Friday, 26 November 2021
Thursday, 25 November 2021
NIỀM VUI NGÀY CỨU CHUỘC HAY NỖI BUỒN NGÀY TẬN THẾ. Chú Giải Tin Mừng CN I MV C (Lc 21,25-28.34-36)
Bản văn Tiếng Hy Lạp và Bản Việt Ngữ sát nghĩa
Hy Lạp |
Việt |
25 Καὶ ἔσονται σημεῖα ἐν ἡλίῳ καὶ σελήνῃ καὶ ἄστροις,
καὶ ἐπὶ τῆς γῆς συνοχὴ ἐθνῶν ἐν ἀπορίᾳ ἤχους θαλάσσης
καὶ σάλου, 26 ἀποψυχόντων ἀνθρώπων
ἀπὸ φόβου καὶ προσδοκίας τῶν ἐπερχομένων τῇ οἰκουμένῃ, αἱ γὰρ δυνάμεις τῶν
οὐρανῶν σαλευθήσονται. 27 καὶ τότε ὄψονται τὸν υἱὸν
τοῦ ἀνθρώπου ἐρχόμενον ἐν νεφέλῃ μετὰ δυνάμεως καὶ δόξης πολλῆς. 28 ἀρχομένων δὲ τούτων γίνεσθαι
ἀνακύψατε καὶ ἐπάρατε τὰς κεφαλὰς ὑμῶν, διότι ἐγγίζει ἡ ἀπολύτρωσις ὑμῶν. 29 Καὶ εἶπεν παραβολὴν αὐτοῖς· ἴδετε τὴν συκῆν καὶ πάντα τὰ δένδρα· 30 ὅταν προβάλωσιν ἤδη, βλέποντες ἀφ᾽ ἑαυτῶν
γινώσκετε ὅτι ἤδη ἐγγὺς
τὸ θέρος ἐστίν· 31 οὕτως καὶ ὑμεῖς, ὅταν ἴδητε
ταῦτα γινόμενα, γινώσκετε ὅτι ἐγγύς ἐστιν ἡ βασιλεία τοῦ θεοῦ. 32 ἀμὴν λέγω ὑμῖν ὅτι οὐ
μὴ παρέλθῃ ἡ γενεὰ αὕτη ἕως ἂν πάντα γένηται. 33 ὁ οὐρανὸς καὶ ἡ γῆ
παρελεύσονται, οἱ δὲ λόγοι μου οὐ μὴ παρελεύσονται. 34 Προσέχετε δὲ
ἑαυτοῖς μήποτε
βαρηθῶσιν ὑμῶν αἱ καρδίαι ἐν κραιπάλῃ καὶ μέθῃ καὶ μερίμναις βιωτικαῖς καὶ ἐπιστῇ
ἐφ᾽ ὑμᾶς αἰφνίδιος ἡ ἡμέρα ἐκείνη 35 ὡς παγίς· ἐπεισελεύσεται γὰρ ἐπὶ
πάντας τοὺς καθημένους ἐπὶ πρόσωπον πάσης τῆς γῆς. 36 ἀγρυπνεῖτε δὲ ἐν παντὶ
καιρῷ δεόμενοι ἵνα κατισχύσητε ἐκφυγεῖν ταῦτα πάντα τὰ μέλλοντα γίνεσθαι
καὶ σταθῆναι ἔμπροσθεν τοῦ υἱοῦ τοῦ ἀνθρώπου. (Lk. 21:25-36 BGT) |
26 Người ta nín thở vì sợ
và đợi chờ điều xảy đến cho cư dân trên trái đất, vì các quyền lực
trên trời sẽ lay chuyển. 27 Rồi, họ sẽ nhìn thấy Con Người đến trong đám
mây với nhiều quyền năng và vinh quang. 28 Nhưng khi những điều này xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì ơn cứu chuộc anh em đã
gần kề. 29 Và Người nói với họ một dụ ngôn. Anh em hãy
nhìn xem cây vả và tất cả các loại cây. 30 Khi nó đâm chồi nẩy lộc rồi, khi quan sát từ chúng,
anh em biết rằng mùa hè đã gần kề rồi. 31 Cũng như vậy, khi thấy những điều này xảy ra,
anh em biết rằng Nước Thiên Chúa đã gần kề. 32 Amen, Thầy bảo thật anh
em, thế hệ này sẽ không qua đi, cho đến khi tất cả xảy ra. 33 Trời và đất sẽ qua đi, nhưng những lời của Thầy sẽ không qua đi. 34 Anh em hãy chú ý,
kẻo lòng của anh em bị đè nặng bởi uống quá chén và say sưa và lo lắng của cuộc sống này và ngày bất
ngờ ấy có thể xảy đến trên anh em. 35 Như chiếc bẫy, vì nó sẽ xảy đến bất ngờ trên tất cả những ai cư ngụ trên toàn mặt đất. 36 Hãy canh chừng trong
mọi lúc, cầu xin để anh em có thể mạnh sức mà thoát khỏi những điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người. |
Bối
Cảnh
Lời Chúa trong bối cảnh Mùa Vọng tiếp nối chủ đề về
ngày cánh chung trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Đoạn Tin Mừng Lc 21,25-36
trích trong loạt những trình thuật về thời cánh chung của Tin Mừng Luca (Lc
21,5-37). Tiếp theo sau lời tiền báo về những ngày cuối cùng của Jêrusalem,
Luca chuyển qua những dự báo về những ngày cuối cùng của thế giới.[1]
Cũng như Jêrusalem đối diện với một sự khủng hoảng khi Đức Giêsu tiến vào giảng
dạy, thế giới cũng đối diện với khủng hoảng như thế khi Con Người đến trong
vinh quang.[2]
Luca theo sát Tin Mừng Máccô và Mátthêu trong hai trình thuật “Những điềm lạ
trên trời và Con Người quang lâm” (Lc 21,25-28; Mt 24, 29-31; Mc 13,24-27); và
“Ví dụ về mùa thay lá của cây vả” (Lc 21,29-33; Mt 24,32-35; Mc 13,28-31).
Trình thuật về lời dạy “hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (21,34-36) là trình thuật
riêng của Luca. Cũng giống như các Tin Mừng Nhất Lãm khác, đoạn văn nói về sự
quang lâm của Con Người được đặt ngay sau những trình thuật “báo trước về sự sụp
đổ của thành Jêrusalem” (Lc 21,5-19); “Jêrusalem bị bao vây” (Lc 21,20-23b).
Ngoài những đoạn chia sẻ chung với hai tác giả Nhất Lãm còn lại, Luca cũng thêm
một đoạn ngắn về “thời của dân ngoại” (Lc 21,23b-24). Về chủ đề, hình ảnh “Con
Người đến trong vinh quang và đầy quyền năng gợi nhớ đến” hình ảnh Con Người
trong sách ngôn sứ Đaniel, cũng ngự giá mây trời mà đến (Đn 7,13). Chủ đề liên
quan đến sự cứu chuộc đã được Luca nói nhiều lần trong Tin Mừng và cả trong
sách Công Vụ (Lc 1,68; 2,38; 21,28; 24,21; Cv 7,35). Đây cũng là đề tài trải rộng
trong các thư của thánh Phaolô. Chủ đề “cầu nguyện” cũng là một chủ đề rất phổ
biến trong Tin Mừng Luca nói riêng và Tin Mừng Nhất Lãm nói chung. “Tỉnh thức”,
“Coi chừng” cũng là một mệnh lệnh quan trọng trong Tin Mừng Luca và Mátthêu (Mt
6,1;7,15; 10,17; 16,6; 16,11; Lc 12,1; 17,3; 20,46; 21,34.36; Cf. Cv 5,35; 20,28;
Mc 13,33). Ngoài ra, “vinh quang và quyền năng” của Đức Giêsu cũng là đề tài
quan trọng không kém trong truyền thống Tân Ước. “Nước Thiên Chúa” là một chủ đề
trọng yếu bao trùm toàn bộ sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu.
Cấu trúc
(A) Dấu lạ trên trời
dưới đất
(21,25a) Các dân: Hoảng sợ và nín thở đợi chờ tai
họa (21,25b-26) Con Người Đến đầy quyền năng và vinh
quang (21,27a) Anh em: Đứng thẳng và ngẩng đầu đợi chờ
ơn cứu độ (21,28) (B) Ví dụ cây vả và
tất cả các loại cây (21,29) Thấy đâm chồi nẩy lộc (21,30a) biết mùa hè đã gần kề rồi (21,30b) Thấy những điều này xảy ra (21,31a) biết Nước Thiên Chúa đã gần kề (21,31b) (C) Lời
Thầy nói sẽ không qua đi (21,32-33) Thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi tất cả xảy ra Trời và đất sẽ qua đi nhưng những lời của Thầy sẽ không qua đi (D) Hãy
để ý (21,34a) để không say sưa và lo lắng của cuộc sống này (21,34-35a) Hãy canh chừng và khẩn cầu (21,36a) để có thể mạnh sức mà thoát khỏi và đứng vững (21,36b) |
Một số điểm
chú giải[3]
1.
Dấu lạ nơi mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao … tiếng gầm thét của biển và
sóng… quyền lực trên trời lay chuyển: Luca lấy lại dữ liệu từ Máccô. Tuy nhiên, khác với Mátthêu – lặp lại gần
như hoàn toàn dữ liệu của Máccô – tác giả Luca sửa lại và thêm vào các nguồn
riêng của mình khá nhiều. Đức Giêsu của Máccô cho biết rằng “mặt trời sẽ ra tối
tăm”; “mặt trăng sẽ không còn chiếu sáng”, còn “các ngôi sao thì rơi xuống” (Mc
13,24-25a). Đức Giêsu của Luca chỉ nói là có những dấu lạ nơi mặt trời, mặt
trăng và các ngôi sao.[4] Luca
dường như không muốn cụ thể hóa các điềm lạ ấy, hoặc là ông giả định rằng độc
giả đã biết Tin Mừng Máccô nên không cần nhắc lại những điềm lạ cách cụ thể nữa.
Cũng có thể vì trước đó, Luca đã nói đến những tai họa cụ thể rồi: Những trận động
đất lớn, nạn đói khắp nơi và ôn dịch, tai ương kinh khủng, những dấu lạ lớn
trên trời (21,11). Đức Giêsu của Luca còn thêm vào chuyển động của biển và
sóng. Dường như tác giả muốn có sự cân bằng của những sự lạ trên trời và dưới
biển. Luca giữ lại chi tiết “các quyền lực trên trời sẽ lay chuyển” giống như
Máccô (Lc 21,26; Mc 13,25b).
