Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy Lạp |
Việt |
35Καὶ προσπορεύονται αὐτῷ Ἰάκωβος
καὶ Ἰωάννης οἱ
υἱοὶ Ζεβεδαίου λέγοντες αὐτῷ· διδάσκαλε, θέλομεν ἵνα ὃ ἐὰν αἰτήσωμέν σε ποιήσῃς
ἡμῖν. 36 ὁ δὲ εἶπεν αὐτοῖς· τί
θέλετέ [με] ποιήσω ὑμῖν; 37 οἱ δὲ εἶπαν αὐτῷ· δὸς ἡμῖν ἵνα εἷς σου ἐκ δεξιῶν καὶ εἷς ἐξ ἀριστερῶν
καθίσωμεν ἐν τῇ δόξῃ σου. 38 ὁ δὲ Ἰησοῦς εἶπεν αὐτοῖς·
οὐκ οἴδατε τί αἰτεῖσθε. δύνασθε πιεῖν τὸ ποτήριον ὃ ἐγὼ πίνω ἢ τὸ
βάπτισμα ὃ ἐγὼ βαπτίζομαι βαπτισθῆναι; 39 οἱ δὲ εἶπαν αὐτῷ· δυνάμεθα.
ὁ δὲ Ἰησοῦς εἶπεν αὐτοῖς· τὸ ποτήριον ὃ ἐγὼ πίνω
πίεσθε καὶ τὸ βάπτισμα ὃ ἐγὼ βαπτίζομαι
βαπτισθήσεσθε, 40 τὸ δὲ καθίσαι ἐκ δεξιῶν μου ἢ ἐξ εὐωνύμων οὐκ
ἔστιν ἐμὸν δοῦναι,
ἀλλ᾽ οἷς ἡτοίμασται. 41 Καὶ ἀκούσαντες οἱ δέκα
ἤρξαντο ἀγανακτεῖν περὶ Ἰακώβου καὶ Ἰωάννου. 42 καὶ προσκαλεσάμενος αὐτοὺς
ὁ Ἰησοῦς λέγει αὐτοῖς· οἴδατε ὅτι οἱ δοκοῦντες ἄρχειν τῶν ἐθνῶν κατακυριεύουσιν αὐτῶν καὶ οἱ μεγάλοι αὐτῶν κατεξουσιάζουσιν αὐτῶν. 43 οὐχ οὕτως δέ ἐστιν ἐν ὑμῖν,
ἀλλ᾽ ὃς ἂν θέλῃ μέγας γενέσθαι ἐν ὑμῖν ἔσται ὑμῶν
διάκονος, 44 καὶ ὃς ἂν θέλῃ ἐν ὑμῖν
εἶναι πρῶτος ἔσται πάντων δοῦλος· 45 καὶ γὰρ ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου
οὐκ ἦλθεν διακονηθῆναι ἀλλὰ διακονῆσαι καὶ δοῦναι τὴν ψυχὴν αὐτοῦ λύτρον ἀντὶ πολλῶν. (Mk. 10:35-45 BGT) |
35
và Gia-cô-bê và Gioan, hai người con của ông
Dê-bê-đê đến gần Người, thưa cùng Người rằng:
“Thưa Thầy, chúng con muốn để mà Thầy có thể làm cho chúng con điều mà chúng
con xin” 36
Đức Giê-su nói cùng họ: “Anh em muốn Thầy làm gì cho anh em?” 37
Họ thưa cùng Người: “Hãy
cho chúng con để mà chúng con có thể ngồi, một
người bên phải và một người bên trái Thầy
trong vinh quang của Thầy”. 38
Đức Giê-su nói cùng họ: “Anh em không biết điều anh
em xin. Anh em có thể uống chén mà Thầy
uống hay chịu phép rửa mà Thầy chịu hay không? 39
Họ nói cùng Người: “Chúng con có thể”, nhưng Đức Giê-su nói cùng họ: “Chén mà Thầy uống anh em sẽ uống và phép rửa mà Thầy chịu anh em cũng sẽ chịu. 40
Tuy nhiên, việc ngồi bên trái hay bên phải Thầy, không phải của Thầy để cho, nhưng cho những
người đã được chuẩn bị rồi. 41
Sau khi nghe [chuyện ấy] mười môn đệ bắt đầu giận dữ vì
Gia-cô-bê và Gioan. 42
Sau khi gọi họ lại, Đức Giê-su nói cùng họ: “Anh em biết rằng những người được
coi là lãnh đạo một quốc gia họ cai trị trên
dân, và những người có quyền cao thực thi quyền hành
trên họ. 43
Trong anh em thì không phải như vậy, ai muốn là người
lớn hơn trong anh em sẽ là người phục vụ của
anh em, 44
ai muốn là người đứng đầu trong anh em sẽ là người tôi tớ của tất cả. 45
vì Con Người không đến đề được phục vụ nhưng là để phục
vụ và trao ban
mạng sống của mình làm giá chuộc nhiều người. |
Bối cảnh bản văn
Đoạn văn Mc
10,35-45 được trích ra từ những trình thuật và bài giảng của Đức Giê-su trên đường
lên Giê-ru-sa-lem (10,1-52). Trong bối cảnh rộng hơn, đoạn văn này là một phần
trong những lời dạy, mà Đức Giê-su muốn mạc khải cho các môn đệ về một Đấng
Ki-tô tự hạ, chịu đóng đinh, chịu chết và sau ba ngày sẽ Phục Sinh (Mc 8 –
12). Trong bối cảnh trực tiếp, đoạn văn này được tiếp nối ngay sau trình thuật
về sự tiền báo mầu nhiệm khổ-tử nạn – phục sinh lần thứ ba (10,32-34),
cũng là lần cuối cùng. Cách bố trí bản văn này một lần nữa cho thấy phản ứng
trái chiều của các môn đệ, đối với mầu nhiệm trọng đại, mà Đức Giê-su đang
cố gắng dạy các ông. Sự ham muốn quyền lực là chủ đề xuyên suốt cả ba lần Đức
