TRAO BAN QUYỀN LỰC HAY TRAO BAN MẠNG SỐNG. Chú Giải
Tin Mừng CN XXIX TN B (Mc 10,35-45)
Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy Lạp |
Việt |
35Καὶ
προσπορεύονται αὐτῷ Ἰάκωβος
καὶ Ἰωάννης οἱ
υἱοὶ Ζεβεδαίου λέγοντες αὐτῷ· διδάσκαλε, θέλομεν ἵνα ὃ ἐὰν αἰτήσωμέν σε ποιήσῃς
ἡμῖν. 36 ὁ δὲ εἶπεν αὐτοῖς· τί θέλετέ [με]
ποιήσω ὑμῖν; 37 οἱ δὲ εἶπαν αὐτῷ· δὸς ἡμῖν ἵνα εἷς σου ἐκ
δεξιῶν καὶ εἷς ἐξ ἀριστερῶν καθίσωμεν ἐν
τῇ δόξῃ σου. 38 ὁ δὲ Ἰησοῦς εἶπεν αὐτοῖς· οὐκ οἴδατε τί αἰτεῖσθε. δύνασθε πιεῖν τὸ ποτήριον ὃ ἐγὼ πίνω ἢ τὸ
βάπτισμα ὃ ἐγὼ βαπτίζομαι βαπτισθῆναι; 39 οἱ δὲ εἶπαν αὐτῷ· δυνάμεθα. ὁ δὲ Ἰησοῦς
εἶπεν αὐτοῖς· τὸ ποτήριον ὃ ἐγὼ πίνω πίεσθε καὶ
τὸ βάπτισμα ὃ ἐγὼ βαπτίζομαι βαπτισθήσεσθε, 40 τὸ δὲ καθίσαι ἐκ δεξιῶν μου ἢ ἐξ εὐωνύμων οὐκ
ἔστιν ἐμὸν δοῦναι,
ἀλλ᾽ οἷς ἡτοίμασται. 41 Καὶ ἀκούσαντες οἱ δέκα ἤρξαντο ἀγανακτεῖν περὶ Ἰακώβου καὶ Ἰωάννου. 42 καὶ προσκαλεσάμενος αὐτοὺς ὁ Ἰησοῦς
λέγει αὐτοῖς· οἴδατε ὅτι οἱ δοκοῦντες ἄρχειν τῶν ἐθνῶν κατακυριεύουσιν αὐτῶν καὶ οἱ μεγάλοι αὐτῶν κατεξουσιάζουσιν αὐτῶν. 43 οὐχ οὕτως δέ ἐστιν ἐν ὑμῖν, ἀλλ᾽ ὃς
ἂν θέλῃ μέγας γενέσθαι ἐν ὑμῖν ἔσται ὑμῶν διάκονος, 44 καὶ ὃς ἂν θέλῃ ἐν ὑμῖν εἶναι πρῶτος ἔσται πάντων δοῦλος· 45 καὶ γὰρ ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου οὐκ ἦλθεν
διακονηθῆναι ἀλλὰ διακονῆσαι καὶ δοῦναι
τὴν ψυχὴν αὐτοῦ λύτρον ἀντὶ πολλῶν. (Mk. 10:35-45 BGT) |
35 và Giacôbê và Gioan,
hai người con của ông Dêbêđê đến gần Người,
thưa cùng Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con muốn rằng Thầy có thể làm cho
chúng con điều mà chúng con xin” 36 Đức Giêsu nói cùng họ: “Anh em muốn Thầy làm gì cho
anh em?” 37 Họ thưa cùng Người: “Hãy ban cho chúng con để chúng con có thể ngồi, một
người bên phải và một người bên trái Thầy
trong vinh quang của Thầy”. 38 Đức Giêsu nói cùng họ: “Anh em
không biết điều anh em xin. Anh em có thể uống chén mà Thầy uống hay chịu phép rửa mà
Thầy chịu hay không? 39 Họ nói cùng Người: “Chúng con có thể”, nhưng Đức Giêsu
nói cùng họ: “Chén mà Thầy uống anh em sẽ uống
và phép rửa mà Thầy chịu anh em cũng sẽ chịu. 40 Tuy nhiên, việc ngồi bên trái hay
bên phải Thầy, không phải của Thầy để ban cho,
nhưng cho những người đã được chuẩn bị rồi. 41 Sau khi nghe [chuyện ấy] mười môn đệ bắt đầu giận dữ vì Giacôbê và Gioan. 42 Sau khi gọi họ lại, Đức Giêsu nói cùng họ: “Anh em biết
rằng những người được coi là lãnh đạo một quốc gia họ
cai trị trên dân, và những người có quyền cao thực
thi quyền hành trên họ. 43 Trong anh em thì không phải như vậy, ai muốn là người lớn hơn trong anh em sẽ là người phục vụ của anh em, 44 ai muốn là người đứng đầu trong
anh em sẽ là người tôi tớ của tất cả. 45 vì Con Người không đến đề được phục vụ nhưng là để phục vụ và trao ban mạng
sống của mình làm giá chuộc nhiều người. |
Bối cảnh bản văn
Đoạn văn Mc
10,35-45 được trích ra từ những trình thuật và bài giảng của Đức Giêsu trên đường
lên Jêrusalem (10,1-52). Trong bối cảnh rộng hơn, đoạn văn này là một phần
trong những lời dạy, mà Đức Giêsu muốn mạc khải cho các môn đệ về một Đấng Kitô
tự hạ, chịu đóng đinh, chịu chết và sau ba ngày sẽ Phục Sinh (Mc 8 – 12).
