Bản
văn và dịch sát nghĩa
Hy
Lạp |
Việt |
46 Καὶ ἔρχονται εἰς Ἰεριχώ. Καὶ ἐκπορευομένου αὐτοῦ ἀπὸ Ἰεριχὼ καὶ τῶν μαθητῶν αὐτοῦ καὶ ὄχλου ἱκανοῦ ὁ υἱὸς Τιμαίου Βαρτιμαῖος, τυφλὸς προσαίτης, ἐκάθητο παρὰ τὴν ὁδόν. 47 καὶ ἀκούσας ὅτι Ἰησοῦς ὁ Ναζαρηνός ἐστιν ἤρξατο κράζειν καὶ λέγειν· υἱὲ Δαυὶδ Ἰησοῦ, ἐλέησόν με. 48 καὶ ἐπετίμων αὐτῷ πολλοὶ ἵνα σιωπήσῃ· ὁ δὲ πολλῷ μᾶλλον ἔκραζεν· υἱὲ Δαυίδ, ἐλέησόν με. 49 καὶ στὰς ὁ Ἰησοῦς εἶπεν· φωνήσατε αὐτόν. καὶ φωνοῦσιν τὸν τυφλὸν λέγοντες αὐτῷ· θάρσει, ἔγειρε, φωνεῖ σε. 50 ὁ δὲ ἀποβαλὼν τὸ ἱμάτιον αὐτοῦ ἀναπηδήσας ἦλθεν πρὸς τὸν Ἰησοῦν. 51 καὶ ἀποκριθεὶς αὐτῷ ὁ Ἰησοῦς εἶπεν· τί σοι θέλεις ποιήσω; ὁ δὲ τυφλὸς εἶπεν αὐτῷ· ραββουνι, ἵνα ἀναβλέψω. 52 καὶ ὁ Ἰησοῦς εἶπεν αὐτῷ· ὕπαγε, ἡ πίστις σου σέσωκέν σε. καὶ εὐθὺς ἀνέβλεψεν καὶ ἠκολούθει αὐτῷ ἐν τῇ ὁδῷ. (Mk. 10:46-52
BGT) |
46
và họ đến Jêrikhô. Và khi Người và các môn đệ
của Người cùng với đám đông lớn đang ra khỏi Jêrikhô
người con của ông Timaiô, Bar-Timaiô, một người mù, người
ăn xin, đang ngồi
bên vệ đường. 47
Bởi vì anh ta nghe rằng đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt
đầu la lên và nói rằng: “Hỡi Giêsu, con vua Đavíd, xin thương xót tôi” 48
và nhiều người cứ ngăn cấm anh ta để anh ta phải im lặng, nhưng anh ta càng
la nhiều hơn nữa: “Con vua Đavíd ơi,
xin thương xót tôi. 49
Sau khi đứng lại, Đức Giêsu nói: “Hãy gọi anh
ta và họ gọi người mù, nói rằng: “Can đảm lên,
hãy trỗi dậy, Người gọi
anh đó” 50
Sau khi quăng áo choàng của mình, nhảy lên, anh ta đi đến
cùng Đức Giêsu. 51
Đáp lại anh ta, Đức Giêsu nói: “Anh muốn Tôi làm
gì cho anh?” Anh mù nói: “Thưa Thầy, để mà tôi có thể
thấy” 52
Đức Giêsu nói cùng anh ta: “Hãy đi, đức tin của anh đã cứu anh, và ngay lập tức
anh đã nhìn thấy và cứ
đi theo Người trên đường của Người. |
Bối Cảnh
Xét về không gian,
Mc 10,46-52 là đoạn văn cuối cùng trong loạt bài giảng của Đức Giêsu trên đường
lên Jêrusalem bắt đầu từ Mc 10,1. Tiếp theo ngay sau đoạn này, sẽ là trình thuật
về sự kiện Đức Giêsu tiến vào thành Jêrusalem. Xét về nội dung, câu chuyện này
tiếp tục những phép lạ nhằm mạc khải Đức Giêsu là Đấng Kitô và sự chậm chạp của
các môn đệ trong việc hiểu và đón nhận một Đức Kitô chịu khổ nạn, chịu chết. Địa
danh Jêrikhô nối kết với nhiều trình thuật trong Cựu Ước, đặc biệt là trình thuật
chiếm đất hứa (Gs 6). Trong Tân Ước, Jêrikhô cũng xuất hiện trong câu chuyện người
Samari nhân hậu (Lc 10); chuyện liên quan đến Giakêu (Lc 19). Danh xưng “con
vua Đavíd” được nhắc đến nhiều lần trong cả ba Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 9,27;
15,22; 20,30; 21,15; Lc 18,38). Khuyết tật “mù” cũng là một đề tài khá phổ biến
trong truyền thống Tin Mừng (Mc 8; 10; Mt 12; 15; Ga 9). Chủ đề về “đức tin” dẫn
đến sự cứu chữa cũng là một trong những chủ đề chính yếu trong các phép lạ chữa
lành (Mc 5,34; 10,52; Mt 8,10.13; 9,22.29; Lc 8,48.50; Lc 17,19). Động từ “trỗi
dậy” là một động từ đặc biệt. Nó diễn tả sự sống lại của Đức Giêsu (Mc 6,14.16;
14,28; 16,6.14). Hành động “đi theo” là hành động của một người môn đệ (Mt
4,20.25; Mc 1,18.20).
Cấu Trúc
Câu chuyện được đóng
khung bằng phần mở đầu và phần kết thúc. Phần mở đầu giới thiệu số phận hẩm hiu
của anh mù: Ăn xin, ngồi bên vệ đường // Phần kết nói đến sự đổi đời của anh mù:
Đứng dậy, nhìn thấy và bước đi. Phần giữa là câu chuyện giữa anh mù và Đức Giêsu
được xây dựng xoay quanh chủ đề niềm tin của anh mù. A. Mù, ngồi bên vệ đường
// A’. Nhìn thấy, đi theo trên đường; B. Tiếng kêu đầy hy vọng // B’. Hy vọng
thành hiện thực; C. Đức Giêsu lắng nghe tiếng kêu và kêu mời anh mù // C’. Lắng
nghe khát vọng của anh mù; trung tâm là loạt hành động can đảm của anh mù: D.
Quăng áo choàng, nhảy lên, đi đến cùng Đức Giêsu.