Giê-su tiền báo về mầu nhiệm này. Thuật ngữ “chén” và “phép rửa”, “trao ban
mạng sống”, là những cách nói tượng trưng cho mầu nhiệm đau khổ và sự chết,
mà Đức Giê-su đang loan báo và sẽ thực hành trong đoạn cuối của cuộc đời mình
(Mc 14 – 15). Những lời dạy về cách sử dụng quyền lực: “Người lớn hơn”
trở thành “người phục vụ” cho tất cả; “Người đứng đầu” trở thành “tôi tớ” của tất
cả, gợi nhớ đến lời dạy mà Đức Giê-su đã dạy, sau khi các ông biết các môn đệ
tranh giành xem “ai là người lớn nhất”, được kể lại trước đó ít lâu (Mc
9,33-35). Chủ đề về “tài” (quyền chức) là một trong ba chủ đề trọng tâm
của chương 10 trong Tin Mừng Mác-cô (Tình [10,1-12], Tiền [10,17-31], và Tài
[10,35-45])[1]
và cũng là những lời dạy gần gũi, thiết thực với đời sống của cộng đoàn các môn
đệ nói riêng và cộng đoàn ki-tô giáo nói chung. Loạt lời dạy về ba chủ đề này
được kết thúc một cách chủ ý bằng trình thuật chữa lành người mù Giê-ri-khô,
bởi vì đây là người nghèo, ăn xin, nhìn thấy Đức Giê-su và “đi theo Người trên
con đường Người đi” (Mc 10,52).
Cấu trúc bản văn
Bản văn Mc
10,35-45 có thể được chia thành hai phần. Phần A: Nói về giấc mơ quyền lực
của Nhóm Mười Hai. Phần này là một cấu trúc đảo đổi, trong đó (a)
Gia-cô-bê và Gioan tiếp cận và xin xỏ // (a’) Mười môn đệ còn lại tức tối
với hai môn đệ này; (b) Ước muốn ngồi bên phải và bên trái của Gia-cô-bê
và Gioan // (b’) Đáp trả của Đức Giê-su về ước muốn ấy; (c) Lời mời
gọi “uống chén và chịu phép rửa” của Đức Giê-su // (c’) Đáp trả của các
môn đệ với lời mời gọi này. Phần B: Lời dạy của Đức Giê-su về chức năng
của quyền lực. Phần này có cấu trúc song song, trong đó (a) Cách sử dụng
quyền lực của những nhà lãnh đạo quốc gia // (a1) Cách sử dụng
quyền lực mà các môn đệ phải có // (a2) Nền tảng cho cách sử
dụng quyền lực của các môn đệ.
A. Ao
ước quyền lực (a) Gia-cô-bê và
Gioan tiếp cận và xin xỏ (10,35-36) (b) Ngồi bên phải bên trái: Ý muốn của hai môn đệ (10,37) (c) Mời uống chén
và chịu phép rửa (10,38) (c’) Đáp lại lời mời
uống chén và chịu phép rửa (10,39) (b’) Ngồi bên phải bên trái: Dành cho những người đã được chuẩn bị (10,40) (a’) Mười môn đệ
còn lại tức tối với Gioan và Ga-cô-bê (10,41) B. Hiệu
năng của quyền lực (a) Lãnh đạo quốc gia: Người có quyền thống trị và tỏ uy quyền (10,42) (a1) Các môn đệ: Người lớn hơn phải phục vụ người phục vụ (10,43) Người đứng đầu là người tôi tớ của tất cả (10,44) (a2) Con Người: Phục vụ và trao ban mạng sống (10,45) |
1.
Gia-cô-bê
và Gioan[2]:
Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, Gioan và Gia-cô-bê thường đi kèm với nhau. Họ là
hai anh em ruột (Mc 3,17; 5,37; Mt 10,2), làm nghề chài lưới (Lc 5,10). Họ là
hai trong số bốn môn đệ được gọi đầu tiên (Mt 4,21; Mc 1,19). Cặp anh em này là
hai trong số bộ ba môn đệ thân tín, thường được Đức Giê-su dẫn riêng ra trong một
số biến cố quan trọng: (i) Phép lạ cho con gái ông Giai-a sống lại (Mc 5,21-24.
35-43); (ii) Biến cố Biến Hình trên núi (Mc 9,2-8; Mt 17,1-8; Lc 9,28-36);
(iii) Biến cố cầu nguyện trong Vườn Cây Dầu (Mc 14,33). Liệu việc họ “đánh lẻ”,
không rủ Phê-rô có ý nghĩa gì hay không? Có thể Phê-rô không đi cùng trong vụ
này, vì ông đã bị Đức Giê-su mắng khi “cản lối” Thầy trong lần tiền báo thứ nhất
(Mc 8,33). Họ được Đức Giê-su đặt cho biệt danh là “Bô-e-nê-ghê” (Con của Thiên
Lôi). Điều này đúng với tính cách của họ, được thể hiện qua việc mong muốn lửa
từ trời xuống tiêu hủy làng Samari, nơi không đón tiếp Đức Giê-su (Lc 9,54).
