩ chính mình đang đóng vai trò của ngôn sứ Ê-li-a. Robinson đưa ra bằng chứng là có nhiều đoạn trong Tin Mừng Nhất Lãm cho thấy rõ rằng dân chúng và vua Hê-rô-đê phân biệt giữa Ê-li-a và Gioan (Mc 6,14-15; 8,28). Và ngay cả các môn đệ của Đức Giê-su, trong đó có những người trước đây đã từng là môn đệ của Gioan, cũng không bao giờ nghĩ Gioan chính là Ê-li-a (Mt 17,10-13). Sự đồng hóa giữa Gioan Tẩy giả và ngôn sứ Ê-li-a có lẽ là quan điểm của thần học Ki-tô giáo thời sơ khai hơn là của chính Gioan Tẩy Giả. Theo thần học này, việc Gioan đóng vai của Ê-li-a, là cách tốt nhất để giải thích tương quan giữa Gioan và Giê-su.[10]

(4)  Không phải là Đấng Ki-tô:[11] Cụm từ ἐγὼ οὐκ εἰμὶ” (tôi không là) là một cụm từ hết sức đặc biệt trong thần học Do Thái Ki-tô giáo. Nó là phủ định của cụm từ “ἐγὼ εἰμὶ” (tôi là). F. Moloney cho rằng sự chối từ của Gioan là một chuẩn bị xa cho Đức Giê-su, người duy nhất có thể cho rằng “tôi là”.[12]ἐγὼ εἰμὶ” là cụm từ chỉ dành riêng cho Đức Chúa và Đức Giê-su. Nó có nghĩa là “Tôi hiện hữu”, “Tôi hằng hữu” hay là “Tôi hiện diện”, “Tôi tồn tại”. Dịch kiểu nào cũng không diễn tả được hết, cũng như ngôn ngữ loài người không cách nào diễn tả được hết thần tính của Thiên Chúa. Gioan khẳng định ngay từ đầu ông không phải là Đấng Ki-tô. Điều này chứng tỏ rằng rất có thể đa số dân chúng thời bấy giờ nghĩ ông là Đấng Ki-tô. Vị thế của ông trong lòng dân chúng không hề nhỏ. Trong lòng của dân chúng, đôi lúc ông được xếp ngang hang với Đức Giê-su. Họ lẫn lộn giữa ông và Đức Giê-su. Khi Đức Giê-su hỏi các môn đệ xem: “Người ta cho rằng Con Người là ai?” thì các môn đệ cho biết rằng nhiều người cho rằng: thầy là Gioan Tẩy Giả, nhóm khác cho rằng Thầy là Ê-li-a, Giê-rê-mi-a, hay là một trong các ngôn sứ (Mt 16,14; Mc 8,28; Lc 9,19). Đấng Ki-tô là một trong những danh xưng mà những lãnh đạo Do Thái đồn đoán và muốn xác nhận về thân phận của Gioan. Khi ông từ chối danh xưng và vị thế này thì họ chuyển qua Ê-li-a và “vị ngôn sứ”. Tất cả đều là những nhân vật mà những người Do Thái đang mong đợi vào thời cánh chung. Chỉ có một mình Đức Giê-được gọi là Đấng Messiah (Ga 1,41; 7,41; 11,27; 20,31). Chính Đức Giê-su thừa nhận rằng Ngài là Đấng Messiah (Ga 4,26). Niềm tin rằng Giê-su là Đấng Messiah, Con Thiên Chúa, chính là mục đích của Tin Mừng thứ tư (Ga 20,31). Tất cả những ghi chép trong Tin Mừng này là để người ta có thể tin rằng “Đức Giê-su chính là Đấng Messiah, Con Thiên Chúa”.