Trong bối cảnh trực tiếp, đoạn văn này được tiếp nối ngay sau trình thuật về sự
tiền báo mầu nhiệm khổ-tử nạn – phục sinh lần thứ ba (10,32-34), cũng là lần
cuối cùng. Cách bố trí bản văn này một lần nữa cho thấy phản ứng trái chiều của
các môn đệ, đối với mầu nhiệm trọng đại, mà Đức Giêsu đang cố gắng dạy các ông.
Sự ham muốn quyền lực là chủ đề xuyên suốt cả ba lần Đức Giêsu tiền báo về mầu
nhiệm này. Thuật ngữ “chén” và “phép rửa”, “trao ban mạng sống”, là những
cách nói tượng trưng cho mầu nhiệm đau khổ và sự chết, mà Đức Giêsu đang
loan báo và sẽ thực hành trong đoạn cuối của cuộc đời mình (Mc 14 – 15). Những
lời dạy về cách sử dụng quyền lực: “Người lớn hơn” trở thành “người phục
vụ” cho tất cả; “Người đứng đầu” trở thành “tôi tớ” của tất cả, gợi nhớ đến lời
dạy mà Đức Giêsu đã dạy, sau khi các ông biết các môn đệ tranh giành xem “ai là
người lớn nhất”, được kể lại trước đó ít lâu (Mc 9,33-35). Chủ đề về “tài”
(quyền chức) là một trong ba chủ đề trọng tâm của chương 10 trong Tin Mừng Máccô
(Tình [10,1-12], Tiền [10,17-31], và Tài [10,35-45])[1] và
cũng là những lời dạy gần gũi, thiết thực với đời sống của cộng đoàn các môn đệ
nói riêng và cộng đoàn Kitô giáo nói chung. Loạt lời dạy về ba chủ đề này được
kết thúc một cách chủ ý bằng trình thuật chữa lành người mù Jêrikhô, bởi
vì đây là người nghèo, ăn xin, nhìn thấy Đức Giêsu và “đi theo Người trên con
đường Người đi” (Mc 10,52).
Cấu trúc bản văn
Bản văn Mc
10,35-45 có thể được chia thành hai phần. Phần A: Nói về giấc mơ quyền lực
của Nhóm Mười Hai. Phần này là một cấu trúc đảo đổi, trong đó (a) Giacôbê
và Gioan tiếp cận và xin xỏ // (a’) Mười môn đệ còn lại tức tối với hai
môn đệ này; (b) Ước muốn ngồi bên phải và bên trái của Giacôbê và Gioan
// (b’) Đáp trả của Đức Giêsu về ước muốn ấy; (c) Lời mời gọi “uống
chén và chịu phép rửa” của Đức Giêsu // (c’) Đáp trả của các môn đệ với
lời mời gọi này. Phần B: Lời dạy của Đức Giêsu về chức năng của quyền lực.
Phần này có cấu trúc song song, trong đó (a) Cách sử dụng quyền lực của
những nhà lãnh đạo quốc gia // (a1) Cách sử dụng quyền lực mà
các môn đệ phải có // (a2) Nền tảng cho cách sử dụng quyền lực
của các môn đệ.
A. Ao
ước quyền lực (a) Giacôbê và
Gioan tiếp cận và xin xỏ (10,35-36) (b) Ngồi bên phải bên
trái: Ý muốn của hai môn đệ (10,37) (c) Mời uống chén
và chịu phép rửa (10,38) (c’) Đáp lại lời mời
uống chén và chịu phép rửa (10,39) (b’) Ngồi bên phải bên
trái: Dành cho những người đã
được chuẩn bị (10,40) (a’) Mười môn đệ
còn lại tức tối với Gioan và Giacôbê (10,41)
B. Hiệu
năng của quyền lực (a) Lãnh đạo quốc gia: Người có quyền thống trị và tỏ uy quyền (10,42) (a1) Các môn
đệ: Người lớn hơn phải là người
phục vụ (10,43) Người đứng đầu là người tôi tớ của tất cả (10,44) (a2) Con Người: Phục vụ và trao ban mạng sống (10,45) |
Một số điểm chú giải
1.
Giacôbê
và Gioan[2]:
Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, Gioan và Giacôbê thường đi kèm với nhau. Họ là hai
anh em ruột (Mc 3,17; 5,37; Mt 10,2), làm nghề chài lưới (Lc 5,10). Họ là hai
trong số bốn môn đệ được gọi đầu tiên (Mt 4,21; Mc 1,19). Cặp anh em này là hai
trong số bộ ba môn đệ thân tín, thường được Đức Giêsu dẫn riêng ra trong một số
biến cố quan trọng: (i) Phép lạ cho con gái ông Giaia sống lại (Mc 5,21-24.
35-43); (ii) Biến cố Biến Hình trên núi (Mc 9,2-8; Mt 17,1-8; Lc 9,28-36);
(iii) Biến cố cầu nguyện trong Vườn Cây Dầu (Mc 14,33). Liệu việc họ “đánh lẻ”,
không rủ Phêrô có ý nghĩa gì hay không? Có thể Phêrô không đi cùng trong vụ này,
vì ông đã bị Đức Giêsu mắng khi “cản lối” Thầy trong lần tiền báo thứ nhất (Mc
8,33). Họ được Đức Giêsu đặt cho biệt danh là “Bôenêghê” (từ Aram: Con của
Thiên Lôi). Điều này đúng với tính cách của họ, được thể hiện qua việc mong muốn
lửa từ trời xuống tiêu hủy làng Samari, nơi không đón tiếp Đức Giêsu (Lc 9,54).