Riêng Gioan thì ngăn cản một người trừ quỷ nhân danh Đức Giê-su, vì người này
không theo họ (Mc 9,38). Trong bối cảnh này, Gia-cô-bê và Gioan dường như đối lại
với mười môn đệ kia, đến bày tỏ giấc mơ quyền lực một cách thẳng thắn và rõ
ràng với Đức Giê-su. Tuy nhiên, cũng nên biết rằng, sau đó Gia-cô-bê là Tông đồ
đầu tiên chịu tử đạo dưới tay Hê-rô-đê Ác-ríp-pa I (Cv 12,2). Trong danh sách
Mười Hai Tông Đồ, có một người tên là Gia-cô-bê nữa, thường được gọi là
Gia-cô-bê hậu. Tông đồ này là con ông An-phê (Mc 3,18; Lc 6,15). Gioan theo
truyền thống là người “môn đệ Đức Giê-su yêu” trong Tin Mừng thứ tư (13,23
v.v…). Gioan sát cánh với Phê-rô trong những ngày đầu tiên đi rao giảng sau biến
cố Ngũ Tuần (Cv 3,1-5.11; 4,19.21-23). Ông được xem là tác gỉa của Tin Mừng thứ
tư và ba lá thư (1,2&3 Gioan) và cả sách Khải Huyền. Trong bối cảnh này,
Gia-cô-bê và Gioan được mô tả như là những người “cơ hội”. Họ đến để dành vị
trí tốt trong bộ máy chính trị của của Đức Giê-su. Mát-thêu giảm nhẹ trách nhiệm
của hai ông này, khi cho biết rằng đây là ước mong của bà mẹ của hai ông, chứ
không phải của chính hai ông: “Bà mẹ của hai người con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức
Giê-su, có hai con bà đi theo” (Mt 20,20).
2. “Hãy
cho”: Động từ “cho” được dùng ba lần trong đoạn văn này (10,37.39.45). Nó
có thể được xem như là động từ đóng khung cả đoạn văn này. Thật vậy, đoạn văn mở
đầu bằng lời cầu xin của các môn đệ: “Hãy cho chúng con để chúng con có thể ngồi
một người bên hữu một người bên tả Thầy, trong vinh quang của Thầy” (10,37) và
kết thúc với mạc khải của Đức Giê-su rằng Người “đến để phục vụ và trao ban mạng
sống mình vì nhiều người” (10,45). Như vậy, đây là động từ nền tảng để hiểu ý
nghĩa của bản văn này. Gioan và Gia-cô-bê muốn Đức Giê-su ban cho hai ông quyền
lực, còn Đức Giê-su bật mí cho các ông biết mầu nhiệm tự hiến. Cái mà Người sẽ
trao quý giá hơn nhiều lần điều mà các ông xin. Người sẽ trao ban mạng sống
mình, để làm giá chuộc không những cho các môn đệ, mà cho tất cả mọi người. Sự
“trao ban mạng sống” đọc một mặt trong bối cảnh gần nối kết chặt chẽ với ý tưởng
“uống chén” và “chịu phép rửa”; mặt khác trong bối cảnh rộng hơn nối tiếp chặt
chẽ với bối cảnh Đức Giê-su tiền báo ba lần mầu nhiệm khổ-tử nạn và phục sinh.
Nó là biến cố mấu chốt cho toàn bộ chương trình cứu độ của Đức Giê-su.
3. Bên
phải … bên trái: Đây là cách nói để diễn tả giấc mơ quyền lực. “Bên trái”
và “bên phải” là hai vị trí cao nhất, nhì trong một hệ thống chính trị, đặc biệt
trong chế độ phong kiến. Đức Giê-su trong vị thế là Đấng Ki-tô được cho là “ngự
bên hữu của Đức Chúa”: “Đức Chúa phán cùng Chúa của tôi, bên hữu Cha đây Con
luôn ngự trị, cho đến khi Ta đặt những kẻ thù như là bệ dưới chân con” (Mc
12,36; Mt 22,44). Trong các trình thuật về cuộc thẩm vấn, Đức Giê-su cũng mạc
khải cho các vị quan tòa rằng: Các ông sẽ thấy Con Người “ngự bên hữu Đấng Toàn
Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mt 26,46; Mc 14,62). Trình thuật về biến cố
Thăng Thiên cũng cho thấy Đức Giê-su “được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên
Chúa” (Mc 16,19; Cf. Cv 7,55-56). Bên hữu là vị trí tốt nhất. Gioan và Gia-cô-bê
đến gần, tiếp cận (προσπορεύονται: 10,35) với một mục đích rõ rệt. Các ông
đang cố gắng giành những vị trí tốt nhất cho mình vì sợ người khác chiếm mất.
Giấc mơ quyền lực của các môn đệ ngày càng rõ nét và cụ thể hơn. Nếu như trong
lần tiền báo thứ hai cuộc khổ-tử nạn – phục sinh, các ông chỉ tranh giành với
nhau xem ai lớn, ai nhỏ trong nhóm, thì bây giờ cá nhân hai người tiếp cận
riêng và xin hai vị trí cụ thể.
