Bản văn và dịch sát nghĩa
Việt |
Hy Lạp |
1 Sau ngày Sabát,
vào lúc bình minh ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Magđalênê và một bà
Maria khác đi xem (nhìn vào) ngôi mộ. 2 Và kìa, có một trận động đất lớn xảy ra,
vì sứ giả Thiên Chúa đi xuống từ trời và đi đến
lăn tảng đá ra và ngồi
lên trên nó. 3 Vẻ bề ngoài của ông như là ánh sáng và y phục của ông trắng như tuyết. 4 Vì nỗi sợ hãi ông, những người canh mộ run rẩy và trở nên như những người chết. 5 Để đáp trả, vị sứ
giả nói cùng những người phụ nữ: “Đừng sợ,
vì tôi biết là chi em tìm Đức Giêsu chịu đóng đinh. 6 Người không ở đây
nữa, Người đã trỗi dậy như Người đã nói,
hãy đến nhìn xem nơi người ta đã đặt Người. 7 Và ngay lập tức,
hãy đi nói cho cho các môn đệ của Người rằng: Người đã trỗi dậy từ cõi chết. Kìa! Người sẽ đi đến
Galilê trước anh em. Ở đó anh em sẽ thấy Người, Này, tôi nói cùng chị em.”[1] 8 Và họ lập tức ra
đi khỏi ngôi mộ với nỗi sợ hãi và niềm vui vĩ
đại, chạy đi báo cho các môn đệ của Người. 9 Và kìa! Đức Giêsu
gặp họ nói rằng: “Hãy vui lên!”, và họ
đến giữ lấy chân của Người và bái lạy Người. 10 Và Người nói cùng họ rằng: “Đừng sợ, hãy đi báo cho những người anh em của Thầy
để họ đi đến Galilê, ở đó họ sẽ thấy Thầy.” |
1 Ὀψὲ δὲ σαββάτων, τῇ ἐπιφωσκούσῃ εἰς μίαν σαββάτων ἦλθεν Μαριὰμ ἡ Μαγδαληνὴ καὶ ἡ ἄλλη
Μαρία θεωρῆσαι τὸν τάφον. 2 καὶ ἰδοὺ σεισμὸς ἐγένετο μέγας·
ἄγγελος γὰρ κυρίου καταβὰς
ἐξ οὐρανοῦ καὶ προσελθὼν ἀπεκύλισεν τὸν λίθον καὶ
ἐκάθητο ἐπάνω αὐτοῦ. 3ἦν δὲ ἡ εἰδέα αὐτοῦ ὡς ἀστραπὴ καὶ τὸ ἔνδυμα αὐτοῦ λευκὸν ὡς χιών. 4 ἀπὸ δὲ τοῦ φόβου αὐτοῦ
ἐσείσθησαν οἱ τηροῦντες καὶ ἐγενήθησαν ὡς νεκροί. 5 Ἀποκριθεὶς δὲ ὁ ἄγγελος εἶπεν ταῖς γυναιξίν· μὴ φοβεῖσθε ὑμεῖς, οἶδα
γὰρ ὅτι Ἰησοῦν τὸν ἐσταυρωμένον ζητεῖτε· 6 οὐκ ἔστιν ὧδε, ἠγέρθη γὰρ καθὼς εἶπεν· δεῦτε ἴδετε τὸν τόπον ὅπου ἔκειτο. 7 καὶ ταχὺ πορευθεῖσαι εἴπατε τοῖς
μαθηταῖς αὐτοῦ ὅτι ἠγέρθη ἀπὸ τῶν νεκρῶν, καὶ ἰδοὺ
προάγει ὑμᾶς εἰς τὴν Γαλιλαίαν, ἐκεῖ αὐτὸν ὄψεσθε·
ἰδοὺ εἶπον ὑμῖν. 8 Καὶ ἀπελθοῦσαι ταχὺ ἀπὸ τοῦ μνημείου μετὰ φόβου καὶ χαρᾶς μεγάλης ἔδραμον ἀπαγγεῖλαι τοῖς μαθηταῖς αὐτοῦ. 9 καὶ ἰδοὺ Ἰησοῦς ὑπήντησεν αὐταῖς λέγων· χαίρετε. αἱ δὲ προσελθοῦσαι ἐκράτησαν
αὐτοῦ τοὺς πόδας καὶ προσεκύνησαν αὐτῷ. 10 τότε λέγει αὐταῖς ὁ Ἰησοῦς· μὴ φοβεῖσθε· ὑπάγετε
ἀπαγγείλατε τοῖς ἀδελφοῖς μου ἵνα ἀπέλθωσιν εἰς
τὴν Γαλιλαίαν, κἀκεῖ με ὄψονται. (Matt. 28:1-10 BGT) |
Bối Cảnh
Mt 28,1-10, được trích ra từ phần
đầu tiên của loạt những trình thuật về biến cố phục sinh của Đức Giêsu. Trình
thuật này chia sẻ chung nguồn với Tin Mừng Máccô và Luca với nhiều chi tiết
khác biệt. Nhiều chi tiết trong trình thuật này của tác giả Mátthêu cho phép nối
kết với những dữ liệu trước đó của cùng tác giả. Chi tiết Đức Giêsu trỗi dậy từ
cõi chết được diễn tả là “như Người đã nói” có ý móc nối đến ít nhất bốn lần cụ
thể Đức Giêsu dạy các môn đệ về biến cố này trước đó. Nhân vật những người canh
mồ chính là những nhân vật được các Thượng Tế và những người Pharisêu đặt để
canh giữ mô sau khi Đức Giêsu được chôn cất (Mt 27,62-66). Những người này lại
xuất hiện trong trình thuật về âm mưu nói sai sự thật của các Thượng Tế và Kỳ
Lão (Mt 28,11-15). Danh xưng “Đức Giêsu chịu đóng đinh” nối kết với sự kiện Đức
Giêsu chịu đóng đinh được tường thuật trước đó. Tảng đá mà sứ giả Thiên Chúa từ
trời lăn ra chính là tảng đá đã được Giuse Arimathêa lăn đến cửa ngôi mộ ở Mt
27,60 và được các Thượng Tế và Kỳ Lão niêm phong (Mt 27,66). Hai nhân vật Maria
Magđalênê và một người Maria khác đã hiện diện trong cuộc thương khó. Họ theo Đức
Giêsu từ Galilê, chứng kiến Người chết và ngồi trước ngôi mộ khi Người được
chôn cất (Mt 27,61). Việc hẹn gặp mặt ở Galilê đã được Đức Giêsu nói trước
trong 26,32. Như thế, rất nhiều chi tiết và nhân vật ở câu chuyện này đã được
tác giả Mátthêu chuẩn bị từ trước.