Riêng Gioan thì ngăn cản một người trừ quỷ nhân danh Đức Giêsu, vì người này
không theo họ (Mc 9,38). Trong bối cảnh này, Giacôbê và Gioan dường như đối lại
với mười môn đệ kia, đến bày tỏ giấc mơ quyền lực một cách thẳng thắn và rõ
ràng với Đức Giêsu. Tuy nhiên, cũng nên biết rằng, sau đó Giacôbê là Tông đồ đầu
tiên chịu tử đạo dưới tay Hêrôđê Ácríppa I (Cv 12,2). Trong danh sách Mười Hai
Tông Đồ, có một người tên là Giacôbê nữa, thường được gọi là Giacôbê hậu. Tông
đồ này là con ông Anphê (Mc 3,18; Lc 6,15). Gioan theo truyền thống là người
“môn đệ Đức Giêsu yêu” trong Tin Mừng thứ tư (13,23 v.v…). Gioan sát cánh với Phêrô
trong những ngày đầu tiên đi rao giảng sau biến cố Ngũ Tuần (Cv 3,1-5.11;
4,19.21-23). Ông được xem là tác gỉa của Tin Mừng thứ tư và ba lá thư
(1,2&3 Gioan) và cả sách Khải Huyền. Trong bối cảnh này, Giacôbê và Gioan
được mô tả như là những người “cơ hội”. Họ đến để dành vị trí tốt trong bộ máy
chính trị của của Đức Giêsu. Mátthêu giảm nhẹ trách nhiệm của hai ông này, khi
cho biết rằng đây là ước mong của bà mẹ của hai ông, chứ không phải của chính
hai ông: “Bà mẹ của hai người con ông Dêbêđê đến gặp Đức Giêsu, có hai con bà
đi theo” (Mt 20,20).
2. “Hãy
cho”: Động từ “cho” được dùng ba lần trong đoạn văn này (10,37.39.45). Nó
có thể được xem như là động từ đóng khung cả đoạn văn này. Thật vậy, đoạn văn mở
đầu bằng lời cầu xin của các môn đệ: “Hãy ban cho chúng
con để chúng con có thể ngồi một người bên hữu một người bên tả Thầy, trong
vinh quang của Thầy” (10,37) và kết thúc với mạc khải của Đức Giêsu rằng Người
“đến để phục vụ và trao ban mạng
sống mình vì nhiều người” (10,45). Như vậy, đây là động từ nền tảng để hiểu ý
nghĩa của bản văn này. Gioan và Giacôbê muốn Đức Giêsu ban cho hai ông quyền lực,
còn Đức Giêsu bật mí cho các ông biết mầu nhiệm tự hiến (tự trao ban chính
mình). Cái mà Người sẽ trao quý giá hơn nhiều lần điều mà các ông xin. Người sẽ
trao ban mạng sống mình, để làm giá chuộc không những cho các môn đệ, mà cho tất
cả mọi người. Sự “trao ban mạng sống” một mặt trong bối cảnh gần nối kết chặt
chẽ với ý tưởng “uống chén” và “chịu phép rửa”; mặt khác trong bối cảnh rộng
hơn nối tiếp chặt chẽ với bối cảnh Đức Giêsu tiền báo ba lần mầu nhiệm khổ-tử nạn
và phục sinh. Nó là biến cố mấu chốt cho toàn bộ chương trình cứu độ của Đức Giêsu.
3. Bên
phải … bên trái: Đây là cách nói để diễn tả giấc mơ quyền lực. “Bên trái”
và “bên phải” là hai vị trí cao nhất, nhì trong một hệ thống chính trị, đặc biệt
trong chế độ phong kiến. Đức Giêsu trong vị thế là Đấng Kitô được cho là “ngự
bên hữu của Đức Chúa”: “Đức Chúa phán cùng Chúa của tôi, bên hữu Cha đây Con
luôn ngự trị, cho đến khi Ta đặt những kẻ thù như là bệ dưới chân con” (Mc
12,36; Mt 22,44). Trong các trình thuật về cuộc thẩm vấn, Đức Giêsu cũng mạc khải
cho các vị quan tòa rằng: Các ông sẽ thấy Con Người “ngự bên hữu Đấng Toàn Năng
và ngự giá mây trời mà đến” (Mt 26,46; Mc 14,62). Trình thuật về biến cố Thăng
Thiên cũng cho thấy Đức Giêsu “được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc
16,19; Cf. Cv 7,55-56). Bên hữu là vị trí tốt nhất. Gioan và Giacôbê đến gần,
tiếp cận (προσπορεύονται: 10,35) với một mục đích rõ rệt. Các ông
đang cố gắng giành những vị trí tốt nhất cho mình vì sợ người khác chiếm mất.
Giấc mơ quyền lực của các môn đệ ngày càng rõ nét và cụ thể hơn. Nếu như trong
lần tiền báo thứ hai cuộc khổ-tử nạn – phục sinh, các ông chỉ tranh giành với
nhau xem ai lớn, ai nhỏ trong nhóm, thì bây giờ cá nhân hai người tiếp cận
riêng và xin hai vị trí cụ thể.