A. Mở đầu: Người mù, ăn xin, ngồi bên vệ
đường (10,46) (B)Tiếng
kêu cầu trong niềm tin của người mù bất chấp sự cản trở (47-48) (C) Đức Giêsu lắng nghe và yêu cầu gọi anh mù (10,49) (D)
Hành động trong đức tin: Quăng áo choàng, nhảy lên, đi đến (10,50) (C’) Đức Giêsu lắng nghe khát vọng của anh mù: Anh muốn
tôi làm gì cho anh (10,51) (B’) Đức Giêsu đáp trả cho đức tin: Đức
tin đã cứu anh (10,52a) A’. Kết thúc: Người mù nhìn
thấy, và đi theo Đức Giêsu trên đường
(10,52b) |
Một số điểm chú giải
1. Jêrikhô:
Jêrikhô cách Jêrusalem chừng 24 km (15 miles) về hướng Đông Nam, cách sông Jorđan
chừng 8km (5 miles) theo hướng Tây. Cổ thành Jêrikhô được xem là thành phố đầu
tiên trong lịch sử nhân loại có tường bao quanh. Cổ thành có lẽ đã có từ khoảng
năm 9000 BCE.[1] Jêrikhô
xuất hiện lần đầu tiên trong trình thuật Thánh Kinh gắn với cuộc chinh phục đất
Canaan vào cuối thời đồ đồng (1500-1200). Cuộc bao vây và chiếm thành được kể lại
trong sách Giô-suê chương 6. Sau khi bị phá hủy, nó trở thành đất hoang trong
khoảng bốn thế kỷ. Không có dân cư sinh sống ở đây, trong suốt thời gian của ngôn
sứ Êlia và Êlisa (2 V 2,4). Jêrikhô được Hiel Bethen xây dựng lại trong suốt thời
của vua Akháp (873-851 BCE). Jêrikhô có nối kết khá gần với sứ vụ của Đức Giêsu.
Người chịu phép rửa tại sông Jorđan, nơi gần thành phố này (Mt 3,5-17). Cơn cám
dỗ của Người có lẽ cũng xảy ra trên vùng núi phía Tây của thành phố (Mt
4,1-11). Người cứu chữa anh mù Bar-Timaiô (Mc 10,46-52) ngay bên thành Jêrikhô;
Cuộc gặp gỡ với người thu thuế giàu có Giakêu cũng diễn ra ờ thành này (Lc
19,1-11).[2]
Tuy nhiên, trong những trình thuật này, thành Jêrikhô chỉ là nơi được nhắc đến
như là một thành được Đức Giêsu đi ngang qua. Trên thực tế, không một lời giảng
hay hoạt động nào của Đức Giêsu trong thành được ghi lại. Trong câu chuyện này,
Đức Giêsu cùng với đám đông và các môn đệ đang đi ra khỏi thành thì gặp anh mù
Bar-Timaiô. Sự kiện Đức Giêsu băng qua Jêrikhô lên Jêrusalem, được xem như là một
cuộc chinh phạt Juđê của Giô-suê mới.[3]
2. Đi
ra khỏi Jêrikhô: Cả Máccô và Mátthêu (Mt 20,29) đều cho
rằng Đức Giêsu gặp anh mù khi đang đi ra khỏi thành, còn Luca thì nói cuộc gặp
gỡ xảy ra lúc Đức Giêsu đến gần thành (Lc 18,35). Chi tiết này có thể cho thấy
vị trí của anh mù. Anh đang ngồi ở một nơi ngoài thành phố. Anh không thuộc về
thành phố này. Trục đường Jêrusalem cũng là trục đường được nói đến trong dụ ngôn
người Samari nhân hậu: “Một người đi từ Jêrusalem xuống Jêrikhô” (Lc 11,30). Đây
là tuyến đường thương mại của những người buôn bán giàu có, cũng như là con đường
dành cho những người đạo đức đi lên Jêrusalem để thờ phượng.[4]
3. Bar-Timaiô,
một người mù, người ăn xin, đang ngồi bên vệ đường.
Rất nhiều chi tiết được người thuật chuyện nhắc đến rất đáng chú ý. Chi tiết thứ
nhất cần được quan tâm là tên tên của người này. Tên anh ta gồm hai phần: (i)
Bar: Người con trai và (ii) Timaios có gốc từ danh từ timios, có nghĩa là danh dự,
có giá trị, và động từ là timeo (làm vinh dự). Những cái tên thường gắn với chữ
“bar” như là Barrabas, Bar-Jesus, Barjona, Barnabas, Bartholomeo. Những cái tên
thường gắn với timaios là Timaeus, Timon, Timothy. Tác giả Luca không nhắc đến
tên của người này, chỉ nhắc đến bệnh tật và “nghề” của anh ta (người mù, đang
ngồi ăn xin). Mátthêu cho biết không những một người mà hai người mù, nhưng cũng
không nói tên và không nói đến việc họ là những người ăn xin. Tác giả Mátthêu
thường có thói quen gấp đôi hai nhân vật như thế (8,28: Hai người bị quỷ ám; 9,27:
Hai người mù; 24,40: Hai người đàn ông đang làm ruộng… hai người phụ nữ đang kéo
cối xay). Lý do cho thói quen này vẫn chưa có một lời giải đáp thỏa đáng. Lý giải
cho trường hợp Mátthêu gấp đôi hai người mù ở đây, tác giả D.J. Harrington cho
rằng có thể vì Mátthêu đã không có câu chuyện chữa lành người mù tại Bếtsaiđa
như Máccô (Mc 8,22-26).[5]
Như vậy, chỉ có Máccô nói đến tên của người này. Một mặt, tên của anh ta
có vẻ rất ngụ ý: Đứa con trai của vinh dự.[6]
Danh
xưng này có thể ngụ ý cho ân huệ được chữa lành sau đó của anh. Mặt khác,
danh xưng này cũng có thể ám chỉ rằng người ta không biết tên anh ta là gì nên
chỉ gọi anh ta bằng danh xưng “con trai của ông Timaiô” như tác giả Máccô đã giải
thích (ὁ υἱὸς Τιμαίου Βαρτιμαῖος, 10,46).
Kiểu gọi này nhằm nhấn mạnh đến sự vô danh của người đàn ông này. Có thể vì cái
tên “con ông Timaiô” không có nghĩa gì nên cả Mátthêu và Luca đều bỏ đi phần gọi
tên người này của Máccô. Tuy nhiên, đối với Máccô, cách gọi tên như vậy vừa tô đậm
thêm sự bần cùng, đau khổ trong cuộc đời anh ta (một người không có tên), vừa báo
trước một tương lai xán lạn của anh. Những chi tiết tiếp theo cho thấy thân phận
hẩm hiu của nhân vật này: Mù, ăn xin, ngồi bên vệ đường. Anh ta là một người khuyết
tật, chỉ sống nhờ vào tình thương của người qua kẻ lại. Hành động ngồi cho thấy
rằng anh ta cố định một chỗ, rất khó để di chuyển. Không gian sống của anh bị hạn
chế vào một nơi chật hẹp. Trạng ngữ chỉ nơi chốn: “Bên vệ đường” (παρὰ
τὴν ὁδόν),
cùng với địa điểm ngoài thành, càng khắc họa rõ nét thân phận bị bỏ rơi của anh
ta. Anh ta không thể bước trên đường như những người khác. Anh chỉ có thể ngồi
bên vệ đường ngoài thành. Anh bị đẩy ra ngoài lề xã hội, giữa dòng người qua lại
tấp nập.
