VUA CỦA SỰ
THẬT. Chú Giải Tin
Mừng CN XXXIV TN B (Ga 18,33-37)
Bản Văn và dịch
sát nghĩa
Hy Lạp |
Việt |
33 Εἰσῆλθεν οὖν πάλιν εἰς τὸ πραιτώριον ὁ Πιλᾶτος καὶ ἐφώνησεν
τὸν Ἰησοῦν καὶ εἶπεν αὐτῷ· σὺ εἶ ὁ βασιλεὺς τῶν Ἰουδαίων; 34 ἀπεκρίθη Ἰησοῦς· ἀπὸ σεαυτοῦ σὺ τοῦτο λέγεις
ἢ ἄλλοι εἶπόν σοι περὶ ἐμοῦ; 35 ἀπεκρίθη ὁ Πιλᾶτος·
μήτι ἐγὼ Ἰουδαῖός εἰμι; τὸ ἔθνος τὸ σὸν καὶ οἱ ἀρχιερεῖς
παρέδωκάν σε ἐμοί· τί ἐποίησας; 36 ἀπεκρίθη Ἰησοῦς· ἡ
βασιλεία ἡ ἐμὴ οὐκ ἔστιν ἐκ τοῦ κόσμου τούτου·
εἰ ἐκ τοῦ κόσμου τούτου ἦν ἡ βασιλεία ἡ ἐμή, οἱ ὑπηρέται οἱ ἐμοὶ ἠγωνίζοντο [ἂν]
ἵνα μὴ παραδοθῶ τοῖς Ἰουδαίοις· νῦν δὲ ἡ βασιλεία ἡ ἐμὴ οὐκ ἔστιν ἐντεῦθεν. 37 εἶπεν οὖν αὐτῷ ὁ Πιλᾶτος·
οὐκοῦν βασιλεὺς εἶ σύ; ἀπεκρίθη ὁ Ἰησοῦς· σὺ λέγεις
ὅτι βασιλεύς εἰμι. ἐγὼ εἰς τοῦτο γεγέννημαι καὶ εἰς τοῦτο ἐλήλυθα
εἰς τὸν κόσμον, ἵνα μαρτυρήσω τῇ ἀληθείᾳ· πᾶς ὁ ὢν ἐκ τῆς ἀληθείας
ἀκούει μου τῆς φωνῆς.(Jn.
18:33-37 BGT) |
33 Ông Philatô lại
đi vào trong dinh và gọi Đức Giêsu và nói cùng Người: “Có phải ông là vua của Người Do Thái?” 34 Đức Giêsu trả lời: “Ông nói điều này từ chính
ông hay người khác đã nói với ông về tôi?” 35 Ông Philatô trả
lời: “Tôi không phải là người Do Thái, có phải
không nào? Dân của ông và các Thượng Tế đã nộp ông
cho tôi. Ông đã làm gì?” 36 Đức Giêsu trả lời: “Vương
quốc của tôi không thuộc về thế giới này.”
Nếu vương quốc của tôi thuộc về thế giới này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu để tôi không bị trao nộp cho những Người
Do Thái. Nhưng bây giờ Vương Quốc của tôi không
thuộc về nơi này. 37 Vì thế, ông Philatô nói
cùng Người: “Vậy, ông là vua sao? Đức Giêsu trả
lời: “Chính ông nói tôi là vua. Tôi được sinh ra và đã đến trong
thế giới này, để tôi có thể làm chứng cho sự thật.
Bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi” |
Bối cảnh
Đoạn Tin Mừng (Ga 18,33-37) nằm trong trình thuật
về các cuộc thẩm vấn của Tổng Trấn Philatô dành cho Đức Giêsu, bắt đầu từ lúc “những
người Do Thái” dẫn Đức Giêsu đến với ông đến lúc ông trao Người cho họ dẫn đi
đóng đinh vào thập giá (18,2 – 19,16a). Trình thuật được tác giả mô tả dựa trên
bối cảnh không gian trong và ngoài dinh Philatô (Bên ngoài [18,28-32]; Bên trong
[18,33-38a]; Bên ngoài [18,38b-40]; Bên trong [19,1-3]; Bên ngoài [19,4-8]; Bên
trong [19,9-11]; Bên ngoài [19,12-16a]).[1] Ông Philatô xét xử Đức Giêsu (bên trong dinh) theo yêu cầu
của những người Do Thái đang ở ngoài dinh, vì họ sợ vào dinh sẽ bị dơ bẩn. Chính
vì thế, Ông phải chạy ra, chạy vào năm lần bảy lượt. Theo tác giả
Tin Mừng thứ tư, sau khi bắt Đức Giêsu và trói lại, quân lính cùng đám thuộc hạ
của người Do Thái điệu Đức Giêsu đến nhà ông Khanan là nhạc phụ của ông Caipha
(Ga 18,13). Ông Khanan, được gọi với chức danh là Thượng Tế[2],
thẩm vấn Đức Giêsu về các môn đệ và giáo huấn của Người (Ga 18,19). Sau đó, ông
Khanan cho giải Đức Giêsu vẫn bị trói đến với Thượng Tế Caipha (Ga 18,24).
Gioan không ghi lại bất kỳ một thẩm vấn nào của Thượng Tế Caipha. Khác với Tin
Mừng Máccô, trong đó, Caipha hỏi Đức Giêsu về căn tính Mêsia của Người: “Ông có
phải là Đấng Mêsia, Con của Đấng được chúc tụng không?” Đức Giêsu đã trả lời
xác nhận cho câu hỏi này (x. Mc 14,61-62). Từ nhà Caipha, Đức Giêsu được người
Do Thái điệu đến dinh Tổng Trấn Philatô (Ga 18,18). Philatô gặp những người Do
Thái và hỏi họ về tội của Đức Giêsu. Họ trả lời rằng: “Nếu ông ta không làm gì
gian ác, thì chúng tôi đã không nộp cho quan” (Ga 18,30). Rồi, Philatô không muốn
xét xử Đức Giêsu nên ông bảo họ đem Người đi mà xét xử theo luật của họ. Tuy
nhiên, những người Do Thái nói rằng họ không có quyền xử tử ai cả (Ga 18,31).