4. “Vinh
quang” (δόξα):
Vinh quang là một đặc tính gắn liền với Đức Giêsu và Chúa Cha. Trong trình thuật
về cánh chung, Đức Giêsu cho thấy “Con Người sẽ đến trong vinh quang của mình”
(Mt 25,31; Mc 13,26; Lc 21,27). Có khi, Đức Giêsu lại nói “Con người đến trong
vinh quang của Cha Người” (Mc 8,38); hay “Con Người đến trong vinh quang của
Người và vinh quang của Cha Người” (Lc 9,26). Các môn đệ đã từng thấy vinh
quang của Đức Giêsu trong cuộc biến hình: “Khi họ tỉnh giấc, họ thấy vinh quang
của Người và hai người đàn ông đứng với Người”. “Vinh quang” là tình trạng mà Đức
Giêsu sẽ đạt được sau khi chịu khổ hình: “Nào chẳng phải Đấng Kitô phải chịu
nhiều đau khổ như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người hay sao?” (Lc
24,26). Tin Mừng Gioan cho độc giả thấy nhiều sắc thái hơn về “vinh quang” của
Đức Giêsu. Người tỏ bày vinh quang qua việc làm phép lạ hóa nước thành rượu tại
Cana (Ga 2,11). Vinh quang của Đức Giêsu đến từ Chúa Cha, chứ Đức Giêsu không
tôn vinh chính mình (Ga 8,56; Ga 17,22). Phép lạ cho Ladarô sống lại là dịp để
Đức Giêsu tỏ bày vinh quang của Chúa Cha (Ga 11,4.40). Trong bối cảnh này,
Gioan và Giacôbê nói về vinh quang của Đức Giêsu, nhưng có lẽ cách hiểu của các
ông lúc bấy giờ không trùng với cách hiểu của Đức Giêsu.[3]
Vinh quang của Đức Giêsu là vinh quang phục sinh, vinh quang của Đấng đã chiến
thắng sự chết. Đó cũng là vinh quang mà Người đã có từ trước muôn đời (Ga
17,5). Trong suy nghĩ của các ông, Đức Giêsu đang trên đường lên Jêrusalem, và
có thể Người sẽ xưng vương trong nay mai.[4] Họ
vẫn chưa hiểu và chưa muốn chấp nhận mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh mà Đức Giêsu
đang cố gắng giải thích. Chính vì thế, khi Người bước vào cuộc khổ nạn họ thất
vọng ê chề và khi Người phục sinh, họ đã ngạc nhiên và ngờ vực. Đức Giêsu một lần
nữa tố cáo “ảo tưởng”, “mơ mộng quyền lực” của họ khi nói rằng: “Anh em chẳng
hiểu điều mà anh em đang xin”. Đức Giêsu hẳn muốn nói rằng hành trình này không
đơn giản, dễ nuốt như họ tưởng. Họ không hiểu nên mới háo hức xin hai vị trí gần
Người như thế.
5. Uống
chén[5]
… chịu phép rửa: Hành trình Jêrusalem mà Gioan và Giacôbê đang lầm tưởng là
vinh quang, thực ra là hành trình đắng cay và chết chóc. “Thuật ngữ uống chén”
Đức Giêsu diễn tả như là trọn hành trình khổ-tử nạn. Đó là “chén” mà Chúa Cha
đã trao cho Người: “Chén mà Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy không uống” (Ga
18,11). Thuật ngữ “chén” cũng được dùng cách tượng trưng trong giờ cầu nguyện của
Đức Giêsu, một cuộc đấu tranh nội tâm trước trong khoảnh khắc sinh tử: “Lạy
cha, mọi sự đều có thể đối với Cha, xin cất chén này khỏi con. Tuy nhiên, không
phải điều con muốn mà là điều Cha muốn” (Mc 14,36; Lc 22,42; Mt 26,39). “Chén”
cũng được đồng hóa với “chén máu” của Đức Giêsu. Trong đêm Tiệc Ly Đức Giêsu đã
cầm lấy chén và mời gọi các môn đệ uống: “Chén này sẽ được đổ ra cho anh em là
giao ước mới trong máu Thầy” (Lc 22,20); “Hãy uống, tất cả anh em, vì đây là
máu giao ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha thứ tội lỗi” (Mt 26,27).
Thánh Phaolô cũng giải thích rằng: “Chén chúc tụng mà chúng ta chúc lành, không
phải là một sự tham dự vào máu Đức Kitô đó sao? Bánh mà chúng ta bẻ, không phải
là một sự tham dự vào mình Đức Kitô?” (1 Cr 10,16). Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng:
“Mỗi lần anh em ăn bánh này và uống chén này, anh em loan truyền cái chết của của
Chúa cho đến khi Người đến” (1 Cr 11,26). Tác giả J. Donahue – D. Harrington
cho rằng hình ảnh “chén” được hiểu cách tốt nhất theo những thuật ngữ của Cựu Ước,
nói về chén đau khổ hay là chén thịnh nộ (x. Gr 25,15-29; Tv 75,8; Is
51,17.22).[6]
Tuy nhiên, thật khó để hiểu chén mà Đức Giêsu nói đến ở đây là cơn thịnh nộ của
Thiên Chúa.