4. Nghe:
Người khiếm thị thường có đôi tai rất thính, có lẽ vì họ không còn nhìn được nên
người ta tập trung hoàn toàn vào khả năng của thính giác. Anh ta nghe rằng đó là
Giêsu Nadarét. Đây là một danh xưng bình thường của Đức Giêsu. Người tên là Giêsu
và đến từ làng Nadarét (x. Mc 1,9.24). Danh xưng của người Do Thái thường gắn với
danh xưng, cha, hoặc chồng (nếu là phụ nữ), với cấu trúc “của” (A của B: Con của,
hay vợ của… Giacôbê của Anphê - Ἰάκωβος ὁ τοῦ Ἁλφαίου, Mt
10,3; Lc 6,5, Cv 1,13; Simon con trai Giôna- Σίμων Βαριωνα, Mt 16,17; Maria của
ông Clêôpa – Μαρία ἡ τοῦ Κλωπᾶ, Ga
19,25),
hoặc là gắn danh xưng quê hương xứ sở như là trường hợp của Đức Giêsu (Ἰησοῦς
ὁ Ναζαρηνός), theo cấu trúc A + mạo từ xác định + nơi chốn:
Maria Madalene – Μαρία ἡ Μαγδαληνὴ,
Mt 27,56.61, Mc 15,40.47). Máccô không cho biết bằng cách nào, anh này đã nghe
rằng Đức Giêsu Nadarét đang ở đó. Tác giả Luca cho độc giả biết thêm là có ai đó
đã báo cho anh này biết là Đức Giêsu Nadarét đang đi ngang qua. Có thể là Luca
cảm thấy cần phải làm rõ thêm điểm này nên thêm vào chi tiết là “họ báo cho anh
biết rằng Đức Giêsu Nadarét đang đi qua đó” (Lc 18,37). Đây có lẽ không phải là
lần đầu tiên anh ta nghe về Đức Giêsu Nadarét. Hình như anh ta đã nghe nhiều thông
tin về Người. Ít nhất là thông tin về những phép lạ chữa lành của Đức Giêsu. Có
thể anh đã từng nghe về phép lạ làm cho người mù sáng mắt ở Bếtsaiđa (Mc
8,22-26).
5. Bắt
đầu la lên…cứ quát nạt … cứ la nhiều hơn: “Bởi vì anh ta nghe rằng
đó là Đức Giêsu Nadarét, nên anh ta bắt đầu la lên”. Tiếng la của anh cốt để
cho Đức Giêsu nghe thấy. Nhưng khi anh vừa la lên, nhiều người đã cố tình ngăn
cản tiếng la ấy. Họ ngăn cấm anh ta và buộc anh phải im lặng. Động từ “quát nạt”
(hay đe dọa) được dùng ở thì “vị hoàn” (diễn tả sự kéo dài). Họ “cứ đe dọa/liên
tục đe dọa” anh hay là họ “cố đe dọa anh”. Cách dùng này rất giống với cách dùng
để diễn tả các môn đệ trong việc “quát nạt” những trẻ nhỏ khi người ta mang trẻ
nhỏ đến với Đức Giêsu, để xin Người chúc lành (Mc 10,13; Lc 18,15). Hình ảnh
nhiều người bắt nạt anh cho thấy sự coi thường của đám đông dành cho anh. Có lẽ
họ nghĩ rằng người mù, người ăn xin thì không được lên tiếng; Hay có thể họ nghĩ
rằng Đức Giêsu có nhiều việc quan trọng khác phải làm hơn là lưu tâm đến một người
ăn xin mù lòa bên vệ đường.[7]
Cũng có lẽ là đây là lần đầu tiên anh lên tiếng, vì lâu nay anh chỉ cúi đầu cám
ơn những người qua lại cho anh tiền. Tuy nhiên, lời đe dọa này không thể dập tắt
được sự khao khát đang trỗi dậy cách mạnh mẽ trong con người anh. Đối lại với hành
động của “nhiều người” “cứ quát nạt” anh là hành động anh tiếp tục gào thét. Động
từ “gào thét” cũng được chia ở thì vị hoàn (anh cố gào thét mãi/ tiếp tục/ cố
gào thét). Hành động “gào thét” lần thứ hai được bổ trợ thêm bởi một tính từ “nhiều”
và một trạng từ so sánh “hơn nữa” (gào thét nhiều hơn nữa). Hai yếu tố này làm
cho sự “gào thét” của anh trở nên cao trào đến nỗi ai cũng phải nghe thấy. Hành động này vừa cho thấy sự bất chấp sự đe dọa
của đám đông, vừa cho thấy niềm tin tưởng[8],
hy vọng tuyệt đối anh đang đặt vào Đức Giêsu.[9]
Tiếng
kêu này là tiếng kêu của một người đang đánh cược với cuộc đời của mình: “Được ăn
cả ngã về không”. Nếu được Đức Giêsu đoái nhìn, thì anh sẽ được đổi đời; Bằng nếu
không anh sẽ bị dân chúng tẩy chay và sẽ khổ nhiều hơn.