Điều này ngụ ý rằng họ muốn Đức Giêsu phải bị tử hình. Chính vì thế, Philatô mới
trở vào và thẩm vấn Đức Giêsu. Vấn đề chính mà Philatô muốn hỏi là “có phải Đức
Giêsu là vua của Người Do Thái không?”. Câu hỏi này rõ ràng liên hệ đến chính
căn tính Mêsia của Đức Giêsu. Câu hỏi căn bản nòng cốt mà Đức Giêsu hỏi các môn
đệ sau một khoảng thời gian theo Chúa là: “Anh em bảo Thầy là ai”. Simôn Phêrô
thưa rằng: “Thầy là Đấng Kitô”[3]
(tiếng Do Thái là Mêsia) (x. Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,18-21). Chắc chắn rằng,
trong suy nghĩ của Phêrô và các anh em Tông Đồ, Đấng Kitô theo nghĩa là Kitô
Vua. Người là Đấng Mêsia được hứa là xuất thân từ hoàng tộc vua Đavíd và triều
đại của Người sẽ vô cùng vô tận (x. 2 Sm 7). Người đã tiến vào Jêrusalem trong
tiếng reo mừng hoan hô: “Hôsana! Hôsana! Chúc tụng Đấng ngự
đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua IsraEL” (Ga 12,15). Việc Đức Giêsu ngồi trên
lưng lừa được tác giả Gioan ghi chú là để ứng nhiệm lời đã chép “Hỡi thiếu nữ Sion,
đừng sợ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con” (Ga 12,16). Dân
chúng đã công khai nhận Người là vua. Có lẽ, chính vì thế mà câu hỏi Philatô thắc
mắc là “ông là vua sao?”. Ngoài chủ đề về Đấng Mêsia vua, đoạn văn này còn nhắc
đến hai chủ đề quan trọng khác. Thứ nhất, nhân vật “những người Do Thái” xuất
hiện, như là những người thù ghét Đức Giêsu rất thường thấy trong Tin Mừng
Gioan. Thứ hai, chủ đề về sự thật liên quan đến một căn tính khác của Đức Giêsu:
“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Lời của Chúa Cha cũng là sự
thật (Ga 17,17). Chúa Thánh Thần cũng được biết đến như là Thần Khí sự thật. Sinh
Khí chân lý (τὸ πνεῦμα τῆς ἀληθείας) sẽ dẫn các môn đệ trong tất cả sự thật (Ga 16,13).
Cấu trúc
(A)
Có phải ông là vua của Người Do Thái (18,33) (B) Từ chính ông hay người
khác (18,34) (C) Dân của ông và các Thượng Tế đã nộp ông
cho tôi (18,35a) (D) Ông đã làm gì? (18,35b) (E) “Vương quốc của tôi không phải từ
thế giới này (18,36a) (C’)
Để tôi không bị trao nộp cho những Người Do Thái (18,36b) (E’) Vương Quốc của tôi không phải từ
nơi này (18,36c) (A’) Vậy, ông là vua sao? (18,37a) (B’) “Chính ông nói tôi là
vua (18,37b) (D’) Làm chứng cho sự thật (18,37c) Bất cứ ai nghe từ sự thật thì nghe tiếng tôi. (18,37d)
|
Một số điểm
chú giải
1.
Philatô:[4]
Ông là một Tổng Trấn
(tương đương Tỉnh Trưởng) Rôma, đời thứ ba (sau Coponius, 6 – 9 CE; và Valerius
Gratus, 15 – 36 CE) tại tỉnh Giuđê, và là người cai trị lâu thứ hai trên vùng đất
này (26-36 C.E.). Nhiệm kỳ của ông bắt đầu từ thời kỳ hoạt động của Gioan Tẩy
Giả, cũng như sứ vụ công khai của Đức Giêsu (x. Lc 3,1). Philatô đóng vai trò
chính yếu trong vụ xử và cho phép đóng đinh Đức Giêsu (Mt 27,1-2.11-26; Mc
15,1-15; Lc 23,1-25; Ga 18,28 – 19,16; Cv 3,13; 4,27; 13,28; 1 Tm 6,13). Hình ảnh
của Philatô hơi khác nhau trong mỗi sách Tin Mừng. Tuy nhiên chung quy lại, dường
như các tác giả đều cho thấy rằng ông Philatô nhận ra Đức Giêsu vô tội, nhưng
vì chiều lòng dân chúng, ông đành giao Đức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá.
Máccô ghi chú rằng: “Ông thừa biết là chỉ vì ganh tỵ mà họ nộp Đức Giêsu” và
ông hỏi đám đông có muốn ông phóng thích “vua Dân Do Thái” cho họ không. Khi họ
la to đòi đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá, ông lại hỏi rằng “nhưng ông ấy đã
làm điều gì gian ác?” (x. Mc 15,1-15). Tương tự, Mátthêu lặp lại những thái độ
tích cực của Ông Philatô đối với Đức Giêsu và không có ý muốn xử tử Đức Giêsu.
