Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy Lạp |
Việt |
17 Καὶ καταβὰς μετ᾽ αὐτῶν ἔστη ἐπὶ τόπου πεδινοῦ, καὶ ὄχλος πολὺς μαθητῶν αὐτοῦ, καὶ πλῆθος πολὺ τοῦ λαοῦ ἀπὸ πάσης τῆς Ἰουδαίας καὶ Ἰερουσαλὴμ καὶ τῆς παραλίου Τύρου καὶ Σιδῶνος, 18 οἳ ἦλθον ἀκοῦσαι αὐτοῦ καὶ ἰαθῆναι ἀπὸ τῶν νόσων αὐτῶν· καὶ οἱ ἐνοχλούμενοι ἀπὸ πνευμάτων ἀκαθάρτων ἐθεραπεύοντο, 19 καὶ πᾶς ὁ ὄχλος ἐζήτουν ἅπτεσθαι αὐτοῦ, ὅτι δύναμις παρ᾽ αὐτοῦ ἐξήρχετο καὶ ἰᾶτο πάντας. 20 Καὶ αὐτὸς ἐπάρας τοὺς ὀφθαλμοὺς αὐτοῦ εἰς τοὺς μαθητὰς αὐτοῦ ἔλεγεν· Μακάριοι οἱ πτωχοί, ὅτι ὑμετέρα ἐστὶν ἡ βασιλεία τοῦ θεοῦ. 21μακάριοι οἱ πεινῶντες νῦν, ὅτι χορτασθήσεσθε. μακάριοι οἱ κλαίοντες νῦν, ὅτι γελάσετε. 22 μακάριοί ἐστε ὅταν μισήσωσιν ὑμᾶς οἱ ἄνθρωποι καὶ ὅταν ἀφορίσωσιν ὑμᾶς καὶ ὀνειδίσωσιν καὶ ἐκβάλωσιν τὸ ὄνομα ὑμῶν ὡς πονηρὸν ἕνεκα τοῦ υἱοῦ τοῦ ἀνθρώπου· 23 χάρητε ἐν ἐκείνῃ τῇ ἡμέρᾳ καὶ σκιρτήσατε, ἰδοὺ γὰρ ὁ μισθὸς ὑμῶν πολὺς ἐν τῷ οὐρανῷ· κατὰ τὰ αὐτὰ γὰρ ἐποίουν τοῖς προφήταις οἱ πατέρες αὐτῶν. 24 Πλὴν οὐαὶ ὑμῖν τοῖς πλουσίοις, ὅτι ἀπέχετε τὴν παράκλησιν ὑμῶν. 25 οὐαὶ ὑμῖν, οἱ ἐμπεπλησμένοι νῦν, ὅτι πεινάσετε. οὐαί, οἱ γελῶντες νῦν, ὅτι πενθήσετε καὶ κλαύσετε. 26 οὐαὶ ὅταν ὑμᾶς καλῶς εἴπωσιν πάντες οἱ ἄνθρωποι· κατὰ τὰ αὐτὰ γὰρ ἐποίουν τοῖς ψευδοπροφήταις οἱ πατέρες αὐτῶν. (Lk. 6:17-26 BGT) |
18 những người đến để nghe Người và để được chữa
khỏi những bệnh tật của họ. Những kẻ bị các tinh thần ô uế làm khổ,
cũng được chữa lành. 19 Tất cả đám đông cứ tìm mọi cách để sờ
vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người đi ra, cứ chữa lành tất cả. 20 Đức Giêsu ngước
mắt lên về phía các môn đệ và nói: “Phúc
cho những người nghèo khó, 21 “Phúc
cho những người bây giờ đang đói, vì anh em sẽ
được no đầy. “Phúc cho những người bây giờ đang khóc, vì anh em sẽ vui cười. 22 “Phúc
cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, loại
trừ, sỉ vả và bị loại bỏ tên như những người xấu xa. 23 Ngày đó, anh em hãy vui mừng và nhảy lên,
vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên
trời thật nhiều vì các ngôn sứ cũng đã từng bị
cha ông họ đối xử như thế. 24 “Nhưng
khốn thay cho các ngươi là những kẻ giàu có,
vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. 25 “Khốn
thay cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang
được no đủ, vì các ngươi sẽ phải đói. “Khốn thay cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ và khóc than. 26 “Khốn thay
cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì
các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế. |
Bối cảnh: Bài giảng về các mối phúc và các mối hoạ của
Đức Giêsu (Lc 6,17-26) được tác giả Luca đặt trong bối cảnh ngay sau khi Đức Giêsu
tuyển chọn nhóm Mười Hai (Lc 6,12-16). Những mối phúc và những mối hoạ này Đức Giêsu
giảng trước tiên dành cho các Tông Đồ, những người vừa được tuyển chọn. Chính vì
thế, khởi đầu các mối phúc Luca giới thiệu rằng, “Đức Giêsu ngước mắt lên về phía
các môn đệ của Người, nói rằng” (6,20).[1] Các
mối phúc đề cập đến cái phúc của những người bị thiệt thòi, bách hại đủ loại. Lời
dạy của Đức Giêsu về việc yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người ghét
mình (Lc 6,27-29) như cách mà các môn đệ phải sống các mối phúc được dạy trước đó.