Cấu trúc
Giới thiệu (1): Thời gian và nhân vật I. GẶP GỠ SỨ GIẢ TỪ TRỜI (2-8): Sứ giả xuất hiện (2-3): Một trận động đất lớn xảy
ra sứ giả Thiên Chúa đi xuống
từ trời và đi đến lăn tảng đá và ngồi lên trên Vẻ bề ngoài của ông như là
ánh sáng và y phục của ông trắng như tuyết Phản ứng của những người canh mồ (4): Sợ hãi, run rẩy, trở nên như người chết Thông điệp và chỉ
thị
(5-7): Đừng sợ, Người không ở
đây nữa, Người đã trỗi dậy như
Người đã nói, Hãy đến nhìn xem nơi người ta đã đặt Người. ngay lập tức,
hãy đi nói cho các môn đệ của Người: Người đã trỗi dậy
từ cõi chết. Người sẽ đi đến
Galilê trước
anh em. Ở đó anh em sẽ thấy Người, Này, tôi nói cùng chị em. Làm theo chỉ thị (8): Ngay lập tức ra đi khỏi ngôi mộ
với nỗi sợ hãi và niềm
vui vĩ đại, chạy đi báo
cho các môn đệ của Người. II. GẶP GỠ ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH (9-10): Hãy vui lên họ nắm lấy chân của Người
và bái lạy Người Đừng sợ, hãy đi báo cho các anh em của Thầy họ đi đến Galilê, ở đó họ sẽ thấy Thầy |
Một số điểm chú giải
1. Các nhân vật: Tác giả Mátthêu nói rằng
“Maria Magđalênê và một bà Maria khác” (Μαριὰμ ἡ Μαγδαληνὴ καὶ ἡ ἄλλη Μαρία),
trong khi đó những nhân vật này theo tác giả Máccô là Maria Magđalênê, Maria mẹ
của ông Giacôbê, và bà Salômê. Ngoài Maria Magđalênê và Maria mẹ ông Giacôbê
(giống Máccô), tác giả Luca thêm bà Gioana và “những người phụ nữ còn lại”,
nhưng bỏ đi bà Salômê (Lc 24,10). Xem ra, về các nhân vật đi ra mộ sáng hôm ấy,
các tác giả không đồng nhất quan điểm về số lượng và danh tính. Tuy nhiên, người
phụ nữ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng nêu tên là bà Maria Magđalênê. Tác
giả Tin Mừng thứ tư cho biết là chỉ có một mình bà Maria Magđalênê đi ra mộ (Ga
20,1) và cũng chỉ một mình bà gặp gỡ Đấng Phục Sinh (Ga 20,11-18). Tuy nhiên,
trong câu tường thuật lại cho ông Phêrô và Người môn đệ Chúa yêu, bà lại dùng động
từ ngôi thứ nhất số nhiều: “Người ta đã mang Chúa đi khỏi mồ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu” (Ga 20,2: οὐκ οἴδαμεν ποῦ ἔθηκαν αὐτόν). Tác giả Mátthêu liệt kê nhiều
người phụ nữ đứng nhìn cảnh Đức Giêsu chịu đóng đinh: Những đi theo Người từ
Galilê để giúp đỡ Người, trong đó có bà Maria Magđalênê, Maria mẹ của ông
Giacôbê và Giuse, và mẹ của các con ông Dêbêđê (Mt 27,55-56). Tuy nhiên, chỉ có
hai bà được tác giả kể tên là ngồi trước mộ Đức Giêsu lúc Người đã được an táng
(Mt 27,61)[2]
và đây cũng chính là hai người phụ nữ đi đến mồ Đức Giêsu sớm nhất, theo
Mátthêu.
2. Thời gian: Các tác giả đều đồng thuận với
nhau là sự kiện này xảy ra vào ngày thứ nhất trong tuần. Riêng tác giả Mátthêu và Máccô nhấn mạnh thêm mệnh đề thời gian “sau
ngày Sabát”, nghĩa là sau ngày nghỉ Lễ. Theo truyền thống Nhất Lãm, Đức Giêsu
chết vào chiều thứ Sáu, ngày chuẩn bị của ngày Nghỉ Sabát (Mc 15,42; Mt 27,62).