6. “Giêsu,
con vua Đavíd”: Đây là chi tiết để cho độc giả có thể khẳng định rằng kiến
thức của anh mù về Đức Giêsu không đơn giản tý nào. Anh ta có lẽ đã nghe nhiều
về Đức Giêsu và đã xác tín rằng Người chính là con vua Đavíd. Người ta chỉ cho
anh ta biết là Đức Giêsu Nadarét đang ở đây. Vậy mà, anh lại gọi Người bằng tước
hiệu “con vua Đavíd”.[10]
Đây là một tước hiệu chẳng mấy ai biết. Độc giả chắc còn nhớ cuộc đối thoại giữa
Đức Giêsu và các môn đệ xoay quanh câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?” Những câu
trả lời mang tính đồn đoán từ dân chúng là: “Thầy là Gioan Tẩy Giả”; “Là ông Êlia”;
“Một trong các ngôn sứ”. Chỉ có Phêrô, đại diện cho các môn đệ trả lời rằng: “Thầy
là Đấng Kitô”. Đây là câu trả lời chính xác. Tuy nhiên, Phêrô và các môn đệ chưa
hiểu rõ khía cạnh tự hủy, khổ nạn, chịu chết trong sứ mạng của Đấng Kitô. Cách gọi
của anh mù cách nào đó tương đương với lời tuyên xưng của Phêrô, bởi lẽ, theo
truyền thống Cựu Ước, Đấng Kitô phải xuất thân từ dòng dõi vua Đavíd.[11]
Trình thuật về Giáng Sinh của Đức Giêsu được Mátthêu và Luca ghi lại luôn nhấn
mạnh điểm này (Mt 1,1.20; Lc 2,4.11; Cf. Ga 7,42). Gọi Đức Giêsu là “con vua Đavíd”,
cách nào đó, người ăn xin đã tin rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia được Cựu Ước nói đến.
Đấng Mêsia (Đấng Kitô) chính là niềm hy vọng cho những người như anh, vì anh thừa
biết ngôn sứ Isaia đã nói về Đấng Mêsia rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì
Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người
sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được
sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”
(Lc 4,18-19). Đấng Kitô, con vua Đavíd chính là niềm hy vọng lớn nhất của đời anh.
Tước hiệu “con vua Đavíd được dùng nhiều lần trong Tân Ước. Mátthêu giới thiệu Đức
Giêsu là “con vua Đavíd” ngay câu đầu tiên của Tin Mừng (Mt 1,1). Đức Giêsu được
rước vào thành Jêrusalem với lời chúc tụng: “Hosanna, chúc tụng Đấng đến nhân
danh Chúa, chúc tụng triều đại đang đến, triều đại của vua Đavíd, cha chúng ta,
hosanna trên các tầng trời” (Mc 11,9-10). Tác giả Mátthêu dùng đúng danh xưng “Con
vua Đavíd”: “Hoan hô con vua Đavíd” (Mt 21,9.15: ὡσαννὰ τῷ υἱῷ Δαυίδ).
Mátthêu còn ghi lại rằng khi Đức Giêsu đã vào thành với tư cách là “con vua
Đavíd”, thì người mù và người què đền gần Người và người cứu chữa họ. Còn các
trẻ em thì hô vang trong khu vực đền thờ rằng: “Hosana Con vua Đavíd” (Mt
21,15). Như thế, rõ ràng người mù này, dù không nhìn thấy, không di chuyển nhiều
nhưng anh ta có tầm hiểu biết rất chuẩn về Đức Giêsu Nadarét.
7. “Xin
thương xót tôi”: Đây là lời cầu xin trong cơn nguy khốn rất thường được dùng
trong truyền thống Cựu Ước, đặc biệt là trong các Thánh Vịnh: “Xin đoái nhìn
con và thương xót con vì con cô đơn, và khốn cùng” (ἐλέησόν με, Tv 24,16); “Xin thương xót con, lạy Đức
Chúa! Hãy nhìn xem nỗi khốn cùng của con từ những kẻ ghét con” (Tv 9,14; Cf. Tv
30,10). Có nhiều khi lời cầu xin thương xót đi kèm với lời cầu xin cứu chữa: “Xin
thương xót con, lạy Đức Chúa, xin cứu chữa con vì con đã phạm tội chống lại Người”
(Tv 40,5); “Xin thương xót con lạy Đức Chúa, vì con đau khổ, xin cứu chữa con,
lạy Đức Chúa vì xương con rung lên sợ hãi” (Tv 6,2). Trong Tân Ước, ngoài câu
chuyện này, lời cầu xin này còn được người phụ nữ Canaan dùng để cầu xin cho đứa
con gái bị quỷ ám: “Xin thương xót con, lạy Đức Chúa, con vua Đavíd; đứa con gái
của con bị quỷ ám cách rất khổ sở” (Mt 15,27). Đó cũng là lời cầu xin của người
cha cho đứa con trai bị bệnh động kinh: “Lạy Đức Chúa, xin thương xót con trai
tôi, vì nó bị bệnh động kinh rất đau khổ” (Mt 17,15). Ông phú hộ trong dụ ngôn “Ông
phú hộ và anh Ladarô đã xin tổ phụ Ápraham thương xót với lời cầu xin tương tự
(Lc 16,24). Mười người phong cùi ở biên giới Samari cũng cầu xin cùng Đức Giêsu:
“Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi” (Lc 17,13). Trong câu chuyện này, lời
cầu xin này được dùng hai lần với độ lớn khác nhau. Khi nghe biết đó là Đức Giêsu
Nadarét, anh mù đã bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavíd, xin thương xót
con” (Mc 10,47). Sau khi bị nhiều người quát nạt, anh ta càng kêu lớn tiếng hơn
nữa: “Lạy con vua Đavíd xin thương xót con” (10,48). Đây là tiếng kêu đầy khát
vọng, kiên định và tin tưởng hoàn toàn nơi Đức Giêsu. Anh gọi bất chấp sự ngăn
cản của nhiều người. Lời cầu xin “hãy thương xót” mở rộng ý nghĩa đến mức nhiều
nhất có thể: Giúp đỡ về vật chất, giúp đỡ về tinh thần, ơn chữa lành, được nhìn
thấy. Như sẽ thấy sau đó, ao ước chính của anh là được nhìn thấy.
8. Hãy
trỗi dậy: Động từ “trỗi dậy” trong bối cảnh này có thể hiểu đơn
giản là “đứng lên, đứng dậy” vì anh ta đang ngồi. Tuy nhiên, động từ này có một
nghĩa khác rất quan trọng gắn bó với mầu nhiệm tử nạn – phục sinh của Đức Giêsu.
Đây chính là động từ được dùng để diễn tả sự sống lại của của Đức Giêsu (Mc
16,4.16; Lc 9,22; 24,6.34; Mt 17,9.23; 20,19; 26,32). Dĩ nhiên, những người gọi
anh ta “hãy trỗi dậy” không có ý bảo anh “hãy sống lại”. Tuy nhiên, cách dùng động
từ của Máccô có thể có ẩn ý rằng, lời mời gọi này không phải của đám đông nhưng
là của chính Đức Giêsu. Nó làm cho anh thoát ra khỏi cuộc đời đau khổ khi anh
phải yên vị một chỗ, chịu đựng sự quát nạt của người khác. Đó là một hành trình
đổi đời, sống cuộc sống mới của anh.[12]
Những hành động của anh ta sau đó sẽ chứng minh cho cách hiểu này.