Trong bối cảnh toàn Tin Mừng, các mối phúc trong Tin Mừng Luca chia sẻ một phần
nguồn văn với Tin Mừng Mátthêu. Tác giả Mátthêu nói đến tám mối phúc trong khi đó
tác giả Luca chỉ nói bốn, nhưng thêm vào bốn mối hoạ, vốn không có trong Tin Mừng
Mátthêu.
Giới thiệu
tổng quát về sứ vụ giảng dạy và chữa lành (6,17-19) Bốn mối phúc
(6,20-23) A. Những người nghèo khổ - Nước Thiên Chúa B. Những người đói – Sẽ được no đầy C. Những người đang khóc – sẽ cười D. Những người bị bách hại – phần thưởng nhiều – các ngôn
sứ Bốn mối hoạ
(6,24-26) A’. Những kẻ giàu có – đã được phần an ủi của mình rồi B’. Kẻ bây giờ đang được no đủ – sẽ phải đói C’. Những kẻ bây giờ đang cười – sẽ phải sầu khổ và
khóc than D’. Những người được mọi người ca tụng – các ngôn sứ giả |
Một vài điểm chú giải
1. Để
nghe Người và được cứu chữa: Đây là mục đích căn bản của những người tìm với Đức Giêsu.
Đáng chú ý là mục đích nghe luôn đi trước mục đích được cứu chữa. Khi liệt kê
hai hoạt động chính yếu của Đức Giêsu là giảng dạy và chữa lành, các tác giả
Tin Mừng đều cố tình xếp đặt theo thứ tự như thế (Mt 4,23; 7,29; 9,35; Lc
5,1-11; 6,6; 13,10-17). Thứ tự này phù hợp với tiến trình sứ vụ của Đức Giêsu. Đức
Giêsu khởi đầu sứ vụ bằng hành động giảng dạy (Lc 4,15; Mc 1,21). Sau đó, Ngài
bắt đầu làm những dấu lạ. Trật tự này cho thấy việc giảng Lời và nghe lời luôn
cần thiết hơn việc chữa lành. Sự chữa lành về bệnh thiếu hiệu biết về Thiên
Chúa và mầu nhiệm của Ngài quan trọng hơn là sự chữa lành về thể lý.