6.     “Đấng đang đứng giữa các ông mà các ông không biết: Câu trả lời của Gioan vừa minh giải cho phép rửa của ông vừa giới thiệu một Đấng khác, đang hiện diện giữa dân nhưng các nhà lãnh đạo Do Thái vẫn còn mù mờ. Trong Tin Mừng Mác-cô, Gioan cũng nhìn nhận rằng ông làm “phép dìm trong nước” còn “người đến sau ông” sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần (Mc 1,8). Gioan không nói gì đến “phép rửa trong Thánh Thần” nhưng vẫn đề cập đến sự nhỏ bé và bất xứng của mình trước “người đến sau” ông. “Đấng ở giữa các ông” sau này sẽ được Gioan giới thiệu một cách cụ thể rõ ràng hơn trong “ngày hôm sau” khi Đức Giê-su “tiến về phía ông”. Đây là lời giới thiệu chỉ cỏ trong Tin Mừng Gioan: “đây Chiên Thiên Chúa, người cất đi tội của trần gian” (Ga 1,29). Gioan cũng thừa nhận rằng, tự mình ông không thể biết Ngài (1,31.33), nhưng Đấng đã sai ông làm phép rửa đã nói cùng ông: “Ngài là người mà ông thấy Thần Khí ngự xuống và ở lại” (Ga 1,30-32). Như vậy, sự “không biết của Gioan” đã được giải quyết trong khi “sự không biết” của những lãnh đạo Do Thái thì vẫn kéo dài. Chính Đức Giê-su trong cuộc tranh luận với những người Pha-ri-sêu đã xác nhận: “các ông không biết tôi và cũng chẳng biết Cha tôi” (Ga 8,19).

7.     “Bê-ta-nia, bên kia sông Gio-đan”: Đây là một địa điểm khá lạ lùng và cũng gây cho các nhà chú giải nhiều tranh cãi. Bê-ta-nia được nói đến nhiều trong cả 4 sách Tin Mừng, như là nơi Đức Giê-su thường qua lại bởi nơi đó có nhà của những người bạn thân của Người (Mác-ta, Maria và Lazaro). Địa điểm này được tác giả Gioan xác định là cách xa Giê-ru-sa-lem dưới hai dặm (Ga 11,18), nghĩa là rất xa song Gio-đan, và chẳng dính dáng gì đến song Gio-đan. Vậy thì, Bê-ta-nia mà tác giả Gioan nói đến đây là Bê-ta-nia nào? Sao Gioan lại phải quan tâm đến địa danh này. D. Carson cho rằng có hang tá đề xuất về địa danh này, những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng dự đoán có nhiều sự đồng thuận nhất là Batanea (được gọi là Bashan trong sách Cựu Ước). Đó không phài là một thị trấn hay làng mạc nhưng là một vùng đông bắc của đất nước, vùng mà Đức Giê-su đã rút lui, lánh nạn vào giai đoạn cuối của sứ vụ Người khi các đối thủ cố gắng giết Người (Ga 10,39-40). Đây là vùng đất thuộc quyền cai quản của Phi-líp một vị tiểu vương dễ chịu hơn là tiểu vương Hê-rô-đê, kẻ trảm huyết Gioan Tẩy Giả. Nếu là Batanea thì tại sao tác già Gioan lại viết là Bethania (phiên âm trong Việt Ngữ là Bê-ta-ni-a)? Carson cho rằng ngày xưa, người ta dễ dàng chấp nhận những tên địa danh có những âm giống nhau được viết sai chính tả chút chút. Trong trường hợp này là thay vì “t” thì viết thành “th”, “e” thì viết thành “a”. Batania thành Bethania. Tác giả Gioan có lẽ tận dụng điểm này để nối kết và đóng khung trình thuật về sứ mạng của Chúa Giê-su. Ngài đến cùng Gioan để khởi đầu sứ vụ ở Bethania, được Gioan giới thiệu là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,28-29) và Ngài cũng kết thúc sự vụ công khai bằng cách rút lui vào Bethania (Ga 10,39-40). Rồi, ngay chương sau (Ga 11) Đức Giê-su làm một dấu lạ cuối cùng và vĩ đại nhất. Đó là phục sinh La-da-rô, tại Bethania gần Giê-ru-sa-lem.[13] Kieger thì nghĩ rằng địa danh Bethania ở đây chỉ mang tính biểu tượng chứ không phải là đia danh thực. Theo ông, Bethania được rút ra từ “bet-aniyyah”, “nghĩa là nhà của trả lời/chứng nhân/hay chứng từ. Cách hiểu này làm cho địa danh phù hợp với nơi chốn nơi Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Đức Giê-su.[14]