Mệnh đề thời gian “sau ngày Sabát” (Máccô nói là ‘Sau khi ngày Sabát qua đi”),
cùng với hai mệnh đề “ngày thứ nhất trong tuần” và “lúc bình minh” diễn tả một
khoảng thời gian sớm nhất mà người ta có thể đến mộ Chúa ngay sau ngày nghỉ Lễ
theo luật. Đây cũng là khoảng thời gian sớm nhất mà họ đã khám phá ra là Đức
Giêsu không còn ở đó nữa. Ngày Sabát kết thúc vào chiều tối, và có lẽ vì người
ta không thể đi ra mộ vào ban đêm được, nên phải đợi đến lúc bình minh.[3]
3. Một trận động đất lớn: Khác với các tác
giả khác, Mátthêu cho biết tại thời điểm ấy có một trận động đất lớn (σεισμὸς ἐγένετο μέγας)
đã xảy ra. Đây là hiện tượng báo hiệu một sự
xuất hiện của sứ giả từ trời. Hiện tượng này được tác giả giải thích bằng
một liên từ chỉ lý “vì” (γὰρ) sứ giả của Thiên Chúa đi xuống từ trời.
Tác giả Mátthêu thường mô tả sự kiện kèm theo những hiện tượng lạ lùng như vậy.[4]
Trong trình thuật về cảnh Đức Giêsu chết trên thập giá, Mátthêu là tác giả duy
nhất mô tả hiện tượng “đất rung chuyển, và đá nứt ra, các mồ mả được mở ra, và
nhiều xác của các thánh, những người đang yên giấc được trỗi dậy” (Mt
27,51-52). Danh từ “trận động đất” (σεισμὸς) được dùng
trong cảnh Đức Giêsu chết, được lặp lại ở cảnh này.
4. Sứ giả Thiên Chúa[5]:
Tác giả Máccô mô tả rằng trên đường những người phụ nữ đi đến mộ, họ lo lắng
không biết ai sẽ giúp họ lăn tảng đá ra. Nhưng khi họ ngước mắt nhìn lên thì thấy
tảng đá đã được lăn ra khỏi cửa mồ. Khi vào trong mồ, họ thấy một chang trai trẻ
mặc áo trắng, ngồi bên phải (Mc 16,3-5). Tác giả Luca cho biết là họ đã khám
phá tảng đá đã được lăn ra, và họ gặp hai người đàn ông đứng bên họ (Lc 24,2.4).
Chỉ có tác giả Mátthêu nói rõ ràng đó là một sứ giả Thiên Chúa, đi xuống từ trời,
và vì thế có trận động đất xảy ra. Tác giả Mátthêu như muốn diễn tả rõ ràng là ai
đã lăn tảng đá ra và lăn ra thế nào. Những chi tiết như “vẻ bề ngoài của ông
như là ánh sáng và y phục của ông trắng như tuyết” tô điểm thêm về dáng vẻ của sứ
giả Thiên Chúa, đến từ trời. Cách mô tả này tương tự như cách mà tác giả mô tả
Đức Giêsu trong cảnh biến hình (Mt 17,1-7), trong đó, “mặt của Người chiếu sáng
như mặt trời” và y phục Người được mô tả “trắng như ánh sáng”. Nếu như tác giả
Máccô và Luca bỏ ngỏ về thời điểm và tác nhân lăn tảng đá to đi, thì tác giả
Mátthêu mô tả rất rõ, chính sứ giả từ trời đã đến “lăn tảng đá ra và ngồi trên
nó”. Dữ liệu này của tác giả Mátthêu như muốn lập đầy chỗ trống của những thắc
mắc về danh tính nguồn gốc của chàng thanh niên trong Máccô hay là hai người
đàn ông trong Luca và cách thức mà tảng đá đã được lăn ra. Sự hiện diện của vị
sứ giả này rất quan trọng, vì ông chính là người giải thích cho hai người phụ nữ
biết lý do về sự biến mất của Đức Giêsu và qua đó long trọng loan báo Tin Mừng
Phục Sinh cho các bà.
5. Những người canh mộ: Đây là chi tiết
riêng của tác giả Mátthêu. Sở dĩ tác giả Mátthêu có chi tiết này là vì trước đó
tác giả cũng đã có trình thuật về sự việc các Thượng Tế và những người Pharisêu
xin phép quan Philatô cho lính canh mồ, phòng khi các môn đệ của Đức Giêsu lấy
trộm xác Người và phao tin rằng Người đã trỗi dậy từ cõi chết (Mt 27,62-68). Những
người canh mộ được sai đến, cùng với việc niêm phong ngôi mộ (Mt 27,66), tượng
trưng cho sự bảo đảm chắc chắn là các môn đệ không thể đến lấy trộm xác được.
Giờ đây, những người canh mồ có lẽ đã chứng kiến toàn bộ hiện tượng động đất và
sứ giả Chúa đi xuống lăn tảng đá ra. Vì quá sợ hãi, họ run rẩy và trở thành như
người chết (Mt 28,4). Những toan tính để bảo đảm rằng xác Đức Giêsu không bị lấy
đi của nhóm lãnh đạo đã đổ bể hoàn toàn. Những người này sau đó đã đi vào thánh
báo tin cho các Thượng tế về tất cả những điều đã xảy ra. Dĩ nhiên, những người
canh mồ và các Thượng Tế biết rõ việc xác Đức Giêsu biến mất không phải do các
môn đệ lấy trộm. Tuy nhiên, vì đã nhận một số tiền lớn của các Thượng Tế và các
Kỳ Lão, những người canh mồ đã nói đối theo ý của họ: Đang đêm, lúc chúng tôi
đang ngủ, các môn đệ của ông ta đã đến lấy trộm xác” (Mt 28,13). Hình ảnh những
người canh mồ trở thành như người chết, cùng với việc vị sứ giả của Thiên Chúa
làm lơ họ, mà chỉ nói cùng những người phụ nữ, cho thấy sự hiện diện của họ là
vô tác dụng và kế hoạch của nhóm lãnh đạo Do Thái bị phá sản, thậm chí còn phản
tác dụng vì những người canh mồ đã vô tình chứng kiến sự thật lạ lùng.