2. Một
nơi bằng phẳng: Khác với tác giả Mátthêu, người diễn tả Đức Giêsu lên núi và
ngồi xuống trong tư thế giảng dạy của ông Môsê (Mt 5,1), tác giả Luca diễn tả Đức
Giêsu đi xuống núi và đứng tại một nơi bằng phẳng (Lc 6,17). Chính vì thế, bài
giảng của trong Tin Mừng Mátthêu thường được gọi là “Bài Giảng trên núi”, còn bài
giảng trong Tin Mừng Luca thường được gọi là “Bài Giảng dưới đồng bằng”.[2] Hơn
nữa, vị ngôn sứ Giêsu của tác giả Luca có một vị thế dường như bình dân hơn vị
ngôn sứ Giêsu của tác giả Mátthêu. Mátthêu nhấn mạnh đến Luật và ông Môsê vì độc
giả mà tác giả hướng đến trước tiên là những người Do Thái trở lại đạo và chưa
trở lại đạo. Luca không phác hoạ Đức Giêsu như là một ông Môsê mới vì độc giả ông
nhắm đến trước tiên là những người gốc dân ngoại trở lại đạo. Đồng bằng được phác
hoạ như là nơi Đức Giêsu gặp gỡ dân Người.[3] Người
ở giữa họ chứ không phải ở cao hơn họ. Tương tự, khi mô tả cảnh Đức Giêsu Giáng
Sinh, tác giả Luca mô tả Ngài được bọc tả, đặt nằm trong máng cỏ và những người
được nhận Tin Vui trọng đại trước tiên là những người chăn chiên đang thức đêm
để canh đàn vật ngoài đồng. Ngược lại, Mátthêu lại mô tả Đức Giêsu là một vị
vua Người Do Thái mới sinh và những người tìm kiếm Ngài là các Magoi (nhà thông
thái, thiên văn, chiêm tinh, “vua”).
3.
μακάριος (hạnh phúc thay): Được dùng 4 lần trong
đoạn văn này. Đối lại với bốn chữ “phúc thay” là bốn chữ “khốn khổ thay” (οὐαί). Trong tiếng Hy Lạp cổ điển, μακάριος được dùng để diễn tả sự hạnh
phúc cao nhất của các vị thần, mà cuộc sống của họ được giải thoát khỏi những hạn
chế của cực nhọc và sự chết. Nó cũng dùng cho những anh hùng đã khuất, những người
có được hạnh phúc như các vị thần. Mô hình mối phúc liên hệ đến Tv 1: “Hạnh phúc
thay [אַ֥שְֽׁרֵי][4] người
chẳng đi theo lời khuyên của những kẻ xấu” là công bố một cá nhân hay giai cấp
đang ở trong tình trạng hạnh phúc. Xin Chúc mừng![5]
4. Những
người nghèo – những kẻ giàu: Tác giả Mátthêu nói đến những người nghèo khó
trong tinh thần. Đó là những người nghèo khó về vật chất, dẫn đến những
khốn khổ về tinh thần. Tác giả Luca nói cụ thể đến những người
nghèo về vật chất, nhưng không đề cập gì đến yếu tố tinh thần. Nghịch lý trong
cách Thiên Chúa đối đãi người nghèo và người giàu ở “trong những mối phúc” gợi
nhớ đến số phận những người mà Đức Maria đã đề cập đến trong bài ca tụng “Magnificat”:
“Những kẻ đói, Chúa làm cho thỏa mãn những điều tốt lành và những người giàu, Người
đuổi về tay trắng” (Lc 1,53). Những “người nghèo” là đối tượng đầu tiên được nhắm
đến trong hành trình rao giảng Tin Mừng của Đấng Kitô: “Thần Khí Chúa ngự trên
tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho những người nghèo”
(Lc 4,18; x. 7,22). “Những người nghèo” cũng là những thực khách mà Đức Giêsu đề
xuất chủ tiệc nên mời đầu tiên trong các bữa tiệc: “Khi đãi tiệc, ông hãy mời
những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (Lc 14,13; x. 14,21). Nghịch
lý giữa số phận của những người nghèo và những người giàu ở đời này và đời sau được
tác giả Luca mô tả một cách sống động trong câu chuyện “ông nhà giàu và người ăn
mày Ladarô”, chỉ có trong Tin Mừng Luca (Lc 16,19-31). Những người nghèo cụ thể
là những người môn đệ như Phêrô, Giacôbê, Gioan, Lêvi, những người trước đó đã
bỏ mọi sự để đi theo Đức Giêsu (Lc 5,11.28). Đó là những người nghèo tự nguyện,
tự do với của cải. Tương quan gần hơn với Chúa là điêu làm cho họ được chúc
phúc.[6] Trong
khi “những người nghèo” được ban thưởng “Nước Thiên Chúa”[7] (Lc
6,20), phần thưởng lớn nhất của đời người, “những người giàu” được báo trước những