Mc 13,24-27 |
Lc 21,25-28 |
24 “Nhưng trong những
ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng,25 các
ngôi sao từ trời sa xuống,
và các quyền lực trên trời bị lay chuyển.26 Bấy giờ, thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và
vinh quang ngự trong đám mây mà đến.27 Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những
kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân
trời. |
25 Sẽ có những dấu lạ nơi mặt trời, mặt
trăng và các ngôi sao và trên
mặt đất, sự hoảng sợ
của các dân tộc trong nỗi lo lắng vì tiếng gầm của biển và sóng. 26 Người ta nín thở vì sợ và đợi chờ
điều xảy đến cho trái đất, vì các quyền lực
trên trời sẽ lay chuyển. 27 Rồi, họ
sẽ nhìn thấy Con Người đến trong đám mây với nhiều quyền năng và vinh quang. 28 Nhưng khi những điều này xảy ra, anh em hãy đứng thẳng
và ngẩng đầu lên, vì ơn cứu chuộc của anh em đã gần kề.
|
2.
Các dân hoảng sợ …người ta nín thở: Đối lại với những điềm lạ trên trời là những điềm
lạ dưới đất. Phản ứng của các quyền lực trên trời cũng song song với phản ứng của
con người dưới đất. Trên trời, các quyền lực lay chuyển, dưới đất các dân tộc
hoảng sợ. Giêsu của Máccô hoàn toàn không nói gì đến phản ứng của con người dưới
đất. Giêsu của Luca dường như quân bình hơn khi đề cập đến phản ứng của các dân
tộc trên mặt đất. Cám xúc của họ được mô tả cách cụ thể và phong phú: “hoảng sợ”;
“lo lắng”; “nín thở vì sợ”; và “đợi chờ điều sắp xảy đến”. Nói chung, cảm giác
của các dân tộc là lo lắng, bất an trước những sự lạ trên trời dưới đất.
3.
Con Người đến: Hình ảnh
Con Người đến trong đám mây đầy quyền năng và vinh quang là hình ảnh mấu chốt,
trung tâm của trình thuật cánh chung. Chính vì thế, cả Mátthêu, và Luca đều lấy
lại dữ liệu từ Máccô một cách hoàn toàn về hình ảnh này. “Con Người” (viết hoa)
là một trong danh xưng mang tính Kitô học rất quan trọng trong truyền thống Tin
Mừng. Trong Luca, chúng ta có thể nhắc đến những điểm cốt lõi liên quan đến Con
Người như sau. “Con Người có quyền tha tội” (Lc 9,24); “Con Người làm chủ của
ngày Sabát” (Lc 6,5); “Con Người ăn uống, làm bạn với quân thu thuế và phường tội
lỗi” (Lc 7,34); “Con Người chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng
kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22.44; 24,7 Cf.
18,31; 22,22.48); “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha
và các thiên thần” (Lc 9,26; 21,27; 22,69); “Con Người sẽ đến cách bất ngờ” (Lc
12,40; Cf. 17,22.24.26;); “Con Người lang thang không có chỗ tựa đầu” (Lc
9,58); “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Như vậy, trong
Luca, Con Người được mô tả trải dài từ đau khổ đến vinh quang. Việc Con Người đến
trong vinh quang và quyền năng là hoàn tất mầu nhiệm cứu độ mà Người đã khởi sự
trên mặt đất. Nơi đây chúng ta có thể nghe phảng phất dụ ngôn về một vị vua đi
lãnh nhận vương quyền rồi trở lại thưởng hay phạt các thần dân của mình (Lc
19,11-27). Nhất là, hình ảnh Con Người gợi nhớ cách cụ thể đến Đn 7,13, nói về
Con Người đến trong đám mây. Luca diễn tả Đức Giêsu trở lại như một cuộc thần
hiện.[5]
Vai trò của Con Người trong Mc 13,26-27 là vai trò kép: Phán xét (c.26) và tập
họp những người được chọn. Trong Luca, vai trò phán xét được giữ nguyên và vai
trò triệu tập được thay bằng vai trò giải thoát.[6]
4.
Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên: Nơi Máccô, sau khi đến Con Người sẽ sai các thiên
thần đi và sẽ tập họp những “người được chọn từ khắp bốn phương”, trong khi đó,
trong Luca, người ta không thấy hình ảnh của “những người được chọn”.[7]
Hình ảnh được Đức Giêsu nói đến trực tiếp là nhân vật ngôi thứ hai số nhiều
“anh em”. Đối tượng ngôi thứ hai số nhiều (anh em) trong bối cảnh này rất có thể
là các môn đệ, hoặc có thể mở rộng ra cho các tín hữu trong cộng đoàn Luca. Đối
lại với hình ảnh của các dân tộc hoảng sợ và nín thở trước những điềm lạ trên
trời dưới đất, các môn đệ được mời gọi “đứng thẳng” và “ngẩng đầu lên”. “Đứng
thẳng” và “ngẩng đầu” tượng trưng cho sự tự tin, mạnh mẽ, mong chờ cách hạnh
phúc ngược lại với sự hoảng sợ, lo lắng, nín thở của các dân khác. Danh từ “các
dân” (ἔθνος) thường được dùng để
chỉ các dân ngoại, những người không tin vào Chúa. Ngay trước đoạn này, Đức
Giêsu nói đến thời điểm dân Jêrusalem “bị ngã gục dưới lưỡi gươm và bị đày đi
khắp các dân ngoại, Jêrusalem sẽ bị các dân ngoại giày xéo cho đến khi mãn thời
các dân ngoại” (Lc 21,24). Nói cách khác, đây chính là thời khắc các môn đệ, và
cộng đoàn các tín hữu đang mong chờ, trong khi dân ngoại thì cố tránh. Trái ngược
lại với cuộc phán xét sẽ được tiến hành trên thế giới, các môn đệ Đức Giêsu có
thể cảm nhận ơn cứu độ của họ trong tầm tay.[8] Động
từ “đứng thẳng” (ἀνακύπτω) được dùng để mô tả người phụ nữ lưng còng, không
thể “đứng thẳng” suốt mười tám năm. Ngay sau khi Đức Giêsu đặt tay chữa lành,
bà liền tôn vinh Thiên Chúa. Đó là một dấu lạ mang lại ơn cứu chuộc, giúp người
phụ nữ có thể đứng thẳng lên được.[9]
5.
Ơn cứu chuộc: Đây là điểm khác biệt quan trọng nữa giữa
bản văn Luca và Máccô. Máccô không hề đề cập đến ơn cứu chuộc. Máccô chỉ nói đến
việc những người được chọn được quy tụ về từ bốn phương. Có thể, trong cách nói
này Máccô đã bao hàm sự “cứu chuộc” hoặc là “phần thưởng” dành cho những “người
được chọn”. Rõ ràng, Luca cụ thể hơn trong việc đề cập đến kết cục của cánh
chung: “Sự Cứu Chuộc”.[10] “Sự Cứu Chuộc” là thuật ngữ mang đậm dấu ấn của
Luca. Trong bài Magnificat (chỉ có trong Luca), Đức Maria đã chúc tụng Đức Chúa
“đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người” (ἐπεσκέψατο καὶ ἐποίησεν λύτρωσιν τῷ λαῷ αὐτοῦ, Lc
1,68). Trong trình thuật về nữ ngôn sứ Anna (chỉ có trong Luca), tác giả cũng
cho biết là bà Anna đã “nói về Hài Nhi (Giêsu) cho hết những ai đang mong chờ
ngày Thiên Chúa cứu chuộc Jêrusalem” (πᾶσιν τοῖς προσδεχομένοις λύτρωσιν Ἰερουσαλήμ, Lc 2,38). Hai môn đệ trên đường về Emmaus cũng
đã hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ “cứu chuộc Israel” (ὁ μέλλων λυτροῦσθαι τὸν Ἰσραήλ, Lc 24,21). Cựu Ước nói đến ba ý nghĩa khác nhau
của sự cứu chuộc. (1) Chuộc tài sản: Một thuật ngữ pháp lý được áp dụng cho việc chuộc lại tài sản thừa kế,
thành viên gia đình khỏi nô lệ, hoặc những vật dụng và tài sản (Lv 25,25.47-49;
27,15-20; R 4,1-6; Tv 72,4.14; Gr 32,1-15). (2) Chuộc con đầu lòng/ con
vật đầu lòng: Chuộc lại con đầu lòng
bằng cách trả một số tiền hay lễ vật (Ds 3,45-51; 18,15-17; Xh 21,8.30). Đặc biệt trong những trường hợp đổ
máu người khác (Ds 35,31-32) và trường hợp Chúa hành động trong một
cách thức cứu chuộc cho dân Người (Xh 6,6; 15,13; Đnl 7,8 Tv 19,1; 25,22;
106,10; Is 41,14). (3) Ý niệm thần học chuyên biệt về sự cứu chuộc đặt nặng vào sự hồi phục, tái thiết
lập tương quan của Chúa với dân Người sau khi họ đã nổi loạn, và bất trung. Ý
niệm này thường được gọi là “giá chuộc”, “sự chuộc tội” (Tv 49,7-8;13,8; Xh
21,30). Trong Tân Ước, sự chuộc được hoàn thành trong cái chết hiến tế của Đức Giêsu (Rm 3,23-25; 8,23; 1
Cr 1,30; 6,20; 7,23; Ep 1,7.14; 4,30; Cl 1,14; Gl 3,13; 4,5; Dt 9,15; 1Pr
1,18-19).[11]
Công trình cứu chuộc sẽ được Đức Kitô hoàn tất trong ngày cánh chung.
6.
Ví dụ cây vả và tất cả các loại cây: Ví dụ cây vả với nội dung chính là “sự đâm chồi nảy
lộc” báo hiệu một mùa hè sắp đến. Có hai điểm khác biệt trong trình thuật của
Luca so với cùng trình thuật của Mátthêu và Máccô: Thứ nhất, ngoài cây vả Luca thêm “tất cả các cây
khác”; Thứ hai, Luca thay đổi chủ ngữ của cụm động từ “đã gần bên”. (i) Luca dường
như muốn bổ sung vào số cây thay lá, đâm chồi nẩy lộc vào trước mùa hè. Bài học
này không chỉ dành riêng cho cây vả.[12] Thực
tế, có nhiều loại cây có quy trình thay lá như cây vả, nhưng cũng có những loại
cây không rụng lá vào mùa đông, nên sẽ không có quy trình thay lá như vây.