Phép rửa có nghĩa
gốc là sự “dìm trong nước”. Nó có thể diễn tả sự chết qua việc bị chìm trong nước.[7] Đức
Giêsu cũng ám chỉ phép rửa như là mầu nhiệm khổ-tử nạn mà Người sẽ trải qua:
“Thầy còn một phép rửa nữa phải chịu, và Thầy lo lắng biết bao cho đến khi nó
hoàn tất” (Lc 12,50). Ở trong các thư Thánh Phaolô, người ta mới thấy rõ sự nối
kết giữa phép rửa với sự chết cùng với Đức Kitô: “Anh em đã cùng mai táng với Đức
Kitô khi chịu phép rửa” (Cl 2,12); “Anh em không biết rằng: Khi chúng ta được
dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào
trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng
ta cùng được mai táng với Người” (Rm 6,3-4). Thay vì Đức Giêsu trả lời câu hỏi
của hai môn đệ, Người lại hỏi họ một chuyện khác, bởi vì Người nhận thấy rằng họ
không hiểu điều họ đang cầu xin. Giả như họ biết Người lên Jêrusalem làm gì,
thì họ đã không dám xin như thế. Người lên Jêrusalem là để chịu khổ-tử nạn, chứ
không phải để xưng vương, xưng đế. Thực tế, Người cũng tỏ dấu hiệu xưng vương
trong khoảnh khắc Người chính thức vào Jêrusalem. Dân chúng đã chào đón và tung
hô Người: “Hôsanna[8]
Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hôsanna trên các tầng
trời” (Mt 21,9; Cf. Mc 11,9-10; Ga 12,13). Khi Tổng trấn Philatô hỏi “Ông là
vua dân Do Thái sao?” Người đã thừa nhận: “Chính ngài nói đó” (Lc 23,3; 27,11).
Tuy nhiên, cuối cùng Người tự hiến chính mình để chịu khổ hình và chịu chết.
Như vậy, nếu các môn đệ hiểu rằng vinh quang của Người phải qua thập giá, thì
các ông đã không dám xin hai vị trí bên hữu bên tả, vì bên hữu bên tả Người có
thể là bên phải và bên trái thập giá của Người trên đồi Golgôtha (x. Mc 15,27).
Thực tế, hai vị trí đó là hai vị trí của hai tên trộm tử tội cùng chịu đóng
đinh với Ngài. Chấp nhận uống chén, đồng nghĩa với việc cùng bị treo với Đức
Giêsu trên thập giá, một người bên hữu, một người bên tả. Nếu họ hiểu rằng “uống
chén” và “chịu phép rửa” đồng nghĩa với cái chết, chắc họ đã không dám gật đầu:
“Thưa uống được”.[9]
Trên thực tế, Giacôbê và Gioan đã thực sự “uống chén” và “chịu phép rửa” với Đức
Giêsu trong thời kỳ Giáo Hội bị bách hại. Giacôbê là người đầu tiên bị chém đầu,
chết vì đạo (Cv 12,2). Khi đã hiểu Đức Giêsu và sứ mạng của Người rồi, các môn
đệ đã sẵn sàng vác thập giá và chết vì Người và vì Tin Mừng, mà không còn quan
tâm đến vị trí “bên phải” hay “bên trái” nữa, hoặc có thể chấp nhận ở trong vị
thế chịu đoáng đinh như thầy mình. Trên thực tế, Phêrô đã nhận án đóng đinh ngược
trên đồi Vatican (quãng trường thánh Phêrô ngày nay), vì cho rằng mình không xứng
chết giống y chang như Thầy mình.
6. “Người
đã được chuẩn bị rồi”. Ai có thể là người đã được chuẩn bị rồi? Mátthêu còn
nói rõ hơn là “cho những người mà Cha của Thầy đã chuẩn bị” (Mt 20,23). Phải
chăng Chúa Cha đã định sẵn cho những ai được vinh dự ngồi bên phải, bên trái của
Đức Giêsu? Có lẽ, đây chỉ là cách nói cho thấy Đức Giêsu không quan tâm đến việc
trao ban những vị trí vinh dự cho ai cả. Việc đó, nếu có, thì chỉ là quyền của
Chúa Cha.[10]
Sứ mạng của Người là “phục vụ và trao ban mạng sống mình” làm giá chuộc nhiều người.
7. Bắt
đầu giận dữ (ἤρξαντο ἀγανακτεῖν): Phản ứng của “Mười môn đệ”
còn lại cho thấy họ cũng đang có cùng suy nghĩ và toan tính như Giacôbê và
Gioan, nhưng họ chậm bộc lộ hơn. Điều này cũng chứng tỏ rằng họ cũng không biết
điều họ đang ao ước. Cho cho thấy suy nghĩ của họ hoàn toàn ngược lại với ý định
của Thiên Chúa, trên cuộc đời Đức Giêsu, mà Đức Giêsu đang cố gắng dạy họ. Cả
ba lần Đức Giêsu tiền báo về mầu nhiệm khổ-tử nạn, các môn đệ đều phản ứng tréo
ngoe như thế. Đây là lần thứ ba, cũng là lần tiền báo cuối cùng nhưng xem ra
các môn đệ vẫn chưa khá lên một tý nào, chưa hiểu chút gì, và dĩ nhiên chưa sẵn
sàng đón nhận mầu nhiệm này.
8.