ngăn trở lớn lao trên đường vào Nước Chúa: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn
người giàu có vào Nước Thiên Chúa” (Lc 18,25; Mc 10,25; Mt 19,24). Một ví dụ
cho thấy người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa là câu chuyện “người thủ lãnh giàu
có tham vấn về bí quyết để vào Nước Thiên Chúa. Trước lời khuyên “bán hết những
gì ông có mà phân phát cho người nghèo”, ông này đã buồn bã bỏ đi vì “ông rất
giàu” (Lc 18,18-23; 19,16-22; Mc 10,17-22). Người giàu có đã được nhận “phần an
ủi” rồi. Phần an ủi là điều gì đó mà người ta bám vào và thấy đủ. Phần an ủi của
những người giàu là sự giàu có của họ. Nó ngược lại với phần an ủi của người
nghèo là Nước Thiên Chúa.[8]
Dĩ nhiên, tác giả Luca không tuyệt đối hoá về số phận bi thảm
của những người giàu trước phần thưởng Nước Trời. Với câu chuyện hoán cải tuyệt
vời của người đứng đầu ngành thuế vụ tên là Dakêu (chỉ có trong Tin Mừng Luca),
tác giả Luca đã cho thấy ơn cứu độ vẫn có thể đối với người giàu (Lc 19,1-10). Tuy
nhiên, họ phải có sự thay đổi ngoạn mục bằng việc từ bỏ của cải và hướng đến người
nghèo. Ông Giakêu đã tặng phân nửa tài sản của ông cho người nghèo và xin đền gấp
bốn cho những thiệt hại mà ông đã gây ra cho người khác. Ông Giuse Arimathea cũng
là một ví dụ khác minh chứng cho ơn cứu độ dành cho người giàu (Mt 27,57). Điều
này chứng tỏ rằng không phải tất cả những người giàu có đều bị chúc dữ hết.
Người giàu có bị chúc dữ chỉ khi họ thỏa mãn trong những của
cải và đam mê trần tục, mà không lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu của tác
giả Luca kể câu chuyện về một người phú hộ, sau khi thu tích của cải lương thực
đầy kho lẫm, đã tự nhủ rằng: “Hồn ta hỡi mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều
năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã”. Tuy nhiên, Chúa bảo ông ta rằng:
“Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ
về tay ai?” Cuối cùng, Đức Giêsu kết luận rằng: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho
mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy đó”
(Lc 12,16-21). Một loại người giàu bị nguyền rủa nữa là những người ăn uống thỏa
thuê, và dửng dưng những số phận nghèo đói, cùng khổ chung quanh mình. Đức Giêsu
của Luca cũng kể một dụ ngôn về một ông nhà giàu mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày
ngày yến tiệc linh đình, mặc cho một người cùng khổ tên là Ladarô ngày ngày nằm
trước cổng nhà ông, thèm ăn những thứ trên bàn rơi xuống (Lc 1619-31). Câu chuyện
kết thúc với số phận trái ngược giữa hai người sau khi chết: “Ông Ladarô được nằm
trong lòng tổ phụ Ápraham” trong khi ông nhà giàu “ở dưới âm phủ, đang chịu cực
hình, bị lửa thiêu đốt”. Số phận trái ngược của ông nhà giàu sau khi chết được
tổ phụ Ápraham lý giải rằng: “Con ơi, suốt cả đời, con đã nhận phần phước của
con rồi; Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh” (Lc 16,25).
Thánh Phanxicô Assisi nói rằng: “Sự khó nghèo thánh thiêng
làm bẽ mặt tất cả mọi sự tham lam, hám lợi và mọi lo lắng cho cuộc sống này”.
Khi chú giải về mối phúc nghèo khó, đức giáo hoàng Bênêđíctô XVI chọn thánh
Phanxicô như là “biểu tượng mà lịch sử đức tin cung cấp như là sự minh họa sống
động của mối phúc này”[9]
5. Những
người đói – những kẻ no đầy: Cặp nghịch lý “phúc-hoạ” thứ hai như muốn
cụ thể hoá hơn cái nghèo. Những người đói dĩ nhiên cũng là những người nghèo.[10]
Trong khi Đức Giêsu của Mátthêu nói về sự “đói” và “khát” sự công chính (Mt
5,6)[11], tác
giả Luca dường như chỉ muốn nói đến cơn đói thể lý thật sự (những người đang đói).