Cây vả là cây phổ biến và quen thuộc trên đất Israel. Tuy nhiên, Luca là tác giả
ngoại giáo viết cho người ngoại trên vùng đất rộng lớn hơn. Có lẽ vì thế mà các
loại cây khác được đề cập ngoài cây vả. (ii) Máccô và Mátthêu dùng đại từ ngôi thứ ba số ít cho cụm động từ “đã
gần kề”. Đại từ này có thể hiểu là “Con Người” (Con Người đã gần bên, Người đã
gần bên), nhưng cũng có thể hiểu là “cuộc quang lâm của Con Người” (nó đã gần
bên).[13] Trong
Luca, chủ từ của cụm động từ “gần bên” là “Nước Thiên Chúa” (Triều đại Thiên
Chúa): Anh em biết rằng “Triều Đại Thiên Chúa đã gần bên”. Triều đại Thiên Chúa[14]
rõ ràng là một trong những chủ đề quan trọng nhất trong nội dung giảng dạy của
Đức Giêsu. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều ghi lại nhiều lời dạy của Đức Giêsu liên
quan đến chủ đề “Nước Thiên Chúa”. Cả Mátthêu và Máccô đều đặt lời rao giảng: “Thời
kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh chị em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng”
(Mc 1,15; Mt 4,17). Khác với Mátthêu và Máccô, Luca không ghi lại lời giảng này
của Đức Giêsu. Trong Luca, lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu được ghi lại tại
hội đường Nadarét, nơi Đức Giêsu đã đọc lời ngôn sứ Isaiah: “Thần Khí Chúa ngự
trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho những
người nghèo. Người đã sai tôi đi công bố cho người bị giam cầm biết họ được
tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Chúa (Lc 4,16-19). Rồi, Đức Giêsu công bố rằng, tất
cả những lời ngôn sứ đã ứng nghiệm trên Người. Đức Giêsu của Luca cho biết rằng
mục đích của Người khi được sai đi là “loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” cho
các thành (Lc 4,48). Trong lời chỉ dẫn dành cho nhóm Bảy Mươi Hai Môn Đệ (chỉ
có trong Luca), Đức Giêsu lặp lại hai lần “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Lc
10,9.11). Luca cũng là tác giả duy nhất ghi lại sự kiện những người Pharisêu hỏi
Đức Giêsu “khi nào Triều Đại Thiên Chúa đến?” và Đức Giêsu đã trả lời rằng:
“Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được và Người ta sẽ
không nói ‘ở đây này’ hay ‘ở kia kìa’ vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa
các ông” (Lc 17,20-21). Cả Mátthêu và Luca đều ghi lại “dụ ngôn mười nén bạc”
(Lc 19,11-27; Mt 25,14-30). Tuy nhiên, Luca đặt dụ ngôn này vào bối cảnh ngay
trước khi Đức Giêsu tiến vào Jêrusalem và tác giả còn ghi chú về lý do: “Vì Người
đang ở gần Jêrusalem, và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện” (Lc
19,11). Trong bối cảnh Bữa Tiệc Ly, sau khi trao chén cho các môn đệ, Đức Giêsu
nói: “Thầy nói cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây
nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến” (Lc 22,18). Trong cùng một trình
thuật, Máccô ghi rằng: “Thầy bảo thật anh em, Thầy không bao giờ uống sản phẩm
của cây nho nữa, cho đến khi Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc
14,25); Mátthêu thì thay “Nước Thiên Chúa” bằng cụm từ “Nước của Cha Thầy” (Mt
26,29). Như thế, xem ra Luca tô đậm hơn sự kiện “Triều Đại Thiên Chúa đến”
trong nhiều hoàn cảnh, và không lạ gì tác giả thay đổi chủ ngữ của ngữ động từ
“gần bên” – Con Người – bằng danh ngữ “Triều Đại Thiên Chúa”. Trong bối cảnh
này, hình ảnh “Triều Đại Thiên gần bên” song song với “sự cứu chuộc dành cho
anh em đã đến gần”. Được cứu chuộc là được ở trong Nước Thiên Chúa.
Mt 24,32-33 |
Mc 13,28-29 |
Lc 21,29.31 |
“Anh em cứ lấy ví dụ cây vả mà học hỏi”
“Cũng vậy, khi thấy tất cả những điều ấy, anh em biết rằng
Con Người đã gần
bên, ngay ngoài cửa rồi”. |
“Anh em cứ lấy ví dụ cây vả mà học hỏi”
“Cũng vậy, khi thấy những điều ấy xảy ra thì anh em biết Con Người đã gần bên, ở ngay ngoài cửa rồi”. |
“Anh em hãy quan sát cây vả cũng như tất cả các cây khác”
“Cũng vậy, khi thấy những điều ấy xảy ra, anh em biết rằng Triều Đại Thiên Chúa đã gần bên”. |
7.
Anh em hãy chú ý … hãy tỉnh thức, khẩn cầu: Tiếp theo sau “ví dụ cây vả” Mátthêu và Máccô đều
lưu ý đến bí mật của “ngày và giờ”: Không ai biết, ngay cả các thiên thần trên
trời hay cả Người Con; chỉ một mình Chúa Cha biết thôi (Mt 24,36; Mc 13,32).
Luca không ghi lại lưu ý này, có lẽ để tránh đi sự khó hiểu là tại sao Người
Con lại không biết. Tuy nhiên, cả ba tác giả đều ghi lại những cảnh báo tương tự
nhau sau “ví dụ cây vả”. Máccô ghi lại rằng: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh
thức vì anh em không biết khi nào thời ấy đến” (Mc 13,33); Mátthêu: “Vậy anh em
hãy tỉnh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24,42).
Luca dùng ba động từ. Động từ đầu tiên (chú ý, đề phòng) diễn tả một sự cảnh
báo để tránh những điều tiêu cực. Đây là lần thứ tư Luca dùng động từ này cho
các môn đệ: “Anh em phải coi chừng men Pharisêu, tức là thói đạo đức giả”
(12,1); Trong bối cảnh Đức Giêsu dạy về sự nghiệm trọng của việc làm cớ cho người
khác sa ngã, Đức Giêsu chốt lại “anh em hãy coi chừng” (17,3); “Anh em phải coi
chừng những ông Kinh Sư ưa dạo quanh trong bộ áo dài, thích được người ta chào
hỏi nơi công cộng…” (20,46). Hai động từ còn lại (tỉnh thức và cầu xin) dành
cho những cảnh báo nhằm đạt đến kết quả tích cực. Những động từ này cổ vũ không
những một thái độ đúng đắn về Chúa, mà còn một cách sống phù hợp với lịch sử cứu
độ đến hồi hoàn tất.[15] Động
từ “cầu xin” được dùng nhiều trong Luca với nhiều bối cảnh khác nhau: Người bệnh
phong cầu xin được sạch (5,12); Quỷ cầu xin Đức Giêsu đừng hành hạ nó (8,28); Kẻ
được trừ quỷ xin được ở với Đức Giêsu nhưng Người không đồng ý (8,38); Một người
cha cầu xin cho đứa con bị bệnh kinh phong (9,38); Đức Giêsu dạy các môn đệ xin
thợ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về (10,2); Đức Giêsu cầu xin cho ông Phêrô khỏi
mất lòng tin (22,32).
8.
Say sưa và lo lắng của cuộc sống này: Đi
theo mệnh lệnh cảnh báo đầu tiên – “hãy coi chừng” – là một loạt những hành động
tiêu cực: Lòng ra nặng nề vào chuyện ăn uống quá mức, dẫn đến say xỉn và lo lắng cho cuộc sống
này. Những đam mê ăn uống và quá bận
tâm về cuộc sống (có thể là tiền tài danh lợi thú) làm cho người ta không còn
tâm trí quan tâm đến ngày Con Người đến nữa, hay nói theo kiểu Luca ngày “Triều
Đại Thiên Chúa đến”. Trong lời dạy về sự sẵn sàng như người đầy tớ đợi chủ đi
ăn cưới về (Lc 12,35-36), Đức Giêsu đã đề cập đến một loại đầy tớ đã đánh đập
tôi trai, tớ gái, chè chén say sưa vì nghĩ rằng chủ của anh ta còn lâu mới về
(Lc 12,45). “Lo lắng của cuộc
sống này” gợi nhớ đến dụ ngôn “người gieo giống” trong
đó, hạt giống rơi vào bụi gai được ví như người đã nghe lời Chúa nhưng hạt mầm
Lời không lớn lên được vì anh ta bận tâm, sự giàu sang, và thú vui cuộc sống”
(Lc 8,14).[16]
Hậu quả có thể xảy ra nếu không hết sức “đề phòng” là các môn đệ của Chúa sẽ chịu
chung số phận với những dân cư trên khắp mặt đất, khi ngày ấy ập xuống trên họ
một cách bất ngờ như một chiếc lưới. Điều đáng chú ý đặc biệt ở đây là ý tưởng
phổ quát của cuộc phán xét sẽ xảy ra trên tất cả mọi người, tin hay không tin
vào Chúa.[17]
9.
“Ngày bất ngờ ấy” (αἰφνίδιος ἡ ἡμέρα ἐκείνη):
Tính từ “bất ngờ/ không mong đợi” thường
được chuyển ngữ thành trạng từ đi kèm với động từ “xảy ra/ xảy đến”: “Ngày ấy
thình lình ập đến trên các ngươi” (NTT) “xảy đến bất ngờ/ thình lình xảy đến (“Ngày
ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống trên các ngươi” (CGKPV). Thực ra,
tính từ này được chia ở giống cái, cùng giống với danh từ “ngày ấy”. Vì thế, chắc
chắn phải hiểu là “ngày bất ngờ ấy”. Ngày ấy được định nghĩa là “ngày bất
ngờ”. Việc danh từ ngày được xác định bằng đại từ “ấy” cho thấy Đức Giêsu ám chỉ
đến một “ngày” mà Ngài đã nói đến, một ngày cụ thể chứ không phải bất cứ ngày
nào. Trong bối cảnh chương 21, thuật ngữ “ngày”, không có mạo từ được nhắc đến
sớm nhất ở 21,6: “Những ngày sẽ đến, khi đó, sẽ
không còn tảng đá nào trên tảng đá nào, mà không bị phá hủy”. Lần thứ hai, danh
từ “những ngày” được dùng không có mạo từ “đây là những ngày báo oán”: “Đây là
những ngày báo oán, để hoàn tất tất cả những điều đã được viết” (21,22). “Ngày ấy”
(số ít) ở đây có thể ám chỉ đến những ngày được nói đến trước đó. Trong ngày sẽ
xảy ra hai điều tích cực lẫn tiêu cực. Đó là ngày xảy biến cố tàn phá, hủy diệt
thành Jêrusalem và thế giới. Đó cũng là ngày “Con Người đến trong đám mây với quyền
năng và vinh quang vĩ đại” (21,27); “Ngày triều đại Thiên Chúa đến gần” (21,31),
ngày “ơn cứu chuộc đến gần” (21,28). Yếu tố “bất ngờ” là điều đáng lưu tâm. Người
ta phải chú ý thường xuyên, và cầu nguyện luôn.
10.