9. Quăng
áo choàng … nhảy lên … đi đến. Ba động từ diễn tả những
hành động của anh mù ngay sau khi được mời gọi “hãy trỗi dậy” thật đặc biệt. Thứ
nhất, anh “quăng áo choàng”. Áo choàng biểu tượng cho hai điều: (i) Là vật bất
ly thân, che nắng, che lạnh, để đắp khi ngủ của một người, đặc biệt là người hành
khất; (ii) Áo choàng có thể là chiếc áo anh trải ra để đón nhận những gì người qua
kẻ lại bỏ vào. Có thể nói đó là phương tiện mưu sinh của anh. Luật Môsê có quy định
rất chặt chẽ liên quan đến việc cầm cố “áo choàng”: “Nếu ngươi giữ áo choàng của
người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho người đó trước khi mặt trời lặn.
Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó sẽ kêu cứu
Ta, Ta sẽ nghe nó vì Ta vốn nhân từ” (Xh 22,25-26; Đnl 24,13). Quăng áo choàng
có nghĩa là anh ta đã dám bỏ đi cái quý giá nhất của đời mình.[13]
Anh
sẵn sàng bỏ lại sau lưng phương tiện để mưu sinh.[14]
Thứ hai, anh “nhảy lên”. Hành động “nhảy lên” là một hành động mang tính bức phá
và liều lĩnh. Người mù sao thấy đường mà nhảy. Nhảy trong bóng tối mù lòa có thể
gây nguy hiểm cho mình.[15]
Thế mà, anh vẫn nhảy. “Nhảy lên” là thay đổi tư thế hoàn toàn. Lúc đầu, người
thuật chuyện giới thiệu với độc giả rằng “anh ta đang ngồi ăn xin”. Giờ đây,
anh đã “nhảy lên”, “vứt áo choàng”, sẵn sàng cho cuộc đổi đời. Anh không còn ngồi
bên vệ đường nữa, không ăn xin nữa mà đã nhập vào dòng người qua lại, thậm chí
anh còn hơn đám đông ở tinh thần phấn khởi, bởi đầy hy vọng.
10. “Anh
muốn (θέλω) Ta làm gì cho anh?”
Câu hỏi của Đức Giêsu có vẻ hơi thừa thãi, bởi có lẽ Đức Giêsu đã biết anh ta cần
điều gì và Người có lẽ đã có câu trả lời ngay khi chưa hỏi. Tuy nhiên, câu hỏi
của Đức Giêsu cho thấy Người rất xem trọng món quà tự do của con người, ngay cả
những người thấp hèn nhất. Người sẵn sàng cho anh một không gian để lên tiếng.[16]
Câu hỏi đó mở ra một cuộc đối thoại bình đẳng giữa hai con người. Thái độ này hoàn
toàn ngược lại với đám đông lúc đầu đã “quát nạt” và “bịt miệng” anh. Độc giả đã
gặp thấy cách đối xử của Đức Giêsu dành cho những đứa trẻ ngay đầu chương này
(chương 10). Trong bối cảnh đó, chính các môn đệ của Người cũng “quát nạt” và “ngăn
cản” những trẻ em đến với Người (x. Mc 10,13-16; cf. Mt 19,13-15; Lc 18,15-17).
Có lẽ, lần đầu tiên trong cuộc đời, có ai đó xem anh ta như là một con người. Lần
đầu tiên có ai đó quan tâm đến việc anh muốn gì, mà người này lại là “con vua Đavíd”.
Đức Giêsu đã mang lại một khác biệt quá lớn trong cách đối xử với một con người.
Đó là sự gặp gỡ giữa hai con người, là hình ảnh của Thiên Chúa. Nó vượt trên những
so đo, tính toán về địa vị, giai cấp, giàu nghèo… Đức Giêsu luôn luôn đối xử tử
tế với những người đau khổ theo phong cách riêng của Người. Khi người ta trách
Người tại sao lại ăn uống với phường tội lỗi và quân thu thuế, Người đáp lại rằng:
“Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau yếu mới cần” (Lc 5,31). Khi người
ta gây áp lực, buộc Người phải đồng tình với việc ném đá người phụ nữ bị bắt quả
tang phạm tội ngoại tình, Người lại nói với chị: “Tôi không lên án chị đâu. Chị
hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Khi người Pharisêu ái ngại vì
một người phụ nữ tội lỗi tiếp cận và khóc ướt chân Người, Người lại dạy rằng: “Lòng
tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (Lc 7,50). Những người cùng khổ về
thể xác hay tâm hồn đều gặp được sự ân cần như thế, khi đến với Đức Giêsu.
Câu trả lời của anh mù có cấu trúc khá lạ
lùng: “Để mà tôi có thể nhìn thấy được” (ἵνα ἀναβλέψω).
Đây là một mệnh đề chỉ mục đích và thiếu đi một mệnh đề chính. Câu hoàn chỉnh có
thể diễn giải như thế này: “Lạy Thầy! Xin Thầy làm gì đó”, hay “nói gì đó” để mà con có
thể nhìn thấy được. Nghĩa là, anh ta biết rằng Đức Giêsu có năng lực chữa lành
bệnh mù, nhưng Đức Giêsu chữa lành thế nào thì anh không biết. Đây chính là câu
nói biểu lộ đỉnh cao đức tin và niềm tín thác của anh, đức tin đã khởi sự từ lúc
đầu qua tiếng kêu kiên trì của anh. Đức Giêsu chọn phương thức là “chữa bệnh bằng
lời” như sẽ thấy sau đó.
11. “Hãy
đi, đức tin của anh đã cứu anh”: Với câu nói của anh mù: “Lạy Thầy! … để mà
tôi có thể nhìn thấy được”, Đức Giêsu không cần làm gì cả, Người chỉ công bố rằng
anh đã được khỏi và điều mấu chốt đã mang lại sự chữa lành cho anh chính là đức
tin của anh, chứ không phải là chính hành động nào của Đức Giêsu. Cách chữa lành
lạ lùng của Đức Giêsu làm cho chúng ta thấy khoảng trống của mệnh đề chính còn
thiếu nơi câu trả lời của anh mù: “Xin làm gì đó, nói gì đó để mà con có
thể nhìn thấy được”. Thực ra, Đức Giêsu không làm gì cả để chữa lành anh mù, và
hành trình đức tin của anh dường như là phần chính yếu trong tiến trình chữa lành
này. Tầm quan trọng của đức tin trong các phép lạ chữa lành, được nhắc đi
nhắc lại nhiều lần trong các sách Tin Mừng. Trong phép lạ chữa lành đầy tớ của
viên đại đội trưởng, Đức Giêsu đã công bố: “Ông tin thế nào thì được như vậy”
(Mt 8,13) và “ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh”. Trong trường hợp ấy, Đức
Giêsu thậm chí không cần gặp người đầy tớ ấy. Tương tự, phép lạ chữa lành con gái
người phụ nữ xứ Phênixi cũng xảy ra nhờ niềm tin của người mẹ: ‘Này bà, lòng
tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được vậy’. Từ giờ đó, con gái của bà được
khỏi” (Mt 15,28). Người bại liệt có bốn người khiêng cũng được khỏi bệnh nhờ lòng
tin của những người bạn: “Thấy họ có niềm tin như thế, Đức Giêsu bảo người bại
liệt: ‘Này con, tội con đã được tha rồi’” (Mc 2,5). Người đàn bà bị băng huyết
suốt mười hai năm cũng được chữa lành nhờ lòng tin của bà: “Này con, lòng tin của
con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34; Lc 7,50).