Những người bây giờ đang đói sẽ được no đủ trong tương lai. Đức Giêsu đã trải
qua kinh nghiệm đói (Lc 4,2). Ông Ladarô ở trong bi kịch đói kém cho đến chết
mà không ai cho ăn (Lc 16,21). Đức Maria mô tả mối phúc này torng bài
magnificat: “Người nghèo, Ngài đổ đầy những điều thiện hảo” (Lc 1,53). Có thể tác
giả Luca muốn nói đến một sự no thoả trong bữa tiệc Nước Trời, vì người nghèo sẽ
được làm công dân Nước Trời và họ sẽ được no thỏa trong bữa tiệc Nước Trời. Đó
là cái no thỏa của anh Ladarô, khi được ở trong lòng tổ phụ Ápraham.
6. Những
người đang khóc – những kẻ đang cười[12]: Danh xưng “những
người đang khóc” (οἱ κλαίοντες)
diễn tả thân phận của những con người cùng khổ, khiến họ phải biến thành những
người luôn luôn khóc. Đó là số phận những người con Chúa bị bách hại, những người
sống trong cảnh lầm than, cơ hàn nhưng luôn biết đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Tác
giả Mátthêu nói đến tiếng khóc của bà Rakhen, tượng trưng cho tiếng khóc của
bao bà mẹ khóc thương con mình vì bị vua Erodes giết hại (Mt 2,18). Tin Mừng Máccô
kể về tiếng khóc của người nhà trước sự ra đi của con gái ông Giaia (Mc 5,38-39;
Lc 8,52). Đó cũng có thể là những người đang khóc cho tình yêu, thương xót người
thân qua đời. Cô Maria đã khóc thương em mình là Ladarô. Những người Do thái đi
với cô cũng khóc, còn Đức Giêsu thì thổn thức trong lòng và xao xuyến (Ga 11,33).
Đức Giêsu khóc thương thành Giêrusalem vì nó đã không nhận biết Người (Lc
19,41). Đó cũng có thể là những giọt nước mắt hối hận vì những lỗi lầm đã qua.
Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại tiếng khóc thảm thiết của ông Phêrô sau khi chối Chúa
ba lần (Lc 22,62; Mc 14,72). Tương tự, người phụ nữ tội lỗi đã mạo muội tiến vào
bữa tiệc, khóc ướt chân Chúa, lấy tóc mình mà lau và đã được tha thứ lỗi lầm (Lc
7,38). “Đau buồn và khóc lóc” cũng là hành động của những người “đã từng ở với Đức
Giêsu” trước cái chết của Người (Mc 16,10); của những người phụ nữ vừa “đấm ngực
vửa than khóc Người” trong hành trỉnh khổ nạn của Người (Lc 23,27-28); của bà
Maria Mácđala bên mộ Chúa (Ga 20,11.13.15); của những người sùng đạo dành cho ông
Stêphanô (Cv 8,2). Đó là những tiếng khóc đau buồn và thất vọng vì đánh mất Chúa,
thương người tử đạo. Đức Giêsu đã tiền báo về tiếng khóc này khi nói rằng “sẽ đến
giờ chàng rể bị đem đi, lúc đó họ mới ăn chay”, nghĩa là than khóc (Mt 9,15)
hay “anh em sẽ khóc lóc than van còn thế gian sẽ vui mừng; anh em sẽ lo buồn nhưng
nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16,20). Những tiếng khóc thương
cho người thân, khóc cho số phận bị bách hại, khóc vì những lỗi lầm của mình bây
giờ sẽ giúp của những người tin vào Chúa thoát khỏi “sự khóc lóc nghiến răng”
(Lc 13,28; Mt 8,12; 13,42.50; 22,13; 24,51; 25,30) vì phải xa cách Chúa muôn đời.
Ngược lại, những người đang cười hả hê vì gây ra nổi đau cho người khác, hay là
cười dửng dung trước nỗi đau của người khác, hoặc cười trong sự hưởng thụ, lạc
thú, “làm điều bất chính”, mà không biết khóc cho lỗi lầm của mình (Lc 13,27).
Những người này sẽ trở thành những người “khóc lóc và nghiến răng” (ὁ κλαυθμὸς καὶ ὁ βρυγμὸς
τῶν ὀδόντων) ở đời sau.