6. Đức Giêsu chịu đóng đinh: Đức Giêsu được
định danh là “người chịu đóng”, danh xưng gắn liền mới cuộc khổ nạn mà Đức
Giêsu vừa trải qua.[6] Trong
lời tiền báo về cuộc khổ nạn Đức Giêsu cũng đã báo trước Người sẽ chịu đóng
đính vào thập giá (Mt 20,19; 26,2). Đó cũng chính là khổ hình dành cho những vị
ngôn sứ được Chúa sai đến (Mt 23,34). Trong phiên tòa, dân chúng đã hô vang bản
án dành cho Đức Giêsu “Đóng đinh nó vào thập giá” (Mt 27,22; Mc 15,13.14; Lc
23,21.23). Khổ hình này được lặp đi lặp lại nhiều lần trong trình thuật thương
khó: “Trao cho họ đóng đinh vào thập giá (Mt 27,26; Mc 15,15)”; “Điệu Người đi
đóng đinh vào thập giá” (Mt 27,31; Mc 15,20); “Đóng đinh Người vào thập giá
xong” (Mt 27,35; Mc 15,25 ghi chú lúc họ đóng đinh Người là giờ thứ ba); “Cùng
chịu đóng đinh với Người” (Mt 27,44; Mc 15,27; 15,32; Lc 23,33). Tác giả Luca
còn kéo dài ngôn từ liên quan đến khổ hình “chịu đóng đinh” trong câu chuyện của
hai môn đệ trên đường về Emmaus (Lc 24,6.7). Trong bài giáo lý căn bản của các
Tông Đồ được ghi lại trong sách Công Vụ, Đức Giêsu cũng được gắn liền với danh
xưng Đấng chịu đóng đinh: “Chính nhờ danh Đức Giêsu Kitô Nadarét, Đấng mà quý vị
đả đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính
nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv 4,10). Trong
giáo huấn của mình, tác giả Phaolô nhiều lần nhấn mạnh đến khổ hình “chịu đóng
đinh” của Đức Giêsu. Phaolô khẳng định là “chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu
đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại
cho là điên rồ” (1 Cr 1,23). Vị Tông Đồ còn khẳng định tính độc tôn của của kiến
thức này: “Khi còn ở giữa anh em tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác
ngoài Đức Kitô mà là Đức Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1 Cr 2,2.8; 2 Cr
13,4; Gl 3,1). Giáo huấn về mầu nhiệm “chịu đóng đinh” được áp dụng cho các tín
hữu với những ý nghĩa mới: “Con người cũ nơi chúng ta bị đóng đinh vào thập giá
với Đức Kitô, nhờ vậy, con nguời tội lỗi đã bị hủy diệt” (Rm 6,6); “Tôi cùng chịu
đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô” (Gl 2,19); “Ai thuộc về Đức Kitô thì đã chịu
đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với những dục vọng và đam mê” (Gl
5,24). Hình ảnh Đức Kitô chịu đóng đinh vừa mang tính lịch sử để những người phụ
nữ nhận dạng ra Người, vừa gợi lên ý tưởng cứu độ qua khổ hình thập giá, và mời
gọi cùng chịu đóng đinh những thói hư tật xấu, đam mê xác thịt để được sống đời
sống mới cùng với Đấng Phục Sinh.
7. Không còn ở đây…đã trỗi dậy: Thông điệp
chính yếu, nền tảng là “Người đã trỗi dậy”. Mệnh đề “Người không còn ở đây” đối
lại với mục đích ban đầu của hai người phụ nữ “đi xem mộ”. Đi xem mộ, hay đi để
nhìn vào mộ, là hành vi tiếp nối với hành vi trước đó của hai bà, đó là, “ngồi
phía trước ngôi mộ” (Mt 27,61). Sự gắn bó với Đức Giêsu làm cho họ không muốn rời
khỏi mộ, và khi rời khỏi rồi, thì muốn trở lại thăm sớm nhất có thể. Điều mà sứ
giả từ trời mời gọi hai người phụ nữ đến mà xem là “nơi Người đã từng được đặt”
(τὸν
τόπον ὅπου ἔκειτο). Động từ “đặt” ở thì vị hoàn (ἔκειτο), diễn tả
một hành động đã từng xảy ra trong qua khứ. Người đã từng được đặt ở đây. Điều
mà hai người phụ nữ muốn nhìn thấy là ngôi mộ mà trong đó vẫn còn xác của Đức
Giêsu. Giờ đây, họ chỉ còn thấy ngôi mộ, nơi Người đã từng được đặt. Người
không còn ở đó nữa. Tất cả các chi tiết chỉ để làm rõ rằng: “Người đã phục
sinh”, điều mà hai người phục nữ chưa từng nghĩ đến. Hai người đàn ông trong
trình thuật của tác giả Luca đặt câu hỏi rằng: “Tại sao các chị lại tìm người sống
giữa những kẻ chết?” Đức Giêsu là “người sống” và không còn ở đây nữa.
Sự kiện Đức
Giêsu trỗi dậy từ cõi chết đã được Đức Giêsu bật mí không những một lần mà ba lần.
Thật vậy, cứ mỗi lần Người tiền báo về cuộc khổ nạn thì Người đều bật mí về sự
sống lại: “Ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; 17,23; 20,19).[7]
Tuy nhiên, có lẽ, vì Đức Giêsu công bố thông điệp này cùng với mầu nhiệm khổ nạn,
nên không ai để ý đến và nhớ đến, ngay cả các Tông Đồ. Chỉ có các Thượng Tế và
những người Pharisêu nhớ đến bí mật này, nhưng họ nghĩ rằng đó là lời nói của
người bịp bợm (x. Mt 27,63.64).