Cai trị trên dân… thực thi quyền hành:
Đức Giêsu phân ra hai loại người với hai cách thức thi hành quyền bính khác
nhau. Nhóm thứ nhất là nhóm lãnh đạo, vua chúa của trần gian. Nhóm người này ao
ước có được quyền chức để thống trị, thị uy và có thể đàn áp dân chúng, thu về
những lợi tức cho mình. Câu thành ngữ: “Một người làm quan cả họ được nhờ” có
thể là một minh họa rõ nét cho loại quyền lực này. Ba nhóm nhân vật tiêu biểu
cho nhóm người này vào thời Đức Giêsu có thể kể đến là hoàng triều Hêrôđê và Tổng
trấn Philatô. Vua Hêrôđê Cả vì bảo vệ vương quyền của mình, đã sẵn sàng giết chết
những đứa trẻ vô tội, mặc cho tiếng khóc than ai oán của các bậc phụ huynh (Mt
2,16-17); tiểu vương Hêrôđê Antipa vì bảo vệ cho mối tình bất chính của mình với
người chị dâu Hêrôđêa, đã không ngần ngại bắt giam Gioan Tẩy Giả và chém đầu
ông (Mc 6,17-29; Mt 14,3-14). Tổng trấn Philatô đáng lẽ có thể tha chết cho Đức
Giêsu, khi không tìm thấy lý do gì để kết tội (Ga 18,39; 19,4.6). Tuy nhiên, cuối
cùng vì lý do chính trị, không muốn làm mất lòng giới chức Do Thái, ông đã rửa
tay, phủi tay và cho phép đóng đinh Đức Giêsu (Mt 27,24). Nhóm người thứ ba có
thể kể đến là các giáo chức Do Thái (kinh sư, pharisêu, thượng tế, kỳ mục). Những
người Pharisêu thích ngồi chỗ nhất trong các đám tiệc, chiếm chỗ đầu trong các
hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “rápbi”
(Mt 23,6; Mc 12,39). Các kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng,
thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng (Mc 12,38). Đó có thể là những
nhóm người tượng trưng cho quyền lực thế gian mà Gioan, Giacôbê và tất cả các
môn đệ đang mong ước. Tiếc thay, đó không phải là quan điểm về quyền lực đúng đắn
mà Đức Giêsu muốn dạy cho các học trò.
9. Người
lớn hơn … người phục vụ… người đứng đầu … người tôi tớ: Bằng cấu trúc song
song, với hai cặp thuật ngữ đối nghĩa với nhau Đức Giêsu đã diễn tả rất ấn tượng
sự nghịch lý trong cách sử dụng quyền lực của nhóm người thứ hai (Nhóm của Đức Giêsu
và các môn đệ). Quyền lực của Đức Giêsu muốn dạy cho học trò là loại “quyền lực
không quyền lực”. Có thể gọi đây là quyền lực của trái tim, của tình người, một
thứ quyền lực hướng về người khác, và cho người khác, thay vì lấy mình làm
trung tâm và phục vụ cho lợi ích của mình. Đây là lần thứ hai Đức Giêsu sử dụng
ý tưởng “người đứng đầu là người phục vụ” (Mc 9,35; 10,43-44). Trong lần đầu
tiên, Đức Giêsu minh họa cho lời dạy về cách sử dụng quyền lực cách ngược đời ấy,
bằng cách mời gọi họ đón nhận một em nhỏ (Mc 9,37). Còn lần này, Người minh họa
bằng chính cuộc đời của Người. Liên từ chỉ lý do (γὰρ: bởi vì) giải
thích tại sao “người làm lớn” phải là “người phục vụ” và “người đứng đầu” phải
là “người tôi tớ”[11]: “Vì
Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và trao ban mạng
sống mình làm giá chuộc muôn người”. Sự phục vụ và hành vi làm tôi tớ của các
môn đệ, được mời gọi vươn đến cảnh giới cao nhất. Đó là hiến mạng vì người
khác. Đức Giêsu gọi đây là tình yêu cao cả nhất: “Không có tình yêu nào cao cả
hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống, vì người thương của mình” (Ga
15,13). Đó là tình yêu của chính Đức Giêsu, Đấng đã hiến mạng sống vì nhiều người.
10. Giá
chuộc (λύτρον): Danh từ “λύτρον”[12] (lutron)
có nghĩa là cái giá phải trả (thường là tiền hoặc vàng) cho sự giải phóng những
nô lệ. Cách nói Con Người “trao ban mạng sống làm giá chuộc muôn người” cũng là
minh họa cho cách nói “uống chén” và “chịu phép rửa” (10,38-39) trước đó. “Giá
chuộc cho nô lệ” đôi khi được hiểu dưới dạng một người thay thế cho một người
khác trong tình trạng nô lệ, như trong thư 1 Clêmente 55,2, dùng ngôn ngữ tương
tự như Mc 10,45: “Chúng tôi biết rằng nhiều người trong chúng ta đã trao ban
chính mình cho cảnh nô lệ mà họ có thể chuộc người khác”.[13] Thuật
ngữ “giá chuộc” đã được nối kết với “sự chuộc lại” trong những bản văn Cựu Ước:
“Nếu người ta đòi tiền chuộc, thì chủ phải trả để chuộc mạng sống mình, thể
theo tất cả những gì đòi hỏi của người ta” (Xh 21,30); “Mỗi người dân phải dâng
lên tiền chuộc mạng trong lúc kiểm tra dân số” (Xh 30,12). Hình ảnh “giá chuộc”
ở đây khá giống với cách diễn tả về sự “chuộc tội” của Isaia về Người Tôi Trung
đau khổ (Bài ca Người tôi trung thứ tư Is 52,13 – 53,12): “Nếu người hiến thân
làm của lễ đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi … người công chính, tôi trung
của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và gánh lấy tội lỗi của họ … người
đã hiến thân chịu chết … người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những
kẻ tội lỗi” (Is 53,10-12).[14] Có
rất nhiều tranh cãi lâu dài trong suốt dòng lịch sử về căn tính của “Người tôi
trung” trong lịch sử dân IsraEL suốt thế kỷ thứ sáu, thời lưu đày Babylon. Liệu
nhân vật này có phải là một cá nhân như là vua của Giuđa, thượng tế, hay là một
vị đứng đầu của trường phái ngôn sứ? hay “Người tôi trung” là tập thể dân IsraEL,
cộng đoàn lưu đày ở Babylon, hay là một nhóm nào đó trong cộng đoàn lưu đày?