4. “Vinh
quang” (δόξα):
Vinh quang là một đặc tính gắn liền với Đức Giê-su và Chúa Cha. Trong trình thuật
về cánh chung, Đức Giê-su cho thấy “Con Người sẽ đến trong vinh quang của mình”
(Mt 25,31; Mc 13,26; Lc 21,27). Có khi, Đức Giê-su lại nói “Con người đến trong
vinh quang của Cha Người” (Mc 8,38); hay “Con Người đến trong vinh quang của Người
và vinh quang của Cha Người” (Lc 9,26). Các môn đệ đã từng thấy vinh quang của
Đức Giê-su trong cuộc biến hình: “Khi họ tỉnh giấc, họ thấy vinh quang của Người
và hai người đàn ông đứng với Người”. “Vinh quang” là tình trạng mà Đức Giê-su
sẽ đạt được sau khi chịu khổ hình: “Nào chẳng phải Đấng Ki-tô phải chịu nhiều
đau khổ như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người hay sao?” (Lc 24,26).
Tin Mừng Gioan cho độc giả thấy nhiều sắc thái hơn về “vinh quang” của Đức
Giê-su. Người tỏ bày vinh quang qua việc làm phép lạ hóa nước thành rượu tại
Cana (Ga 2,11). Vinh quang của Đức Giê-su đến từ Chúa Cha, chứ Đức Giê-su không
tôn vinh chính mình (Ga 8,56; Ga 17,22). Phép lạ cho La-da-rô sống lại là dịp để
Đức Giê-su tỏ bày vinh quang của Chúa Cha (Ga 11,4.40). Trong bối cảnh này,
Gioan và Gia-cô-bê nói về vinh quang của Đức Giê-su, nhưng có lẽ cách hiểu của
các ông lúc bấy giờ không trùng với cách hiểu của Đức Giê-su.[3] Vinh quang của Đức Giê-su
là vinh quang phục sinh, vinh quang của Đấng đã chiến thắng sự chết. Đó cũng là
vinh quang mà Người đã có từ trước muôn đời (Ga 17,5). Trong suy nghĩ của các
ông, Đức Giê-su đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, và có thể Người sẽ xưng
vương trong nay mai.[4] Họ vẫn chưa hiểu và chưa
muốn chấp nhận mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh mà Đức Giê-su đang cố gắng giải
thích. Chính vì thế, khi Người bước vào cuộc khổ nạn họ thất vọng ê chề và khi
Người phục sinh, họ đã ngạc nhiên và ngờ vực. Đức Giê-su một lần nữa tố cáo “ảo
tưởng”, “mơ mộng quyền lực” của họ khi nói rằng: “Anh em chẳng hiểu điều mà anh
em đang xin”. Đức Giê-su hẳn muốn nói rằng hành trình này không đơn giản, dễ nuốt
như họ tưởng. Họ không hiểu nên mới háo hức xin hai vị trí gần Người như thế.
5. Uống
chén[5]
… chịu phép rửa: Hành trình Giê-ru-sa-lem mà Gioan và Gia-cô-bê đang lầm tưởng
là vinh quang, thực ra là hành trình đắng cay và chết chóc. “Thuật ngữ uống
chén” Đức Giê-su diễn tả như là trọn hành trình khổ-tử nạn. Đó là “chén” mà
Chúa Cha đã trao cho Người: “Chén mà Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy không uống”
(Ga 18,11). Thuật ngữ “chén” cũng được dùng cách tượng trưng trong giờ cầu nguyện
của Đức Giê-su, một cuộc đấu tranh nội tâm trước trong khoảnh khắc sinh tử: “Lạy
cha, mọi sự đều có thể đối với Cha, xin cất chén này khỏi con. Tuy nhiên, không
phải điều con muốn mà là điều Cha muốn” (Mc 14,36; Lc 22,42; Mt 26,39). “Chén”
cũng được đồng hóa với “chén máu” của Đức Giê-su. Trong đêm Tiệc Ly Đức Giê-su
đã cầm lấy chén và mời gọi các môn đệ uống: “Chén này sẽ được đổ ra cho anh em
là giao ước mới trong máu Thầy” (Lc 22,20); “Hãy uống, tất cả anh em, vì đây là
máu giao ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha thứ tội lỗi” (Mt 26,27).
Thánh Phao-lô cũng giải thích rằng: “Chén chúc tụng mà chúng ta chúc lành,
không phải là một sự tham dự vào máu Đức Ki-tô đó sao? Bánh mà chúng ta bẻ,
không phải là một sự tham dự vào mình Đức Ki-tô?” (1 Cr 10,16). Thánh Phao-lô
nhấn mạnh rằng: “Mỗi lần anh em ăn bánh này và uống chén này, anh em loan truyền
cái chết của của Chúa cho đến khi Người đến” (1 Cr 11,26). Tác giả J. Donahue –
D. Harrington cho rằng hình ảnh “chén” được hiểu cách tốt nhất theo những thuật
ngữ của Cựu Ước, nói về chén đau khổ hay là chén thịnh nộ (x. Gr 25,15-29; Tv
75,8; Is 51,17.22).[6]
Tuy nhiên, thật khó để hiểu chén mà Đức Giê-su nói đến ở đây là cơn thịnh nộ của
Thiên Chúa.