Mạnh sức để thoát
khỏi: Trái ngược với mệnh
lệnh “phải hết sức chú ý” tránh những điều tiêu cực nhằm tránh tai họa ập đến, hai
mệnh lệnh tiếp theo đi kèm với hai hiệu quả tích cực: “Nhưng hãy tỉnh thức
trong mọi lúc, khẩn cầu để (1) Anh em có thể mạnh sức thoát khỏi những điều sẽ
xảy đến[18]
và (2) Để có thể đứng vững trước mặt Con Người. Tương tự như ở 21,28, Người môn
đệ được mời gọi “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên” thì ở đây họ cũng được mời gọi
làm sao để “đứng vững trước mặt Con Người”. Để được như vậy, họ phải luôn luôn
tỉnh thức và khẩn cầu Chúa giữ gìn, cũng như chuẩn bị cách tích cực bằng đời sống
tốt lành và trung tín của mình. Đứng vững trước mặt Con Người là phong thái của
những người đã sẵn sàng đón nhận “Nước Thiên Chúa đến” và đón nhận được ơn cứu
độ do Con Người ban tặng. Lời cầu nguyện quan trọng mà Đức Giêsu dạy trong
“Kinh Lạy Cha” liên quan đến Nước Thiên Chúa phải được lặp đi lặp lại bằng lời
nói và hành động tích cực nữa: “Xin làm cho danh Cha được vinh hiển, Triều Đại
Cha mau đến” (Lc 11,2).
Bình luận tổng quát
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật những bài
giảng của Đức Giêsu, trong những ngày cuối cùng tại Jêrusalem theo ngôn ngữ khải
huyền với ba chủ đề chính yếu: (1) Sự báo trước về sự kiện Jêrusalem bị phá hủy,
cùng với đền thờ; (2) Nói trước về sự trở lại của Con Người trong vinh quang để
phán xét và ban thưởng, cùng với sự kết thúc của thế giới hiện tại, vương quốc
Thiên Chúa hoàn thành; (3) Những khó khăn thử thách các môn đệ phải chịu trong
suốt hành trình rao giảng, cùng với sự nâng đỡ và đồng hành của Chúa giữa cuộc
tàn phá Jêrusalem và sự trở lại của Con Người.[19] Dựa
theo những dữ liệu sẵn có của Máccô, Luca đã biên tập lại một cách phù hợp, rõ
ràng hơn lối diễn tả và nguồn dữ liệu riêng của mình. Quang cảnh mặt trời trở
nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, còn các vì sao thì rơi xuống,
trong Máccô được Luca thu gọn thành “những dấu lạ trên mặt trời, mặt trăng và
các vì sao”. Thay vào đó, Luca mô tả toàn diện hơn, cả vũ hoàn rung động, khi
ông mô tả thêm cảnh biển gầm sóng thét dưới mặt đất. Hơn nữa, sự kiện này gây ảnh
hưởng trên các dân trên toàn địa cầu. Cảm xúc của họ được mô tả cách cụ thể: hoảng
sợ, kinh hoàng, nín thở đợi chờ. Cùng với hình ảnh song song giữa những sự kiện
theo không gian trên trời và dưới đất, giữa thời gian ngày (mặt trời), đêm (mặt
trăng và các vì sao), Luca còn cho thấy hai hình ảnh song song trái ngược giữa
hai nhóm người. Nhóm các tín hữu, các môn đệ trung thành với Đức Giêsu trong tư
thế đứng thẳng, ngẩng đầu, đợi chờ trong niềm vui vì ơn cứu độ đã đến. Họ như
nhìn thấy một thế giới mới tươi sáng hơn được mở ra, khi thế giới hiện tại được
khép lại vì đã hoàn tất. Nhóm các dân khác, có thể là những người không tin nhận
Đức Giêsu, không sẵn sàng cho ngày tận cùng của thế giới, nín thở đợi chờ trong
vô vọng vì thế giới xem như kết thúc đối với họ và án phạt, đau khổ sẽ bắt đầu.
Hình ảnh Con Người đến trong đám mây, đầy quyền năng và vinh quang vẫn là hình ảnh
trung tâm, đáng mong chờ nhất của ngày cánh chung. Con Người đến hoàn tất Triều
Đại Thiên Chúa mà Người đã rao truyền, giảng dạy, minh chứng trong suốt cuộc đời
của Người. Đó là vương quốc của tình yêu, sự sống sung mãn vĩnh cửu vô cùng vô
tận. Tuy nhiên, để có thể đứng thẳng và ngẩng đầu lên trong ngày Con Người ngự
đến, các tín hữu, những môn đệ của Đức Giêsu được mời gọi “hãy coi chừng”, “hãy
tỉnh thức trong mọi lúc” và “hãy khẩn cầu”. “Coi chừng, cảnh giác” để khỏi bị
lôi cuốn vào những đam mê ăn uống hưởng thụ đến say sưa quên hết mọi sự. Đó là
một lối sống chìm vào trong những dục vọng xấu và quên đi lý tưởng đời mình là
tìm kiếm chính Chúa và hướng đến tha nhân với tình yêu vị tha. “Tỉnh thức trong
mọi lúc”, và “cầu xin” để có thể thoát khỏi những hình phạt cánh chung và đứng
vững trước mặt Con Người trong cuộc phán xét. Tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi
sa chước cám dỗ. “Tỉnh thức luôn luôn” giúp cho con người luôn nhận ra rõ ràng
những cơn cám dỗ. “Cầu nguyện” là ý thức thân phận mình yếu đuối, luôn cần đến
Chúa trong cuộc chiến chống lại sự dữ. Cầu nguyện bao hàm sự tín thác và sự gắn
bó khăng khít với Chúa. Đời sống thân mật với Chúa sẽ giúp các tín hữu vượt qua
mọi khó khăn thử thách, cám dỗ, với ơn Chúa. Mùa vọng là mùa hy vọng, mùa đợi
chờ. Đó không phải đợi chờ một ngày cánh chung và một phần thưởng, nhưng là đợi
chờ một Đấng yêu thương mọi người và được mọi người yêu, sự mong chờ của người
những đứa con dành cho người Cha yêu dấu của mình. Đời người, xét cho cùng, chỉ là một Mùa Vọng kéo
dài. Từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đi, con người luôn mong chờ những giây
phút gặp gỡ Chúa đích thực và gặp gỡ Chúa trong ngày Chúa quang lâm. Muốn có niềm
mong chờ như thế giả thiết người ta phải cảm nhận được mối tương quan gần gũi
giữa mình với Chúa, như là Đấng tạo thành và nhất là người Cha, người Mẹ của
mình, chứ không phải là vị quan tòa phán xét, rồi thưởng – phạt mà thôi.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV. Introduction, translation, and notes (AnB; New
Haven – London 2008) 28A, 1348; J.B. Green,
The Gospel of Luke (NICNT; Grand
Rapids 1997) 739.
[2] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV, 1349.
[3]
Nhiều điểm chú giải của đoạn Tin Mừng này sẽ được tìm thấy trong phần chú giải
của Mc 13,24-32 [x. J.P.D. Thạch, “Không Ai Biết Ngày Đó Giờ Đó, Kể Cả Người
Con”, LỜI
BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: KHÔNG AI BIẾT NGÀY ĐÓ GIỜ ĐÓ, KỂ CẢ
NGƯỜI CON. Chú Giải Tin Mừng CN XXXIII TN B (Mc 13,24-32) (josephpham-horizon.blogspot.com)
[4]
“Now they take place not directly in the sky but in the three celestial bodies
known to ancient science: the sun, the moon, and the stars. That is to say,
they will occur by day as well as by night.” [F.
Bovon, Luke 3. A
Commentary on the Gospel of Luke 19:28–24:53 (ed. H. Koester) (Hermeneia; Minneapolis
2012) 116].
[5] J.B. Green,
The Gospel of Luke, 740.
[6] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV, 1350.
[7]
Theo M. Hamm, Luca bỏ qua chi tiết cho về cuộc triệu tập này có lẽ vì ông sẽ đề
cập một cuộc triệu tập của Giáo Hội được ghi lại trong sách Công Vụ Tông Đồ, được
bắt đầu từ sau Lễ Ngũ Tuần cho đến khi Nước Trời tỏ hiện cách hoàn toàn [M.D.
Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary (Ed. R.J. Clifford et al.)
(New York 2018) 1092].
[8] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV, 1349;
F. Bovon,
Luke 3, 118.
[10]
“the term “deliverance” (ἀπολύτρωσις),
which is unusual in Luke, undoubtedly coming from the source he used, but along
with “salvation” (σωτηρία)
and “visitation” (ἐπισκοπή)
is part of the New Testament vocabulary of salvation” (F. Bovon, Luke 3, 119.)
[11]
X. J.E. Alsup, The HarperCollins Bible Dictionary (ed. P.J. Achtemeier) (New
York 1996) “Redemption”, 920; “The New Testament texts use the term with
various nuances: (a) the total eschatological liberation brought
about by Christ (here as well as in Rom 8:23; Eph 1:14; 4:30); (b) the status
of the liberated person (Col 1:14; Eph 1:7); (c) by metonymy, the person of
Christ the redeemer (1 Cor 1:30)” (F.
Bovon, Luke 3, 120).
[12] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV, 1352.
[13] C.A.
Evans, Mark 8:27-16:20 (WBC; Dallas 2002) 334.
[14]“Vương quốc Thiên Chúa”, Mátthêu hay
sử dụng Nước Trời nhiều hơn là Nước Thiên Chúa, có lẽ vì Mátthêu tránh gọi danh
“Thiên Chúa”, vốn không phù hợp với văn hóa Do Thái.
[16] M.D.
Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary (Ed. R.J. Clifford et al.)
(New York 2018) 1092.
[17] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV, 1355;
L.T. Johnson, The Gospel According to Luke (SP 3; Collegeville 1991)
329.
[18]
“Thoát khỏi những điều này” âm vang câu hỏi của Gioan Tẩy Giả dành cho đám đông
“ai đã dạy cho các ngươi biết cách trốn khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (L.T.
Johnson, The Gospel According to Luke,329).
[19]
M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary, 1092.
Friday, 19 November 2021
Thursday, 18 November 2021
MỘT VỊ VUA CHỊU THẨM VẤN. Chú Giải Tin Mừng CN XXXIV TN B (Ga 18,33-37)
VUA CỦA SỰ
THẬT. Chú Giải Tin
Mừng CN XXXIV TN B (Ga 18,33-37)
Bản Văn và dịch
sát nghĩa
Hy Lạp |
Việt |
33 Εἰσῆλθεν οὖν πάλιν εἰς τὸ πραιτώριον ὁ Πιλᾶτος καὶ ἐφώνησεν
τὸν Ἰησοῦν καὶ εἶπεν αὐτῷ· σὺ εἶ ὁ βασιλεὺς τῶν Ἰουδαίων; 34 ἀπεκρίθη Ἰησοῦς· ἀπὸ σεαυτοῦ σὺ τοῦτο λέγεις
ἢ ἄλλοι εἶπόν σοι περὶ ἐμοῦ; 35 ἀπεκρίθη ὁ Πιλᾶτος·
μήτι ἐγὼ Ἰουδαῖός εἰμι; τὸ ἔθνος τὸ σὸν καὶ οἱ ἀρχιερεῖς
παρέδωκάν σε ἐμοί· τί ἐποίησας; 36 ἀπεκρίθη Ἰησοῦς· ἡ
βασιλεία ἡ ἐμὴ οὐκ ἔστιν ἐκ τοῦ κόσμου τούτου·
εἰ ἐκ τοῦ κόσμου τούτου ἦν ἡ βασιλεία ἡ ἐμή, οἱ ὑπηρέται οἱ ἐμοὶ ἠγωνίζοντο [ἂν]
ἵνα μὴ παραδοθῶ τοῖς Ἰουδαίοις· νῦν δὲ ἡ βασιλεία ἡ ἐμὴ οὐκ ἔστιν ἐντεῦθεν. 37 εἶπεν οὖν αὐτῷ ὁ Πιλᾶτος·
οὐκοῦν βασιλεὺς εἶ σύ; ἀπεκρίθη ὁ Ἰησοῦς· σὺ λέγεις
ὅτι βασιλεύς εἰμι. ἐγὼ εἰς τοῦτο γεγέννημαι καὶ εἰς τοῦτο ἐλήλυθα
εἰς τὸν κόσμον, ἵνα μαρτυρήσω τῇ ἀληθείᾳ· πᾶς ὁ ὢν ἐκ τῆς ἀληθείας
ἀκούει μου τῆς φωνῆς.(Jn.