Tuy nhiên, Mátthêu thêm vào hai chi tiết rất quan trọng. Thứ nhất, người vợ của
ông Philatô đến can thiệp trong lúc ông đang ngồi xử án. Bà gọi Đức Giêsu là
“người công chính” và khuyên chồng mình không nên nhúng tay vào vụ xử Đức Giêsu:
“Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao
thấy mình phải khổ nhiều vì ông ấy” (Mt 27,19). Thứ hai, ông đã “lấy nước rửa
tay trước mặt đám đông và nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này” (Mt 27,24).
Theo Luca, ông Philatô biện hộ nói rằng Đức Giêsu vô tội đến ba lần, + một: (i)
“Ta xét thấy người này không có tội gì” (Lc 23,4); (ii) “Ta đã hỏi cung ngay
trước mặt các người, mà không thấy người này có tội gì, như các người tố cáo
(Lc 23,14); (iii) “Các người thấy đó, ông này chẳng có tội gì đáng chết cả” (Lc
23,15); (iv) Qua lời ông Philatô, độc giả cũng biết rằng cả vua Hêrôđê cũng
không thấy Đức Giêsu có tội. Hơn nữa, Luca còn ghi chú rằng “Philatô muốn thả Đức
Giêsu” (Lc 23,20); Ông cố gắng làm dịu dân chúng nên nói rằng “vậy, ta sẽ cho
đánh đòn rồi thả hắn ra” (Lc Lc 23,22). Tương tự, Philatô của Gioan cũng có ít
nhất ba lần biện hộ cho sự vô tội của Đức Giêsu: “Phần ta, ta không thấy lý do
nào để kết tội ông ấy” (Ga 18,38); (ii) “Ta dẫn ông ấy ra cho các người, để các
người biết rằng ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy” (Ga 19,4); (iii)
“Các ngươi cứ đem ông ấy đi mà đóng đinh, phần ta, ta không tìm thấy lý do gì để
kết tội ông ấy” (Ga 19,6). Gioan cũng ghi chú thêm là “từ đó ông Philatô tìm
cách tha Người” (Ga 19,21). Trong đoạn Tin Mừng này, Philatô chất vấn Đức Giêsu
về căn tính vương đế của Người và về lý do tại sao họ nộp Người cho ông.
2.
“Vua của Người Do Thái”: Trong ba câu hỏi quan Tổng Trấn đặt ra cho Đức Giêsu trong đoạn này, thì có
đến hai câu hỏi liên quan đến căn tính “vương đế” của Đức Giêsu: “Ông có phải
là vua của những người Do Thái không?” (18,33); “Vậy, ông là vua sao?” (18,37).
Thật lạ lùng, câu hỏi mà ông Philatô hỏi Đức Giêsu lại là “ông là vua dân Do
Thái sao?”. Một câu hỏi có vẻ ngạc nhiên và có thể có ngụ ý mỉa mai, chua xót.
Lẽ ra, quan Tổng Trấn nên hỏi về bản cáo trạng về những tội Đức Giêsu đã phạm
(nếu có) vì người Do Thái nộp Đức Giêsu cho quan, vì đinh ninh rằng Người đã và
đang làm nhiều điều gian ác (18,30). Ông Philatô ngạc nhiên không hiểu tại sao
họ lại trao nộp vua của họ. Ông, có lẽ, mỉa mai rằng Đức Giêsu làm vua kiểu gì
mà bị dân ghét đến vậy. Chính vì thế, câu hỏi là “ông có thật là vua của người
Do Thái không”? Mà nếu là vua thật thì sao ra nông nỗi này? Dữ liệu mà quan Tổng
Trấn có về căn tính “vua của những người Do Thái” của Đức Giêsu, có lẽ đến từ sự
kiện Đức Giêsu vào thành Jêrusalem, trong tiếng reo hò chào đón của dân chúng:
“Hôsana! Hôsana! Chúc tụng Đấng
ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua IsraEL” (Ga 12,13). Dân chúng trong Tin Mừng
Máccô còn hô vang: “Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavíd tổ phụ
chúng ta. Hôsana trên các tầng
trời” (Mc 11,10). Còn Luca thì ghi lại cụ thể hơn: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự
đến nhân danh Chúa!” (Lc 19,38). Trong buổi truyền tin cho Đức Maria, sứ thần
đã bật mí cùng Đức Maria về căn tính vương đế của Đức Giêsu: “Thiên Chúa sẽ ban
cho Người ngai vàng của vua Đavíd tổ tiên Người; Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến
muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,32-33). Dân chúng
trong Mátthêu thì tung hô Đức Giêsu như là Con Vua Đavíd (ngụ ý người thừa kế
ngai vàng vua Đavíd). Tuy nhiên, trong trình thuật về Giáng Sinh, Mátthêu là
tác giả duy nhất đã dùng danh xưng này, qua cửa miệng các nhà chiêm tinh: “Đức
vua của những Người Do Thái mới sinh hiện ở đâu?” (Mt 2,2). Điều này ngụ ý rằng,
ngay cả những người ngoại ở phương xa cũng đã nhìn thấy căn tính đế vương nơi Đức
Giêsu. Đức Giêsu cũng không từ chối danh xưng này.[5]
Khi Philatô hỏi Người, Người đã xác nhận: “Chính ngài nói tôi là vua” (Ga 18,37),
qua việc Người nói về vương quốc của Người. Thật ra, kiểu trả lời của Đức Giêsu
dường như vừa khẳng định, lại vừa từ chối rằng “Người là vua”. Khẳng định vì
Người đã nói về vương quốc của Người; và từ chối vì Người không phải là vua
theo cách nghĩ của ông Philatô. Điều đó chứng tỏ rằng khái niệm về căn tính
“vua” của Đức Giêsu, khác với khái niệm ấy của ông Philatô và những người Do
Thái. Cuối cùng, những người Do Thái (chống đối) phủ nhận hoàn toàn danh hiệu
này của Đức Giêsu. Họ thà nhìn nhận hoàng đế Rôma hơn là nhìn nhận Đức Giêsu
như là vua của họ: “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài hoàng đế Kaisar”
(19,15). Còn quân lính thì chế giễu Người bằng cách mặc cho Người một áo choàng
đỏ, rồi đội vương miện bằng vòng gai lên đầu Người và nói: “Tâu vua của những
Người Do Thái”, rồi vả vào mặt Người (Ga 19,3). Trên thập giá Đức Giêsu có ghi
một tấm bảng bằng ba thứ tiếng (Do Thái, Latinh, và Hy Lạp): “Giêsu Nadarét,
vua của những người Do Thái” (Ga 19,19-20). Đây cũng là bảng hiệu mang tính chế
giễu chứ không phải một cách thức định danh, định tín. Đức Giêsu thật sự là vua
Mêsia theo lời hứa trong Sách Thánh Cựu Ước. Người xuất thân từ hoàng tộc Đavíd;
Sinh ra tại quê hương vua Đavíd (Bếtlehem); Được Phêrô tuyên xưng là Đấng Kitô
(Mêsia); Được dân chúng rước vào thành như là đế vương; Chính Người cũng xác nhận
điều ấy. Tuy nhiên, vương quyền[6] và
vương quốc của Người không phải thuộc trần thế như ông Philatô và những người
Do Thái lầm tưởng.