8. Đừng sợ (μὴ φοβεῖσθε) … Hãy vui mừng (χαίρετε): Hai người phụ nữ có lẽ cũng có nỗi sợ
hãi giống những người canh mồ, khi chứng kiến cảnh động đất cùng với sự xuất hiện
lạ lùng của sứ giả từ trời. Trước khi loan báo Tin Mừng Phục Sinh, sứ giả Thiên
Chúa trấn an những người phụ nữ là “đừng sợ”. Sau lời trấn an của sứ giả Thiên
Chúa, dường như hai bà vẫn chưa hết sợ nhưng có thêm “nỗi vui mừng lớn”: “Họ rời
khỏi mộ với nỗi sợ hãi và niềm vui lớn”. “Hãy vui mừng” (χαίρετε) là lời đầu
tiên Đức Giêsu Phục Sinh nói với các ba khi Người hiện ra. Tuy nhiên, dường như
Đức Giêsu nhận ra nỗi sợ hãi vẫn còn nơi các bà nên sau đó Người trấn an họ là
“đừng sợ” (Mt 18,10). Tâm trạng của hai người phụ nữ lẫn lộn giữa niềm vui và nỗi
sợ. Lý do cho sự vui mừng rõ ràng là vì Chúa đã Phục Sinh. Nỗi lo sợ có thể có
sự biến chuyển: Lúc đầu là do hiện tượng lạ (động đất và sứ giả Thiên Chúa xuất
hiện), nhưng về sau nỗi sợ còn lại có thể là do cảm xúc của con người trước
kinh nghiệm gặp gỡ thế giới thần linh, đặc biệt là kinh nghiệm đầu tiên về sự gặp
gỡ Đấng Phục Sinh.
9. Lập
tức hãy đi loan báo cho các môn đệ: Sau khi đã lãnh nhận Tin Mừng phục sinh,
những người phụ nữ được mời gọi “đi nói cho các môn đệ của Người”. Thông điệp
mà họ phải loan báo là: “Hãy đi
nói cho cho các môn đệ của Người rằng Người đã trỗi dậy từ cõi chết. Kìa! Người
sẽ đi đến Galilê trước anh em. Ở đó anh em sẽ thấy Người”. Không chỉ là thông
điệp về sự phục sinh của Đức Giêsu nhưng còn là thông báo về cuộc gặp gỡ tại
Galilê.
Trạng ngữ “lập
tức” (ταχὺ)
được đặt trước cụm động từ “đi nói” diễn tả mức độ khẩn cấp của thông điệp. Mệnh
lệnh khẩn cấp của vị sứ giả Thiên Chúa đã được các bà thực thi cách khẩn cấp:
“lập tức, họ rời khỏi mộ vời nỗi sợ và niềm vui lớn, chạy đi loan báo cho các
môn đệ của Người”. trạng từ “lập tức” được lặp lại cùng với động từ “chạy” cho
thấy mức độ khẩn cấp trong hành động của các bà.
Theo trình thuật
của tác giả Máccô, các bà “ra khỏi
mồ, mà chạy trốn, vì họ run rẩy và sợ ngất người ra. Và họ đã chẳng nói với ai
một lời, vì họ sợ” (Mc 16,8). Như vậy, tác giả Mátthêu đã mô tả thái độ
của các bà cách tích cực hơn khi đối diện với Tin Mừng Phục Sinh. Có lẽ, tác giả
Mátthêu nhận ra rằng vấn đề không thể kết thúc trong sự sợ hãi của những người
phụ nữ.[8]
Tương tự, tác giả Luca cũng cho thấy sau khi trở về từ ngôi mộ, các bà đã “loan báo cho toàn bộ mười một môn đệ và tất cả
những người còn lại” (Lc
24,9) và “nói đi nói lại những điều này cho các Tông Đồ” (Lc 24,10).
Mệnh lệnh của sứ giả Thiên Chúa được Đức
Giêsu nhắc lại một lần nữa. Nội dung mệnh lệnh của Đức Giêsu không có thông điệp
Phục Sinh, nhưng làm rõ mục đích của việc loan báo: “Hãy đi loan báo cho các
môn đệ của Thầy để họ có thể khởi hành đi Galilê, họ sẽ thấy Thầy ở đó” (Mt
28,10). Sở dĩ Đức Giêsu không nhắc lại thông điệp phục sinh, vì họ đã gặp Người
tận mắt và họ sẽ kể cho các môn đệ điều họ thấy. Danh xưng Đức Giêsu dùng để gọi
các môn đệ rất đặc biệt: “Những người anh em của Thầy”. Các Tông Đồ là những “người
anh em” của Đức Giêsu. Tương quan giữa Đức Giêsu và họ là tương quan “người
thân”, không còn chỉ là Thầy – trò nữa.[9]
Cách gọi này thực ra không mới mẻ lắm. Trong Mt 12,46-50, Đức Giêsu đã mở rộng
tương quan gia đình ra đến “những người thi hành ý muốn của Cha trên trời”. Hơn
nữa, trong câu chuyện về ngày cánh chung, Đức Giêsu đã gọi những người đói,
khát, trần truồng, tù nhân, khách lạ và đau bệnh, là những “người anh em bẻ nhỏ
nhất” của Người: “Những gì các ngươi làm cho một trong những người anh em bé nhỏ
của Ta là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25,40).