Phép rửa có
nghĩa gốc là sự “dìm trong nước”. Nó có thể diễn tả sự chết qua việc bị chìm
trong nước.[7]
Đức Giê-su cũng ám chỉ phép rửa như là mầu nhiệm khổ-tử nạn mà Người sẽ trải
qua: “Thầy còn một phép rửa nữa phải chịu, và Thầy lo lắng biết bao cho đến khi
nó hoàn tất” (Lc 12,50). Ở trong các thư Thánh Phao-lô, người ta mới thấy rõ sự
nối kết giữa phép rửa với sự chết cùng với Đức Ki-tô: “Anh em đã cùng mai táng
với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa” (Cl 2,12); “Anh em không biết rằng: Khi chúng
ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được
dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người,
chúng ta cùng được mai táng với Người” (Rm 6,3-4). Thay vì Đức Giê-su trả lời
câu hỏi của hai môn đệ, Người lại hỏi họ một chuyện khác, bởi vì Người nhận thấy
rằng họ không hiểu điều họ đang cầu xin. Giả như họ biết Người lên
Giê-ru-sa-lem làm gì, thì họ đã không dám xin như thế. Người lên Giê-ru-sa-lem
là để chịu khổ-tử nạn, chứ không phải để xưng vương, xưng đế. Thực tế, Người
cũng tỏ dấu hiệu xưng vương trong khoảnh khắc Người chính thức vào
Giê-ru-sa-lem. Dân chúng đã chào đón và tung hô Người: “Hoan hô Con Vua Đa-vít!
Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21,9;
Cf. Mc 11,9-10; Ga 12,13). Khi Tổng trấn Phi-la-tô hỏi “Ông là vua dân Do Thái
sao?” Người đã thừa nhận: “Chính ngài nói đó” (Lc 23,3; 27,11). Tuy nhiên, cuối
cùng Người tự hiến chính mình để chịu khổ hình và chịu chết. Như vậy, nếu các
môn đệ hiểu rằng vinh quang của Người phải qua thập giá, thì các ông đã không
dám xin xin hai vị trí bên hữu bên tả, vì bên hữu bên tả Người có thể là bên phải
và bên trái thập giá của Người trên đồi Gol-gô-tha (x. Mc 15,27). Nếu họ hiểu rằng
“uống chén” và “chịu phép rửa” đồng nghĩa với cái chết, chắc họ đã không dám gật
đầu: “Thưa uống được”.[8] Trên thực tế, Gia-cô-bê và
Gioan đã thực sự “uống chén” và “chịu phép rửa” với Đức Giê-su trong thời kỳ
Giáo Hội bị bách hại. Gia-cô-bê là người đầu tiên bị chém đầu, chết vì đạo (Cv
12,2). Khi đã hiểu Đức Giê-su và sứ mạng của Người rồi, các môn đệ đã sẵn sàng
vác thập giá và chết vì Người và vì Tin Mừng, mà không còn quan tâm đến vị trí
“bên phải” hay “bên trái” nữa. Thậm chí, Phê-rô còn nhận án đóng đinh ngược, vì
cho rằng mình không xứng chết giống y chang như Thầy mình.
6. “Người
đã được chuẩn bị rồi”. Ai có thể là người đã được chuẩn bị rồi? Mát-thêu
còn nói rõ hơn là “cho những người mà Cha của Thầy đã chuẩn bị” (Mt 20,23). Phải
chăng Chúa cha đã định sẵn cho những ai được vinh dự ngồi bên phải, bên trái của
Đức Giê-su? Có lẽ, đây chỉ là cách nói cho thấy Đức Giê-su không quan tâm đến
việc trao ban những vị trí vinh dự cho ai cả. Việc đó, nếu có, thì chỉ là quyền
của Chúa Cha.[9]
Sứ mạng của Người là “phục vụ và trao ban mạng sống mình” làm giá chuộc nhiều
người.
7. Bắt
đầu giận dữ (ἤρξαντο ἀγανακτεῖν): Phản ứng của “Mười môn đệ”
còn lại cho thấy họ cũng đang có cùng suy nghĩ và toan tính như Gia-cô-bê và
Gioan, nhưng họ chậm bộc lộ hơn. Điều này cũng chứng tỏ rằng họ cũng không biết
điều họ đang ao ước. Cho cho thấy suy nghĩ của họ hoàn toàn ngược lại với ý định
của Thiên Chúa, trên cuộc đời Đức Giê-su, mà Đức Giê-su đang cố gắng dạy họ. Cả
ba lần Đức Giê-su tiền báo về mầu nhiệm khổ-tử nạn, các môn đệ đều phản ứng
tréo ngoe như thế. Đây là lần thứ ba, cũng là lần tiền báo cuối cùng nhưng xem
ra các môn đệ vẫn chưa khá lên một tý nào, chưa hiểu chút gì, và dĩ nhiên chưa
sẵn sàng đón nhận mầu nhiệm này.
8.
Cai trị trên dân… thực thi quyền hành:
Đức Giê-su phân ra hai loại người với hai cách thức thi hành quyền bính khác
nhau. Nhóm thứ nhất là nhóm lãnh đạo, vua chúa của trần gian. Nhóm người này ao
ước có được quyền chức để thống trị, thị uy và có thể đàn áp dân chúng, thu về
những lợi tức cho mình. Câu thành ngữ: “Một người làm quan cả họ được nhờ” có
thể là một minh họa rõ nét cho loại quyền lực này. Ba nhóm nhân vật tiêu biểu
cho nhóm người này vào thời Đức Giê-su có thể kể đến là hoàng triều Hê-rô-đê và
Tổng trấn Phi-la-tô. Vua Hê-rô-đê Cả vì bảo vệ vương quyền của mình, đã sẵn
sàng giết chết những đứa trẻ vô tội, mặc cho tiếng khóc than ai oán của các bậc
phụ huynh (Mt 2,16-17); tiểu vương Hê-rô-dê An-ti-pa vì bảo vệ cho mối tình bất
chính của mình với người chị dâu Hê-rô-đê-a, đã không ngần ngại bắt giam Gioan
Tẩy Giả và chém đầu ông (Mc 6,17-29; Mt 14,3-14). Tổng trấn Phi-la-tô đáng lẽ
có thể tha chết cho Đức Giê-su, khi không tìm thấy lý do gì để kết tội (Ga
18,39; 19,4.6). Tuy nhiên, cuối cùng vì lý do chính trị, không muốn làm mất
lòng giới chức Do Thái, ông đã rửa tay, phủi tay và cho phép đóng đinh Đức
Giê-su (Mt 27,24). Nhóm người thứ ba có thể kể đến là các giáo chức Do Thái
(kinh sư, pha-ri-sêu, thượng kế, kỳ mục). Những người Pha-ri-sêu thích ngồi chỗ
nhất trong các đám tiệc, chiếm chỗ đầu trong các hội đường, ưa được người ta
chào hỏi ở nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi” (Mt 23,6; Mc 12,39).