3.
“Người Do Thái”: Trong
bốn tác giả sách Tin Mừng, Gioan là tác giả đề cập đến “những
người Do Thái” nhiều nhất (Mt: 5 lần; Mc: 6 lần; Lc:
3 lần; Ga: 61 lần). Có ít nhất ba nhóm nghĩa cho danh từ
“những người Do Thái” được dùng trong Tin Mừng thứ tư: (1) Bất cứ người Do Thái
nào (2,6.13; 3,1.26; 4,9a.9b) (2) Những người Do Thái đối nghịch với Đức Giêsu,
thậm chí muốn giết Đức Giêsu (2,18.20; 5,16.18; 7,1; 10,31.33); (3) Những người
Do Thái tin vào Đức Giêsu (8,31; Ông Nicôđêmô [3,1-21;19,39]; Giuse Arimathê
[19,38]; 12,11). Trong đoạn Tin Mừng này, danh xưng “những người Do Thái” xuất
hiện ba lần. Hai lần đầu, danh từ này được dùng để diễn tả “những
người Do Thái” nói chung, phân biệt với những người thuộc dân tộc
khác: Ông Philatô nói: “Tôi không phải là người Do Thái, phải không nào?”
(18,35); Ông Philatô hỏi: “Ông có phải là vua của những người Do Thái?”
(18,33). Lần thứ ba, danh từ “những người Do Thái” có nghĩa là những người
đang chống đối và muốn giết Đức Giêsu: “Nếu Vương Quốc của tôi từ thế giới này,
thuộc hạ của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho những người Do Thái”
(18,36). Người Do Thái trong nghĩa thứ ba này có lẽ chủ yếu là nhóm lãnh đạo Do
Thái (các Thượng Tế và những người Pharisêu [Ga 18,3]), những người âm mưu và
sách động dân chúng lên án tử Đức Giêsu.
4.
“Dân của ông và các Thượng Tế”: Danh từ chung “người dân, dân tộc” đi kèm với tính từ sở hữu, ngôi
thứ hai số ít (của ông) xác định dân này là của Đức Giêsu, hay thuộc về Đức Giêsu.
Nếu hiểu rằng Đức Giêsu là vua, thì có thể hiểu những người này như là thần dân
của Đức Giêsu. Cũng có thể hiểu một cách đơn giản danh từ “dân của ông” như là
cách nói những người cùng chủng tộc và quốc gia với Đức Giêsu. Thượng tế là người
đứng đầu Đền Thờ và cũng là người đứng đầu cơ quan hành pháp của chính phủ tỉnh
Giuđêa, vào thời ấy (dĩ nhiên là sau Tổng Trấn Rôma). Thực tế, họ được các Tổng
Trấn Rôma bổ nhiệm. Họ có quyền thẩm vấn và xét xử tội phạm như trong vụ án của
Đức Giêsu, nhưng họ không có quyền kết án tử hình, nên họ cần đến ông Philatô
công bố bản án tử. Sở dĩ, ông Philatô gọi là “các Thượng Tế” (số nhiều) có thể
bao gồm cả Khanan, (đã rời nhiệm sở nhưng vẫn còn quyền lực), và Caipha (người
đương nhiệm sở). Cả dân chúng lẫn các Thượng Tế cùng nộp Đức Giêsu, nghĩa là từ
quan đến dân đều muốn Đức Giêsu bị quan Philatô xử tử.
5.
“Đã nộp”: Động từ
trao nộp được dùng hai lần trong đoạn Tin Mừng này, một lần ở chủ động và một lần
bị động. Lần thứ nhất, Philatô nói rằng “dân của ông và các Thượng Tế đã nộp
ông cho tôi” (18,35). Lần thứ hai, Đức Giêsu nói rằng Người đã bị nộp cho những
người Do Thái. Túc từ gián tiếp của động từ “trao nộp” khác nhau ở hai lần: (i)
Nộp cho Philatô; (ii) Nộp cho những người Do Thái. Chủ ngữ của hành động “nộp”
Đức Giêsu cho quan Philatô chính là những người Do Thái: “Nếu ông ấy không làm
gì gian ác thì chúng tôi đã không nộp ông ấy cho quan” (Ga 18,30). Còn tác nhân
của hành động “nộp” Đức Giêsu cho những người Do Thái có thể là Giuđa Ítcariốt,
với sự giúp đỡ của quân lính của các Thượng Tế và những người Pharisêu (Ga
18,3). Tuy nhiên, tác nhân đó cũng rất có thể là chính Đức Giêsu. Chính Người
đã tự trao nộp mình. Đó cũng là thánh ý của Chúa Cha. Thực tế, khi Đức Giêsu trả
lời cho đám lính đến bắt Người: “Chính là Ta đây”, họ đã lùi lại và ngã xuống đất.