10. Galilê, điểm hẹn: Sự kiện “Đấng Phục
sinh đến Galilê” và “các môn đệ sẽ gặp Người ở đó” được lặp lại hai lần trong
đoạn văn này (Mt 28,7.10; Cf. Mc 16,7). Sự lặp lại này có rất nhiều ý nghĩa.
Trước tiên, trong bối cảnh trực tiếp, sự lặp lại này cho thấy điểm thống nhất
trong mệnh lệnh của sứ giả Thiên Chúa và mệnh lệnh của chính Đức Giêsu. Điều
này bảo đảm rằng, sứ giả đã nói đúng ý định của Đức Giêsu. Kế đến, sự lặp lại
này cho thấy sự nối kết chặt chẽ trong giáo huấn và hoạt động của Đức Giêsu. Quả
vậy, trước đó, Đức Giêsu đã mặc khải cho các môn đệ biết là sau khi sống lại
Người sẽ đi Galilê trước các ông: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đi Galilê trước anh
em” (Mt 26,32; Mc 14,28). Sau đó, phần kết sách Tin Mừng cho biết là “mười một
môn đệ đi tới Galilê, đến ngọn núi nơi mà Đức Giêsu truyền cho các ông đến” (Mt
28,16).[10]
Cuộc gặp gỡ tại Galilê là những dữ liệu riêng của tác giả Mátthêu, không có
trong Tin Mừng Máccô. Theo tác giả Luca, không có chuyện các môn đệ đến Galilê.
Đức Giêsu của tác giả Luca căn dặn các môn đệ là “hãy ở lại trong thành cho đến
khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24,49).[11]
Sau khi Đức Giêsu lên trời, họ “trở về Jêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở
trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24,52-53). Theo truyền thống của
sách Công Vụ (của tác giả Luca), Thánh Linh hiện xuống lúc các môn đệ đang ở
trong Nhà Tiệc Ly tại Jêrusalem. Sứ vụ của các Tông Đồ là tiến triển theo hướng
ly tâm khỏi Jêrusalem: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy, tại Jêrusalem, trong
khắp các miền Giuđê, Samari, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Galilê quả là một
địa danh rất đặc biệt với tác giả Mátthêu. Theo truyền thống Tin Mừng Nhất Lãm,
Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ tại miền Galilê và kết thúc sứ vụ tại Jêrusalem. Tuy vậy,
chỉ có một mình tác giả Mátthêu lưu ý rằng Đức Giêsu “lui về miền Galilê” và khởi
đầu sứ vụ tại đó là để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia rằng: “Này Dơvulun và đất
Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giorđan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại. Đoàn dân đang ngồi
trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong
bóng tối tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiều rọi” (Mt 4,15). Tác giả
Mátthêu cũng cho biết rằng gia đình Nadarét lui về miền Galilê dưới chỉ dẫn của
sứ giả trong giấc mơ của ông Giuse (Mt 2,22). Dĩ nhiên, Galilê không phải là một
vùng đất hoàn toàn dân ngoại. Galilê chỉ là dân ngoại so với Giuđê, nơi có
trung tâm tôn giáo Jêrusalem và đền thờ, nơi có bề dày về truyền thống đạo đức
hơn và các lãnh đạo tôn cao cấp sống ở đó. Kết thúc Tin Mừng Mátthêu, chính tại Galilê, các
môn đệ nhận sứ vụ “làm cho muôn dân thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh
Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Và rất có thể sứ vụ của các môn đệ cũng bắt
đầu tại Galilê giống với Đức Giêsu.
Bình luận tổng quát
Maria Magđalênê
và một bà Maria khác là hai trong nhiều bà đã theo Đức Giêsu từ Galilê đến
Jêrusalem để giúp đỡ Người trên hành trình sứ vụ. Hai bà đã hiện diện trong cảnh
Đức Giêsu được mai táng với tư cách là những người ngồi trước mồ của Người.
Nhưng rồi, họ cũng phải trở về nhà nghỉ lễ theo luật. Tuy nhiên, trong thâm tâm
họ vẫn muốn trở lại thăm ngôi mộ sớm nhất có thể. Những yếu tố thời gian như
“sau ngày Sabát”, “Ngày thứ nhất trong tuần”, “lúc bình mình”, như muốn nhấn mạnh
đến khoảng thời gian sớm nhất những người phụ nữ này có thể tận dụng để quay trở
lại mộ sớm nhất. Có lẽ họ có ý định tiếp tục ngồi trước ngôi mộ. Tuy nhiên, một
cảnh tượng kinh hoàng đã xảy ra, khiến họ hoảng sợ. Có một trận động đất bất
thường vì có một sứ giả từ trời đến lăn tảng đá ra khỏi mộ. Sứ giả đã cho họ biết
một thông tin lạ lùng: Đức Giêsu, đấng chịu đóng đinh đã trỗi dậy rồi, Người
không còn ở đây nữa. Tin Mừng này thật ra không lạ lẫm gì vì chính Đức Giêsu đã
báo trước đến ban lần, nhưng vì không biết, không nhớ, không hiểu nên nó vẫn là
điều bất ngờ đối với tất cả. Thay vì, xem ngôi mộ, họ được mời gọi xem nơi Đức
Giêsu đã từng được đặt mà nay đã không còn nữa. Họ được mời gọi nhanh chóng đi
loan báo cho các môn đệ của Đức Giêsu rằng: Người đã sống lại, và sẽ đến đi đến
Galilê trước các môn đệ, ở đó họ sẽ được gặp Người. Hai người phụ nữ mang theo
cảm giác sợ hãi và đầy vui mừng, nhanh chóng đi báo cho các môn đệ. Đang khi
đi, họ được gặp chính Đức Giêsu Phục Sinh. Điều đầu tiên Người mời gọi họ là
“hãy vui mừng” và trao ban thông điệp tương tự như thông điệp họ đã nhận từ vị
sứ giả.