Luca tường thuật lại phép lạ chữa lành mười người phong hủi ở vùng biên giới giữa
Samari và Galilê và chỉ có một người trong số họ được tuyên bố: “Đứng dậy về đi!
Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Động từ “cứu” (σῴζω) cũng khá đặc biệt trong truyền thống Tin
Mừng. Trong bối cảnh này, nó có thể có nghĩa đơn giản là “cứu chữa” khỏi tật
khiếm thị. Tuy nhiên, động từ còn có một ý nghĩa thần học sâu sắc hơn. Đó là “cứu
thoát”, hay “cứu độ”. Đức Giêsu được gọi là “Giêsu” vì Người sẽ cứu dân Người
khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,21). Các thiên thần đã loan báo cho các mục đồng rằng:
“Hôm nay, Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavíd, Người là Đấng
Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11). Đức Giêsu cũng tự giới thiệu mục đích của Người là
đến để tìm và cứu những gì đã mất (Lc 19,10), sau khi đã công bố ơn cứu độ cho
gia đình ông Gia-kêu (Lc 19,9). Có thể nói rằng, sự khỏi bệnh của anh không chỉ
dừng lại ở khía cạnh thể lý, nhưng còn vươn xa trên bình diện tâm linh.[17]
Anh được cứu nhờ đức tin và thay đổi cả cuộc đời của mình. Đức Giêsu mời gọi
anh: “Hãy gieo bước hành trình!” (hãy đi). Từ nay, anh không còn ngồi bên lề đường,
bên lề xã hội nữa. Giờ đây, anh đã có thể lên đường như bao người khác.
12. “Nhìn
thấy”: “Sự nhìn thấy” theo nghĩa đen là được sáng mắt, được thấy tỏ tường mọi
cảnh vật xung quanh. Tuy nhiên, sự nhìn thấy cũng tượng trưng cho việc con mắt đức
tin được mở ra. Anh thấy Đức Kitô, con vua Đavíd cách tỏ tường hơn, và thấy con
đường khổ-tử nạn Người đang đi. Sự nhìn thấy của anh mù dường như đối nghịch lại
với sự mù tối của các môn đệ.[18]
Đức Giêsu đang cố dạy cho các ông mầu nhiệm khổ-tử nạn – phục sinh mà Đấng Kitô
phải trải qua, nhưng tất cả các môn đệ vẫn mơ màng khó hiểu. Sau lần tiền báo về
cuộc khổ nạn – phục sinh lần thứ ba, (lần cuối cùng), các ông vẫn chìm đắm
trong giấc mộng quyền lực, và không chút bận tâm gì đến những điều quan trọng Đức
Giêsu đang dạy. Sự “nhìn thấy” của anh mù là một lời mời gọi cho “sự nhìn thấy”
của các môn đệ trước khi Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn.
13. “Cứ
đi theo”: Một khi nhìn thấy con đường Đức Giêsu đang đi là con đường dẫn đến
Jêrusalem, tử địa, người hành khất đã đi theo Người “trên con đường của Người”
(ἠκολούθει αὐτῷ ἐν τῇ ὁδῷ).[19]
Anh ta được mời gọi “gieo bước hành trình” và hành trình mà anh ta chọn là hành
trình đi theo Đức Giêsu. Động từ “đi theo” là động từ được dùng để diễn tả hành
vi của các môn đệ.[20]
Đức Giêsu đã gọi hai anh em Simôn và Anrê, “hãy theo Ta”, và lập tức “hai ông bỏ
chài lưới mà đi theo Người” (Mc 1,17-18). Hai anh em Giacôbê và Gioan cũng “bỏ
cha mình trên thuyền với người làm công mà đi theo Người” (Mc 1,20). Đến lượt ông
Lêvi được gọi, ông cũng “đứng dậy và đi theo Người”. Cách nào đó, người hành khất
được sáng mắt này đã trở thành người môn đệ của Đức Giêsu. Người môn đệ này nhìn
thấy cả khía cạnh vinh quang (phép lạ) lẫn con đường mà Đức Giêsu đang đi (lên Jêrusalem),
và anh bước theo Người. Động từ “đi theo” được chia ở thì vị hoàn (ἠκολούθει),
cho thấy hành trình theo Chúa của anh đang tiếp diễn, kéo dài.