Phêrô cũng đã tuốt gươm ra và chém đứt tai bên phải của Mankhô, một đầy tớ của
vị Thượng Tế. Đức Giêsu đáp trả rằng: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Cha đã
trao, lẽ nào Thầy không uống?” (Ga 18,11). Nhắc đến nhân vật những “người Do
Thái” trong hành động “bị trao nộp”, Đức Giêsu dường như muốn nhấn mạnh đến vai
trò chính của những người Do Thái trong vụ án này hơn là của Tổng Trấn Philatô.
Tin Mừng Nhất Lãm nói đến nhiều loại túc từ gián tiếp của động từ “trao nộp”: (i)
“Bị nộp cho các Thượng Tế và Kinh Sư” (Mt 20,18; Mc 10,33) (ii) “Bị nộp vào tay
người đời” (Nghĩa đen: Người ta, Mt 17,22; Mc 9,31; Lc 9,44); (iii) “Bị nộp vào
tay những kẻ tội lỗi” (Mt 26,45; Mc 14,41; Lc 24,7); (iv) Nộp cho Tổng Trấn Philatô
(Mt 27,2; Mc 15,1); (v) “Nộp cho dân ngoại” (nghĩa đen: Các dân, Lc 18,32).
6.
“Ông đã làm gì?”: Câu
hỏi này đi liền sau câu “dân của ông” và các “Thượng Tế” đã nộp ông cho tôi, tỏ
lộ một thái độ vừa ngạc nhiên vừa chua xót. Philatô ngụ ý rằng, sao ra nông nỗi
này vậy ông Giêsu? Ông đa làm gì đến nổi cả quan và dân của ông phải nộp ông
cho một người ngoại như tôi? Tôi nghe nói ông là vua của họ. Họ đã tung hô ông
lúc ông tiến vào thành Jêrusalem. Chẳng phải thế sao? Câu hỏi này cũng có ý chất vấn về những điều gian ác mà những người Do Thái
đã cáo buộc Đức Giêsu.
7.
Vương quốc của tôi: Đức
Giêsu không lại không trả lời trực tiếp cho câu hỏi của ông Philatô (Ông đã làm
gì nên tội?). Đức Giêsu dường như tiếp tục lý giải câu hỏi trước (Có phải Ông
là vua của những người Do Thái?). Người nói về vương quốc của Người.[7] Danh
từ “vương quốc” (ἡ βασιλεία), cùng với tính từ sở hữu “của tôi” (ἡ ἐμὴ) được dùng ba lần trong câu trả lời của Đức
Giêsu. Trong tiếng Hy Lạp danh xưng “vua” và “vương quốc” có cùng gốc từ: Vua (βασιλεὺς); Vương quốc (ἡ βασιλεία). Ngoài nghĩa là “nước”, “vương quốc”.
Danh từ này còn có nghĩa là “vương triều”, “triều đại”. Đức Giêsu có thể ngụ ý
cả hai nghĩa. Không giống như Tin Mừng Nhất Lãm (dùng nhiều lần danh xưng vương
quốc), Tin Mừng thư tư chỉ dùng hai lần danh xưng này. Ngoài lần này, một lần khác
trong bối cảnh đối thoại với ông Nicôđêmô: Phải tái sinh bởi nước và Thần Khí mới
có thể vào vương quốc (Ga 3,3-5). Vương quốc là nơi Chúa trị vì, một cộng đoàn
yêu thương huynh đệ và những ai thuộc về Chúa, thuộc về sự thật, đáp trả lại tiếng
của Đức Giêsu sẽ vào vương quốc.[8] Tin
Mừng Nhất Lãm nói vương quốc Thiên Chúa trong lời công bố của Đức Giêsu, diễn tả
những hoạt động năng động của Thiên Chúa tối cao vì ơn cứu độ nhân loại qua những
hoạt động của Đức Giêsu.[9] Như
đã nói trên căn tính “vua” của Đức Giêsu không giống với cách hiểu của Philatô
cũng như những người Do Thái, kể cả các Tông Đồ. Tương tự, vương quốc của Người
cũng vậy. Nó được phân biệt với vương quốc trần gian bằng cụm giới từ “không
thuộc thế giới này”, cũng được lặp lại ba lần. Khởi đầu sứ vụ của mình, Đức Giêsu
đã mời gọi: “Thời kỳ đã hoàn tất, Vương Quốc (triều đại) Thiên Chúa đã đến gần,
anh chị em hay hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15) [πεπλήρωται ὁ καιρὸς καὶ ἤγγικεν
ἡ βασιλεία τοῦ θεοῦ·
μετανοεῖτε καὶ πιστεύετε ἐν τῷ εὐαγγελίῳ]. (Mátthêu dùng danh xưng “Vương Quốc Thiên Giới”, thay vì Vương Quốc
Thiên Chúa như Máccô [ἡ βασιλεία τῶν
οὐρανῶν, Mt 4,17]). Vương quốc
của Đức Giêsu, cũng là vương quốc của Thiên Chúa,[10] đã
khởi sự nhưng chưa hoàn tất. Nó không thuộc chốn này, giống như vương quốc của
thế quyền như người ta nghĩ.