7. Những
người bị bách hại – những kẻ được ca tụng: Những sự bách hại mà các môn đệ
phải chịu được liệt kê là “bị người ta oán ghét, loại trừ, sỉ vả và bị xóa tên
như những người xấu xa”. Thánh Luca ghi lại nhiều chi tiết hơn về những hình thức
bách hại: Bị bắt, ngược đãi, nộp cho thượng hội đồng, bỏ tù, bị điệu ra trước mặt
quan quyền và vua chúa, bị cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp, bị giết
chết (x. Lc 21,12-17). Các môn đệ trong cơn bách hại được trong bối cảnh này được
ví như những vị ngôn sứ. Quả vậy, những vị ngôn sứ trong thời Cựu Ước đã bị bách
hại vì trung thành bảo vệ giáo huấn của Chúa (x. câu chuyện của ngôn sứ Êlia
trong 1 V 18 – 19). Hơn hết, Đức Giêsu là một vị ngôn sứ bị bách hại vì những
giá trị Tin Mừng mà Người rao giảng. Ông Gioan Tẩy giả, những người dọn đường
cho Người cũng đã đạt đến đỉnh cao của sứ vụ bằng cách chết cho công lý và sự
thật (Mt 14,1-12; Mc 6,17-29). Thực tế, tất cả các môn đệ đều bị bách hại và hầu
hết họ đều chịu tử đạo, bắt đầu từ thánh Stêphanô (Cv 8, 55-60). Ông Giacôbê là
Tông Đồ đầu tiên được phúc tử đạo (Cv 12,2).[13]
Đối lại với những
người bị bách hại là những người đời được ca tụng (nghĩa đen: Người đời nói tốt).[14]
Những người này được ví như những ngôn sứ giả. Ngôn sứ giả là những người dẫn dân
Chúa đi lầm đường lạc lối và là những người tìm hư danh, lợi lộc cho riêng mình.
Ngôn sứ Giêsu luôn làm vinh danh Thiên Chúa. Người làm phép lạ để Thiên Chúa được
chúc tục, ngợi ca. Người không tìm vinh quang cho riêng mình. Sau phép lạ chữa
lành người bại liệt, dân chúng “sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài
người được quyền năng như thế” (Mt 9,8; Mc 2,12; Lc 5,25.26; xem thêm Mt 15,31;
Lc 7,16; 13,13). Trong câu chuyện “mười người phong hủi” (chỉ có trong Tin Mừng
Luca), khi thấy một người khỏi bệnh trở lại “lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”, Đức
Giêsu hỏi rằng “không phải mười người đều được sạch sao. Thế thì, chín người
kia đâu, sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa?” (Lc 17,15.17). Điều đó
chứng tỏ rằng Đức Giêsu cũng muốn hướng dân chúng, đặc biệt là những người được
chữa lành lên Chúa, chứ không phải làm cho họ hướng về Người. Những cụm từ như “nhiều
phần thưởng trên trời” (dành cho những ngôn sứ thật), “được mọi người ca ngợi”
(dành cho ngôn sứ giả), làm cho người ta liên tưởng đến lời dạy của Đức Giêsu
liên quan đến cầu nguyện, ăn chay, và trao ban (bố thí). Những người “đạo đức
giả”, vì thích phô trương để tìm sự tán thưởng của người đời, nên “họ nhân được
phần thưởng rồi” (ἀπέχουσιν
τὸν μισθὸν αὐτῶν, Mt 6,2.5.16). Ngược lại, những người môn đệ
của Chúa, khi làm tất cả mọi việc lành trong sự kín đáo, người đời không biết,
không ca tụng, thì lại được Chúa Cha “trả lại cho” (Mt 6,4.6.18).