Bình luận tổng quát
Trên
đoạn cuối của hành trình lên Jêrusalem, Đức Giêsu gặp một người đang mong chờ
Người. Dĩ nhiên, Đức Giêsu không đi qua đó như là một hành trình ngẫu nhiên, bình
thường. Người đi qua đó, vì Người biết có một anh chàng đau khổ đang cần được
Người đoái nhìn. Anh ta là một người mù lòa, ăn xin, ngồi bên vệ đường. Tất cả
các thông số về anh ta cho thấy một thân phận hẩm hiu, cùng khổ, sống bên lề xã
hội và cậy nhờ vào sự bố thí của người qua kẻ lại. Anh không có quyền lên tiếng,
mà có lên tiếng cũng chẳng ai để ý. Khi anh lên tiếng liền bị người ta quát nạt,
bịt miệng. Dù anh không nhìn thấy nhưng đôi tai của anh rất thính. Dường như từ lâu anh đã nghe biết, để ý về Đức
Giêsu và mong chờ Người từ lâu. Anh nghe biết rằng Đức Giêsu đã làm cho người mù
sáng mắt ở Bếtsaiđa (Mc 8,22-26). Anh biết rằng Người chính là “con vua Đavíd”,
là Đấng Mêsia, niềm hy vọng của những người cùng khổ như anh. Chính vì lẽ đó, khi
vừa nghe đó là Giêsu Nadarét, anh đã lập tức la lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavíd
xin thương xót tôi”. Đây là tiếng kêu lớn đầu tiên trong cuộc đời anh. Tiếng kêu
ấy lập tức làm cho nhiều người phiền toái và quát nạt để anh im đi. Tuy nhiên,
anh bất chấp sự ngăn cản ấy, vì anh biết rằng đây là cơ hội hiếm có và cò thể là
duy nhất của cuộc đời anh. Thật sự, anh cũng cảm thấy hồi hộp, bởi vì lâu nay
anh vẫn sống nhờ vào người qua kẻ lại, nay anh cãi lời của họ, có thể chén cơm
sẽ không còn. Anh đã liều mình đánh đổi chén cơm của mình để gào lên nhiều lần
nữa. Cuối cùng, Đức Giêsu đã nghe thấy, và dừng lại. Dĩ nhiên, như đã nói, Đức Giêsu
không vô tâm đến vậy, Người đi qua lộ trình này có thể cũng là để gặp anh. Tuy
nhiên, hành trình vượt ra khỏi bản thân, đánh đổi cả chén cơm, bộc lộ một niềm
hy vọng đáng trân quý. Hơn thế nữa, khi nghe rằng Đức Giêsu gọi mình, anh chàng
đã vất chiếc áo choàng lại. Đó là chiếc áo che mưa, che nắng, chống lạnh, là chăn
đắp mỗi lúc đêm về, là phương tiện để làm kế sinh nhai. Anh đã bỏ lại tất cả để
đến cùng Đức Giêsu. Những hy sinh, kỳ vọng của anh rồi cũng được đền đáp. Đức Giêsu
đã mở một cuộc đối thoại với một anh mù ăn xin. Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì
cho anh?” Có lẽ đây là người đâu tiên trong cuộc đời quan tâm đến nhu cầu của
anh, mà người này lại là Đức Giêsu, “con vua Đavíd”. Câu hỏi tưởng chừng đơn giản
nhưng đã mở ra một cuộc gặp gỡ giữa con người với con người. Không có một khoảng
cách, hay rào cản nào về địa vị, giai cấp, giàu nghèo, bệnh tật nào, có thể hạn
chế mối tương quan do Đức Giêsu khởi xướng. Người vẫn thường đến với trẻ em, những
người mà các môn đệ “ngăn cản”; đến ăn uống với những người tội lỗi, thu thuế,
dù bị những người Pharisêu chỉ trích; Người dám chạm vào người phong hủi (Mt 8,3)
mặc cho luật về thanh sạch ngăn cấm. Đức Giêsu luôn yêu thương và tôn trọng một
con người, đặc biệt là những người cùng khổ. Người hành khất mù đã bày tỏ nguyện
vọng được nhìn thấy của mình. Tuy nhiên, Đức Giêsu lại cho anh thấy một điều
cao quý hơn. Người công bố rằng: “Đức tin của anh đã cứu chữa anh”. Lời công bố
này cho thấy ơn chữa lành này đã không xảy ra, nếu không có niềm tin mãnh liệt
của anh Bar-Timaiô. Nó cũng cho thấy rằng anh không những được chữa lành thể lý,
mà còn lành lặn về tâm linh. Con mắt đức tin của anh đã sáng ra, trước khi con
mắt thể lý của anh được nhìn thấy. Sự sáng mắt về tâm linh, “đức tin” là đỉnh
cao của phép lạ chữa lành này. Giả như con mắt thể lý của anh được sáng mà tâm
linh của anh vẫn mù tối, thì sự chữa lành này chẳng mang lại giá trị gì cho cuộc
đời của anh cả. Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, đã “cứu độ” cuộc đời của anh chứ không
chỉ “cứu chữa” đôi mắt mù lòa của anh. Từ thân phận một người mù lòa, ăn xin,
ngồi bên vệ đường, giờ đây, Bar-Timaiô đã nhìn thấy tỏ tường. Anh đứng lên, hòa
vào dòng người trên đường. Cuộc đời anh hoàn toàn thay đổi từ thể xác đến tâm linh.
Anh chẳng những được cứu bệnh mù thể lý nhưng được cứu độ nhờ đức tin. Cái thấy
quan trọng nhất là “thấy” Đức Kitô trên hành trình lên Jêrusalem. Hành trình đầu
tiên và duy nhất sau khi sáng mắt là hành trình bước theo Đức Giêsu trên hành
trình vào Jêrusalem, hành trình khổ-tử nạn và phục sinh. Đó là hành trình của
người môn đệ đích thực.
Câu
chuyện Anh Bar-Timaiô thật là một câu chuyện tuyệt vời, có giá trị vượt thời
gian. Nó vừa mang đậm chất thần học vừa biểu lộ khía cạnh nhân bản sâu sắc. Khía
cạnh thần học: Một người khiếm thị lại có thể có một tầm nhìn chân trời mà
tất cả những người khác, ngay cả các môn đệ cũng không nhìn thấy được. Con đường
theo Chúa là con đường khổ giá, nên thường rất khó thấy và dẫu có thấy người ta
cũng rất khó chấp nhận. Chính vì thế mà ba năm rao giảng, lập nhóm Mười
Hai, nhưng đến cuối cùng Đức Giêsu vẫn là người lữ khách “cô đơn” trên con đường
thập tự. Có thể nói rằng, anh mù là một ngôi sao sáng tượng trưng cho những con
người dám chấp nhận hy sinh để nhìn nhận rõ con đường Đức Giêsu, đường hẹp, đường
thập giá, để rồi “bước theo Người trên con đường Người đi”. Khía cạnh
nhân bản: Một con người bị tước mất quyền sống, bị đẩy ra bên ngoài xã hội,
bị người khác sống dùm, dám chớp lấy thời cơ tìm lại cuộc sống cho chính mình.
Đó là biểu hiện của một con người hy vọng, tin tưởng vào Chúa và can đảm dấn
thân; Một con người ở địa vị cao, sẵn sàng cúi xuống để ôm lấy những người cùng
khổ với một sự tôn trọng và yêu mến hết lòng.
Trong
xã hội ngày nay, còn có rất nhiều người, cách này cách khác, đang bị người khác
sống dùm; hay chọn lựa sống theo mong muốn của người khác. Đó đều là một hình
thức của cuộc đời bị đánh mất. Hơn nữa, có biết bao người luôn so đo, tính
toán thiệt hơn trong các mối tương quan để rồi không bao giờ có một sự gặp gỡ đúng
nghĩa giữa một người với một con người khác. Đó cũng là những cuộc đời èo uột khuyết
tật cách nào đó. Tuy nhiên, xã hội cũng luôn có những người dám làm, dám nghĩ
khác đi. Trong buổi tiếp kiến thứ tư hàng tuần dành cho giáo dân tại đại thính đường
Phaolô đệ Lục (20/10/2021), có một em nhỏ thiểu năng đã tiến lên chỗ Đức Giáo Hoàng.