Vương
quốc của tôi không thuộc về thế giới này, Nếu vương quốc của tôi thuộc về thế giới này, thì những thuộc hạ của tôi đã chiến đấu để tôi không bị trao nộp cho những người
Do Thái, Thật sự, vương quốc của tôi không thuộc về nơi này. |
8.
“Được sinh ra và đã đến trong thế giới này”: Đức Giêsu muốn nói đến mầu nhiệm nhập thể, như
cách mọi người vẫn biết về Người, khi Người nói rằng “tôi đã được sinh ra”. Tác
giả Lagrange, từ chối bất cứ cách hiểu nào về động từ thứ nhất liên quan đến sự
sinh ra của Đức Giêsu và cho rằng cả hai động từ đều chỉ diễn tả một chuyện mà
thôi. Sự sinh ra của Đức Giêsu là đến trong thế gian này.[11] Tuy
nhiên, tác giả Tin Mừng thứ tư đã diễn tả trong lời tựa rằng: “Lời đã trở nên
xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14a). Như thế, tác giả đã nói rõ mầu
nhiệm nhập thể giống như các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm. Người đã được sinh ra bởi Đức Maria; là dưỡng
tử của thánh Giuse; Lớn lên tại làng Nadarét. Tuy nhiên, khi Người nói “tôi đã
đến trong thế giới này”, Người ngụ ý đến căn tính thần linh của mình. Người thuộc
một thế giới khác chứ không phải thế giới này, Kinh Tin Kính tuyên xưng rằng Đức
Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa. Người “được sinh ra mà không phải được tạo
thành”.
9.
“Làm chứng cho sự thật”: Nhìn vào cấu trúc [D: Ông đã làm gì? (18,35b)// D’: Làm chứng cho sự thật (18,37c)]
độc giả có thể nhận ra câu trả lời của Đức Giêsu dành cho câu hỏi của Philatô
(ông đã làm gì nên tội?) là “làm chứng cho sự thật”. Đức Giêsu chẳng làm gì nên
tội cả. Người chỉ giảng dạy sự thật, lẽ ngay nhằm mang lại ơn cứu độ cho muôn
người. Thuật ngữ “sự thật” (ἀλήθεια) là một trong những thuật ngữ mang đậm chất của
Tin Mừng Gioan. Trong ba Tin Mừng Nhất Lãm, Máccô là tác giả dùng hạn từ này
nhiều nhất với ba lần xuất hiện (Mc 5,33; 12,14.32); Luca dùng hai lần (4,25;
22,59) và Mátthêu một lần (22,16). Tác giả Gioan dùng thuật ngữ này đến hai
mươi ba lần. Đức Giêsu đã tự giới thiệu mình là “con đường, là sự thật và là sự
sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Người cũng
nói đến Đấng Paráclêtô là Sinh Khí (pnêuma) sự thật
(thường được hiểu là Chúa Thánh Linh) (Ga 15,26; 16,13;
x. 14,17). Lời của Chúa Cha cũng là sự thật (Ga 17,17). Ngay từ Lời Tựa, tác giả
Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như là “Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga
1,14) và “ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 14,17). Những dữ
liệu này cho thấy cả Chúa Cha, Đức Giêsu và Chúa Thánh Linh đều là “sự thật”. Trong
sứ vụ rao giảng của mình, Đức Giêsu luôn “nói sự thật mà Người đã nghe từ Thiên
Chúa” (Ga 8,40; cf. 8,45-46). “Sự thật” mà Đức Giêsu nói sẽ mang lại cho người
ta ơn giải thoát: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn
đệ của tôi, các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải thoát các ông” (Ga
8,31-32). Trong bối cảnh này, Đức Giêsu nói mục đích của việc Người được sinh
ra và đến trong trần gian này là “để làm chứng cho sự thật”. Mệnh đề được bắt đầu
bằng liên từ chỉ mục đích “để” (ἵνα). Qua lời của Đức Giêsu, độc giả cũng biết rằng
ông Gioan (Tẩy Giả) cũng “làm chứng cho sự thật” (Ga 5,33). Đức Giêsu không nói
về một sự thật trừu tượng hay là thậm chí trong cách chung chung, nhưng cách cụ
thể trong tương quan với sự vụ của Người. Sứ vụ của Người là nói ơn cứu độ và
con đường cứu độ của Thiên Chúa qua lời nói và hành động của Người.[12] Sự
thật trọn vẹn chính là con người toàn thể của Đức Giêsu và toàn bộ sứ điệp Tin
Mừng của Người được thể hiện qua tất cả mọi hành động và lời rao giảng của Người.
10.
“Thuộc về sự thật… nghe tiếng tôi”: Theo R. Brown, túc từ của động từ nghe được dùng ở
thuộc cách (nghe của tiếng của tôi) diễn tả một sự lắng nghe với sự hiểu biết
và đón nhận. Trong Ga 10,3 (cũng x. 10,16.27) độc giả cũng đã được biết rằng
con chiên lắng nghe lời của người mục tử. Sự song song này là rất đặc biệt vì
mô hình mục tử-chiên có bối cảnh trong bức tranh Cực Ước về vua, và ở đây Đức Giêsu
trả lời về đặc tính vương đế của Người. Như thế, những người thuộc về sự thật
là những con chiên được Chúa Cha trao ban cho Đức Giêsu, những người không lắng
nghe Đức Giêsu không thuộc về Thiên Chúa (Ga 8,47).[13]
Ai lắng nghe tiếng Con Thiên Chúa thì sẽ được sống (Ga 5,25). Câu nói của Đức Giêsu
vừa làm cho Philatô phần nào nhẹ nhỏm, vì Người không hứng thú với quyền lực
chính trị. Nhưng câu nói này cũng thách thức Philatô về sự thật. Ông ta có biết
sự thật và có đứng về sự thật hay không? Thực tế, từ lúc này về sau Philatô đã
cố đứng về phía sự thật, khi ông đã ít nhất 3 lần nói rõ Đức Giêsu vô tội
(18,38b; 19,4b.6b) và ông đã tìm cách tha cho Đức Giêsu (18,39b; 19,12a). Tuy
nhiên, cuối cùng ông cũng không theo đuổi sự thật đến cùng, vì đã chiều theo
dân chúng mà trao Đức Giêsu cho họ đóng đinh.