18:33-37 BGT) |
33 Ông Philatô lại
đi vào trong dinh và gọi Đức Giêsu và nói cùng Người: “Có phải ông là vua của Người Do Thái?” 34 Đức Giêsu trả lời: “Ông nói điều này từ chính
ông hay người khác đã nói với ông về tôi?” 35 Ông Philatô trả
lời: “Tôi không phải là người Do Thái, có phải
không nào? Dân của ông và các Thượng Tế đã nộp ông
cho tôi. Ông đã làm gì?” 36 Đức Giêsu trả lời: “Vương
quốc của tôi không thuộc về thế giới này.”
Nếu vương quốc của tôi thuộc về thế giới này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu để tôi không bị trao nộp cho những Người
Do Thái. Nhưng bây giờ Vương Quốc của tôi không
thuộc về nơi này. 37 Vì thế, ông Philatô nói
cùng Người: “Vậy, ông là vua sao? Đức Giêsu trả
lời: “Chính ông nói tôi là vua. Tôi được sinh ra và đã đến trong
thế giới này, để tôi có thể làm chứng cho sự thật.
Bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi” |
Bối cảnh
Đoạn Tin Mừng (Ga 18,33-37) nằm trong trình thuật
về các cuộc thẩm vấn của Tổng Trấn Philatô dành cho Đức Giêsu, bắt đầu từ lúc “những
người Do Thái” dẫn Đức Giêsu đến với ông đến lúc ông trao Người cho họ dẫn đi
đóng đinh vào thập giá (18,2 – 19,16a). Trình thuật được tác giả mô tả dựa trên
bối cảnh không gian trong và ngoài dinh Philatô (Bên ngoài [18,28-32]; Bên trong
[18,33-38a]; Bên ngoài [18,38b-40]; Bên trong [19,1-3]; Bên ngoài [19,4-8]; Bên
trong [19,9-11]; Bên ngoài [19,12-16a]).[1] Ông Philatô xét xử Đức Giêsu (bên trong dinh) theo yêu cầu
của những người Do Thái đang ở ngoài dinh, vì họ sợ vào dinh sẽ bị dơ bẩn. Chính
vì thế, Ông phải chạy ra, chạy vào năm lần bảy lượt. Theo tác giả
Tin Mừng thứ tư, sau khi bắt Đức Giêsu và trói lại, quân lính cùng đám thuộc hạ
của người Do Thái điệu Đức Giêsu đến nhà ông Khanan là nhạc phụ của ông Caipha
(Ga 18,13). Ông Khanan, được gọi với chức danh là Thượng Tế[2],
thẩm vấn Đức Giêsu về các môn đệ và giáo huấn của Người (Ga 18,19). Sau đó, ông
Khanan cho giải Đức Giêsu vẫn bị trói đến với Thượng Tế Caipha (Ga 18,24).
Gioan không ghi lại bất kỳ một thẩm vấn nào của Thượng Tế Caipha. Khác với Tin
Mừng Máccô, trong đó, Caipha hỏi Đức Giêsu về căn tính Mêsia của Người: “Ông có
phải là Đấng Mêsia, Con của Đấng được chúc tụng không?” Đức Giêsu đã trả lời
xác nhận cho câu hỏi này (x. Mc 14,61-62). Từ nhà Caipha, Đức Giêsu được người
Do Thái điệu đến dinh Tổng Trấn Philatô (Ga 18,18). Philatô gặp những người Do
Thái và hỏi họ về tội của Đức Giêsu. Họ trả lời rằng: “Nếu ông ta không làm gì
gian ác, thì chúng tôi đã không nộp cho quan” (Ga 18,30). Rồi, Philatô không muốn
xét xử Đức Giêsu nên ông bảo họ đem Người đi mà xét xử theo luật của họ. Tuy
nhiên, những người Do Thái nói rằng họ không có quyền xử tử ai cả (Ga 18,31).
Điều này ngụ ý rằng họ muốn Đức Giêsu phải bị tử hình. Chính vì thế, Philatô mới
trở vào và thẩm vấn Đức Giêsu. Vấn đề chính mà Philatô muốn hỏi là “có phải Đức
Giêsu là vua của Người Do Thái không?”. Câu hỏi này rõ ràng liên hệ đến chính
căn tính Mêsia của Đức Giêsu. Câu hỏi căn bản nòng cốt mà Đức Giêsu hỏi các môn
đệ sau một khoảng thời gian theo Chúa là: “Anh em bảo Thầy là ai”. Simôn Phêrô
thưa rằng: “Thầy là Đấng Kitô”[3]
(tiếng Do Thái là Mêsia) (x. Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,18-21). Chắc chắn rằng,
trong suy nghĩ của Phêrô và các anh em Tông Đồ, Đấng Kitô theo nghĩa là Kitô
Vua. Người là Đấng Mêsia được hứa là xuất thân từ hoàng tộc vua Đavíd và triều
đại của Người sẽ vô cùng vô tận (x. 2 Sm 7). Người đã tiến vào Jêrusalem trong
tiếng reo mừng hoan hô: “Hôsana! Hôsana! Chúc tụng Đấng ngự
đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua IsraEL” (Ga 12,15). Việc Đức Giêsu ngồi trên
lưng lừa được tác giả Gioan ghi chú là để ứng nhiệm lời đã chép “Hỡi thiếu nữ Sion,
đừng sợ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con” (Ga 12,16). Dân
chúng đã công khai nhận Người là vua. Có lẽ, chính vì thế mà câu hỏi Philatô thắc
mắc là “ông là vua sao?”. Ngoài chủ đề về Đấng Mêsia vua, đoạn văn này còn nhắc
đến hai chủ đề quan trọng khác. Thứ nhất, nhân vật “những người Do Thái” xuất
hiện, như là những người thù ghét Đức Giêsu rất thường thấy trong Tin Mừng
Gioan. Thứ hai, chủ đề về sự thật liên quan đến một căn tính khác của Đức Giêsu:
“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Lời của Chúa Cha cũng là sự
thật (Ga 17,17). Chúa Thánh Thần cũng được biết đến như là Thần Khí sự thật. Sinh
Khí chân lý (τὸ πνεῦμα τῆς ἀληθείας) sẽ dẫn các môn đệ trong tất cả sự thật (Ga 16,13).
Cấu trúc
(A)
Có phải ông là vua của Người Do Thái (18,33) (B) Từ chính ông hay người
khác (18,34) (C) Dân của ông và các Thượng Tế đã nộp ông
cho tôi (18,35a) (D) Ông đã làm gì? (18,35b) (E) “Vương quốc của tôi không phải từ
thế giới này (18,36a) (C’)
Để tôi không bị trao nộp cho những Người Do Thái (18,36b) (E’) Vương Quốc của tôi không phải từ
nơi này (18,36c) (A’) Vậy, ông là vua sao? (18,37a) (B’) “Chính ông nói tôi là
vua (18,37b) (D’) Làm chứng cho sự thật (18,37c) Bất cứ ai nghe từ sự thật thì nghe tiếng tôi. (18,37d)
|
Một số điểm
chú giải
1.
Philatô:[4]
Ông là một Tổng Trấn
(tương đương Tỉnh Trưởng) Rôma, đời thứ ba (sau Coponius, 6 – 9 CE; và Valerius
Gratus, 15 – 36 CE) tại tỉnh Giuđê, và là người cai trị lâu thứ hai trên vùng đất
này (26-36 C.E.). Nhiệm kỳ của ông bắt đầu từ thời kỳ hoạt động của Gioan Tẩy
Giả, cũng như sứ vụ công khai của Đức Giêsu (x. Lc 3,1). Philatô đóng vai trò
chính yếu trong vụ xử và cho phép đóng đinh Đức Giêsu (Mt 27,1-2.11-26; Mc
15,1-15; Lc 23,1-25; Ga 18,28 – 19,16; Cv 3,13; 4,27; 13,28; 1 Tm 6,13). Hình ảnh
của Philatô hơi khác nhau trong mỗi sách Tin Mừng. Tuy nhiên chung quy lại, dường
như các tác giả đều cho thấy rằng ông Philatô nhận ra Đức Giêsu vô tội, nhưng
vì chiều lòng dân chúng, ông đành giao Đức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá.
Máccô ghi chú rằng: “Ông thừa biết là chỉ vì ganh tỵ mà họ nộp Đức Giêsu” và
ông hỏi đám đông có muốn ông phóng thích “vua Dân Do Thái” cho họ không. Khi họ
la to đòi đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá, ông lại hỏi rằng “nhưng ông ấy đã
làm điều gì gian ác?” (x. Mc 15,1-15). Tương tự, Mátthêu lặp lại những thái độ
tích cực của Ông Philatô đối với Đức Giêsu và không có ý muốn xử tử Đức Giêsu.
Tuy nhiên, Mátthêu thêm vào hai chi tiết rất quan trọng. Thứ nhất, người vợ của
ông Philatô đến can thiệp trong lúc ông đang ngồi xử án. Bà gọi Đức Giêsu là
“người công chính” và khuyên chồng mình không nên nhúng tay vào vụ xử Đức Giêsu:
“Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao
thấy mình phải khổ nhiều vì ông ấy” (Mt 27,19). Thứ hai, ông đã “lấy nước rửa
tay trước mặt đám đông và nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này” (Mt 27,24).