Bình Luận

Một lần nữa, đoạn trích về sứ Gioan Tẩy Giả được lấy lại từ chương đầu của một Tin Mừng. Lần này là từTin Mừng thứ tư (Tin Mừng Gioan). Lời mời gọi dồn dập “hãy tỉnh thức” của Chúa Nhật I Mùa Vọng được tiếp nối bằng lời mời gọi đọc lại ngay từ đầu “Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1) và bằng hành động cụ thể, đến để làm phép rửa của lòng hoán cải (Metanoia), nghĩa là thay đổi tận căn trí lòng của mình để hướng về Chúa một cách hoàn toàn. Chúa Nhật III Muà Vọng, tiến trình Mùa Vọng lại được tiếp tục bằng lời chứng của Gioan. Ông thừa nhận ông chính là vị sứ giả mà ngôn sứ Isaiah đã nói đến (Is 40,3). Thế nhưng, ông không thừa nhận thân phận Ê-li-a cũng như địa vị của vị ngôn sứ như-Mô-sê theo kiểu các lãnh đạo Do Thái mong đợi. Ông không phải là Ê-li-a được đưa đi bằng cổ xe bằng lửa. Ông cũng không phải là vị ngôn sứ làm chiến thắng Pha-ra-ô bằng những dấu lạ để đưa dân vượt qua biển đỏ an toàn. Ông dĩ nhiên không phải là Đấng Ki-tô. Ông chỉ là sứ giả, người được Chúa sai đi. Chúa sẽ sai Đức Giê-su và Thần Khí, nhưng ông phải là người được sai đến như là nhân vật dọn đường cho Đấng Messiah. Sứ vụ của ông trong Tin Mừng thứ tư rất rõ ràng: ông đến để làm chứng. Điều ông muốn làm chứng về, là “ánh sáng”. “Ánh sáng” gợi nhớ đến ngày đầu tiên Thiên Chúa tạo dựng, Ngài phán: “hãy có ánh sáng” và liền có ánh sáng (St 1,3). Ánh sáng của ngày sáng tạo đã soi sáng toàn thể địa cầu, và xua tan bóng tối. Việc tạo nên ánh đầu tiên trong cuộc sáng tạo bảy ngày, cho thấy rằng ánh sáng là thứ cần thiết nhất cho quả địa cầu này. Có lẽ chính vì thế mà điều mà Gioan được sai đến để làm chứng là làm chứng về “ánh sáng”. Cậu sinh viên Eistein, sau này là nhà vật lý học nổi tiếng, đã từng chứng minh cho một vị giáo sư triết học vô thần, rằng không có cái gì gọi là bóng tối. Chúng ta không thể làm cho bóng tối tối hơn được trong khi chúng ta có thể có ánh sáng, yếu, mạnh, vừa. Bóng tối chỉ là sự vắng bóng của ánh sáng. Nơi nào không có ánh sáng thì bóng tối mới xuất hiện.[15] Ánh sáng mà Gioan muốn làm chứng không phải là thứ ánh sáng vật lý, chỉ soi sáng cho thế giới về khía cạnh vật lý. Ánh sáng đó chính là Đức Giê-su. Ngài là một “ánh sáng” toàn diện và cho mọi người, mọi loài. Ánh sáng của Ngài có thể chiếu soi cho cả những ai không có thị lực, những người bị khiếm thị. Ngài có thể chiếu soi cho tất cả mọi người trong tất cả mọi lãnh vực. Nhất là, Ngài dẫn đưa con người ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, của hận thù, của chiến tranh, của bệnh tật để đưa người ta đến một ánh sáng huy hoàng. Đó là ánh sáng của thiện tâm, lương thiện, tình yêu, sự tha thứ, sự hòa giải… Mục tiêu của lời chứng của Gioan về ánh sáng là để tất cả mọi người tin. Đó không chỉ là mục tiêu của lời chứng của Gioan ngày từ đầu Tin Mừng thứ tư, nhưng là mục tiêu của toàn bộ Tin Mừng thứ tư được nói đến trong chương cuối cùng, “để anh chị em tin Đức Giê-su là Đấng Messiah, Con Thiên Chúa và nhờ tin mà anh chị em có sự sống trong Người” (Ga 20,31). Chúa Nhật III Mùa Vọng mời gọi chúng ta khám phá lại nét đẹp, sự thu hút, và niềm hy vọng vào “ánh sáng” là chính Đức Giê-su. Hãy khởi động lại niềm tin vào “ánh sáng” của mình để rồi quyết tâm không sống trong bóng đêm tội lỗi, hận thù, chia rẽ, ích kỷ, hưởng thụ nữa, nhưng biết chừa bỏ tội lỗi, sửa chữa những thói hư tật xấu làm mất lòng nhau và xa rời Chúa; mở lòng ra với Chúa và với mọi người, hàn gắn lại những mối quan hệ tan vỡ, xây dựng thêm những mối tương quan tốt lành thánh thiện.