Bình luận chung
Các Thượng Tế và “những người Do Thái” (thù ghét)
đã nộp Đức Giêsu cho quan Philatô vì theo họ, Đức Giêsu đã làm quá nhiều điều
gian ác. Vì họ không thể kết án xử tử Đức Giêsu, nên họ phải mượn tay của quan
Tổng Trấn Rôma. Điều này ngụ ý rằng một khi mang đến cho Tổng Trấn, họ đã có sẵn
ý định giết chết Đức Giêsu. Cuối cùng, họ đã đạt được mục đích: “Bấy giờ ông Philatô
trao Đức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá” (Ga 19,16a). Tuy nhiên, cuộc xử
án của Philatô, đặc biệt là cuộc gặp riêng với Đức Giêsu (18,33-38) làm lộ ra
nhiều điều quan trọng. Câu hỏi đầu tiên vị Tổng Trấn dành cho Đức Giêsu là: “Có
phải ông là vua của người Do Thái không?” Đức Giêsu không trả lời trực tiếp vào
câu hỏi, nhưng quan tâm đến nguồn gốc của ý tưởng ấy của vị Tổng Trấn. Tuy
nhiên, dù đó là suy nghĩ của riêng Tổng Trấn hay là ông đã nghe từ người khác,
thì ông vẫn không hiểu danh hiệu “vua” nơi Đức Giêsu một cách đúng đắn. Cuộc thẩm
vấn tiếp tục với câu thẩm vấn thứ hai: “Ông đã làm gì?” Vị Tổng Trấn tạm thời bỏ
qua câu hỏi về địa vị “vua” của Đức Giêsu. Ông quan tâm đến “những điều gian
ác” mà Đức Giêsu đã làm theo như các Thượng Tế và những “người Do Thái” đã tố
cáo (18,30). Cùng với việc nhấn mạnh “các Thượng Tế và dân ông đã nộp ông cho
tôi”, câu hỏi “ông đã làm gì?” biểu lộ một sự chua xót, lẫn mỉa mai, bởi lẽ một
người được xem là “vua” nhưng đã làm gì xấu đến mức cả lãnh đạo và dân, từ trên
xuống dưới đều muốn Người bị xử tử. Đức Giêsu lại không trả lời trực tiếp câu hỏi
của vị Tổng Trấn. Người nói đến việc Người đã bị “nộp cho người Do Thái”, qua
đó Người giới thiệu về vương quốc (triều đại của Người). Thực chất, không ai có
thể nộp Người cho “những người Do Thái” để rồi, họ nộp Người cho quan Philatô.
Chính Người đã tự ý trao nộp chính mình. Không ai có thể đụng đến Người, nếu
như Người không chịu trao nộp. Sự kiện đám quân lính ngã rạp xuống đất sau khi
Người nói: “Chính là Ta đây” (18,6) đã minh chứng rõ ràng quyền năng tự giải
thoát của Người. Theo giải thích của Đức Giêsu, độc giả hiểu rằng không phải
Người không có quyền năng, hay không muốn sử dụng quyền năng nhưng “vì vương quốc
của Người không thuộc về thế giới này”. Người đã dùng cả sứ vụ công khai để rao
giảng về “Nước Thiên Chúa” (Nước Trời). Nước Trời đã khởi sự trong những lời giảng
và hành động của Người, nhưng rõ ràng nó không phải là vương quốc chính trị như
Philatô và những người Do Thái nghĩ. Sự mạc khải của Đức Giêsu về “vương quốc”
của Người làm cho quan Philatô quay trở lại câu hỏi lúc ban đầu: “Vậy, ông là
vua sao?”. Câu trả lời của Đức Giêsu vừa xác nhận vừa từ chối: “Chính ông nói rằng
tôi là vua”. Xác nhận bởi vì Người đúng là vị vua Mêsia mà dân Do Thái hằng
mong đợi. Từ chối bởi vì ông Philatô nói đến một vị vua theo nghĩa chính trị.
Người không phải là vị vua của một quốc gia theo nghĩa chính trị, đảng phái.
Người là vị vua của vương quốc tình yêu và sự thật. Vương quốc của Người sẽ bao
phủ cả trên trời dưới đất, chứ không hạn chế trong một vùng lãnh thổ, hay dân tộc
nào. Ông Philatô có thể không hiểu được vương quốc, hay vương quyền mà Đức Giêsu
muốn nói đến. Ông chỉ hiểu rằng Đức Giêsu không đe dọa đến quyền lực chính trị
của ông và đế quốc Rôma. Cuối cùng Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi thứ hai của
quan Tổng Trấn (Ông đã làm gì nên tội?). Câu trả lời là “Tôi chẳng làm gì nên tội
cả, tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật”. Ông Philatô
chắc cũng chẳng hiểu sự thật mà Đức Giêsu muốn nói là gì và ông đã hỏi bâng quơ
“sự thật là gì?” và quay bước ra ngoài với dân chúng. Ngạc nhiên thay, không cần
Đức Giêsu trả lời, ông cũng đã nói sự thật là Đức Giêsu hoàn toàn vô tội
(18,38b; 19,4b.6b) và đã tìm cách tha Người (19,12). Có thể nói rằng cách nào
đó, quan Philatô đã thuộc về sự thật và nghe tiếng nói sự thật của Đức Giêsu.