Theo Luca, ông Philatô biện hộ nói rằng Đức Giêsu vô tội đến ba lần, + một: (i)
“Ta xét thấy người này không có tội gì” (Lc 23,4); (ii) “Ta đã hỏi cung ngay
trước mặt các người, mà không thấy người này có tội gì, như các người tố cáo
(Lc 23,14); (iii) “Các người thấy đó, ông này chẳng có tội gì đáng chết cả” (Lc
23,15); (iv) Qua lời ông Philatô, độc giả cũng biết rằng cả vua Hêrôđê cũng
không thấy Đức Giêsu có tội. Hơn nữa, Luca còn ghi chú rằng “Philatô muốn thả Đức
Giêsu” (Lc 23,20); Ông cố gắng làm dịu dân chúng nên nói rằng “vậy, ta sẽ cho
đánh đòn rồi thả hắn ra” (Lc Lc 23,22). Tương tự, Philatô của Gioan cũng có ít
nhất ba lần biện hộ cho sự vô tội của Đức Giêsu: “Phần ta, ta không thấy lý do
nào để kết tội ông ấy” (Ga 18,38); (ii) “Ta dẫn ông ấy ra cho các người, để các
người biết rằng ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy” (Ga 19,4); (iii)
“Các ngươi cứ đem ông ấy đi mà đóng đinh, phần ta, ta không tìm thấy lý do gì để
kết tội ông ấy” (Ga 19,6). Gioan cũng ghi chú thêm là “từ đó ông Philatô tìm
cách tha Người” (Ga 19,21). Trong đoạn Tin Mừng này, Philatô chất vấn Đức Giêsu
về căn tính vương đế của Người và về lý do tại sao họ nộp Người cho ông.
2.
“Vua của Người Do Thái”: Trong ba câu hỏi quan Tổng Trấn đặt ra cho Đức Giêsu trong đoạn này, thì có
đến hai câu hỏi liên quan đến căn tính “vương đế” của Đức Giêsu: “Ông có phải
là vua của những người Do Thái không?” (18,33); “Vậy, ông là vua sao?” (18,37).
Thật lạ lùng, câu hỏi mà ông Philatô hỏi Đức Giêsu lại là “ông là vua dân Do
Thái sao?”. Một câu hỏi có vẻ ngạc nhiên và có thể có ngụ ý mỉa mai, chua xót.
Lẽ ra, quan Tổng Trấn nên hỏi về bản cáo trạng về những tội Đức Giêsu đã phạm
(nếu có) vì người Do Thái nộp Đức Giêsu cho quan, vì đinh ninh rằng Người đã và
đang làm nhiều điều gian ác (18,30). Ông Philatô ngạc nhiên không hiểu tại sao
họ lại trao nộp vua của họ. Ông, có lẽ, mỉa mai rằng Đức Giêsu làm vua kiểu gì
mà bị dân ghét đến vậy. Chính vì thế, câu hỏi là “ông có thật là vua của người
Do Thái không”? Mà nếu là vua thật thì sao ra nông nỗi này? Dữ liệu mà quan Tổng
Trấn có về căn tính “vua của những người Do Thái” của Đức Giêsu, có lẽ đến từ sự
kiện Đức Giêsu vào thành Jêrusalem, trong tiếng reo hò chào đón của dân chúng:
“Hôsana! Hôsana! Chúc tụng Đấng
ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua IsraEL” (Ga 12,13). Dân chúng trong Tin Mừng
Máccô còn hô vang: “Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavíd tổ phụ
chúng ta. Hôsana trên các tầng
trời” (Mc 11,10). Còn Luca thì ghi lại cụ thể hơn: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự
đến nhân danh Chúa!” (Lc 19,38). Trong buổi truyền tin cho Đức Maria, sứ thần
đã bật mí cùng Đức Maria về căn tính vương đế của Đức Giêsu: “Thiên Chúa sẽ ban
cho Người ngai vàng của vua Đavíd tổ tiên Người; Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến
muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,32-33). Dân chúng
trong Mátthêu thì tung hô Đức Giêsu như là Con Vua Đavíd (ngụ ý người thừa kế
ngai vàng vua Đavíd). Tuy nhiên, trong trình thuật về Giáng Sinh, Mátthêu là
tác giả duy nhất đã dùng danh xưng này, qua cửa miệng các nhà chiêm tinh: “Đức
vua của những Người Do Thái mới sinh hiện ở đâu?” (Mt 2,2). Điều này ngụ ý rằng,
ngay cả những người ngoại ở phương xa cũng đã nhìn thấy căn tính đế vương nơi Đức
Giêsu. Đức Giêsu cũng không từ chối danh xưng này.[5]
Khi Philatô hỏi Người, Người đã xác nhận: “Chính ngài nói tôi là vua” (Ga 18,37),
qua việc Người nói về vương quốc của Người. Thật ra, kiểu trả lời của Đức Giêsu
dường như vừa khẳng định, lại vừa từ chối rằng “Người là vua”. Khẳng định vì
Người đã nói về vương quốc của Người; và từ chối vì Người không phải là vua
theo cách nghĩ của ông Philatô. Điều đó chứng tỏ rằng khái niệm về căn tính
“vua” của Đức Giêsu, khác với khái niệm ấy của ông Philatô và những người Do
Thái. Cuối cùng, những người Do Thái (chống đối) phủ nhận hoàn toàn danh hiệu
này của Đức Giêsu. Họ thà nhìn nhận hoàng đế Rôma hơn là nhìn nhận Đức Giêsu
như là vua của họ: “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài hoàng đế Kaisar”
(19,15). Còn quân lính thì chế giễu Người bằng cách mặc cho Người một áo choàng
đỏ, rồi đội vương miện bằng vòng gai lên đầu Người và nói: “Tâu vua của những
Người Do Thái”, rồi vả vào mặt Người (Ga 19,3). Trên thập giá Đức Giêsu có ghi
một tấm bảng bằng ba thứ tiếng (Do Thái, Latinh, và Hy Lạp): “Giêsu Nadarét,
vua của những người Do Thái” (Ga 19,19-20). Đây cũng là bảng hiệu mang tính chế
giễu chứ không phải một cách thức định danh, định tín. Đức Giêsu thật sự là vua
Mêsia theo lời hứa trong Sách Thánh Cựu Ước. Người xuất thân từ hoàng tộc Đavíd;
Sinh ra tại quê hương vua Đavíd (Bếtlehem); Được Phêrô tuyên xưng là Đấng Kitô
(Mêsia); Được dân chúng rước vào thành như là đế vương; Chính Người cũng xác nhận
điều ấy. Tuy nhiên, vương quyền[6] và
vương quốc của Người không phải thuộc trần thế như ông Philatô và những người
Do Thái lầm tưởng.
3.
“Người Do Thái”: Trong
bốn tác giả sách Tin Mừng, Gioan là tác giả đề cập đến “những
người Do Thái” nhiều nhất (Mt: 5 lần; Mc: 6 lần; Lc:
3 lần; Ga: 61 lần). Có ít nhất ba nhóm nghĩa cho danh từ
“những người Do Thái” được dùng trong Tin Mừng thứ tư: (1) Bất cứ người Do Thái
nào (2,6.13; 3,1.26; 4,9a.9b) (2) Những người Do Thái đối nghịch với Đức Giêsu,
thậm chí muốn giết Đức Giêsu (2,18.20; 5,16.18; 7,1; 10,31.33); (3) Những người
Do Thái tin vào Đức Giêsu (8,31; Ông Nicôđêmô [3,1-21;19,39]; Giuse Arimathê
[19,38]; 12,11). Trong đoạn Tin Mừng này, danh xưng “những người Do Thái” xuất
hiện ba lần. Hai lần đầu, danh từ này được dùng để diễn tả “những
người Do Thái” nói chung, phân biệt với những người thuộc dân tộc
khác: Ông Philatô nói: “Tôi không phải là người Do Thái, phải không nào?”
(18,35); Ông Philatô hỏi: “Ông có phải là vua của những người Do Thái?”
(18,33). Lần thứ ba, danh từ “những người Do Thái” có nghĩa là những người
đang chống đối và muốn giết Đức Giêsu: “Nếu Vương Quốc của tôi từ thế giới này,
thuộc hạ của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho những người Do Thái”
(18,36). Người Do Thái trong nghĩa thứ ba này có lẽ chủ yếu là nhóm lãnh đạo Do
Thái (các Thượng Tế và những người Pharisêu [Ga 18,3]), những người âm mưu và
sách động dân chúng lên án tử Đức Giêsu.
4.
“Dân của ông và các Thượng Tế”: Danh từ chung “người dân, dân tộc” đi kèm với tính từ sở hữu, ngôi
thứ hai số ít (của ông) xác định dân này là của Đức Giêsu, hay thuộc về Đức Giêsu.
Nếu hiểu rằng Đức Giêsu là vua, thì có thể hiểu những người này như là thần dân
của Đức Giêsu. Cũng có thể hiểu một cách đơn giản danh từ “dân của ông” như là
cách nói những người cùng chủng tộc và quốc gia với Đức Giêsu. Thượng tế là người
đứng đầu Đền Thờ và cũng là người đứng đầu cơ quan hành pháp của chính phủ tỉnh
Giuđêa, vào thời ấy (dĩ nhiên là sau Tổng Trấn Rôma). Thực tế, họ được các Tổng
Trấn Rôma bổ nhiệm. Họ có quyền thẩm vấn và xét xử tội phạm như trong vụ án của
Đức Giêsu, nhưng họ không có quyền kết án tử hình, nên họ cần đến ông Philatô
công bố bản án tử. Sở dĩ, ông Philatô gọi là “các Thượng Tế” (số nhiều) có thể
bao gồm cả Khanan, (đã rời nhiệm sở nhưng vẫn còn quyền lực), và Caipha (người
đương nhiệm sở). Cả dân chúng lẫn các Thượng Tế cùng nộp Đức Giêsu, nghĩa là từ
quan đến dân đều muốn Đức Giêsu bị quan Philatô xử tử.
5.
“Đã nộp”: Động từ
trao nộp được dùng hai lần trong đoạn Tin Mừng này, một lần ở chủ động và một lần
bị động. Lần thứ nhất, Philatô nói rằng “dân của ông và các Thượng Tế đã nộp
ông cho tôi” (18,35). Lần thứ hai, Đức Giêsu nói rằng Người đã bị nộp cho những
người Do Thái. Túc từ gián tiếp của động từ “trao nộp” khác nhau ở hai lần: (i)
Nộp cho Philatô; (ii) Nộp cho những người Do Thái. Chủ ngữ của hành động “nộp”
Đức Giêsu cho quan Philatô chính là những người Do Thái: “Nếu ông ấy không làm
gì gian ác thì chúng tôi đã không nộp ông ấy cho quan” (Ga 18,30). Còn tác nhân
của hành động “nộp” Đức Giêsu cho những người Do Thái có thể là Giuđa Ítcariốt,
với sự giúp đỡ của quân lính của các Thượng Tế và những người Pharisêu (Ga
18,3). Tuy nhiên, tác nhân đó cũng rất có thể là chính Đức Giêsu. Chính Người
đã tự trao nộp mình. Đó cũng là thánh ý của Chúa Cha. Thực tế, khi Đức Giêsu trả
lời cho đám lính đến bắt Người: “Chính là Ta đây”, họ đã lùi lại và ngã xuống đất.