Nhưng dù cho đáp án về mặt lịch sử cho câu hỏi này có là gì đi nữa, điểm quan
trọng là Giáo hội sơ khai đồng hóa “Người tôi trung” với Đức Giêsu và xem Người
như là mấu chốt để hiểu các bài ca về “Người tôi trung” (x. Cv 8,26-40).[15]
Cái chết của Đức Giêsu được giải thích ở đây như là một hành động nghi thức,
mang tính ẩn dụ của một sự phạm tội của nhiều người. Như vậy, Mc 10,45 tương tự
với lời nói trên “chén” trong Mc 14,24, theo đó, máu được Giêsu được đổ ra cho
nhiều người.[16]
Bình luận tổng quát
Đức Giêsu đang
trên đường lên Jêrusalem. Đó là con đường tiến vào cuộc khổ nạn và tiến ra pháp
trường trên đồi Gôlgôtha. Người đang cố gắng giúp cho các môn đồ hiểu thế nào
là một Đấng Kitô tự hạ và tự hiến thân mình, vì vâng phục Chúa Cha và vì giá
chuộc cho nhân loại. Người cố gắng bao nhiêu thì các môn đệ càng ngây ngô bấy
nhiêu. Sau cả ba lần tiền báo về cuộc khổ-tử nạn – phục sinh, họ không những
không hiểu, không muốn hiểu mà còn phản ứng ngược lại. Lần thứ nhất, Phêrô đã
lên tiếng can ngăn để Đức Giêsu và Thiên Chúa bỏ ý định tự hủy ấy. Lần thứ hai,
các ông vẫn tỏ ra không hiểu, nhưng không dám hỏi lại Người. Hơn nữa, họ cũng
chẳng muốn hỏi làm gì câu chuyện khó nghe ấy. Họ đang mãi bận tranh cãi xem ai
là người lớn nhất trong nhóm. Lần này cũng thế, hai môn đệ thân tín nhất của
Chúa, gần gũi nhất với Chúa. Chúa đã mang họ riêng ra trong những dịp quan trọng:
“Biến hình trên núi”; “Chữa lành con gái ông Giaiirô”, trưởng hội đường; Trong
Vườn Cây Dầu. Tuy nhiên, họ lại cho thấy họ là những người không hiểu Chúa hơn
cả. Chúa nói về cuộc khổ nạn – chết, họ lại nghĩ rằng Người đang tiến bước lên
ngai vàng. Họ dường như “vượt mặt” Phêrô và đồng bạn để xin Thầy Giêsu hai vị
trí cao nhất trong “vinh quang” của Người. Vinh quang của Đức Giêsu đương nhiên
là có. Đó là vinh quang mà Thiên Chúa ban cho Người ngay từ tạo thiên lập địa.
Vinh quang ấy chói ngời trong cuộc biến hình. Tuy nhiên, vinh quang ấy cũng là
vinh quang phục sinh. Phục sinh gắn liền với sự chết. Nếu không có đau khổ và
chết, thì sẽ không có vinh quang phục sinh. Nhân dịp hai môn đệ bày tỏ ước vọng
về hai vị trí quyền lực nhất trong triều đại Thiên Chúa. Đức Giêsu mạc khải và
mời gọi các ông đón nhận và chia sẻ mầu nhiệm tự hạ, tự hủy với Người. Lời mời
gọi “uống chén” và “chịu phép rửa” rõ ràng là cách nói ám chỉ đến sự chết, bằng
cách đổ máu ra trên thập giá. Giacôbê và Gioan rõ ràng không hiểu được ý nghĩa
đó nên đã sẵn sàng chấp nhận. Tuy nhiên, cũng như Đức Giêsu nói là “các ông
không hiểu điều các ông xin”, họ cũng không hiểu lời mời gọi của Đức Giêsu. Bởi
vì, đón nhận lời mời gọi của Đức Giêsu đồng nghĩa với việc phải đi vào cuộc khổ
nạn và phải chết trên thập giá với Người. Một hình ảnh mang tính mỉa mai nhưng
cũng phản ánh đúng thực tế trong sứ vụ của các môn đệ sau này. Họ đồng ý “uống
chén” và “chịu phép rửa” đồng nghĩa với việc họ sẽ có được hai vị trí “bên tả”
và “bên hữu” của Chúa, như là vị trí của hai người trộm cướp trên đồi thi hành
án. Các môn đệ có lẽ là không nhắm đến hai vị trí đó trong lúc cầu xin. Tuy
nhiên, thực tế trong sứ vụ của họ sau phục sinh, họ cũng đã đón nhận những cơn
bách hại, thậm chí chịu tử đạo để cùng chia sẻ cùng “chén” và “phép rửa” với Đức
Giêsu. Động từ “xin ban” mà hai môn đệ sử dụng để hỏi xin quyền lực, đã được Đức
Giêsu dùng để diễn tả mầu nhiệm “trao ban” mạng sống vì muôn người. Đó chính là
đỉnh cao hiệu năng của quyền lực trong vương quốc của Đức Giêsu. Trong vương quốc
ấy, “Người quyền cao chức trọng” là người phục vụ; Người “đứng đầu” là “người
nô lệ” của người khác. Đó là triết lý quyền lực lạ lùng và ngược đời nhất trên
đời. Tuy nhiên, đó lại là quyền lực bình thường của trái tim; quyền lực của những
người luôn hướng về người khác, vì lợi ích của người khác, thay vì muốn người
khác hướng về người khác và đem lợi ích cho mình. Đó là thứ “quyền lực không
quyền lực”, quyền lực mà chẳng ai muốn tranh giành, chiếm giữ. Nó là quyền lực
chung cho tất cả những ai biết yêu thương, một thứ quyền lực bền vững mang đến
cho người ta niềm vui và sự bình an, vì họ có thể làm chủ được cái tôi của
mình, một cái tôi luôn muốn mình là số một, muốn người khác tôn vinh mình. Thay
vào đó, quyền lực của Đức Giêsu mời gọi con người tự hủy, trở nên nhỏ bé, luôn
xem người khác trọng hơn mình và để phục vụ lợi ích của kẻ khác.