Sự kiện những
người phụ nữ được kể tên trong biến cố trọng đại Thương Khó – Phục Sinh quả là
rất đặt biệt. Trong thế giới mà người phụ nữ không được xem trọng, thì việc nhắc
đến tên những người phụ nữ này nhiều lần nơi trình thuật quan trọng như vậy,
cho thấy đây là một sự kiện lịch sử đã in sâu vào ký ức nhóm kitô hữu sơ khai
và các tác giả Tin Mừng không thể bỏ qua.[12]
Vai trò chứng kiến cũng như chứng nhân của Maria Magđalênê và những người phụ nữ
khác là rất quan trọng. Chính họ là những người đã theo chân Đức Giêsu từ
Galilê để giúp đỡ Người, rồi theo Người đến nơi tử nạn, ngồi đối diện mộ sau
khi Người được đặt vào, đi ra mộ trước hết, là những người đầu tiên chứng kiến
ngôi mộ trống và gặp gỡ Đấng Phục Sinh, nhận lãnh sứ vụ loan tin cho các môn đệ.
Họ thực sự là những người môn đệ, những người theo Chúa, và là những tông đồ,
người được sai đi.
Lm. Jos. Phạm Duy Thạch,
SVD
Đối chiếu bản văn về biến cố ngôi mộ trống |
|||
Mc 16,1-8 |
Mt 28,1-10 |
Lc 24,1-10 |
Ga 20,1-10 |
1 Khi ngày Sabát đã trôi rồi, thì Maria
Magđalênê và Maria mẹ Giacôbê, cùng
Salômê, mua hương liệu để xức xác Người. 2 Sáng
sớm tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, họ đi đến mồ, lúc mặt trời hé
mọc. 3 Và họ nói với nhau: “Ai sẽ vần
viên đá ra khỏi cửa mồ cho ta?” 4 Nhưng khi nhìn lên, họ thấy
tảng đá đã được lăn ra rồi. Một tảng đá thật lớn! 5 Khi vào trong mồ,
họ thấy một thanh
niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, và họ hoảng sợ. 6 Nhưng
người ấy nói với họ: “đừng hoảng sợ! Các bà tìm ông Giêsu Nadarét, đã bị đóng đinh thập giá:
Người đã sống lại! Người không có đây. Này xem: Chỗ người ta đặt Người. 7 Nhưng các bà hãy đi nói với các môn đệ của Người và Phêrô rằng: Người đi
trước anh em tới Galilê: Ở đó anh em sẽ thấy
Ngài, như Ngài đã nói với anh em. 8 Họ ra
khỏi mồ, mà chạy trốn, vì họ run rẩy và bị ngất. Và họ đã chẳng nói với ai một
lời, vì họ sợ... |
1 Sau
ngày Sabát, vào lúc bình minh ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Magđalênê và một
bà Maria khác đi xem ngôi mộ. 2 Và kìa, có một trận động đất
lớn xảy ra, vì sứ giả Thiên Chúa đi xuống từ
trời và đi đến lăn tảng đá và ngồi lên trên nó. 3 Vẻ bề ngoài của ông
như là ánh sáng và y phục của ông trắng như tuyết. 4 Vì mỗi sợ hãi, những người
canh mộ run
rẩy và trở nên như những người chết. 5 Để đáp trả, vị sứ giả nói
cùng những người phụ nữ: Đừng sợ, vì tôi biết các
bà tìm Đức Giêsu chịu đóng đinh. 6 Người không ở đây nữa,
Người đã trỗi dậy như Người đã nói, hãy đến nhìn xem nơi người ta đã đặt Người. 7 Và ngay lập tức, hãy đi
nói cho cho các môn đệ của Người rằng Người đã
trỗi dậy từ cõi chết. Kìa! Người sẽ đi đến
Galilê trước anh em. Ở đó anh em sẽ thấy
Người, này! tôi nói cùng chị em. 8 Và họ lập tức ra đi khỏi
ngôi mộ với nỗi sợ hãi và niềm vui vĩ đại, họ chạy đi báo cho các môn đệ của
Người. 9 Và kia! Đức Giêsu gặp họ nói
rằng: Hãy vui lên, và họ đến bắt lấy chân của
Người và bái lạy Người 10 Và Người nói cùng họ rằng: Đừng sợ, các bà hãy đi báo cho các anh em của Thầy để
họ đi đến Galilê, ở đó họ sẽ thấy Thầy. |
1 Vào sáng sớm tinh sương, ngày thứ nhất
trong tuần,
họ đi đến ngôi mộ, mang theo dầu thơm mà họ đã chuẩn bị. 2 Họ đã khám phá ra tảng đá đã bị lăn ra khỏi mộ, 3 Khi đi vào trong, họ
không tìm thấy thân xác của Chúa Giêsu 4 Khi họ đang phân vân
về điều này, thì kìa! Có hai người đàn ông ăn mặc sáng chói đang đứng bên họ. 5 Khi họ đang sợ hãi
và sấp mặt xuống đất, thì hai người đàn ông nói cùng họ: “Tại sao chị em lại tìm người sống giữa những người chết? 6 Người không ở đây, nhưng đã sống lại, hãy nhớ lại điều
mà Người đã nói với chị em khi Người còn ở
Galilê, 7 nói rằng: Con Người phải chịu trao nộp vào tay những người tội lỗi và
sẽ chịu đóng đinh, rồi ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” 8 Và họ nhớ lại lời của Người. 9 Rồi, sau khi trở về từ ngôi mộ, họ loan báo cho toàn bộ
mười một môn đệ và tất cả những người còn lại. 10 Họ là bà Maria Magđalênê, Gioana và Maria
mẹ của ông Giacôbê và những người phụ nữ còn lại, cùng với họ, nói đi nói lại những điều này cho các Tông Đồ. |
1 Ngày thứ nhứt
trong tuần, Maria người Magđala đi đến mồ lúc sáng sớm, trời vẫn còn tối, và thấy viên đá đã cất khỏi mồ. 2 Bà chạy đi
gặp Simôn Phêrô và người môn đồ kia, người Ðức Yêsu
yêu dấu, và nói với họ: "Người ta đã cất Chúa khỏi mồ, mà chúng
ta không biết họ đặt Ngài ở đâu?" 3 Vậy Phêrô ra đi cùng với môn đồ kia, họ đi về
phía mồ, 4 cả hai chạy với nhau. Nhưng môn đồ kia chạy lanh hơn lấn
trước Phêrô, nên đã đến mồ trứơc tiên. 5 Cúi nhìn vào, ông thấy những
dải vải còn đó; nhưng ông không vào. 6 Phêrô theo sau cũng đến nơi,
và ông vào mộ, và thấy dải vải vẫn đặt, đó, 7 còn tấm thượng khâm
phủ đầu Ngài thì lại không đặt chung với dải vải, nhưng được cuộn riêng một
chỗ. 8 Bấy giờ môn đồ kia, người đã tới mộ trước tiên, cũng đi vào.