Bình luận tổng quát
Ngược lại, những người
giàu có, một khi thỏa mãn với những kho tàng vật chất của mình, chè chén say sưa,
mặc toàn lụa là gấm vóc mà không bận tâm đến những giá trị Tin Mừng, dửng dung trước
những mảnh đời bất hạnh, thì chắc chắn sẽ không được hưởng “Nước Trời” cùng những
niềm vui vĩnh cửu trong đó. Những người vui cười trước nỗi đau của kẻ khác, hay
vui thỏa với những thành công hiện tại, cười trong lạc thú, và làm điều bất chính
ở đời này, sẽ phải trở thành những người “khóc lóc và nghiến răng” trong sự sống
đời sau. Những người ngôn sứ giả, những người chỉ biết tìm sự tán thưởng, ca ngợi
của người khác, không dám đón nhận những đau khổ vì sứ vụ thì sẽ không có phần
thưởng nào trên quê trời nữa. Chung quy lại, những người giàu, người vui cười,
người thích được ca tụng sẽ không được ở trong Nước Thiên Chúa và không được hạnh
phúc đời đời với Chúa.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] “Presented as an instruction to “disciples” (6:20),
it is intended to shape their conduct. But it has also to be related to the
mission of Jesus as presented thus far in the Gospel: he has come to preach to
the poor, the prisoners, the blind, and the downtrodden of his day (in the
words of Isaiah, quoted in 4:18)” (J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX. Introduction, translation, and notes (AnB; New
Haven – London 2008) XXVIII, 629).
[2] “The
“sermon on the plain,” as it is usually called (because of 6:12, 17), is the
counterpart of the Matthean “sermon on the mount” (5:1–7:27)” (J.A. Fitzmyer, The Gospel
according to Luke I–IX, 627).
[3] J.A. Fitzmyer, The Gospel
according to Luke I–IX, 623.
[4] see Pss 1:1; 32:1–2; 40:4; 119:1–2; 128:1. In the NT compare
Matt 11:6; 13:16; 16:17; 24:46, and many instances in Luke (1:45; 10:23;
11:27–28) (R.T. France, The Gospel of
Matthew, 159).
[5] “The sense of congratulation and commendation is perhaps better
conveyed by “happy,” but this term generally has too psychological a
connotation: makarios does not state that a person feels happy (“Happy are
those who mourn” is a particularly inappropriate translation if the word is
understood in that way), but that they are in a “happy” situation, one which
other people ought also to wish to share” (R.T.
France, The Gospel of
Matthew, 161).
[6] P.T. Gadenz, The Gospel of Luke (CCSS; Grand Rapids
2018) 130.
[7] “The good fortune of the poor
is that theirs is the kingdom of God. Luke has the second person form, “yours,”
for Matthew’s third person, “theirs.” An awkward construction is created by the
lack of a corresponding second person indication in the first half of the
beatitude. This suggests that Luke may be secondary. The possessive is placed
in the emphatic first position” [J. Nolland, Luke 1:1-9:20 (WBC;
Dallas 2002) 35A, 283].
[8]
L.T. Johnson, The Gospel of Luke (SP3; Collegeville 1991) 108; “Jesus’
words imply that a certain shortsightedness, induced by that status, leads such
persons to think that there is nothing more to have” (J.A. Fitzmyer, The Gospel
according to Luke I–IX, 636).
[9] Benedict XVI, Jesus of Nazareth. From the Baptism in
Jordan to the Transfiguration (New York 2007) 78 – 79.
[10] “Hunger and weeping are not to be considered as separate
conditions from poverty but as characteristic manifestations of poverty” (J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 283).
[11] “Matthew has “hunger and
thirst for righteousness.” The “for righteousness” corresponds to Matthean
interests and is likely to be his addition: after his narrowing to the
attitudinal of the beatitude of the poor he uses the beatitude of the hungry to
develop an aspect of the poor’s openness to God” (Ibid.).
[12] “Laughter” is to be
understood here as the carefree expression of contentment with the success of
the present. In OT Wisdom literature it is sometimes the mark of the fool (Sir
21:20; 27:13; Qoh 7:6), and the Lucan Jesus may be alluding to such an attitude”
(J.A. Fitzmyer, The Gospel
according to Luke I–IX, 636-637).
[13] X.
L.T. Johnson, The Gospel of Luke, 107.
[14] “Though Luke in general sets great store upon good public
reputation (cf. Dupont, Béatitudes 3:89–94), he must ultimately limit
its validity as a test of truth: truth lies with the persecuted rather than
with those who gain public recognition” (J.
Nolland, Luke 1:1-9:20, 288).
No comments:
Post a Comment