Vị Giáo Hoàng, mời cậu bé ngồi xuống bên cạnh mình (trên chiếc ghế của đức ông
L. Sapienza, nhiếp chính phủ giáo hoàng), trong khi đó bài Lời Chúa trong thư gửi
tín hữu Galát đang được đọc. Một lúc sau cậu bé ngỏ ý muốn có chiếc mũ trắng nhỏ
(zucchetto) của Đức Giáo Hoàng. Cậu giằng tay Đức Giáo hoàng hồi lâu, rồi đến với
đức ông Leonardo Sapienza để nhờ đức ông xin chiếc mũ dùm cậu ta. Khi đức ông không
làm theo ý cậu, cậu còn cầm tay vị linh mục đọc Lời Chúa bằng tiếng Bồ, kéo vị
linh mục đến gần Đức Giáo Hoàng ngỏ ý muốn vị linh mục giúp xin chiếc mũ ấy. Cuối
cùng, vị Giáo Hoàng tặng cậu bé chiếc mũ và cậu vui vẻ đi về chỗ cũ của mình.[21]
Đây không phải là lần đầu một cậu bé lên gần Đức Giáo Hoàng trong một buổi tiếp
kiến. Đức Giáo Hoàng cũng có lần ôm hôn một người đàn ông “không có mặt” (năm
2013)[22],
rồi ôm hôn “người mặt quỷ” (người bệnh u sợi thần kinh – neurofibromatosis – khiến
gương mặt nổi u sần nhiều) (2013).[23]
Nơi vị giáo hoàng này, người ta có thể tìm thấy lại rõ nét nhân cách, hình ảnh đích
thực của Đức Kitô ngày nào.
Nguyện cho tất cả mọi
người có thể tận dụng được cơ hội Đức Giêsu đi ngang qua đời mình để rồi cũng
nhìn thấy và bước theo Người như Anh Bar-Timaiô, qua cách ăn nết ở thường ngày
của mình.[24]
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch,
SVD
[1] X. K.M. Kenyon, “Ancient
Jericho: The First Walled City in History” [Ancient
Jericho: The First Walled City In History (thearchaeologist.org)] (truy cập
18/10/2021).
[2] D.R. Brathcher “Jericho”, The
HarperCollins Bible Dictionary (ed. P.J. Achtemeier) (New York 1996) 493-494.
[3] J.
Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary (AYB; New Haven –
London 2008) XXVII A, 758.
[4]
C.A. Evans, Mark
8:27-16:20 (WBC; Dallas 2002) 34B, 131.
[5] D.J. Harrington, The Gospel
according to Matthew (SP1; Collegeville 1991) 290.
[6] J. Marcus claim that it is
ironic that the beggar is the son of a man whose name in Greek means “honored”
(J. Marcus, Mark 8–16, 759).
[7]
C.A. Evans, Mark
8:27-16:20 (WBC; Dallas 2002) 34B, 132.
[8]
J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2002) 318.
[9] A.Y.
Collins – H.W. Attridge,
Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 510.
[10] “It may be that the address of
Jesus as son of David is not linked primarily to Jesus’ power to heal, but
rather manifests Bartimaeus’s prophetic gift. In Greek myths the association of
blindness with compensatory supernatural gifts was common [A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 510].
[11] X. thêm về “Đấng Ki-tô” trong J.P.D.
Thạch, “Cứu-Phá Hủy, Phá Hủy-Cứu. Chú Giải Tin Mừng CN XXIV TN B (Mc 8,27-35)” [LỜI
BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: CỨU-PHÁ HỦY, PHÁ HỦY-CỨU. Chú giải Tin
Mừng CN XXIV TN B (Mc 8,27-35) (josephpham-horizon.blogspot.com)] (truy cập
19/10/2021).
[12] J.R. Donahue – D.J. Harrington, The
Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2002) 318.
[13]
J. Marcus, Mark 8–16, 760.
[14]
A.Y.
Collins – H.W. Attridge, Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark, 510-511.
[15] “Nhảy diễn tả hành động dứt
khoát. Nhảy về phía trước là bỏ lại phía sau. Càng nhẹ nhảy càng cao. Nhưng điệu
nhảy của người mù còn đòi nhiều hơn thế nữa. Nhảy trong mù loà là một thách đố
can trường. Mù mà nhảy thì nguy hiểm. Chung quanh đầy bóng tối. Không nhìn thấy
hướng mà cứ nhẩy nên điệu nhảy của người mù là nhảy bằng linh hồn. Lắng nghe tiếng
của con tim. Ngọn đèn hải đăng trong linh hồn phải sáng lắm cho niềm tin xác
quyết mới dám nhảy. Đi tìm hướng nhảy không phải bằng hình ảnh bên ngoài mà là
nội tâm. Không nhìn thấy bằng con mắt, nhưng trọn vẹn bằng linh hồn, anh ta đã
nhảy chồm về phía Đức Kitô.” [Nguyễn Tầm Thường, “Điệu Nhảy của người mù”, VIẾT
TRONG TÂM HỒN - ĐIỆU NHẢY CỦA NGƯỜI MÙ (nguoisamarinhanhau.com)] (truy cập
20/10/2021).
[16]
The
phrase: “and answering him,” refers to
Bartimaeus’s call for attention, not to a specific question, for no question
has yet been asked (C.A.
Evans, Mark 8:27-16:20, 133).
[17] J.R. Donahue – D.J. Harrington, The
Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2002) 318.
[18] “The placement of the story
suggests that, unlike Bartimaeus, the disciples have not yet been healed of
their “blindness.” They continue to fail to grasp the ways in which the
suffering service of Jesus is to be a model for their own way of life” [A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 506].
[19]
A.Y.
Collins – H.W. Attridge, Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark, 511.
[20] “The placement of the two healing-of-blindness
stories at the beginning and end of a section primarily concerned with instruction
of the uncomprehending disciples (8:22–10:52) suggests that these stories are
more closely related to discipleship (J.
Marcus, Mark 8–16, 671).
[24] X. thêm J.P.D. Thạch “Anh Mù Jericho,
Kẻ Chớp Thời Cơ Tuyệt Vời” [ LỜI BAN SỰ
SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: ANH MÙ JERICHO, KẺ CHỚP THỜI CƠ TUYỆT VỜI
(josephpham-horizon.blogspot.com)] (truy cập 21/10/2021).
No comments:
Post a Comment