Các kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào
hỏi ở những nơi công cộng (Mc 12,38). Đó có thể là những nhóm người tượng trưng
cho quyền lực thế gian mà Gioan, Gia-cô-bê và tất cả các môn đệ đang mong ước.
Tiếc thay, đó không phải là quan điểm về quyền lực đúng đắn mà Đức Giê-su muốn
dạy cho các học trò.
9. Người
lớn hơn … người phục vụ… người đứng đầu … người tôi tớ: Bằng cấu trúc song
song, với hai cặp thuật ngữ đối nghĩa với nhau Đức Giê-su đã diễn tả rất ấn tượng
sự nghịch lý trong cách sử dụng quyền lực của nhóm người thứ hai (Nhóm của Đức
Giê-su và các môn đệ). Quyền lực của Đức Giê-su muốn dạy cho học trò là loại
quyền lực không quyền lực. Có thể gọi đây là quyền lực của trái tim, của tình
người, một thứ quyền lực hướng về người khác, và cho người khác, thay vì lấy
mình làm trung tâm và phục vụ cho lợi ích của mình. Đây là lần thứ hai Đức
Giê-su sử dụng ý tưởng “người đứng đầu là người phục vụ” (Mc 9,35; 10,43-44).
Trong lần đầu tiên, Đức Giê-su minh họa cho lời dạy về cách sử dụng quyền lực
cách ngược đời ấy, bằng cách mời gọi họ đón nhận một em nhỏ (Mc 9,37). Còn lần
này, Người minh họa bằng chính cuộc đời của Người. Liên từ chỉ lý do (γὰρ:
bởi vì) giải thích tại sao “người làm lớn” phải là “người phục vụ” và “người đứng
đầu” phải là “người tôi tớ”[10]: “Vì Con Người đến không
phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và trao ban mạng sống mình làm giá
chuộc muôn người”. Sự phục vụ và hành vi làm tôi tớ của các môn đệ, được mời gọi
vươn đến cảnh giới cao nhất. Đó là hiến mạng vì người khác. Đức Giê-su gọi đây
là tình yêu cao cả nhất: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người
dám hy sinh mạng sống, vì người thương của mình” (Ga 15,13). Đó là tình yêu của
chính Đức Giê-su, Đấng đã hiến mạng sống vì nhiều người.
10. Giá
chuộc (λύτρον): Danh từ “λύτρον”[11] (lutron) có nghĩa là cái
giá phải trả (thường là tiền hoặc vàng) cho sự giải phóng những nô lệ. Cách nói
Con Người “trao ban mạng sống làm giá chuộc muôn người” cũng là minh họa cho
cách nói “uống chén” và “chịu phép rửa” (10,38-39) trước đó. “Giá chuộc cho nô
lệ” đôi khi được hiểu dưới dạng một người thay thế cho một người khác trong
tình trạng nô lệ, như trong thư 1 Cle-men-te 55,2, dùng ngôn ngữ tương tự như
Mc 10,45: “Chúng tôi biết rằng nhiều người trong chúng ta đã trao ban chính
mình cho cảnh nô lệ mà họ có thể chuộc người khác”.[12] Thuật ngữ “giá chuộc” đã
được nối kết với “sự chuộc lại” trong những bản văn Cựu Ước: “Nếu người ta đòi
tiền chuộc, thì chủ phải trả để chuộc mạng sống mình, thể theo tất cả những gì
đòi hỏi của người ta” (Xh 21,30); “Mỗi người dân phải dâng lên tiền chuộc mạng
trong lúc kiểm tra dân số” (Xh 30,12). Hình ảnh “giá chuộc” ở đây khá giống với
cách diễn tả về sự “chuộc tội” của I-sai-ah về Người Tôi Trung đau khổ (Bài ca
Người tôi trung thứ tư Is 52,13 – 53,12): “Nếu người hiến thân làm của lễ đền tội,
người sẽ được thấy kẻ nối dõi … người công chính, tôi trung của Ta sẽ làm cho
muôn người nên công chính và gánh lấy tội lỗi của họ … người đã hiến thân chịu
chết … người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is
53,10-12).[13]
Có rất nhiều tranh cãi lâu dài trong suốt dòng lịch sử về căn tính của “Người
tôi trung” trong lịch sử dân Ít-ra-el suốt thế kỷ thứ sáu, thời lưu đày
Babylon. Liệu nhân vật này có phải là một cá nhân như là vua của Giu-đa, thượng
tế, hay là một vị đứng đầu của trường phái ngôn sứ? hay “Người tôi trung” là tập
thể dân Ít-ra-el, cộng đoàn lưu đày ở Babylon, hay là một nhóm nào đó trong cộng
đoàn lưu đày? Nhưng dù cho đáp án về mặt lịch sử cho câu hỏi này có là gì đi nữa,
điểm quan trọng là Giáo hội sơ khai đồng hóa “Người tôi trung” với Đức Giê-su
và xem Người như là mấu chốt để hiểu các bài ca về “Người tôi trung” (x. Cv
8,26-40).[14]
Cái chết của Đức Giê-su được giải thích ở đây như là một hành động nghi thức,
mang tính ẩn dụ của một sự phạm tội của nhiều người. Như vậy, Mc 10,45 tương tự