Tiếc thay, ông đã không đi đến cùng con đường sự thật dưới áp lực ghê gớm của
dân chúng.
Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, các tín hữu được mời
gọi liên lỉ nhìn lại hành trình làm người của mình. Lễ các Thánh vào đầu tháng
Mười Một cho họ thấy viễn ảnh hạnh phúc vinh quang với Chúa và với các thánh mà
họ phải hướng về. Tiếp theo sau Lễ các thánh, Lễ cầu cho các linh hồn và tháng cầu
nguyện cho các linh hồn (tháng 11) giúp họ hướng về những người thân, bạn hữu, và
những đồng đạo đang chịu nhiều đau khổ, thanh luyện trong nơi luyện hình để rồi
hy sinh cầu nguyện, để Chúa thương tha thứ mọi lỗi lầm cho các linh hồn lầm lỗi
đang mong ước ngày gia nhập cộng đoàn các thánh. Qua đó, những thành viên trong
Giáo Hội lữ hành nhận biết đích đến của mình: Hoặc là nơi luyện tội tạm thời,
hoặc là nơi Thiên Đàng vĩnh cửu. Còn một nơi nữa mà không ai muốn nhắc đến. Đó
là hỏa ngục muôn kiếp. Những ngày cuối cùng của năm phụng vụ là những ngày lý
tưởng để người ta suy xét cho kỹ về mục đích của đời người và mình đã làm được
những gì để đạt được mục đích ấy? Có điều gì còn trục trặc, thiếu xót cần chỉnh
sửa để chỉnh sửa và bổ sung cho hành trình làm người của mình? Lời mời gọi “ai
thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi” của vị Vua của sự thật giúp cho các tín hữu
bừng tỉnh nếu như họ đang mải mê với những giấc mơ tiền, quyền, danh, lợi, thú
của thế gian này. Họ được mời gọi trở về với triết lý làm người của Đức Kitô.
Chân lý mà Người muốn mạc khải là chân lý tình yêu và sự tha thứ. Chân lý ấy hướng
dẫn nguyên tắc hành xử của một vị Vua luôn cúi xuống thấp nhất có thể để phục vụ
những người yếu hơn, thấp hơn, thay vì đè đầu cưỡi cổ thần dân của mình. Chân
lý của Người là chân lý “thượng đạp hạ đội” khác hẳn với lối sống “thượng đội hạ
đạp” của thế nhân: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm
nhường, thấp bé” (Lc 1,52). Các tín hữu được mời gọi lắng nghe tiếng nói của vị
Vua sự thật trong mọi suy nghĩ, phát ngôn và hành động của mình và đáp trả cách
tích cực trong từng phút giây của đời mình.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] R.E. Brown, The Gospel according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) 29A, 859.
[2] Khanan (Annas) làm Thượng
Tế các năm 6-15 C.E. Theo lịch sử vào lúc xét xử vụ án Đức Giêsu ông đã rời nhiệm
sở. Nhưng có lẽ sự ảnh hưởng của ông còn quá lớn đến nỗi khi bắt được Đức Giêsu
họ đã dẫn Người đến ông Khanan để chịu thẩm vấn. Ông được nhắc đến như là Thượng
Tế bốn lần trong toàn bộ Tân Ước (Lc 3,2; Ga 18,13.24; Cv 4,6). Luca nhắc đến cả
hai người đều làm Thượng Tế: “Khanan và Caipha làm Thượng Tế”. Gioan cũng có vẻ
đồng ý như vậy khi ông cũng gọi cả Khanan và Caipha là Thượng Tế ở hai dinh
khác nhau. Con rể của Khanan là Caipha và cháu của Khanan, Matthias đều làm Thượng
Tế. [x. P.D.G, “Annas”, The New International Engcyclopedia of Bible
Characters. The Complete Who’s Who in Bible (ed. P. Gardner) (Grand Rapids 2001)].
[3] Xem thêm về “Đấng Ki-tô”
trong J.P.D.Thạch “Cứu-Phá Hủy, Phá Hủy-Cứu”[ LỜI
BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: CỨU-PHÁ HỦY, PHÁ HỦY-CỨU. Chú giải Tin
Mừng CN XXIV TN B (Mc 8,27-35) (josephpham-horizon.blogspot.com)] (Truy cập
15/11/2021).
[4] F.O. Garcia-Treto,
“Pilate”, The HarperCollins Bible Dictionary (ed. P.J. Achtemeier) (New
York 1996) 855-856.
[5] “Jesus will not
categorically refuse to be known as a king, but he indicates that he prefers to
describe his role in terms of testifying to the truth. John has not portrayed
Jesus as a preacher of the kingdom but as the unique revealer who alone can speak
and show the truth about God” (R.E.
Brown, The Gospel according to John (XIII-XXI), 853-854).
[6] “Jesus does not deny that he is a king, but it is not a title that he
would spontaneously choose to describe his role” (R.E. Brown,
The Gospel according to John (XIII-XXI), 853-854).
[7] “if Jesus talks about his
“kingdom” he really means his sovereign rule, his kingly activity, i.e., his
action in his capacity as the king who brings salvation”[7]
[G.R. Beasley-Murray, John (WBC;
Dallas 1999) XXXVI, 330.].
[8] F.J. Moloney, “John”, The
Paulist Biblical Commentary (ed. R.J. Clifford et al.) (New York 2018) 1170.
[10] R.E. Brown, The Gospel according to John
(XIII-XXI), 868.
[11] R.E. Brown, The Gospel according to John
(XIII-XXI), 854.
[13] Ibid.
No comments:
Post a Comment