Có hai thái độ
có thể trái ngược với quan điểm “quyền lực phục vụ” hay “quyền lực tự hiến” của
Đức Giêsu. Thứ nhất là thái độ của những người ham mê quyền lực, luôn muốn được
leo cao trong nấc thang quyền lực, hoặc luôn muốn tương quan gần gũi với những
người có quyền chức và địa vị trong xã hội. Thái độ này có thể dẫn đến việc một
người có thể ngồi không đúng vị trí của mình (ngồi nhầm ghế), hay sử dụng quyền
lực một cách sai trái, lạm quyền. Thái độ thứ hai là thái độ của những người an
phận, thủ thường, hèn nhát, không muốn gánh vác bất cứ một trách nhiệm nào
trong xã hội, cộng đoàn, nhóm, hay gia đình. Thái độ này có thể làm cho một cá
nhân không thể phát huy được hết năng lực bản thân và ơn gọi phục vụ mà thượng
đế phú bẩm nơi mình. Cả hai thái độ ấy đều đem đến những bất lợi cho chính mỗi
cá nhân và ảnh hưởng ít nhiều đến cộng đồng nhân loại. Đức Giêsu không chối bỏ,
hay xóa bỏ những vị trí lớn, nhỏ trong cộng đoàn, xã hội và gia đình. Đó là những
vị trí cần thiết một cách tự nhiên cho việc ổn định và thăng tiến con người.
Chính Người cũng đã chọn Nhóm Mười Hai để làm hạt nhân cho các cộng đoàn Kitô hữu
và đã chọn Phêrô làm người đứng đầu nhóm này. Người chỉ mặc cho quyền lực những
chức năng đúng nghĩa, và giúp quyền lực phát huy lợi ích nhất cho bản thân người
nắm trách nhiệm và cho cộng đoàn mà người ấy chịu trách nhiệm.
Lm. Joseph Phạm
Duy Thạch, SVD
[1]
Th.Ng.H. Cầu. Tìm Hiểu Các Sách Tin Mừng và Công Vụ Tông Đồ. Ki -tô hữu
đọc Sách Thánh (Đồng Nai 2019) 65.
[2] X.
P.L. Shuler, “James”, The HarperCollins Bible Dictionary (ed., P.J.
Achtemeier) (1996) 480.
[3]
Trong Tin Mừng Mát-thêu, cụm từ “Vương Quốc của Thầy” được dùng thay vì “vinh
quang” của Thầy (Mt 20,21).
[4] In the setting
in the life of Jesus (Sitz im Leben Jesu), the question refers to the
coming kingdom of God on earth, that is, the restored Israel in which the great
prophecies (especially of Isaiah) will be fulfilled, when all nations will come
to Jerusalem to worship the Lord (cf. Mark 11:17, where Jesus alludes to Isa
56:7). It will be at that time that Jesus’ δόξα will be recognized throughout
Israel and throughout the world, when foreigners far and wide will seek to hear
and see one who is greater than Jonah and wiser than Solomon [C.A. Evans, Mark 8:27-16:20
(WBC; Dallas 2002) 34B, 116].
[5]
“The cup is a metaphor for one’s portion in life, what one has been given to
“drink,” whether of good or ill. It can sometimes symbolize a happy fate, for
example, the overflowing cup of Ps 23:5 and the “cup of salvation” in Ps
116:13; in the OT and related literature, however, the cup is usually the
poisoned chalice of the Lord’s wrath, the affliction that he pours out upon
those who richly deserve divine punishment” [J.
Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary (AYB; New Haven –
London 2008) XXVII A, 747].
[6] J.R.
Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2002)
311.
[7]
Ibid.
[8] ὡσαννὰ (hosanna): nghĩa là “hãy cứu/giúp! chúng tôi cầu xin”/ “chúng tôi chúc tụng”.
[9] The reader will
find that these disciples, as well as the other disciples who had expressed
their indignation at James and John, simply did not have the stomach for the
cup and the baptism for which they had said they were ready (C.A. Evans, Mark 8:27-16:20, 118).
[10] J. Marcus,
Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary, 748; J.R. Donahue –
D.J. Harrington, The Gospel of Mark, 312.
[11] J.
Donahue – D. Harrington cho rằng thuật ngữ “nô lệ của tất cả” là nghịch lý có
chủ ý. Một nô lệ thường tùy thuộc vào một người chủ và làm những mệnh lệnh của
của người đó. Bằng cách đề nghị rằng những môn đệ của Người trở thành “nô lệ của
tất cả”, Đức Giê-su nhấn mạnh lý tưởng của Người về sự phục vụ phổ quát cho người
khác (J.R. Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark, 313); J.Marcus
nghĩ rằng “Doulos” (nô lệ, tôi tớ) nhấn mạnh khía cạnh tự nguyện của sự nô lệ (J. Marcus,
Mark 8–16, 478).
[12]
BDAG, “λύτρον”.
[13] J. Marcus,
Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary, 749.
[14] A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 502.
[15] J.R.
Donahue – D.J. Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2002) 315.
[16] A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark, 503.
No comments:
Post a Comment