với lời nói trên “chén” trong Mc 14,24, theo đó, máu được Giê-su được đổ ra cho
nhiều người.[15]
Bình luận tổng quát
Đức Giê-su đang
trên đường lên Giê-ru-sa-lem. Đó là con đường tiến vào cuộc khổ nạn và tiến ra
pháp trường trên đồi Gol-gô-tha. Người đang cố gắng giúp cho các môn đồ hiểu thế
nào là một Đấng Ki-tô tự hạ và tự hiến thân mình, vì vâng phục Chúa Cha và vì
giá chuộc cho nhân loại. Người cố gắng bao nhiêu thì các môn đệ càng ngây ngô bấy
nhiêu. Sau cả ba lần tiền báo về cuộc khổ-tử nạn – phục sinh, họ không những
không hiểu, không muốn hiểu mà còn phản ứng ngược lại. Lần thứ nhất, Phê-rô đã
lên tiếng can ngăn để Đức Giê-su và Thiên Chúa bỏ ý định tự hủy ấy. Lần thứ
hai, các ông vẫn tỏ ra không hiểu, nhưng không dám hỏi lại Người. Hơn nữa, họ
cũng chẳng muốn hỏi làm gì câu chuyện khó nghe ấy. Họ đang mãi bận tranh cãi
xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Lần này cũng thế, hai môn đệ thân tín nhất
của Chúa, gần gũi nhất với Chúa. Chúa đã mang họ riêng ra trong những dịp quan
trọng: “Biến hình trên núi”; “Chữa lành con gái ông Giai-i-rô”, trưởng hội đường;
Trong Vườn Cây Dầu. Tuy nhiên, họ lại cho thấy họ là những người không hiểu
Chúa hơn cả. Chúa nói về cuộc khổ nạn – chết, họ lại nghĩ rằng Người đang tiến
bước lên ngai vàng. Họ dường như “vượt mặt” Phê-rô và đồng bạn để xin Thầy
Giê-su hai vị trí cao nhất trong “vinh quang” của Người. Vinh quang của Đức
Giê-su đương nhiên là có. Đó là vinh quang mà Thiên Chúa ban cho Người ngay từ
tạo thiên lập địa. Vinh quang ấy chói ngời trong cuộc biến hình. Tuy nhiên,
vinh quang ấy cũng là vinh quang phục sinh. Phục sinh gắn liền với sự chết. Nếu
không có đau khổ và chết, thì sẽ không có vinh quang phục sinh. Nhân dịp hai
môn đệ bày tỏ ước vọng về hai vị trí quyền lực nhất trong triều đại Thiên Chúa.
Đức Giê-su mạc khải và mời gọi các ông đón nhận và chia sẻ mầu nhiệm tự hạ, tự
hủy với Người. Lời mời gọi “uống chén” và “chịu phép rửa” rõ ràng là cách nói
ám chỉ đến sự chết, bằng cách đổ máu ra trên thập giá. Gia-cô-bê và Gioan rõ
ràng không hiểu được ý nghĩa đó nên đã sẵn sàng chấp nhận. Tuy nhiên, cũng như
Đức Giê-su nói là “các ông không hiểu điều các ông xin”, họ cũng không hiểu lời
mời gọi của Đức Giê-su. Bởi vì, đón nhận lời mời gọi của Đức Giê-su đồng nghĩa
với việc phải đi vào cuộc khổ nạn và phải chết trên thập giá với Người. Một
hình ảnh mang tính mỉa mai nhưng cũng phản ánh đúng thực tế trong sứ vụ của các
môn đệ sau này. Họ đồng ý “uống chén” và “chịu phép rửa” đồng nghĩa với việc họ
sẽ có được hai vị trí “bên tả” và “bên hữu” của Chúa, như là vị trí của hai người
trộm cướp trên đồi thi hành án. Các môn đệ có lẽ là không nhắm đến hai vị trí
đó trong lúc cầu xin. Tuy nhiên, thực tế trong sứ vụ của họ sau phục sinh, họ
cũng đã đón nhận những cơn bách hại, thậm chí chịu tử đạo để cùng chia sẻ cùng
“chén” và “phép rửa” với Đức Giê-su. Động từ “xin ban” mà hai môn đệ sử dụng để
hỏi xin quyền lực, đã được Đức Giê-su dùng để diễn tả mầu nhiệm “trao ban” mạng
sống vì muôn người. Đó chính là đỉnh cao hiệu năng của quyền lực trong vương quốc
của Đức Giê-su. Trong vương quốc ấy, “Người quyền cao chức trọng” là người phục
vụ; Người “đứng đầu” là “người nô lệ” của người khác. Đó là triết lý quyền lực
lạ lùng và ngược đời nhất trên đời. Tuy nhiên, đó lại là quyền lực bình thường
của trái tim; quyền lực của những người luôn hướng về người khác, vì lợi ích của
người khác, thay vì muốn người khác hướng về người khác và đem lợi ích cho
mình. Đó là thứ quyền lực không quyền lực, quyền lực mà chẳng ai muốn tranh
giành, chiếm giữ. Nó là quyền lực chung cho tất cả những ai biết yêu thương, một
thứ quyền lực bền vững mang đến cho người ta niềm vui và sự bình an, vì họ có
thể làm chủ được cái tôi của mình, một cái tôi luôn muốn mình là số một, muốn
người khác tôn vinh mình. Thay vào đó, quyền lực của Đức Giê-su mời gọi con người
tự hủy, trở nên nhỏ bé, luôn xem người khác trọng hơn mình và để phục vụ lợi
ích của kẻ khác.