Phêrô cũng đã tuốt gươm ra và chém đứt tai bên phải của Mankhô, một đầy tớ của
vị Thượng Tế. Đức Giêsu đáp trả rằng: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Cha đã
trao, lẽ nào Thầy không uống?” (Ga 18,11). Nhắc đến nhân vật những “người Do
Thái” trong hành động “bị trao nộp”, Đức Giêsu dường như muốn nhấn mạnh đến vai
trò chính của những người Do Thái trong vụ án này hơn là của Tổng Trấn Philatô.
Tin Mừng Nhất Lãm nói đến nhiều loại túc từ gián tiếp của động từ “trao nộp”: (i)
“Bị nộp cho các Thượng Tế và Kinh Sư” (Mt 20,18; Mc 10,33) (ii) “Bị nộp vào tay
người đời” (Nghĩa đen: Người ta, Mt 17,22; Mc 9,31; Lc 9,44); (iii) “Bị nộp vào
tay những kẻ tội lỗi” (Mt 26,45; Mc 14,41; Lc 24,7); (iv) Nộp cho Tổng Trấn Philatô
(Mt 27,2; Mc 15,1); (v) “Nộp cho dân ngoại” (nghĩa đen: Các dân, Lc 18,32).
6.
“Ông đã làm gì?”: Câu
hỏi này đi liền sau câu “dân của ông” và các “Thượng Tế” đã nộp ông cho tôi, tỏ
lộ một thái độ vừa ngạc nhiên vừa chua xót. Philatô ngụ ý rằng, sao ra nông nỗi
này vậy ông Giêsu? Ông đa làm gì đến nổi cả quan và dân của ông phải nộp ông
cho một người ngoại như tôi? Tôi nghe nói ông là vua của họ. Họ đã tung hô ông
lúc ông tiến vào thành Jêrusalem. Chẳng phải thế sao? Câu hỏi này cũng có ý chất vấn về những điều gian ác mà những người Do Thái
đã cáo buộc Đức Giêsu.
7.
Vương quốc của tôi: Đức
Giêsu không lại không trả lời trực tiếp cho câu hỏi của ông Philatô (Ông đã làm
gì nên tội?). Đức Giêsu dường như tiếp tục lý giải câu hỏi trước (Có phải Ông
là vua của những người Do Thái?). Người nói về vương quốc của Người.[7] Danh
từ “vương quốc” (ἡ βασιλεία), cùng với tính từ sở hữu “của tôi” (ἡ ἐμὴ) được dùng ba lần trong câu trả lời của Đức
Giêsu. Trong tiếng Hy Lạp danh xưng “vua” và “vương quốc” có cùng gốc từ: Vua (βασιλεὺς); Vương quốc (ἡ βασιλεία). Ngoài nghĩa là “nước”, “vương quốc”.
Danh từ này còn có nghĩa là “vương triều”, “triều đại”. Đức Giêsu có thể ngụ ý
cả hai nghĩa. Không giống như Tin Mừng Nhất Lãm (dùng nhiều lần danh xưng vương
quốc), Tin Mừng thư tư chỉ dùng hai lần danh xưng này. Ngoài lần này, một lần khác
trong bối cảnh đối thoại với ông Nicôđêmô: Phải tái sinh bởi nước và Thần Khí mới
có thể vào vương quốc (Ga 3,3-5). Vương quốc là nơi Chúa trị vì, một cộng đoàn
yêu thương huynh đệ và những ai thuộc về Chúa, thuộc về sự thật, đáp trả lại tiếng
của Đức Giêsu sẽ vào vương quốc.[8] Tin
Mừng Nhất Lãm nói vương quốc Thiên Chúa trong lời công bố của Đức Giêsu, diễn tả
những hoạt động năng động của Thiên Chúa tối cao vì ơn cứu độ nhân loại qua những
hoạt động của Đức Giêsu.[9] Như
đã nói trên căn tính “vua” của Đức Giêsu không giống với cách hiểu của Philatô
cũng như những người Do Thái, kể cả các Tông Đồ. Tương tự, vương quốc của Người
cũng vậy. Nó được phân biệt với vương quốc trần gian bằng cụm giới từ “không
thuộc thế giới này”, cũng được lặp lại ba lần. Khởi đầu sứ vụ của mình, Đức Giêsu
đã mời gọi: “Thời kỳ đã hoàn tất, Vương Quốc (triều đại) Thiên Chúa đã đến gần,
anh chị em hay hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15) [πεπλήρωται ὁ καιρὸς καὶ ἤγγικεν
ἡ βασιλεία τοῦ θεοῦ·
μετανοεῖτε καὶ πιστεύετε ἐν τῷ εὐαγγελίῳ]. (Mátthêu dùng danh xưng “Vương Quốc Thiên Giới”, thay vì Vương Quốc
Thiên Chúa như Máccô [ἡ βασιλεία τῶν
οὐρανῶν, Mt 4,17]). Vương quốc
của Đức Giêsu, cũng là vương quốc của Thiên Chúa,[10] đã
khởi sự nhưng chưa hoàn tất. Nó không thuộc chốn này, giống như vương quốc của
thế quyền như người ta nghĩ.
Vương
quốc của tôi không thuộc về thế giới này, Nếu vương quốc của tôi thuộc về thế giới này, thì những thuộc hạ của tôi đã chiến đấu để tôi không bị trao nộp cho những người
Do Thái, Thật sự, vương quốc của tôi không thuộc về nơi này. |
8.
“Được sinh ra và đã đến trong thế giới này”: Đức Giêsu muốn nói đến mầu nhiệm nhập thể, như
cách mọi người vẫn biết về Người, khi Người nói rằng “tôi đã được sinh ra”. Tác
giả Lagrange, từ chối bất cứ cách hiểu nào về động từ thứ nhất liên quan đến sự
sinh ra của Đức Giêsu và cho rằng cả hai động từ đều chỉ diễn tả một chuyện mà
thôi. Sự sinh ra của Đức Giêsu là đến trong thế gian này.[11] Tuy
nhiên, tác giả Tin Mừng thứ tư đã diễn tả trong lời tựa rằng: “Lời đã trở nên
xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14a). Như thế, tác giả đã nói rõ mầu
nhiệm nhập thể giống như các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm. Người đã được sinh ra bởi Đức Maria; là dưỡng
tử của thánh Giuse; Lớn lên tại làng Nadarét. Tuy nhiên, khi Người nói “tôi đã
đến trong thế giới này”, Người ngụ ý đến căn tính thần linh của mình. Người thuộc
một thế giới khác chứ không phải thế giới này, Kinh Tin Kính tuyên xưng rằng Đức
Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa. Người “được sinh ra mà không phải được tạo
thành”.
9.
“Làm chứng cho sự thật”: Nhìn vào cấu trúc [D: Ông đã làm gì? (18,35b)// D’: Làm chứng cho sự thật (18,37c)]
độc giả có thể nhận ra câu trả lời của Đức Giêsu dành cho câu hỏi của Philatô
(ông đã làm gì nên tội?) là “làm chứng cho sự thật”. Đức Giêsu chẳng làm gì nên
tội cả. Người chỉ giảng dạy sự thật, lẽ ngay nhằm mang lại ơn cứu độ cho muôn
người. Thuật ngữ “sự thật” (ἀλήθεια) là một trong những thuật ngữ mang đậm chất của
Tin Mừng Gioan. Trong ba Tin Mừng Nhất Lãm, Máccô là tác giả dùng hạn từ này
nhiều nhất với ba lần xuất hiện (Mc 5,33; 12,14.32); Luca dùng hai lần (4,25;
22,59) và Mátthêu một lần (22,16). Tác giả Gioan dùng thuật ngữ này đến hai
mươi ba lần. Đức Giêsu đã tự giới thiệu mình là “con đường, là sự thật và là sự
sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Người cũng
nói đến Đấng Paráclêtô là Sinh Khí (pnêuma) sự thật
(thường được hiểu là Chúa Thánh Linh) (Ga 15,26; 16,13;
x. 14,17). Lời của Chúa Cha cũng là sự thật (Ga 17,17). Ngay từ Lời Tựa, tác giả
Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như là “Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga
1,14) và “ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 14,17). Những dữ
liệu này cho thấy cả Chúa Cha, Đức Giêsu và Chúa Thánh Linh đều là “sự thật”. Trong
sứ vụ rao giảng của mình, Đức Giêsu luôn “nói sự thật mà Người đã nghe từ Thiên
Chúa” (Ga 8,40; cf. 8,45-46). “Sự thật” mà Đức Giêsu nói sẽ mang lại cho người
ta ơn giải thoát: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn
đệ của tôi, các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải thoát các ông” (Ga
8,31-32). Trong bối cảnh này, Đức Giêsu nói mục đích của việc Người được sinh
ra và đến trong trần gian này là “để làm chứng cho sự thật”. Mệnh đề được bắt đầu
bằng liên từ chỉ mục đích “để” (ἵνα). Qua lời của Đức Giêsu, độc giả cũng biết rằng
ông Gioan (Tẩy Giả) cũng “làm chứng cho sự thật” (Ga 5,33). Đức Giêsu không nói
về một sự thật trừu tượng hay là thậm chí trong cách chung chung, nhưng cách cụ
thể trong tương quan với sự vụ của Người. Sứ vụ của Người là nói ơn cứu độ và
con đường cứu độ của Thiên Chúa qua lời nói và hành động của Người.[12] Sự
thật trọn vẹn chính là con người toàn thể của Đức Giêsu và toàn bộ sứ điệp Tin
Mừng của Người được thể hiện qua tất cả mọi hành động và lời rao giảng của Người.
10.
“Thuộc về sự thật… nghe tiếng tôi”: Theo R. Brown, túc từ của động từ nghe được dùng ở
thuộc cách (nghe của tiếng của tôi) diễn tả một sự lắng nghe với sự hiểu biết
và đón nhận. Trong Ga 10,3 (cũng x. 10,16.27) độc giả cũng đã được biết rằng
con chiên lắng nghe lời của người mục tử. Sự song song này là rất đặc biệt vì
mô hình mục tử-chiên có bối cảnh trong bức tranh Cực Ước về vua, và ở đây Đức Giêsu
trả lời về đặc tính vương đế của Người. Như thế, những người thuộc về sự thật
là những con chiên được Chúa Cha trao ban cho Đức Giêsu, những người không lắng
nghe Đức Giêsu không thuộc về Thiên Chúa (Ga 8,47).[13]
Ai lắng nghe tiếng Con Thiên Chúa thì sẽ được sống (Ga 5,25). Câu nói của Đức Giêsu
vừa làm cho Philatô phần nào nhẹ nhỏm, vì Người không hứng thú với quyền lực
chính trị. Nhưng câu nói này cũng thách thức Philatô về sự thật. Ông ta có biết
sự thật và có đứng về sự thật hay không? Thực tế, từ lúc này về sau Philatô đã
cố đứng về phía sự thật, khi ông đã ít nhất 3 lần nói rõ Đức Giêsu vô tội
(18,38b; 19,4b.6b) và ông đã tìm cách tha cho Đức Giêsu (18,39b; 19,12a). Tuy
nhiên, cuối cùng ông cũng không theo đuổi sự thật đến cùng, vì đã chiều theo
dân chúng mà trao Đức Giêsu cho họ đóng đinh.