Ông đã thấy, và ông đã tin. 9 Là vì họ chưa hiểu lời Kinh thánh là Ngài
phải sống lại từ cỏi chết. 10 Các môn đồ lại trở về nơi họ ở. |
[1]
“The angel’s final words to the women (see p. 1069, n. 9), literally “Look, I
have told you,” are reminiscent of the frequent OT formula, “The Lord has
spoken” (Isa 1:2; 25:8; Joel 3:8 etc.) or “I, the Lord, have spoken” (Num
14:35; Ezek 5:15, 17, etc.). The formula marks an authoritative pronouncement
(perhaps even that the angel speaks for God), and also functions now as a call
to action. The message has been delivered, and now it is up to the women to act
on it” [R.T. FRANCE, The Gospel of
Matthew (NICNT; Grand Rapids 2007) 1101].
[2] “According to T. R. W. Longstaff, ‘The Women at the Tomb:
Matthew 28:1 Re.examined,’ NT5 TJ (1981) 277-82, it was a Jewish custom
to watch the tomb of a loved one until the third day after death to ensure that
premature burial had not taken place”
[D.J. Harrington, The Gospel of Matthew
(SP1; Collegeville 1991) 409].
[3] “In context Matthew
goes on to describe events which belong in all the traditions to Sunday
morning. Thus, the next clause towards dawn must be understood as
meaning “when the sabbath had already passed into the next day” [W.F. Albright &
C.S. Mann, Matthew. Introduction,
translation, and notes (New Haven – London 2008) 358.
[4]
“Indeed Matthew’s connective “for” suggests that the quake is itself the
result, or at least the context, of the angel’s coming, so that emphasis falls
on the angel rather than the earthquake” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 1099).
[5] “Just as angels were prominent in the infancy narratives in
communicating and clarifying God's will, so the angel here explains what happened
and what the women are to do” (D.J.
Harrington, The Gospel of Matthew, 409).
[6]
“The poignant description of Jesus as “the one who has been crucified” leaves
no room for doubt of the real death of the one who is now alive again. But the
absence of his body from the place where it had been (as the women knew, 27:61)
shows that his resurrection is no less real and physical than his death” (R.T. FRANCE,
The Gospel of Matthew, 1100).
[7]
“It is explained simply by the fulfillment of Jesus’ repeated predictions that
he would “be raised,” using the same verb as in 16:21; 17:9, 23; 20:19; 26:32
(cf. also 27:63, 64)” (R.T. FRANCE, The
Gospel of Matthew, 1100).
[8]
“Matthew has realized that the matter cannot be left where it is at Mark 16:8.
Even without the further instruction from Jesus in v. 10, the women are already
on their way to deliver their message” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 1102).
[9] “Brethren
are not the biological brothers of Jesus, but rather his disciples (see verse
16). One way to translate is “my disciples, who are like brothers to me,” but
this is a little cumbersome. “My closest friends” has also been used, and “the
ones I love like brothers” is another possibility” [B.M. Newman & P.C. Stine. A handbook on the Gospel of Matthew (UBS; New York 1992) 880.
[10] “The repetition serves the function
of placing even more emphasis on the climactic appearance in Galilee (Matt
28:16-20)” (D.J. Harrington, The Gospel of Matthew, 410); “The result of this
repetition is that the importance of the coming meeting in Galilee is further
underlined, so that the reader is well prepared for the climactic scene of the
gospel in vv. 16–20” (R.T. FRANCE, The Gospel of
Matthew, 1102).
[11] “In Luke 24 and John 20 the appearances of the risen Jesus
take place in the area of Jerusalem. In Matt 28:16-20 and John 21 he appears in
Galilee” (D.J. Harrington, The Gospel of Matthew, 409).
[12]
“All the gospels stress the significance of the women as the first witnesses of
the empty tomb. This is hardly likely to be a fictional invention, in a society
where women were not generally regarded as credible witnesses, especially as
the singling out of the women for this honor detracts from the prestige of the
male disciples” [R.T. FRANCE, The Gospel
of Matthew, 1098).
No comments:
Post a Comment