Có hai thái độ
có thể trái ngược với quan điểm “quyền lực phục vụ” hay “quyền lực tự hiến” của
Đức Giê-su. Thứ nhất là thái độ của những người ham mê quyền lực, luôn muốn được
leo cao trong nấc thang quyền lực, hoặc luôn muốn tương quan gần gũi với những
người có quyền chức và địa vị trong xã hội. Thái độ này có thể dẫn đến việc một
người có thể ngồi không đúng vị trí của mình (ngồi nhầm ghế), hay sử dụng quyền
lực một cách sai trái, lạm quyền. Thái độ thứ hai là thái độ của những người an
phận, thủ thường, hèn nhát, không muốn gánh vác bất cứ một trách nhiệm nào
trong xã hội, cộng đoàn, nhóm, hay gia đình. Thái độ này có thể làm cho một cá
nhân không thể phát huy được hết năng lực bản thân và ơn gọi phục vụ mà thượng
đế phú bẩm nơi mình. Cả hai thái độ ấy đều đem đến những bất lợi cho chính mỗi
cá nhân và ảnh hưởng ít nhiều đến cộng đồng nhân loại. Đức Giê-su không chối bỏ,
hay xóa bỏ những vị trí lớn, nhỏ trong cộng đoàn, xã hội và gia đình. Đó là những
vị trí cần thiết một cách tự nhiên cho việc ổn định và thăng tiến con người. Chính
Người cũng đã chọn Nhóm Mười Hai để làm hạt nhân cho các cộng đoàn Ki-tô hữu và
đã chọn Phê-rô làm người đứng đầu nhóm này. Người chỉ mặc cho quyền lực những
chức năng đúng nghĩa, và giúp quyền lực phát huy lợi ích nhất cho bản thân người
nắm trách nhiệm và cho cộng đoàn mà người ấy chịu trách nhiệm.
Lm. Joseph Phạm
Duy Thạch, SVD
[1] Th.Ng.H. Cầu. Tìm Hiểu
Các Sách Tin Mừng và Công Vụ Tông Đồ. Ki -tô hữu đọc Sách Thánh (Đồng Nai
2019) 65.
[2] X. P.L. Shuler, “James”, The
HarperCollins Bible Dictionary (ed., P.J. Achtemeier) (1996) 480.
[3] Trong Tin Mừng Mát-thêu, cụm
từ “Vương Quốc của Thầy” được dùng thay vì “vinh quang” của Thầy (Mt 20,21).
[4] In the setting
in the life of Jesus (Sitz im Leben Jesu), the question refers to the
coming kingdom of God on earth, that is, the restored Israel in which the great
prophecies (especially of Isaiah) will be fulfilled, when all nations will come
to Jerusalem to worship the Lord (cf. Mark 11:17, where Jesus alludes to Isa
56:7). It will be at that time that Jesus’ δόξα will be recognized throughout
Israel and throughout the world, when foreigners far and wide will seek to hear
and see one who is greater than Jonah and wiser than Solomon [C.A. Evans, Mark 8:27-16:20
(WBC; Dallas 2002) 34B, 116].
[5] “The cup is a metaphor for
one’s portion in life, what one has been given to “drink,” whether of good or
ill. It can sometimes symbolize a happy fate, for example, the overflowing cup
of Ps 23:5 and the “cup of salvation” in Ps 116:13; in the OT and related
literature, however, the cup is usually the poisoned chalice of the Lord’s
wrath, the affliction that he pours out upon those who richly deserve divine
punishment” [J. Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary (AYB; New Haven –
London 2008) XXVII A, 747].
[6] J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2002) 311.
[7] Ibid.
[8] The reader will
find that these disciples, as well as the other disciples who had expressed
their indignation at James and John, simply did not have the stomach for the
cup and the baptism for which they had said they were ready (C.A. Evans, Mark 8:27-16:20, 118).
[9] J. Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary, 748; J.R. Donahue –
D.J. Harrington, The Gospel of Mark, 312.
[10] J. Donahue – D.
Harrington cho rằng thuật ngữ “nô lệ của tất cả” là nghịch lý có chủ ý. Một nô
lệ thường tùy thuộc vào một người chủ và làm những mệnh lệnh của của người đó.
Bằng cách đề nghị rằng những môn đệ của Người trở thành “nô lệ của tất cả”, Đức
Giê-su nhấn mạnh lý tưởng của Người về sự phục vụ phổ quát cho người khác (J.R.
Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark, 313); J.Marcus nghĩ rằng
“Doulos” (nô lệ, tôi tớ) nhấn mạnh khía cạnh tự nguyện của sự nô lệ (J. Marcus,
Mark 8–16, 478).
[11] BDAG, “λύτρον”.
[12] J. Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary, 749.
[13] A.Y. Collins – H.W. Attridge,
Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 502.
[14] J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2002) 315.
[15] A.Y. Collins – H.W. Attridge,
Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark, 503.
No comments:
Post a Comment