Bình luận chung
Các Thượng Tế và “những người Do Thái” (thù ghét)
đã nộp Đức Giêsu cho quan Philatô vì theo họ, Đức Giêsu đã làm quá nhiều điều
gian ác. Vì họ không thể kết án xử tử Đức Giêsu, nên họ phải mượn tay của quan
Tổng Trấn Rôma. Điều này ngụ ý rằng một khi mang đến cho Tổng Trấn, họ đã có sẵn
ý định giết chết Đức Giêsu. Cuối cùng, họ đã đạt được mục đích: “Bấy giờ ông Philatô
trao Đức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá” (Ga 19,16a). Tuy nhiên, cuộc xử
án của Philatô, đặc biệt là cuộc gặp riêng với Đức Giêsu (18,33-38) làm lộ ra
nhiều điều quan trọng. Câu hỏi đầu tiên vị Tổng Trấn dành cho Đức Giêsu là: “Có
phải ông là vua của người Do Thái không?” Đức Giêsu không trả lời trực tiếp vào
câu hỏi, nhưng quan tâm đến nguồn gốc của ý tưởng ấy của vị Tổng Trấn. Tuy
nhiên, dù đó là suy nghĩ của riêng Tổng Trấn hay là ông đã nghe từ người khác,
thì ông vẫn không hiểu danh hiệu “vua” nơi Đức Giêsu một cách đúng đắn. Cuộc thẩm
vấn tiếp tục với câu thẩm vấn thứ hai: “Ông đã làm gì?” Vị Tổng Trấn tạm thời bỏ
qua câu hỏi về địa vị “vua” của Đức Giêsu. Ông quan tâm đến “những điều gian
ác” mà Đức Giêsu đã làm theo như các Thượng Tế và những “người Do Thái” đã tố
cáo (18,30). Cùng với việc nhấn mạnh “các Thượng Tế và dân ông đã nộp ông cho
tôi”, câu hỏi “ông đã làm gì?” biểu lộ một sự chua xót, lẫn mỉa mai, bởi lẽ một
người được xem là “vua” nhưng đã làm gì xấu đến mức cả lãnh đạo và dân, từ trên
xuống dưới đều muốn Người bị xử tử. Đức Giêsu lại không trả lời trực tiếp câu hỏi
của vị Tổng Trấn. Người nói đến việc Người đã bị “nộp cho người Do Thái”, qua
đó Người giới thiệu về vương quốc (triều đại của Người). Thực chất, không ai có
thể nộp Người cho “những người Do Thái” để rồi, họ nộp Người cho quan Philatô.
Chính Người đã tự ý trao nộp chính mình. Không ai có thể đụng đến Người, nếu
như Người không chịu trao nộp. Sự kiện đám quân lính ngã rạp xuống đất sau khi
Người nói: “Chính là Ta đây” (18,6) đã minh chứng rõ ràng quyền năng tự giải
thoát của Người. Theo giải thích của Đức Giêsu, độc giả hiểu rằng không phải
Người không có quyền năng, hay không muốn sử dụng quyền năng nhưng “vì vương quốc
của Người không thuộc về thế giới này”. Người đã dùng cả sứ vụ công khai để rao
giảng về “Nước Thiên Chúa” (Nước Trời). Nước Trời đã khởi sự trong những lời giảng
và hành động của Người, nhưng rõ ràng nó không phải là vương quốc chính trị như
Philatô và những người Do Thái nghĩ. Sự mạc khải của Đức Giêsu về “vương quốc”
của Người làm cho quan Philatô quay trở lại câu hỏi lúc ban đầu: “Vậy, ông là
vua sao?”. Câu trả lời của Đức Giêsu vừa xác nhận vừa từ chối: “Chính ông nói rằng
tôi là vua”. Xác nhận bởi vì Người đúng là vị vua Mêsia mà dân Do Thái hằng
mong đợi. Từ chối bởi vì ông Philatô nói đến một vị vua theo nghĩa chính trị.
Người không phải là vị vua của một quốc gia theo nghĩa chính trị, đảng phái.
Người là vị vua của vương quốc tình yêu và sự thật. Vương quốc của Người sẽ bao
phủ cả trên trời dưới đất, chứ không hạn chế trong một vùng lãnh thổ, hay dân tộc
nào. Ông Philatô có thể không hiểu được vương quốc, hay vương quyền mà Đức Giêsu
muốn nói đến. Ông chỉ hiểu rằng Đức Giêsu không đe dọa đến quyền lực chính trị
của ông và đế quốc Rôma. Cuối cùng Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi thứ hai của
quan Tổng Trấn (Ông đã làm gì nên tội?). Câu trả lời là “Tôi chẳng làm gì nên tội
cả, tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật”. Ông Philatô
chắc cũng chẳng hiểu sự thật mà Đức Giêsu muốn nói là gì và ông đã hỏi bâng quơ
“sự thật là gì?” và quay bước ra ngoài với dân chúng. Ngạc nhiên thay, không cần
Đức Giêsu trả lời, ông cũng đã nói sự thật là Đức Giêsu hoàn toàn vô tội
(18,38b; 19,4b.6b) và đã tìm cách tha Người (19,12). Có thể nói rằng cách nào
đó, quan Philatô đã thuộc về sự thật và nghe tiếng nói sự thật của Đức Giêsu.
Tiếc thay, ông đã không đi đến cùng con đường sự thật dưới áp lực ghê gớm của
dân chúng.
Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, các tín hữu được mời
gọi liên lỉ nhìn lại hành trình làm người của mình. Lễ các Thánh vào đầu tháng
Mười Một cho họ thấy viễn ảnh hạnh phúc vinh quang với Chúa và với các thánh mà
họ phải hướng về. Tiếp theo sau Lễ các thánh, Lễ cầu cho các linh hồn và tháng cầu
nguyện cho các linh hồn (tháng 11) giúp họ hướng về những người thân, bạn hữu, và
những đồng đạo đang chịu nhiều đau khổ, thanh luyện trong nơi luyện hình để rồi
hy sinh cầu nguyện, để Chúa thương tha thứ mọi lỗi lầm cho các linh hồn lầm lỗi
đang mong ước ngày gia nhập cộng đoàn các thánh. Qua đó, những thành viên trong
Giáo Hội lữ hành nhận biết đích đến của mình: Hoặc là nơi luyện tội tạm thời,
hoặc là nơi Thiên Đàng vĩnh cửu. Còn một nơi nữa mà không ai muốn nhắc đến. Đó
là hỏa ngục muôn kiếp. Những ngày cuối cùng của năm phụng vụ là những ngày lý
tưởng để người ta suy xét cho kỹ về mục đích của đời người và mình đã làm được
những gì để đạt được mục đích ấy? Có điều gì còn trục trặc, thiếu xót cần chỉnh
sửa để chỉnh sửa và bổ sung cho hành trình làm người của mình? Lời mời gọi “ai
thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi” của vị Vua của sự thật giúp cho các tín hữu
bừng tỉnh nếu như họ đang mải mê với những giấc mơ tiền, quyền, danh, lợi, thú
của thế gian này. Họ được mời gọi trở về với triết lý làm người của Đức Kitô.
Chân lý mà Người muốn mạc khải là chân lý tình yêu và sự tha thứ. Chân lý ấy hướng
dẫn nguyên tắc hành xử của một vị Vua luôn cúi xuống thấp nhất có thể để phục vụ
những người yếu hơn, thấp hơn, thay vì đè đầu cưỡi cổ thần dân của mình. Chân
lý của Người là chân lý “thượng đạp hạ đội” khác hẳn với lối sống “thượng đội hạ
đạp” của thế nhân: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm
nhường, thấp bé” (Lc 1,52). Các tín hữu được mời gọi lắng nghe tiếng nói của vị
Vua sự thật trong mọi suy nghĩ, phát ngôn và hành động của mình và đáp trả cách
tích cực trong từng phút giây của đời mình.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] R.E. Brown, The Gospel according to John (XIII-XXI). Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) 29A, 859.
[2] Khanan (Annas) làm Thượng
Tế các năm 6-15 C.E. Theo lịch sử vào lúc xét xử vụ án Đức Giêsu ông đã rời nhiệm
sở. Nhưng có lẽ sự ảnh hưởng của ông còn quá lớn đến nỗi khi bắt được Đức Giêsu
họ đã dẫn Người đến ông Khanan để chịu thẩm vấn. Ông được nhắc đến như là Thượng
Tế bốn lần trong toàn bộ Tân Ước (Lc 3,2; Ga 18,13.24; Cv 4,6). Luca nhắc đến cả
hai người đều làm Thượng Tế: “Khanan và Caipha làm Thượng Tế”. Gioan cũng có vẻ
đồng ý như vậy khi ông cũng gọi cả Khanan và Caipha là Thượng Tế ở hai dinh
khác nhau. Con rể của Khanan là Caipha và cháu của Khanan, Matthias đều làm Thượng
Tế. [x. P.D.G, “Annas”, The New International Engcyclopedia of Bible
Characters. The Complete Who’s Who in Bible (ed. P. Gardner) (Grand Rapids 2001)].
[3] Xem thêm về “Đấng Ki-tô”
trong J.P.D.Thạch “Cứu-Phá Hủy, Phá Hủy-Cứu”[ LỜI
BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: CỨU-PHÁ HỦY, PHÁ HỦY-CỨU. Chú giải Tin
Mừng CN XXIV TN B (Mc 8,27-35) (josephpham-horizon.blogspot.com)] (Truy cập
15/11/2021).
[4] F.O. Garcia-Treto,
“Pilate”, The HarperCollins Bible Dictionary (ed. P.J. Achtemeier) (New
York 1996) 855-856.
[5] “Jesus will not
categorically refuse to be known as a king, but he indicates that he prefers to
describe his role in terms of testifying to the truth. John has not portrayed
Jesus as a preacher of the kingdom but as the unique revealer who alone can speak
and show the truth about God” (R.E.
Brown, The Gospel according to John (XIII-XXI), 853-854).
[6] “Jesus does not deny that he is a king, but it is not a title that he
would spontaneously choose to describe his role” (R.E. Brown,
The Gospel according to John (XIII-XXI), 853-854).
[7] “if Jesus talks about his
“kingdom” he really means his sovereign rule, his kingly activity, i.e., his
action in his capacity as the king who brings salvation”[7]
[G.R. Beasley-Murray, John (WBC;
Dallas 1999) XXXVI, 330.].
[8] F.J. Moloney, “John”, The
Paulist Biblical Commentary (ed. R.J. Clifford et al.) (New York 2018) 1170.
[10] R.E. Brown, The Gospel according to John
(XIII-XXI), 868.
[11] R.E. Brown, The Gospel according to John
(XIII-XXI), 854.
[13] Ibid.