Joseph Phạm Duy Thạch SVD



[1] D.A. Carson, The Gospel According to John (Grand Rapids 1991) 120.

[2] R.A. Culpepper, “The Prologue as Theological Prolegomenon to the Gospel of John”, The Prologue of the Gospel of John. Its Literary, Theological, and Philosophical Contexts. Papers read at the Colloquium Ioanneum 2013 (eds. J.G. van der Watt – R.A. Culpepper – U. Schnelle) (Tubingen 2016) 15.

[3] R.E. Brown, The Gospel According to John (I-XII). Introduction, Translation, and Notes (London 2008) 9.

[4] J. Boice liệt kết tất cả bảy loại lời chứng trong Tin Mừng Gioan: (1) quan trọng nhất là chứng từ của chính Đức Giê-su (8,14); (2) chứng từ của Chúa Cha (8,18); (3) chứng từ của Chúa Thánh Thần (16,13-14); ngoài lời chứng của Ba Ngôi còn có (4) chứng từ của Sách Thánh; (5) chứng từ của những việc Chúa Giê-su đã làm; (5) chứng từ của Gioan Tẩy Giả; và chứng từ của những người dân bình thương như là người phụ nữ Samaria, đám đông dân chúng, mười một môn đệ… [J.M. Boice, The Gospel of John. An Expositional Commentary (Grand Rapids 2005) 55].

[5] D.A. Carson, The Gospel According to John, 121.

[6] B.M. Newman – E.A. Nida, A Handbook on the Gospel of John (New York 1993) 15.

[7] L. Morris, The Gospel According to John (NICNT; Grand Rapids 1995) 118.

[8] G.R. Beasley-Murray, John (WBC 36; Dallas 2002) 24.

[9] B.M. Newman – E.A. Nida, A Handbook on the Gospel of John, 31.

[10] R.E. Brown, The Gospel According to John (I-XII) 48.

[11] Danh xưng này trong tiếng Do Thái là Messhiah, nghĩa là Đấng được xức dầu, dùng như một danh hiệu thuộc hoàng gia. Đây là DấngTin Mừng thứ tư dùng 18 lần danh xưng Χριστός có mạo từ xác định (Đấng Messiah) và bốn lần đi kèm với tên gọi Giê-su (Giê-su Ki-tô). Đa số các lần đều dùng cho Đức Giê-su. Đây là Đấng mà truyền thống Cựu Ước nói đến như là Đấng hằng được mong đợi, sẽ mang đến một vương quốc bền vững mãi mãi. Truyền thống này được dệt lên bởi lời hứa với vua Đa-vít trong sách Samuel quyển thứ hai chương 7 và lời của ngôn sứ Isaiah với nhà Đa-vít là vua A-khát trong sách ngôn sứ Isaiah, cũng chương 7.  Sách Samuel quyển thứ hai kể rằng, khi vua Đa-vít đã yên vị trong cung điện bằng gỗ bá hương còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải. Đa-vít chạnh lòng và muốn xây cho Chúa một ngôi nhà đẹp. Ít ra thì ngôi nhà ấy cũng bằng gỗ bá hương như cung điện của ông. Tuy nhiên, Đức Chúa đã bảo Na-than nói với Đa-vít  rằng: «Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi, một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quốc của nó được vững bền…nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta ; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi » (2Sm 7,12-16). Và trong bối cảnh liên quân A-ram và vương quốc miền bắc (Ít-ra-el) đang tiến đánh Giu-đa. Vua A-khát và thần dân của vương quốc miền nam (Giu-đa), Isaiah được sai đến an ủi và khích lệ A-khát đến hai lần. Lần thứ nhất, Đức Chúa bảo Isaiah nói với A-khát là cứ bình tỉnh, chớ sờn lòng, chuyện ấy sẽ không xảy ra, “Nếu các ngươi không vững tin, thì các ngươi sẽ không đứng vững» (Is 7,9). Lần thứ hai, Đức Chúa bảo vua A-khát là hãy xin một dấu. Nhưng A-khát trả lời rằng : «Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa ». Isaiah bèn nói: « chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu : « này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Emmanuel» (Is 7,14).

[12] F.J. Moloney, The Gospel of John (SP 4; Collegeville 2005) 52.

[13] D.A. Carson, The Gospel According to John, 147.

[14] R.E. Brown, The Gospel According to John (I-XII) 45.

No comments:

Post a Comment